BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG
TRỊNH ANH DŨNG
TÌNH TRẠNG STRESS CỦA NHÂN VIÊN Y TẾ
H
P
TẠI BỆNH VIỆN TÂM THẦN TIỀN GIANG
NĂM 2022 VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG
CKII TỔ CHỨC QUẢN LÝ Y TẾ
Mã số chuyên ngành: 62.72.76.05
U
H
HÀ NỘI – 2022
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG
TRỊNH ANH DŨNG
TÌNH TRẠNG STRESS CỦA NHÂN VIÊN Y TẾ TẠI BỆNH
H
P
VIỆN TÂM THẦN TIỀN GIANG NĂM 2022 VÀ MỘT SỐ YẾU
TỐ ẢNH HƯỞNG CKII TỔ CHỨC QUẢN LÝ Y TẾ
Mã số chuyên ngành: 62.72.76.05
U
Giáo viên hướng dẫn
TS. Nguyễn Thế Luân
H
HÀ NỘI – 2022
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn, Em đã nhận được
nhiều sự động viên, giúp đỡ tận tình, tạo điều kiện thuận lợi của các cấp lãnh đạo, của
quý thầy cô, của các bạn đồng nghiệp và gia đình.
Em chân thành cảm ơn: Ban Giám Hiệu nhà trường, Phòng đào tạo sau đại học,
Hội đồng đạo đức, Hội đồng khoa học; quý Thầy Cô các Bộ môn trường Đại học Y tế
Công cộng; Ban Giám Đốc, cán bộ viên chức Bệnh viện Tâm thần Tiền Giang; các anh
chị bạn bè cùng lớp chuyên khoa II Tổ chức quản lý y tế đã tận tình chia sẽ kinh
nghiệm, cung cấp tài liệu tạo điều kiện thuận lợi, đóng góp những ý kiến quý báu cho
việc nghiên cứu để học viên có thể hồn thành đề tài.
H
P
Đặc biệt, Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Giáo viên hướng dẫn khoa học
TS Nguyễn Thế Luân, ThS Bùi Thị Phương đã tận tâm bồi dưỡng kiến thức, phương
pháp nghiên cứu, năng lực tư duy và trực tiếp giúp đỡ Em hoàn thành luận văn này.
Mặc dù rất cố gắng trong quá trình thực hiện, song luận văn khơng tránh khỏi
những thiếu sót, học viên kính mong nhận được những lời chỉ dẫn ân cần của các thầy
U
cô, ý kiến trao đổi của các đồng nghiệp để luận văn được hoàn thiện hơn.
H
Xin chân thành cảm ơn !
i
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG..........................................................................................4
TÓM TẮT LUẬN VĂN.............................................................................................v
ĐẶT VẤN ĐỀ............................................................................................................1
Mục tiêu nghiên cứu...................................................................................................2
Chương 1....................................................................................................................3
1.1.
Giới thiệu về stress và Nhân viên ytế................................................................3
1.2.
Thực trạng về stress của Nhân viên y tế trên Thế giới và Việt.......................8
1.3.
Một số yếu tố ảnh hưởng đến stress của Nhân viên y tế.................................13
1.3.
Yếu tố cá nhân................................................................................................13
1.4.
Giới thiệu về các thang đo stress và bộ công cụ DASS 21 củaLovibond........17
1.5.
Giới thiệu về địa bàn nghiên cứu....................................................................19
1.6.
Khung lý thuyết..............................................................................................19
H
P
Chương 2..................................................................................................................22
U
2.1.
Đối tượng nghiên cứu.....................................................................................22
2.2.
Thời gian và địa điểm nghiên cứu...................................................................22
2.3.
Thiết kế nghiên cứu........................................................................................22
2.4.
Cỡ mẫu...........................................................................................................22
2.5.
Công cụ và phương pháp thu thập số liệu.......................................................23
2.6.
Phương pháp phân tích số liệu........................................................................25
2.7.
Biến số trong nghiên cứu................................................................................25
2.8.
Các tiêu chí đánh giá NVYT bị stress.............................................................26
2.9.
Đạo đức trong nghiên cứu...............................................................................26
H
Chương 3..................................................................................................................28
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.......................................................................................28
3.1.
Đặc điểm cá nhân của Nhân viên y tế (NVYT)..............................................28
3.2.
Đặc điểm về yếu tố gia đình của NVYT.........................................................29
3.3.
Đặc điểm về yếu tố cơng việc của NVYT.......................................................30
3.4.
Tỷ lệ NVYT bị stress tại bệnh viện Tâm thần Tiền Giang năm 2022 Bảng 3.7.
Tỷ lệ stress nghề nghiệp của NVYT theo mức độ...........................................34
3.5.
3.6.
ii
Một số yếu tố liên quan đến tình trạng stress của NVYT tại Bệnh viện Tâm
thần Tiền Giang - năm 2022...........................................................................34
Một số yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng stress của NVYT tại Bệnh viện Tâm
thần Tiền Giang năm 2022..............................................................................42
Chương 4.................................................................................................................. 51
BÀN LUẬN.............................................................................................................51
4.1. Tình trạng stress của NVYT tại bệnh viện Tâm thần Tiền Giang năm 2022
…..51
4.2.
Một số yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng stress của nhân viên y tếtại bệnh viện
Tâm thần Tiền Giang năm 2022.....................................................................54
4.3.
Hạn chế của nghiên cứu..................................................................................77
Chương 5. KẾT LUẬN............................................................................................79
5.1.Tình trạng stress của NVYT...............................................................................79
5.2
H
P
Một số yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng stress của NVYT..............................79
Chương 6. KIẾN NGHỊ............................................................................................80
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................81
H
U
iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BV
Bệnh viện
BVTTT
Bệnh viện Tâm thần
BHYT
Bảo hiểm y tế
BS
Bác sĩ
CSNB
Chăm sóc người bệnh
DASS
Thang đánh giá trầm cảm, lo âu, stress (Depression, Anxiety and Stress
Scale)
DS
ĐVKK
ĐTNC
Dược sĩ
Động viên khuyến khích
Đối tượng nghiên cứu
ĐTV
Điều tra viên
ĐD
Điều dưỡng
ILO
Tổ chức Lao động quốc tế (International Labour Organization)
NB
Người bệnh
NNNB
Người nhà người bệnh
NIOSH
Viện Sức khỏe và An toàn nghề nghiệp Hoa Kỳ (National Institute for
Occupational Safety and Health)
NVYT
PVS
Nhân viên y tế
SAS
Thang đánh giá lo âu Zung (Self-Rating Anxiety Scale)
SKTT
Sức khỏe tâm thần
SLNB
TLN
WHO
U
H
P
Phỏng vấn sâu
H
Số lượng người bệnh
Thảo luận nhóm
Tổ chức Y tế Thế giới (World Health Organization)
iv
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1. Các mức độ stress theo Dass 21 của Lovibond....................................23
Bảng 2. Điểm về các mức độ stress theo Dass 21-stress của Lovibond............30
Bảng 3.1. Thông tin chung của đối tượng nghiên cứu......................................32
Bảng 3.2.Thông tin về yếu tố gia đình của đối tượng nghiên cứu.....................33
Bảng 3.3. Đặc điểm về nội dung và áp lực công việc của ĐTNC.....................34
Bảng 3.4. Đặc điểm về môi trường làm việc của ĐTNC..................................35
Bảng 3.5. Đặc điểm về mối quan hệ của ĐTNC...............................................36
Bảng 3.6. Đặc điểm về động viên khuyến khích và phát triển nghề nghiệp......37
Bảng 3.7. Tỷ lệ stress nghề nghiệp của NVYT theo mức độ............................38
H
P
Bảng 3.8. Mối liên quan giữa đặc điểm nhân khẩu học và stress......................38
Bảng 3.9. Mối liên quan giữa yếu tố gia đình và tình trạng stress....................41
Bảng 3.10. Mối liên quan giữa nội dung và áp lực công việc với stress...........42
Bảng 3.11. Mối liên quan giữa môi trường làm việc với stress.........................43
Bảng 3.12. Mối liên quan giữa các quan hệ nơi làm việc với stress..................44
U
Bảng 3.13. Mối liên quan của tổ chức công việc và ĐVKK với stress.............45
H
v
TÓM TẮT LUẬN VĂN
Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, sức khỏe tâm thần ngày càng được quan
tâm, trong đó stress là vấn đề khá phổ biến và gây nên nhiều hậu quả nặng nề, ngành y
là nghành đặc thù, nhân viên y tế làm việc tại các bệnh viện, đặc biệt là các bệnh viện
Tâm thần, nhân viên y tế có thời gian tiếp xúc, chứng kiến những bệnh tật, đau đớn của
bệnh nhân cũng như các yếu tố nguy cơ liên quan đến công việc hàng ngày dễ dẫn đến
stress. Trong những năm gần đây, có nhiều yếu tố tác động khiến bệnh nhân tâm thần
gia tăng và trở nên trầm trọng hơn, đặc biệt trong đại dịch COVID-19 số người nhập
viện tâm thần ngày càng tăng, làm gia tăng áp lực công việc cho nhân viên y tế, họ
thường xuyên phải đối mặt với nhiều nguy cơ nghề nghiệp, tâm lý căng thẳng của nhân
viên y tế ở các bệnh viện tâm thần càng biểu hiện rõ rệt hơn do phải thường xuyên tiếp
H
P
xúc với bệnh nhân tâm thần khơng có khả năng kiểm sốt năng lực, hành vi… trong
môi trường làm việc với nhiều áp lực như vậy, làm cho nhân viên y tế của Bệnh viện
Tâm thần có nguy cơ bị stress rất cao.Nghiên cứu được tiến hành tại Bệnh viện Tâm
thần Tiền Giang với mục tiêu:
1. Đánh giá tình trạng stress của Nhân viên y tế tại Bệnh viện Tâm thần Tiền
U
Giang năm 2022.
2. Phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng stress của Nhân viên y tế tại
H
Bệnh viện Tâm thần Tiền Giang năm 2022.
Thời gian nghiên cứu: từ tháng 6/2022 đến tháng 8/2022, với phương pháp mô
tả cắt ngang, kết hợp định lượng và định tính, theo trình tự định lượng trước và định
tính sau; thu thập thơng tin qua bộ câu hỏi tự điền với 119 nhân viên y tế tham gia.
Bộ câu hỏi tự điền sử dụng Thang đo DASS 21 để xác định tỷ lệ và mức
độ stress gồm 4 mức độ: không bị stress, stress mức độ vừa, stress mức độ nặng và
stress mức độ rất nặng. Số liệu được nhập bằng phần mềm Epi Data 3.1 và xử lý bằng
phần mềm SPSS 20.0. Nghiên cứu định tính gồm thảo luận nhóm nhân viên y tế gồm
nhóm stress và nhóm khơng bị stress, phỏng vấn sâu các đối tượng quản lý, các câu hỏi
tập trung vào những yếu tố được xem là liên quan đến tình trang stress của nhân viên y
tế. Các thơng tin định tính thu được, được gỡ băng, tổng hợp và phân tích theo nhóm
chủ đề liên quan nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng stress của nhân
viên y tế.Kết quả: tỷ lệ stress của Nhân viên y tế tại Bệnh viện Tâm thần Tiền Giang
vi
năm 2022 là 31,9%; trong đó các mức độ nhẹ, vừa và nặng lần lượt là 11,8%, 12,6%,
và 7.6%. Một số yếu tố ảnh hưởng đến stress của nhân viên y tế như: Nữ phù hợp với
ngành Y nhưng lại dễ bị stress hơn nam, điều dưỡng chiếm tỉ lệ stress cao nhất, làm
việc khoa lâm sàng bị stress cao do dễ bị bệnh nhân hành hung, áp lực công việc.
Những nhân viên y tế là người đem lại thu nhập chính trong gia đình dễ bị stress. Nhân
viên y tế thường xuyên được giao khối lượng công việc quá sức hoặc khơng cịn hứng
thú với cơng việc có tỉ lệ stress cao hơn. Nhân viên y tế có mối quan hệ không tốt với
đồng nghiệp nơi làm việc dễ bị stress. Đặc biệt là môi trường làm việc thường xuyên
phải đối mặt với các phản ứng không tốt từ người bệnh/người nhà người bệnh có tỉ lệ
stress cao. Qua đó, chúng ta thấy gần 1/3 NVYT của bệnh viện bị stress trong quá trình
làm việc, đây là một tỉ lệ khơng nhỏ và ít nhiều ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần và
H
P
thể chất của NVYT, đồng thời ảnh hưởng đến chất lượng chăm sóc và điều trị.Kiến
nghị: Bệnh viện cần tầm soát nhằm phát hiện các Nhân viên y tế có dấu hiệu của stress
để có biện pháp hỗ trợ nhằm giảm stress cho họ. Bổ sung nhân lực để giảm khối lượng
công việc cho Nhân viên y tế, đặc biệt là điều dưỡng. Có giải pháp bảo vệ nhân viên
khi gặp phải những phản ứng không tốt từ người bệnh hoặc người nhà người bệnh.
Nâng cấp cơ sở vật chất, cải tạo môi trường làm việc phù hợp với Nhân viên y tế.
H
U
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Năm 2003, WHO đã đưa ra khái niệm về sức khỏe tâm thần “... là trạng thái
khỏe mạnh của mỗi cá nhân để họ nhận biết được các khả năng của bản thân, có
thể đương đầu với những căng thẳng thơng thường trong cuộc sống, có thể học tập,
làm việc một cách hiệu quả và có thể tham gia, góp phần vào các hoạt động của
cộng đồng” (2).
Stress có thể phá vỡ cân bằng trong cuộc sống của con người làm nảy sinh
nhiều vấn đề về sức khỏe như: suy kiệt, lo âu, trầm cảm ảnh hưởng đến chất lượng
H
P
cuộc sống của bản thân và xã hội (21). Các dấu hiệu của stress bao gồm những bất
thường về thể chất, cảm xúc, nhận thức và hành vi, có thể là sự kiệt sức, tự dưng
thèm ăn hoặc bỏ ăn, đau đầu rối loạn giấc ngủ cùng những biểu hiện khó chịu
khác. Stress sẽ ảnh hưởng về mặt sinh lý ( tim, hệ thần kinh, hệ tiêu hoá, mất
ngủ…) đồng thời ảnh hưởng về mặt xã hội như: làm giảm năng suất lao động của
cá nhân người lao động vừa làm tăng chi phí gánh nặng điều trị. Một số yếu tố ảnh
U
hưởng đến stress: yếu tố cá nhân, yếu tố gia đình, yếu tố cơng việc…
Đối với ngành y tế, nhiều nghiên cứu cho thấy nhân viên y tế (NVYT) có tỷ
H
lệ lạm dụng thuốc và tự tử cao hơn so với các ngành nghề khác, có tỷ lệ cao của
stress, lo âu, trầm cảm liên quan đến công việc căng thẳng. Các rối loạn tâm thần
của nhân viên y tế góp phần đưa đến các hậu quả như: kiệt sức, vắng mặt, nhân
viên có ý định chuyển cơng tác, giảm sự hài lịng của người bệnh (NB) và mắc
nhiều lỗi trong q trình chẩn đốn, điều trị, chăm sóc(3)
Tại Việt Nam, vấn đề căng thẳng nghề nghiệp ở nhân viên y tế cũng đã
được quan tâm nhiều trong những năm gần đây. Năm 2016, nghiên cứu của
NguyễnThu Hà, Viện Sức khỏe nghề nghiệp và môi trường tiến hành trên 8 bệnh
viện/viện tuyến Trung ương tại Hà Nội cho thấy 48,6% nhân viên y tế có biểu hiện
căng thẳng (4). Một số nghiên cứu tập trung tìm hiểu tình trạng căng thẳng ở đối
tượng Điều dưỡng lâm sàng tại Bệnh viện và cho thấy tỉ lệ mắc căng thẳng nghề
nghiệp ở nhóm này cũng tương đối cao (5),(6),(7).
