Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

Giáo trình tài nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 52 trang )

73
Chương 2: TÀI NGUYÊN BIỂN VÀ ĐẠI DƯƠNG

I. KHÁI QUÁT VỀ CÁC BIỂN VÀ ĐẠI DƯƠNG

1. Đại dương thế giới và các biển.
Đại dương là một vùng lớn chứa nước mặn tạo thành thành phần cơ bản của thủy quyển.
Khoảng 71% diện tích bề mặt Trái Đất (khoảng 361 triệu kilômét vuông) được các đại dương che phủ,
một khối nước liên tục theo tập quán được chia thành một vài đại dương chủ chốt và một số các biển
nhỏ. Trên một nửa diện tích khu vực này có độ sâu trên 3.000 mét (9.800 ft). Độ mặn trung bình của
đại dương là khoảng 35 phần ngàn (ppt) (3,5%) và gần như mọi loại nước biển có độ mặn dao động
trong khoảng từ 30 (ở vùng cận cực) tới 38 ppt (vùng nhiệt đới/cận nhiệt đới). Nhiệt độ nước bề mặt ở
ngoài khơi là 29°C (84°F) ở vùng ven xích đạo xuống đến 0°C (32°F) ở các vùng địa cực.Một khối
nước liên tục bao quanh Trái Đất, Đại dương thế giới (toàn cầu) được chia thành một số các khu vực
cơ bản. Sự phân chia thành 5 đại dương là điều thường được công nhận: Thái Bình Dương, Đại Tây
Dương, Ấn Độ Dương, Bắc Băng Dương và Nam Đại Dương; hai đại dương cuối đôi khi được hợp
nhất trong ba đại dương đầu tiên.
Các khu vực nhỏ hơn của đại dương được gọi là các biển, vịnh hay một số các tên gọi khác.
Cũng tồn tại một số khối nước mặn nhỏ hơn trong đất liền và không nối với Đại dương thế giới, như
biển Aral, Great Salt Lake (Hồ Muối Lớn) - mặc dù chúng có thể coi như là các 'biển', nhưng thực ra
chúng là các hồ nước mặn. Có 5 đại dương trên thế giới, trong đó Thái Bình Dương là lớn nhất và sâu
nhất, thứ hai về diện tích và độ sâu là Đại Tây Dương, tiếp theo là Ấn Độ Dương, Nam Đại Dương
còn nhỏ và nông nhất là Bắc Băng Dương.
Nước đại dương luôn luôn chuyển động do tác động của thuỷ triều, gây ra bởi lực hấp dẫn của
Mặt Trăng và Mặt Trời đối với Trái Đất, sóng và hải lưu do tác dụng của gió. Các dòng bù trừ phát
sinh do sự thiếu hụt của nước. Chẳng hạn nước của Địa Trung Hải bị bốc hơi rất mạnh, ít sông suối đổ
vào, do đó nước có độ mặn cao và có tỉ trọng lớn. Nước ở dưới sâu chảy từ Địa Trung Hải ra Đại Tây
Dương tạo ra sự thiếu hụt, vì thế một hải lưu bề mặt lại chảy từ Đại Tây Dương vào Địa Trung Hải để
bù vào chỗ thiếu hụt đó.
Do độ che phủ bề mặt Trái Đất tới 71% nên các đại dương có ảnh hưởng lớn tới sinh quyển. Sự
bốc hơi nước của các đại dương quyết định phần lớn lượng giáng thủy mà Trái Đất nhận được, nhiệt