2
Qua khảo sát 60 nhân viên y tế chuyên ngành tâm thần thực hiện bộ câu hỏi
khảo sát stress nơi làm việc và bộ câu hỏi đánh giá khả năng làm việc WAI. Kết quả
nghiên cứu cho thấy tỷ lệ stress ở nhân viên y tế chuyên ngành tâm thần là tương đối
cao (66,7%), tuy nhiên đa số stress được kiểm sốt khá tốt (61,7%) và chỉ có 5%
stress cần sự can thiệp sớm (8).
Bệnh viện Tâm thần Tiền Giang là bệnh viện chuyên khoa hạng II có phân
tuyến chuyên mơn về chăm sóc sức khỏe tâm thần cao nhất của ngành Y tế trong
tỉnh Tiền Giang. Tổng số giường kế hoạch là 250, số nhân viên hiện tại là: 189
gồm 27 Bác sĩ, 88 Điều dưỡng, 04 kỹ thuật viên và 13 Dược sĩ, còn lại là nhân
viên khác. Cơ cấu tổ chức gồm Ban Giám đốc, 4 phòng chức năng, 3 khoa lâm
sàng và 03 khoa cận lâm sàng.
H
P
Trong những năm gần đây, có nhiều yếu tố tác động khiến bệnh nhân tâm
thần gia tăng và trở nên trầm trọng hơn, đặc biệt trong đại dịch COVID-19 số
người nhập viện tâm thần ngày càng tăng, làm gia tăng áp lực công việc cho
NVYT, họ thường xuyên phải đối mặt với nhiều nguy cơ nghề nghiệp, tâm lý căng
thẳng của nhân viên y tế ở các bệnh viện tâm thần càng biểu hiện rõ rệt hơn do
U
phải thường xuyên tiếp xúc với bệnh nhân tâm thần vì họ khơng có khả năng kiểm
sốt năng lực, hành vi, do đó có thể gây tổn thương sức khỏe thể chất, tinh thần
cho NVYT bất cứ lúc nào… trong môi trường làm việc với nhiều áp lực như vậy,
H
làm cho NVYT của Bệnh viện Tâm thần có nguy cơ bị stress rất cao.
Mục tiêu nghiên cứu
1. Đánh giá tình trạng stress của Nhân viên y tế tại Bệnh viện Tâm thần Tiền
Giang năm 2022.
2. Phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng stress của Nhân viên y tế tại
Bệnh viện Tâm thần Tiền Giang năm 2022.
3
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Giới thiệu về stress và Nhân viên ytế
1.1.1.
Khái niệm về stress
Theo Bác sĩ chuyên khoa thần kinh nổi tiếng của Hoa Kỳ - Walter Cannon:
stress là biểu hiện khó chịu hay những áp lực của đời sống cá nhân (9). Theo Hans
Selye, Stress là sự phản ứng của cơ thể sống, trước những tác động lên nó. (10).
Một số định nghĩa về stress: “Stress xuất hiện khi cá nhân nhận thấy rằng, họ
không thể ứng phó được với những yêu cầu cuộc sống hàng ngày hoặc cơ thể khỏe
mạnh của họ không được đảm bảo” (11), “Stress là kết quả của sự mất cân bằng
H
P
giữa yêu cầu và nguồn lực” (12), Stress bao gồm 2 khía cạnh: Tình huống stress
dùng để chỉ tác nhân kích thích gây ra stress và đáp ứng stress dùng để chỉ trạng
thái cơ thể con người phản ứng với stress (13).
Stress do nghề nghiệp được Viện nghiên cứu quốc gia Hoa Kỳ về sức khỏe
và an toàn nghề nghiệp (NIOSH) định nghĩa là “những phản ứng về thể chất và
U
cảm xúc tiêu cực xảy ra khi có những địi hỏi của công việc nhưng chưa tương
xứng với năng lực hoặc nhu cầu của người làm việc” (14).
Stress nghề nghiệp: là những đòi hỏi lao động vượt quá năng lực ứng phó của
H
người lao động (15).
Stress là một đáp ứng thích nghi về mặt tâm lý, sinh học và tập tính. Stress
đặt con người vào q trình sắp xếp thích ứng với môi trường xung quanh, tạo cho
cơ thể một cân bằng mới sau khi chịu đựng những tác động của mơi trường. Nói
theo cách khác, stress bình thường góp phần làm cho cơ thể thích nghi. Nếu đáp
ứng của cá nhân với stress khơng đầy đủ, khơng thích hợp và cơ thể khơng tạo ra
được một cân bằng mới thì những chức năng của cơ thể ít nhiều bị rối loạn, dẫn
đến những thay đổi về sinh lý, tâm lý, hành vi tạo ra những stress bệnh lý cấp tính
hoặc kéo dài (16).
1.1.2.
Khái niệm về Nhân viên y tế
Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế thế giới thì “Nhân viên y tế là những người
tham gia vào hành động có mục đích chính là để tăng cường sức khỏe. Chúng bao
gồm những người cung cấp dịch vụ y tế như bác sĩ, y tá, nữ hộ sinh, dược sĩ, kỹ
4
thuật viên phịng thí nghiệm - cũng như quản lý và công nhân hỗ trợ - chẳng hạn
như quản lý bệnh viện, các quan chức tài chính, đầu bếp, bảo trì sửa chửa và nhân
viên vệ sinh” (17).
Một định nghĩa khác đối với người lao động chăm sóc sức khoẻ là: Lâm sàng
và các nhân viên khác, bao gồm cả những người trong chăm sóc ban đầu, những
người có tiếp xúc thường xuyên, lâm sàng với bệnh nhân. Điều này bao gồm nhân
viên như: bác sĩ, nha sĩ và y tá, các chuyên gia y tế chẳng hạn như trị liệu nghề
nghiệp, vật lý trị liệu, công nhân xe cứu thương và khuân vác. Theo báo cáo của
Tổ chức Y tế thế giới năm 2006 thì nhân viên y tế là "tất cả mọi người tham gia
vào hành động có mục đích chính là để tăng cường sức khỏe" (Báo cáo Y tế Thế
giới 2006) (18).
H
P
Trong giới hạn nghiên cứu, chúng tôi hiểu “Nhân viên y tế là tất cả những
người có chun mơn về y tế hoạt động trong lĩnh vực y tế, trực tiếp hoặc gián tiếp
tham gia vào hoạt động chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của nhân dân”
1.1.3 Các mức độ của stress
Theo Đặng Phương Kiệt (15) stress có 3 mức độ, trong đó stress ở mức độ
nhẹ là mức độ làm cho chủ thể cảm nhận như một thách thức, có thể là một kích
U
thích làm tăng thành tích. Stress ở mức độ vừa là mức độ phá vỡ ứng xử, có thể
dẫn đến những hành động lặp đi lặp lại. Stress ở mức độ nặng là mức độ ngăn chặn
H
ứng xử và gây ra những phản ứng lệch lạc.
Nguyễn Thành Khải (19) chia stress thành 3 mức độ dựa trên sự cảm nhận
của chính chủ thể gồm mức độ rất căng thẳng khi chủ thể cảm nhận về mặt tâm lý
là rất căng thẳng, khó chịu. Mức độ căng thẳng khi chủ thể cảm nhận có sự căng
thẳng cảm xúc, nếu mức độ này kéo dài sẽ chuyển qua mức độ rất căng thẳng.
Mức độ thứ ba là ít căng thẳng khi chủ thể cảm nhận bình thường hoặc có yếu tố
căng thẳng nhẹ. Tuy nhiên việc phân chia này mang tính tương đối, khơng có
những tiêu chuẩn cụ thể để có thể phân biệt được sự khác nhau rõ rệt giữa các mức
độ.
Nguyễn Thị Hải (20) phân chia mức độ stress thành 3 mức độ: ít trầm trọng
khi stress chỉ biểu hiện ở một mặt, khơng kéo dài, chủ thể có thể tự khắc phục
được; mức độ thứ hai là trầm trọng biểu hiện ở hai hay một số mặt, lặp đi lặp lại
trong thời gian tương đối dài, phải khắc phục trong một thời gian nhất định; mức
5
độ thứ ba là rất trầm trọng biểu hiện ở nhiều mặt, diễn ra trong thời gian dài, phải
khắc phục trong thời gian rất dài.
Trên thế giới hiện nay có nhiều bộ công cụ được sử dụng để đánh giá các vấn
đề SKTT. Có thể kể đến một số bộ công cụ được dùng nhiều trong các nghiên cứu
khoa học cũng như được ứng dụng trong lâm sàng giúp hỗ trợ chẩn đoán như: bộ
câu hỏi đánh giá stress nghề nghiệp (JSQ); thang đánh giá lo âu của Spielberger
(STAI), thang tự đánh giá lo âu của Zung (SAS), thang đánh giá lo âu của
Hamilton (HAM-A), thang đánh giá lo âu của Beck (BID-A); thang đánh giá trầm
cảm của Hamilton (HAM-D)...trong đó Thang đánh giá của Lovibond (DASS 42
và DASS21) là một thang đo đánh giá được tổng hợp cả ba vấn đề sức khỏe tâm
thần phổ biến hiện nay là căng thẳng, lo âu và trầm cảm. Thang đo DASS 21 đã
H
P
được đánh giá về tính giá trị, độ tin cậy và khẳng định có thể áp dụng tại Việt
Nam, khơng có sự khác biệt nhiều về văn hóa 56), do đó trong nghiên cứu này,
chúng tơi áp dụng bộ công cụ thang đo DASS 21 của Lovibond để đánh giá mức
độ stress theo 4 mức độ: nhẹ, vừa, nặng và rất nặng.
1.1.4.
Các biểu hiện của stress:
U
Stress tiêu cực có thể phá vỡ cân bằng trong cuộc sống của con người làm
nảy sinh nhiều vấn đề về sức khỏe như: suy kiệt, lo âu, trầm cảm ảnh hưởng đến
chất lượng cuộc sống của bản thân và xã hội (21).
H
Khía cạnh tích cực: stress là phản ứng khơng thể thiếu ở con người, là biểu
hiện đáp ứng của cá nhân đối với những yếu tố tác nhân, hay tình huống trong
cuộc sống con người phải đối mặt. Stress tích cực giúp chúng ta thích nghi, hịa
hợp để cùng sống chung với stress, biến nó thành động lực giúp con người phát
triển (14).
Các dấu hiệu của stress bao gồm những bất thường về thể chất, cảm xúc,
nhận thức và hành vi. Có thể là sự kiệt sức, tự dưng thèm ăn hoặc bỏ ăn, đau đầu
rối loạn giấc ngủ cùng những biểu hiện khó chịu khác. Stress cịn đi kèm với cảm
giác bất an, giận dữ hoặc sợ hãi. Người bị stress thường có các biểu hiện thực thể
(như tăng nhịp tim, tăng huyết áp, nhức đầu, mệt mỏi, thở ngắn hơi, ra mồ hôi.
Biểu hiện về cảm xúc (như cảm thấy khó chịu, dễ cáu gắt, buồn bã, chán nản, thờ
ơ, khơng thân thiện, sa sút tinh thần…Có những hành vi như lạm dụng chất kích
thích (rượu, bia, thuốc lá...) dễ gây hấn, bất cần đời, xáo trộn các sinh hoạt hàng
6
ngày (ăn uống, giấc ngủ), mất tập trung, hay quên, xa lánh mọi người, có vấn đề về
tình dục...Nếu stress kéo dài sẽ tổn hại hệ miễn dịch và các chức năng sinh lý
khác, làm suy yếu khả năng chống lại bệnh tật của cơ thể cũng như sự xâm nhập
của vi khuẩn và làm tăng nguy cơ tử vong (22). Trong nghiên cứu của này, chúng
tôi tập trung chủ yếu phân tích một số yếu tố do tình trạng stress kéo dài như: Đau
đầu, đau nhức cơ thể; Mất tập trung, suy giảm trí nhớ; Rối loạn giấc ngủ và Rối
loạn cảm xúc.
1.1.5.
Các ảnh hưởng của stress về mặt thể chất và tinh thần
Về mặt cá nhân:
Một số ảnh hưởng sinh lý, đồng thời là những biểu hiện cụ thể của stress (15)
Ảnh hưởng đến tim: rối loạn nhịp tim (tim đập nhanh, mạnh), một số căng
H
P
thẳng về tinh thần hoặc tình cảm, gây ra quá trình thiếu máu cục bộ cơ tim.
Ảnh hưởng đến hệ bài tiết: đổ mồ hôi một cách khác thường (mồ hôi tay).
Ảnh hưởng đến cơ khớp: khiến cơ bắp dễ căng cứng, mệt mỏi; lưng, cổ, hàm
hay mặt dễ bị đơ hoặc đau nhức.
Ảnh hưởng đến da: da trở nên kém mịn màng, nhanh lão hóa và dễ nổi mụn,
có khi cịn làm xuất hiện các bệnh nguy hiểm khác như chàm bội nhiễm…
U
Ảnh hưởng đến hệ tiêu hóa: khó tiêu, đầy hơi, buồn nơn và chướng bụng, tiêu
chảy hoặc táo bón. Đồng thời tạo ra những thay đổi trong ăn uống (ăn khơng ngon
H
miệng, ăn q nhiều hoặc ít hơn bình thường, không muốn ăn) dẫn đến cơ thể giảm
cân đột ngột.
Ảnh hưởng hệ sinh sản: Giảm nhu cầu tình dục, lãnh cảm, giao hợp đau, xuất
tinh sớm…Đối với nữ thì có sự rối loạn kinh nguyệt, đau hơn khi hành kinh.
Ảnh hưởng đến giấc ngủ: làm rối loạn giấc ngủ như khó ngủ, ngủ chập chờn,
hay thức giấc, hay có ác mộng.
Ảnh hưởng đến hệ thần kinh: gây ra các chứng nhức đầu (đau nửa đầu, chóng
mặt, hoa mắt và nhiều trường hợp gây ra chứng suy nhược thần kinh).
Về mặt xã hội:
Vừa làm giảm năng suất lao động của cá nhân người lao động vừa làm tăng
chi phí gánh nặng điều trị. Theo thống kê tại Anh, trong một năm có tới 12,8 triệu
ngày cơng lao động bị mất do người lao động nghỉ ốm bởi các nguyên nhân liên
quan đến căng thẳng, lo âu và trầm cảm (23).