độ nước của các đại dương cũng quyết định phần lớn khí hậu và kiểu gió trên Trái Đất. Sự sống trong
lòng đại dương có lịch sử tiến hóa diễn ra khoảng 3 tỷ năm trước khi có sự di chuyển của động, thực
vật lên trên đất liền. Lượng sự sống và khoảng cách tính từ bờ biển (yếu tố vô sinh) ảnh hưởng tới sự
phân bố chính của quần xã sinh vật biển. Các sinh vật như tảo, rong, rêu sinh sống trong khu vực giáp
giới thủy triều (nơi đất liền gặp biển) sẽ cố định chúng vào đá vì thế chúng không bị rửa trôi bởi thủy
triều. Đại dương cũng là nơi sinh sống của nhiều loài và có thể phân chia thành vài đới (vùng, tầng)
như vùng biển khơi, vùng đáy, vùng chiếu sáng, vùng thiếu sáng v.v.
Về mặt địa chất, đại dương là nơi mà lớp vỏ đại dương được nước che phủ. Lớp vỏ đại dương
dày trung bình khoảng 4,5 km, bao gồm một lớp trầm tích mỏng che phủ trên lớp bazan núi lửa mỏng
đã đông cứng. Lớp bazan này che phủ lớp peridotit thuộc mặt ngoài của lớp phủ Trái Đất tại những
nơi không có châu lục nào. Xét theo quan điểm này thì ngày nay có 3 “đại dương”: Đại dương thế
giới, biển Caspi và biển Đen, trong đó 2 “đại dương” sau được hình thành do va chạm của mảng
Cimmeria với Laurasia. Địa Trung Hải có thể coi là một “đại dương” gần như riêng biệt, nối thông với
Đại dương thế giới qua eo biển Gibraltar và trên thực tế đã vài lần trong vài triệu năm trước chuyển
động của châu Phi đã đóng kín eo biển này hoàn toàn. Biển Đen thông với Địa Trung Hải qua
Bosporus, nhưng là do tác động của một kênh tự nhiên cắt qua lớp đá lục địa vào khoảng 7.000 năm
trước, chứ không phải một mảng của đáy biển như eo biển Gibraltar.
Diện tích của Đại dương thế giới là khoảng 361 triệu kilômét vuông (139 triệu dặm vuông),
dung tích của nó khoảng 1,3 tỷ kilômét khối (310 triệu dặm khối), và độ sâu trung bình khoảng 3.790
mét (12.430 ft).Gần một nửa nước của đại dương thế giới nằm sâu dưới 3.000 m (9.800 ft).
74

Hình 2.1: Thái Bình Dương

Hình 2.2. Ấn Độ Dương

Thái Bình Dương là đại dương lớn nhất thế giới, bao phủ 1/3 bề mặt Trái Đất, với diện tích
179,7 triệu km² (69,4 triệu dặm vuông). Nó trải dài khoảng 15.500 km (9.600 dặm) từ biển Bering
trong vùng Bắc cực đến gần biển Ross của Nam cực (mặc dù đôi khi khu vực ven châu Nam Cực được
gọi là Nam Đại Dương). Thái Bình Dương có chiều rộng đông-tây lớn nhất tại vĩ tuyến 5° bắc, nơi nó

trải dài 19.800 km (12.300 dặm) từ Indonesia đến bờ biển Colombia. Ranh giới phía tây của biển này
thường được đặt tại eo biển Malacca. Điểm thấp nhất trái đất tại vực Mariana nằm ở dộ sâu 11.022 m
dưới mặt nước. Đáy biển ở lòng chảo trung tâm Thái Bình Dương tương đối đồng đều, các khu vực
sâu thẳm với độ sâu trung bình khoảng 4270 m. Dọc theo lề Thái Bình Dương có nhiều biển nhỏ, biển
lớn nhất là biển Celebes, biển Coral, biển Đông Trung Hoa (East China Sea), biển Nhật Bản, biển
Đông (South China Sea), biển Sulu, biển Tasman và Hoàng Hải. Eo biển Malacca nối Thái Bình
Dương với Ấn Độ Dương về hướng tây, và eo biển Magellan nối Thái Bình Dương với Đại Tây
Dương về hướng đông. Thái Bình Dương có khoảng 25.000 đảo (nhiều hơn số đảo của các biển khác
hợp lại), phần lớn nằm phía nam của đường xích đạo.

Ấn Độ Dương có diện tích 75.000.000 km
2
. Đại dương này về hướng Bắc được giới hạn bởi
bán đảo Ấn Độ, Pakistan và Iran, về hướng Đông bởi Đông Nam Á (cụ thể là Myanma, Thái Lan,
Malaysia, Indonesia) và châu Đại Dương, về phía Tây bởi bán đảo Ả Rập và châu Phi. Ấn Độ Dương
ở tại hướng Nam và giáp Nam Băng Dương. Theo quy ước quốc tế, ranh giới giữa Ấn Độ Dương và
Đại Tây Dương nằm ở kinh tuyến 20° Đông, và ranh giới với Thái Bình Dương nằm ở kinh tuyến đi
ngang qua đảo Tasmania. Ấn Độ Dương chấm dứt chính xác tại vĩ tuyến 60° Nam và nhường chỗ cho
Nam Đại Dương.



Hình 2.3: Đại Tây Dương Hình 2.4: Nam Đại Dương
75

Đại Tây Dương là đại dương lớn thứ 2 trên Trái Đất và chiếm khoảng 1/5 diện tích hành tinh, được
bao quanh bởi châu Mỹ về phía Tây, châu Âu và châu Phi về phía Đông. Đại Tây Dương được nối liền
với Thái bình dương bởi Bắc Băng Dương về phía Bắc và hành lang Drake về phía Nam. Đại tây
dương còn ăn thông với Thái bình dương qua một công trình nhân tạo là kênh đào Panama, và được
ngăn với Ấn Độ Dương bởi kinh tuyến 20 độ Đông. Nó được ngăn cách với Bắc băng dương bởi một

đường kéo dài từ Greenland đến Tây bắc của Iceland và từ phía Đông bắc của Iceland đến cực Nam
của Spitsbergen và North Cape về phía Bắc của Na uy. Đại Tây Dương có hình chữ S kéo dài từ Bắc
xuống Nam và được chia ra làm hai phần: Bắc và Nam Đại Tây Dương bởi dòng nước ngược vùng
xích đạo vào khoảng 8 vĩ độ Bắc.

Nam Đại Dương là một vùng nước bao quanh một châu lục là châu Nam Cực. Nó là đại
dương lớn thứ tư và được xác định muộn nhất, chỉ được chấp thuận bằng quyết định của Tổ chức thủy
văn quốc tế (IHO) năm 2000, mặc dù thuật ngữ này đã được sử dụng rất lâu và mang tính truyền thống
trong các nhà hàng hải. Sự thay đổi này phản ánh những phát kiến gần đây trong lĩnh vực hải dương
học về tầm quan trọng của các dòng hải lưu. Trước đây thì Đại Tây Dương, Thái Bình Dương và Ấn
Độ Dương được coi là mở rộng tới tận châu Nam Cực, định nghĩa này hiện nay vẫn còn được một số
tổ chức địa lý sử dụng, trong đó có cả Hiệp hội Địa lý Quốc gia (NGS) của Mỹ. Nam Đại Dương là
một đại dương khá sâu với độ sâu từ 4.000 đến 5.000 mét tại phần lớn các khu vực của nó, với một
diện tích hữu hạn các vùng nước nông. Thềm lục địa Nam Cực nói chung là hẹp và sâu bất thường, các
gờ của nó nằm ở độ sâu từ 400 đến 800 m (trung bình toàn cầu chỉ khoảng 133 m). Các vùng đóng
băng của Nam Cực dao động từ ít nhất là 2,6 triệu km² vào tháng 3 tới khoảng 18,8 triệu km² vào
tháng 9, gấp khoảng 7 lần khi nhỏ nhất. Dòng hải lưu quanh châu Nam Cực (dài 21.000 km) chuyển
động liên tục về hướng đông; nó là dòng hải lưu lớn nhất thế giới, đem theo 130 triệu m³ nước trên
giây - 100 lần lớn hơn lưu lượng của tất cả các dòng sông trên thế giới.
Các nguồn tài nguyên thiên nhiên
− Có thể có các mỏ dầu mỏ và hơi đốt lớn và khổng lồ nằm trên rìa lục địa.
− Trầm tích mangan
− Có thể có các lớp sa khoáng
− Cát và sỏi
− Nước ngọt trong dạng các núi băng
− Các động vật như mực ống, cá voi, hải cẩu, nhuyễn thể và nhiều loài cá.
Các nguy hiểm tự nhiên: Các núi băng khổng lồ cao tới vài trăm mét; các phần tách ra của các
núi băng hay các đồi băng; các lớp băng trên mặt biển (nói chung dày 0,5 tới 1 m), đôi khi có các biến
động ngắn hạn và với sự dao động mạnh trong năm hay giữa các năm; thềm lục địa sâu được bao phủ
bởi các trầm tích từ thời kỳ băng hà dao động mạnh trên một khoảng cách nhỏ; gió to và sóng lớn

trong nhiều thời gian của năm; việc vận tải gặp khó khăn do bị băng che phủ, đặc biệt từ tháng 5 đến
tháng 10; phần lớn các khu vực là thiếu các nguồn tìm kiếm và cứu hộ.
Các hiệp ước quốc tế: Nam Đại Dương là chủ thể của mọi hiệp ước quốc tế liên quan tới các
đại dương trên thế giới. Ngoài ra, nó còn là chủ thể của các thỏa ước liên quan tới khu vực như: Ủy
ban nghề săn cá voi quốc tế (cấm săn bắt cá voi cho mục đích thương mại ở phía nam của vĩ tuyến 40°
nam (ở phía nam của vĩ tuyến 60° nam trong khu vực nằm giữa 50° tới 130° tây); Hiệp ước về bảo tồn
hải cẩu Nam Cực (giới hạn việc săn bắt); Hiệp ước về bảo tồn các nguồn sinh vật biển Nam Cực (điều
tiết việc đánh cá)
Tổng quan về kinh tế: Nghề đánh bắt hải sản trong vụ 1998-1999 (1 tháng 7 tới 30 tháng 6)
đánh bắt 119.898 tấn, trong đó 85% là các loài nhuyễn thể và 14% là cá vược Patagoni. Các hiệp ước
quốc tế đã được thông qua cuối năm 1999 để làm giảm việc đánh bắt hải sản bất hợp pháp, không
thông báo và không điều tiết. Trong mùa hè 1998-1999 đã có 10.013 du khách tới châu Nam Cực,
phần lớn trong số họ là đi theo đường biển để tới thăm Nam Đại Dương và châu Nam Cực, so với chỉ
có 9.604 trong mùa trước. Gần 16.000 du khách đã tới trong mùa 1999-2000.