7
Điều tra lao động đặc thù và sức khỏe nghề nghiệp NVYT tại Việt Nam cho
thấy nhiều căng thẳng trong công việc ảnh hưởng đến các trạng thái sức khỏe của
NVYT. Các biểu hiện chủ yếu của trạng thái căng thẳng sau mỗi ngày làm việc ở
NVYT là mệt mỏi, thường xuyên cảm thấy bận rộn, đau mỏi cơ xương khớp, đau
đầu, rối loạn giấc ngủ, dễ bị kích thích và nóng nảy, biểu hiện đau dạ dày, hoa mắt
chóng mặt, không hứng thú với công việc hàng ngày, thường gặp ác mộng… (24).
1.1.6.
Nguyên nhân của stress
Giống như các chứng bệnh tâm thần khác, cho đến nay khoa học vẫn chưa
tìm ra được ngun nhân chính xác gây ra stress. Các nhà khoa học cho rằng stress
có tính chất tích tự diễn tiến trong thời gian dài, hoặc xảy ra một cách đột ngột quá
sức chịu đựng của cá nhân. Ngun nhân có thể xuất phát từ mơi trường bên ngồi,
H
P
cũng có thể xuất phát từ chính bên trong con người. Cùng một sự kiện tác động
nhưng mỗi người sẽ có những nhận định riêng về sự kiện đó mang tính đe dọa, có
hại hay thách thức và sẽ có các biểu hiện mức độ stress khác nhau. Sự khác biệt đó
là do ở mỗi người có q trình nhận thức diễn ra không như nhau. Như vậy,
nguyên nhân xuất phát từ chính bản thân mỗi người là nguyên nhân quan trọng và
có ảnh hưởng rất lớn đến mức độ stress của mỗi cá nhân (25).
U
Giống như các rối loạn tâm thần khác, mặc dù nhiều nghiên cứu đã cung cấp
một số dữ liệu nhưng cho đến nay khoa học vẫn chưa tìm ra được ngun nhân
H
chính xác gây ra stress. Tuy nhiên nhiều nghiên cứu đã chỉ ra được các yếu tố liên
quan đến các rối loạn đó. Bao gồm các yếu tố sau:
Các đặc điểm cá nhân: tuổi, giới tính, cân nặng, tình trạng bệnh tật, tính cách,
suy nghĩ, trình độ học vấn, lối sống…
Gia đình: di truyền, số người trong gia đình, mối quan hệ giữa các thành viên
trong gia đình, tình trạng về kinh tế, vật chất…
Mơi trường xã hội: an ninh trật tự, tình hình chính trị, văn hố, kinh tế…
Nơi làm việc: các mối quan hệ trong cơng việc, văn hố tổ chức, mơi trường
làm việc, cơ sở vật chất, trang thiết bị, khối lượng công việc, các nguy cơ gặp phải
trong công việc, vị trí, chức danh…
Mơi trường tự nhiên: thiên tai, thời tiết, tiếng ồn, nhiệt độ, giao thông, bụi, sự
ô nhiễm…(15), (26).
Như vậy các yếu tố gây ra stress, có thể được chia theo các cấp độ cá nhân,
8
gia đình, tổ chức đơn vị và mơi trường (tự nhiên và xã hội).Việc phân chia các yếu
tố gây stress chỉ mang tính tương đối. Trên thực tế, một cá nhân bị stress có thể do
nhiều nguyên nhân khác nhau cùng tích hợp lại. Ví dụ như một nhân viên Điều
dưỡng bị rơi vào tình trạng stress, ngun nhân có thể xuất phát từ việc cô ấy bị
quá tải trong công việc. Tuy nhiên, việc quá tải trong công việc đã có thể khơng trở
thành ngun nhân gây stress nếu cô ấy không phải lo lắng về đứa con đang bị ốm
ở nhà. Do đó, việc xác định chính xác ngun nhân gây nên tình trạng stress của cá
nhân khơng phải là việc đơn giản (27).
1.2. Thực trạng về stress của Nhân viên y tế trên Thế giới và Việt
Nam
1.2.1. Thực trạng về stress của Nhân viên y tế trên Thế giới
H
P
Nghiên cứu của Refai Yassen Al-Hussein và Ahmed Moshirf Al-Mteiwty
H
U
9
(2007) sử dụng thang đo DASS 21 để đánh giá tỷ lệ nhân viên y tế (NVYT)
bị trầm cảm, lo âu, stress tại 07 bệnh viện (BV) tại thành phố Mosul-Iran. Mẫu của
nghiên cứu gồm hai nhóm: 250 điều dưỡng và 250 NVYT khác gồm nhân viên Xquang, nhân viên phòng xét nghiệm, dược sĩ và cán bộ vật lý trị liệu. Kết quả thu
được có đến 16% điều dưỡng bị trầm cảm trong khi tỷ lệ này ở nhóm nhân viên
cịn lại là 7,6%; có 20,8% điều dưỡng có rối loạn lo âu, nhóm cịn lại là 7,6%; có
10% điều dưỡng bị stress trong khi nhóm cịn lại là 6%. Nghiên cứu khẳng định
rằng điều dưỡng có nhiều nguy cơ mắc các rối loạn tâm thần hơn các NVYT khác
(28).
Nghiên cứu của Khalid S. Al-Gelban (2009) sử dụng thang đo DASS 42 để
đánh giá tình trạng stress, lo âu, trầm cảm trên đối tượng là 304 bác sỹ ở vùng
H
P
Aseer Saudi Arabia. Kết quả cho thấy tỷ lệ NVYT mắc các vấn đề SKTT khá thấp
với trầm cảm 7,6%, lo âu 8,6% và stress 7,2%. Kết quả, nghiên cứu tìm thấy hai
yếu tố liên quan có ý nghĩa thống kê với cả trạng thái stress và lo âu là giới tính và
trình độ chun mơn, trong đó nữ giới bị stress và lo âu nhiều hơn nam giới (29).
Nghiên cứu của Asad Zandi và cộng sự (2011) sử dụng thang đo DASS 21 đánh
U
giá tỷ lệ stress của 272 điều dưỡng làm việc tại 29 khoa phòng thuộc một BV quân
đội. Kết quả nghiên cứu cho thấy điều dưỡng bị trầm cảm là 24,9%, lo âu 27,9%
và stress 23,8%. Nữ giới có tỷ lệ trầm cảm cao hơn nam giới. Có mối liên quan có
H
ý nghĩa thống kê giữa trầm cảm, lo âu, stress với tuổi, trình độ học vấn, số giờ làm
thêm và nơi làm việc của điều dưỡng (30).
Nghiên cứu định tính của Oliveira và cộng sự (2013), làm việc trong phịng
cấp cứu là một cơng việc cực kỳ khó, xử lý các thủ tục phức tạp phải được thực
hiện trong cách đơn giản, đây là một tình huống gây stress nhiều nhất. Mối quan
hệ giữa các cá nhân, đối phó với cơn đau và cái chết; đối phó với điều kiện làm
việc khơng lành mạnh, cấu trúc quản lý cứng nhắc, thiếu trách nhiệm trong ra
quyết định; làm việc theo ca; làm việc dưới áp lực thời gian và quá tải. Cuối cùng,
thiếu nguồn lực điều dưỡng gây ra tình hình căng thẳng và những thay đổi đáng kể
trong thực hiện công việc của điều dưỡng(31).
Nghiên cứu của 03 tác giả Mostafa A F. Abbas, Lamiaa Z. Abu Zaid, Mona
Hussaein (2013) đã khảo sát tình trạng lo âu, trầm cảm của điều dưỡng tại các BV
tại King Fahad Medical City, Vương quốc Saudi Arabia. Kết quả nghiên cứu cho
10
thấy 47% điều dưỡng có triệu chứng lo âu, trong đó 20% trường hợp là có thể mắc
rối loạn lo âu; 25% điều dưỡng có triệu chứng trầm cảm, trong đó 10% trường hợp
có thể mắc bệnh trầm cảm. Nghiên cứu nhận thấy một số yếu tố như ly hơn/góa, ít
rèn luyện thể dục, hút thuốc lá là yếu tố nguy cơ cho các triệu chứng lo âu, trầm
cảm ở điều dưỡng (32).Hai tác giả Nakakis Konstantnos và Ouzouni Christina
nghiên cứu điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng stress và sự hài lịng cơng
việc của điều dưỡng làm việc trong các BV tâm thần. Đánh giá này cho thấy một
loạt các yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng stress và sự hài lịng cơng việc của điều
dưỡng như: vấn đề về tổ chức, thiếu nhân lực điều dưỡng, thay đổi vị trí việc làm,
sự tái phạm của người bệnh, đối mặt với những phản ứng tiêu cực, bạo lực của
người bệnh, khả năng của lãnh đạo, mối quan hệ giữa các cá nhân hay các nhóm,
H
P
cơ hội học tập, vấn đề cá nhân (vấn đề tài chính, mất người thân, chổ ở…)
(33)Nghiên cứu của Li-Ping Chou và cộng sự trên 1.329 nhân viên y tế tại một
bệnh viện khu vực Đài Loan năm 2014 cho thấy, tỉ lệ căng thẳng ở điều dưỡng là
cao nhất với 27,9%, tiếp đến là trợ lý bác sĩ với 27,2%, nhân viên hành chính
14,7%; kĩ thuật viên 14,4% và Bác sĩ là 2% (34).Nghiên cứu của BauerJ và cộng
sự năm 2016 trên 354 bác sĩ ở các Bệnh viện tại Đức cho thấy tỉ lệ bác sĩ có căng
U
thẳng là 52% (35). Nghiên cứu của Beschoner P và cộng sự năm 2016 nhằm đánh
giá các liên quan về giới tính đến tình trạng trầm cảm, căng thẳng trong cơng việc
H
của các bác sĩ, sử dụng thang đo Beck Depression Inventory (BDI) và Maslach
Burnout Inventory (MBI)) cho thấy tỉ lệ bác sĩ mắc căng thẳng là 51,8%
(36).Nghiên cứu cắt ngang của Sharma và cộng sự năm 2018 trên 81 điều dưỡng
làm việc tại các trung tâm Ung thư của Ấn độ sử dụng bộ câu hỏi tự điền đánh giá
stress của David Fontana đã cho thấy tỉ lệ điều dưỡng mắc căng thẳng là 62,96%
(37).Nghiên cứu của Creedy D.K (2017) sử dụng thang đo là DASS 21 đã khảo sát
tình trạng stress, lo âu, trầm cảm trên 1037 điều dưỡng, nữ hộ sinh tại Australia,
cho kết quả tỉ lệ stress là 22,1%, 17,3% trầm cảm và 20,4% lo âu. Nghiên cứu
cũng đưa ra ý kiến rằng các RLTT của NVYT có liên quan nhiều đến các đặc điểm
công việc, tuy nhiên nghiên cứu chưa đi vào phân tích kĩ các yếu tố này (38).
Từ một số nghiên cứu trên thế giới ở trên cho thấy: các nghiên cứu đã phần
nào mô tả được tình trạng stress của NVYT. Một số nghiên cứu đã đi sâu tìm
hiểu các yếu tố liên quan và đưa ra được các cảnh báo hữu ích để cải thiện tình
hình. Tuy nhiên, các yếu tố liên quan được chỉ ra cịn ít nên khi phân tích tìm mối
11
liên quan cho kết quả chưa đầy đủ. Hầu hết các nghiên cứu là cắt ngang nên tác giả
cũng chưa thể đưa ra bất cứ kết luận nào về nguyên nhân gây ra các vấn đề SKTT
trong số các nguy cơ được tìm thấy. Chúng tơi cũng chưa tìm thấy nghiên cứu nào
có sự kết hợp giữa chẩn đốn lâm sàng của bác sĩ chuyên khoa với việc sử dụng
các thang đo sàng lọc để đưa ra chẩn đoán xác định cho các vấn đề SKTT được
nghiên cứu.
1.2.2. Thực trạng stress của Nhân viên Y tế tại Việt Nam
Mặc dù chưa có thống kê, báo cáo chính thức nào đề cập đến số lượng NVYT
bị các vấn đề về sức khỏe tinh thần trên cả nước nhưng đã có một số nghiên cứu về
tình trạng stress của NVYT tại một số đơn vị y tế.
Nghiên cứu của Đỗ Nguyễn Nhựt Trần và cộng sự (2008) tại huyện Nhơn
H
P
Trạch, tỉnh Đồng Nai đánh giá tình trạng stress và các yếu tố liên quan ở NVYT
hiện đang làm việc tại các cơ sở y tế Huyện Nhơn Trạch, Đồng Nai. Với 149 đối
tượng tham gia nghiên cứu, kết quả cho thấy khoảng 27% NVYT có stress ở mức
thường xuyên (21).
Nghiên cứu của Trần Thị Thúy (2011) đánh giá trạng thái stress trên đối
tượng CBYT khối lâm sàng tại bệnh viện Ung bướu Hà Nội. Kết quả: có 36,9%
U
CBYT có biểu hiện stress, 41,5% biểu hiện lo âu và 15,3% có biểu hiện trầm cảm
(39).
H
Nghiên cứu của Đậu Thị Tuyết (2013) về tình trạng stress, lo âu trầm cảm
của CBYT khối lâm sàng tại Bệnh viện Đa khoa Thành phố Vinh, Bệnh viện Đa
khoa 115 Nghệ An năm 2013 và một số yếu tố liên quan, nhằm mô tả tỷ lệ stress,
lo âu, trầm cảm và xác định một số yếu tố liên quan đến các tình trạng này. Kết
quả: tỷ lệ CBYT có biểu hiện stress tại Bệnh viện Đa khoa Thành phố Vinh là
16,8% thấp hơn tại Bệnh viện Đa khoa 115 là 24,5%, trong khi đó tỷ lệ stress của
đối tượng nghiên cứu chung là 20,4% (40).
Nghiên cứu của Dương Thành Hiệp về “Tình trạng stress nghề nghiệp của điều
dưỡng, hộ sinh ở 8 khoa lâm sàng tại bệnh viện Nguyễn Đình Chiểu tỉnh Bến Tre
năm 2014 và một số yếu tố liên quan” nhằm xác định tỷ lệ điều dưỡng, hộ sinh bị
stress nghề nghiệp và một số yếu tố liên quan cho tình trạng này. Nghiên cứu mơ tả
cắt ngang có phân tích, kết hợp định tính và định lượng được thực hiện với 246
điều dưỡng, hộ sinh. Kết quả: 56,9% nhân viên điều dưỡng, hộ sinh ở 8 khoa lâm
12
sàng tại Bệnh viện Nguyễn Đình Chiểu tỉnh Bến Tre có nguy cơ bị stress (41).
Bạch Nguyên Ngọc nghiên cứu về “Stress nghề nghiệp và một số yếu tố liên
quan của điều dưỡng tại bệnh viện Đa khoa tỉnh Gia Lai, với sự tham gia của 250
điều dưỡng khối lâm sàng BV đa khoa tỉnh Gia Lai. Nghiên cứu sử dụng bộ công
cụ chuẩn DASS 21 của Lovibond để xác định tỷ lệ stress. Kết quả nghiên cứu cho
thấy, tỷ lệ điều dưỡng viên lâm sàng của BVĐK tỉnh Gia Lai khơng có biểu hiện
stress là 74,8% và có biểu hiện stress là 25,2%. Trong đó các mức độ nhẹ, vừa,
nặng lần lượt là (10,4%, 8,8%, 6%), khơng có mức độ rất nặng (42).
Nghiên cứu của Nguyễn Thu Hà và cộng sự, Viện Sức khỏe nghề nghiệp và
môi trường năm 2016 đã tiến hành trên 811 NVYT của 8 bệnh viện/viện tuyến
Trung ương tại Hà Nội, kết quả: 48,6% nhân viên y tế có biểu hiện căng thẳng,
H
P
trong đó nhóm bác sĩ, điều dưỡng có xu hướng biểu hiện căng thẳng ở mức độ cao
hơn so với các nhóm cịn lại (43).
Sử dụng công cụ thang đo DASS 21, nghiên cứu của Đặng Kim Oanh năm
2017 về tình trạng căng thẳng nghề nghiệp của điều dưỡng lâm sàng tại Bệnh viện
Đại học Y Hà Nội đã cho thấy tỉ lệ điều dưỡng lâm sàng mắc căng thẳng là 35,1%.
Theo mức độ căng thẳng, tỷ lệ điều dưỡng mắc ở mức độ nhẹ là 22,1%, vừa là
U
10,5%, nặng là 2,1%, và khơng có ai mắc stress ở mức độ rất nặng. Các yếu tố liên
quan là tham gia công tác quản lý, thiếu trang thiết bị, môi trường làm việc chật
H
chội, ồn ào, nguy cơ lây bệnh, khối lượng công việc quá tải, tập trung cao độ,
không đủ thời gian nghỉ ngơi, trách nhiệm với bệnh nhân nặng nề, khơng có khả
năng thăng tiến trong công việc, quan hệ không tốt với bệnh nhân và người nhà, và
khơng hài lịng với công việc (5).
13
Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Mạnh Tuân và cộng sự (2018) sử dụng thang
đo DASS 21, được tiến hành tại BV Trưng Vương nhằm đánh giá tình trạng stress
trầm cảm, lo âu của toàn bộ 650 NVYT tại BV. Kết quả cho thấy tỉ lệ stress là
10,5%, trong đó, có 6,9% ở mức độ vừa, 3,4% mức độ nặng và 0,2% mức độ stress
rất nặng. Các yếu tố ảnh hưởng đến stress ghi nhận là việc kiêm nhiệm quản lý, áp
lực công việc và công việc đơn điệu (44).
Qua tìm hiểu các nghiên cứu trong nước và trên thế giới, chúng tôi nhận thấy
SKTT của NVYT cần được quan tâm nhiều hơn. Tuy nhiên, có thể thấy số lượng
các nghiên cứu về stress, lo âu và trầm cảm của NVYT cịn hạn chế. Với mong
muốn góp phần vào nghiên cứu sức khoẻ tâm thần và một số yếu tố ảnh hưởng
trên đối tượng NVYT, đặc biệt NVYT ngành Tâm thần, chúng tôi thực hiện nghiên
H
P
cứu này để cung cấp thêm thơng tin, góp phần mơ tả bức tranh về sức khoẻ tâm
thần của NVYT để từ đó có thể đưa ra các giải pháp để tăng cường sức khoẻ tâm
thần cho các NVYT hiện nay.
1.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến stress của Nhân viên y tế
1.3. 1.Yếu tố cá nhân
U
Nghiên cứu của 3 tác giả Lê Thành Tài, Trần Ngọc Xuân, Trần Trúc Linh
(2008) tiến hành tại ba địa điểm là Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ, Bệnh
viện Đa khoa Thành phố Cần Thơ và Bệnh viện Đa khoa Châu Thành - Hậu Giang
H
nhằm đánh giá tình trạng stress nghề nghiệp trên đối tượng là nhân viên điều
dưỡng. Kết quả nghiên cứu xác định được yếu tố thâm niên cơng tác liên quan có ý
nghĩa thống kê đến tình trạng stress (45).
Nghiên cứu của Khalid S. Al-Gelban (2009) sử dụng thang đo DASS 42 để
đánh giá tình trạng stress, lo âu, trầm cảm trên đối tượng là 304 bác sỹ ở vùng
Aseer Saudi Arabia. Kết quả xác định được hai yếu tố liên quan có ý nghĩa thống
kê với trạng thái stress là giới tính và trình độ chun mơn, trong đó nữ giới bị
stress nhiều hơn nam giới (29) Nghiên cứu D. Tripodi trên 1868 nhân viên y tế của
một Bệnh viện đại học Pháp năm 2014, dùng bộ công cụ JCQ cho thấy, các yếu tố
liên quan đến căng thẳng nghề nghiệp là nữ giới trên 40 tuổi, trình độ chun mơn
là điều dưỡng, bác sĩ; hợp đồng làm việc dài hạn (46).
Nghiên cứu của Mai Hịa Nhung (2014) thì nhóm điều dưỡng viên từ 30 tuổi
trở xuống có biểu hiện stress gấp 6,6 lần so với nhóm điều dưỡng viên từ 30 tuổi
14
trở lên (p=0,002). Nhóm điều dưỡng viên có thâm niên làm việc tại bệnh viện dưới
10 năm có biểu hiện stress gấp 3,1 lần so với nhóm điều dưỡng có thâm niên làm
việc tại bệnh viện trên 10 năm (p=0,039) (47).
Yếu tố gia đình
Nghiên cứu định tính của Mohsen Adib và cộng sự (2012), được tiến hành ở
1.3.2.
Kashan, Iran. Số liệu được thu thập qua phỏng vấn sâu cá nhân với 19 điều dưỡng
có ít nhất hai năm kinh nghiệm và khơng có tiền sử của bệnh tâm thần. Ba nội
dung được phỏng vấn sâu gồm: nhận thức của điều dưỡng về sự căng thẳng nghề
nghiệp, sự quan tâm đến nghề nghiệp và sự ưu tiên giữa sự nghiệp và cuộc sống
gia đình. Kết quả nêu lên rằng, sự căng thẳng nghề nghiệp được định nghĩa là một
điều kiện gây ra bởi các mơi trường làm việc mà trong đó điều dưỡng bị áp lực
tác động tiêu
H
P
cực đến chăm sóc điều dưỡng và cũng phá vỡ gia đình, cuộc sống cá nhân của họ.
Một số ý kiến cho rằng cường độ căng thẳng có liên quan đến tuổi tác, kinh
nghiệm làm việc, giờ làm việc trong tuần, nơi làm việc, và nhân cách của điều
dưỡng (48).
Căng thẳng lại xảy ra khi đang làm việc bởi những lo lắng về công việc gia
U
đình như một lời tâm sự của một điều dưỡng, chị ấy nói rằng: "Khi các con được
đưa đến nhà trẻ, tơi ln nghĩ về các con của mình. Tơi ln sợ có gì đã xảy ra với
H
nó khơng ? Bởi vì người quản lý trường mẫu giáo là một người già đã khơng thể tự
chăm sóc mình...". Điều này cho thấy rằng: cô ấy đang mất tập trung trong cơng
việc, thay vì suy nghĩ về người bệnh, cơ ấy quan tâm đến các con của mình trong
trung tâm giữ trẻ. Hậu quả có thể xảy ra, gần nhất là dễ sai sót chun mơn và xa
hơn là giảm chất lượng công việc (49).
Tác giả Ngô Thị Kiều My (2014) kết quả nghiên cứu cho thấy Nhóm đối
tượng có chăm sóc con nhỏ dưới 5 tuổi dễ có biểu hiện lo âu gấp 1,83 lần so với
nhóm cịn lại (p=0,021). Qua kết quả phỏng vấn sâu, nhiều điều dưỡng và hộ sinh
chia sẽ họ cảm thấy rất hạnh phúc khi có con nhỏ, đó là niềm vui khi họ trở về nhà.
Nhưng bên cạnh niềm hạnh phúc đó là những lo lắng, áp lực về kinh tế gia đình,
người chăm sóc trẻ… Theo kết quả nghiên cứu, có đến hai phần ba gia đình của
đối tượng có mức thu nhập bình quân/người/tháng dưới 3 triệu đồng (66,0%). Với
mức thu nhập này, điều dưỡng và hộ sinh rất khó khăn để đáp ứng đầy đủ nhu cầu
cho con và cả gia đình. Nghề điều dưỡng là một nghề đặc thù, điều dưỡng phải làm
15
việc cả ngày lẫn đêm, làm theo ca… Bên cạnh áp lực công việc, nhiều điều dưỡng
và hộ sinh cảm thấy lo lắng cho con cái khi đi trực đêm, đặc biệt những lúc con
đau ốm hay khơng có người chăm sóc (50).
Tác giả Dương Thành Hiệp đã xác định được mối liên quan có ý nghĩa thống
kê giữa việc phải chăm sóc con nhỏ dưới 5 tuổi và stress nghề nghiệp. Các điều
dưỡng, hộ sinh phải chăm sóc con nhỏ có nguy cơ bị stress nghề nghiệp cao hơn
1,9 lần so với những người khơng có hồn cảnh này (p=0,021)(41).
Nghiên cứu của Trịnh Xuân Quang (2018) (51) Tình trạng stress của Điều
dưỡng tại Bệnh viện Đa khoa Trung tâm Tiền giang năm 2018 và một số yếu tố
liên quan, kết quả về yếu tố gia đình có 2 yếu tố “Chăm sóc con dưới 5 tuổi” và
“Đem lại nguồn thu nhập chính trong gia đình” liên quan đến tình trạng stress nghề
H
P
nghiệp của điều dưỡng: Các điều dưỡng phải chăm sóc con nhỏ dưới 5 tuổi có
nguy cơ bị stress cao hơn 4,52 lần (p=0,001) so với những điều dưỡng khơng phải
chăm sóc con nhỏ. Những điều dưỡng là người đem lại thu nhập chính cho gia
đình cũng có nguy cơ stress cao gấp 3,58 lần (p=0,001) so với những đồng nghiệp
không phải là người đem lại thu nhập chính cho gia đình.
1.3.3.
Yếu tố cơng việc
U
Tình trạng thiếu điều dưỡng cũng là một trong những nguyên nhân chính của
căng thẳng nghề nghiệp, thiếu sự phối hợp, sự chậm trễ, khơng có các bác sĩ, sự
H
tranh chấp giữa các bác sĩ và điều dưỡng đều xảy ra căng thẳng. Căng thẳng cũng
liên quan đến quản lý điều dưỡng: thái độ khơng chính xác, lên án tất cả các tình
huống, và trừng phạt không công bằng. Nghiên cứu của Adid Hajbaghery (2007)
trên 151 điều dưỡng tại Iran cũng nêu ra thiếu sự hỗ trợ và sự thân mật giữa các
nhân viên điều dưỡng cũng sẽ dẫn đến gia tăng căng thẳng nghề nghiệp. Căng
thẳng cũng có liên quan đến người bệnh như: số lượng người bệnh nặng và làm
việc với các người bệnh có nguy cơ cao hoặc các căng thẳng chẳng hạn như: sự
mất lòng tin của người bệnh và thân nhân của họ, chịu đựng sự lạm dụng và xúc
phạm, sự vô ơn của một số người bệnh và gia đình của họ (52).
Theo quan điểm của điều dưỡng, những phát hiện như sau: (1) Luân phiên
công việc giữa các điều dưỡng có thể có ảnh hưởng đến sự hài lịng cơng việc của
họ, (2) Ln chuyển cơng việc có thể có ảnh hưởng đến cam kết của tổ chức, (3)
Việc làm hài lịng có thể có một tác động tích cực cam kết tổ chức, (4) Vai trị
16
căng thẳng giữa các điều dưỡng có thể có một tác động tiêu cực về sự hài lịng
cơng việc của họ, và (5) Vai trị căng thẳng có thể ảnh hưởng tiêu cực đến nỗ lực
tổ chức của họ (53).
Nghiên cứu của Sharifah Zainiyah (2011) sử dụng thang đo DASS 21 để
đánh giá tình trạng stress trên 110 điều dưỡng tại một bệnh viện Kuala Lumpur.
Nghiên cứu cũng chỉ đưa ra một số ít yếu tố để tìm mối liên quan với trạng thái
stress như: tuổi, tình trạng hơn nhân, khoa phịng cơng tác, tình trạng tài chính và
thời gian làm việc. Kết quả là tác giả chỉ tìm thấy một yếu tố liên quan duy nhất
với stress có ý nghĩa thống kê là khoa phịng cơng tác của điều dưỡng (3).
Một nghiên cứu tiền cứu được tiến hành tại Trường Đại học Y khoa Harran,
Sanliurfa, Thổ Nhĩ Kỳ của T.Ulas và các cộng sự (2013), đánh giá các thông số oxy
H
P
hóa gây căng thẳng ở 70 điều dưỡng làm việc ca ngày từ 8 giờ - 16 giờ (8 giờ) và 70
điều dưỡng làm việc ca đêm từ 16 giờ - 8 giờ (16 giờ) trong đơn vị hồi sức tích cực.
Kết quả phát hiện rằng, các thơng số stress tăng lên vào cuối ca trực (54).
Nghiên cứu của 3 tác giả Lê Thành Tài, Trần Ngọc Xuân, Trần Trúc Linh
(2008). Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng các yếu tố có thể gây stress cho điều dưỡng
bao gồm: làm việc quá nhiều giờ (>8h/ngày), công việc nhiều áp lực, không hứng
U
thú, làm việc trong điều kiện thiếu thốn máy móc, trang thiết bị, đơng người, ồn ào,
tiếp xúc nhiều mầm bệnh, dễ bị thương tích, thường gặp phản ứng của bệnh nhân và
H
người nhà, thu nhập chưa thỏa đáng và cơng việc ít cơ hội thăng tiến (47)
Nghiên cứu của tác giả Trần Thị Thúy (2011). Tác giả sử dụng thang đo
DASS 21 nghiên cứu trên đối tượng CBYT. Kết quả phân tích hồi quy logistic đa
biến cho thấy một số yếu tố liên quan có ý nghĩa thống kê làm tăng trạng thái
stress là: Số buổi trực trong/tháng; cảm nhận cơng việc ít hứng thú; thường xun
tiếp xúc với hóa chất độc hại; cảm nhận thấy mối quan hệ của họ với bệnh nhân
không tốt (51).
Nghiên cứu của Đậu Thị Tuyết (2013). Kết quả sau khi kiểm soát nhiễu đã
xác định được 1 yếu tố liên quan đến tình trạng stress ở Bệnh viện Đa khoa Thành
phố Vinh là mức độ hứng thú trong công việc; 2 yếu tố liên quan đến tình trạng
stress ở Bệnh viện Đa khoa 115 Nghệ An là nhiệt độ nơi làm việc và nguy cơ lây
nhiễm bệnh tật (41).
Nghiên cứu Dương Thành Hiệp cũng xác định được mối liên quan có ý nghĩa