76

B
ắc Băng D
ương
là đại dương nhỏ nhất
trong năm đại dương của Trái Đất, bao quanh cực
Bắc, nơi đây băng tuyết bao phủ quanh năm. Có diện
tích 14.090.000 km² và có độ sâu trung bình 1.038
mét. Bao quanh bởi các vùng đất của Liên bang Nga,
Hoa Kỳ (vùng Alaska), Canada, Na uy, Đan Mạch
(vùng Greenland).
Khoảng 81% diện tích bề mặt Greenland bị băng bao
phủ, được gọi là mũi băng Greenland, trọng lượng
của băng đã nén vùng đất trung tâm lục địa hình

thành nên một lòng chảo nằm thấp hơn 300 m [1.000
ft] dưới mực nước biển. Hầu như tất cả người dân
Greenland đều sống dọc theo các vịnh hẹp (fjords) ở
phía tây nam đảo chính, nơi có khí hậu ôn hoà hơn.

Hình 2.5: Bắc Băng Dương

2. Sự phân chia các vùng trong biển và đại dương

Đại dương có dạng một khối nước lớn liên tục, bao quanh các lục địa và được chia làm 4 khu
vực: Thái Bình Dương, Đại Tây Dương, Ấn độ Dương, Bắc Băng Dương. Trong đó Thái Bình Dương
là lớn nhất, nằm giữa 3 lục địa á-Mỹ-úc, có diện tích là 179,7 triệu km
2
(chiếm 50% diện tích đại
dương).
Mặt khác, sự phân chia diện tích các đại dương không đồng đều giữa 2 bán cầu:
+ Bắc bán cầu: Đại dương chiếm 60,7% diện tích
+ Nam bán cầu: 80,9%

Bảng 2.1: Diện tích, thể tích và độ sâu của các đại dương thế giới
Đại dương Diện tích
(triệu km2)
% so với
Hải
dương
Thể tích
(ngàn
km3)
Độ sâu trung
bình (m)

Độ sâu cực đại
m Nơi đo
Đại dương TG
361,059

100

1.370.323

3.795

11.034


1. Thái Bình Dương 179,679

50

723.699

4.208

11.034

Mariana
2. Đại Tây Dương 93,363

25

337.699


3.926

8.385

Puecto
3. Ấn Độ Dương 74,917

21

291.945

3.897

8.047

Ricụ
4. Bắc Băng Dương 13,100

4

16.980

1.205

5.449



Biển là những phần Đại dương tiếp giáp với lục địa (biển Nam Hải, Viễn đông, ) hoặc nằm lọt

vào lục địa (biển Hoàng Hải, Baltic, Hắc Hải, ). Vì thế mà mức độ phụ thuộc của các đặc điểm thuỷ
lý, thuỷ hoá của biển vào đại dương hay vào lục địa là rất khác nhau. Nền vỏ bao quanh khối nước
hải dương từ trên xuống dưới có thể phân chia thành các vùng sau (Hình 2.6):
1. Vùng thềm lục địa: tương đối bằng phẳng, độ sâu khoảng 200-700m, chiếm khoảng 7,6% diện tích
hải dương. Theo chiều thẳng đứng vùng này được chia thành 2 vùng sau:
− Vùng triều: là vùng bờ đại dương, giới hạn trong biên độ giao động của thuỷ triều, tuỳ theo đặc
tính của thuỷ triều từng nơi mà vùng này có thể kéo dài từ 17m tới vài m, có khi chỉ vài cm. Vùng bờ
phía trên mức thuỷ triều cao nhất được gọi là "Vùng trên triều".
− Vùng dưới triều: là vùng đáy sâu khoảng 200 - 500m. Đây là vùng phát triển phong phú của khu
hệ thuỷ sinh vật đại dương, là vùng khai thác rất quan trọng.
2. Vùng sườn dốc lục địa: ở độ sâu 500-3000m, độ dốc 4-14
0
. Theo chiều thẳng đứng, vùng này được
gọi là vùng đáy dốc.
3. Nền hải dương: là vùng nền đáy sâu từ 3000m trở xuống. Theo chiều thẳng đứng, vùng này được
chia thành 2 vùng sau:
77
− Vùng đáy sâu (3-6000m): đây là một vùng rộng lớn chiếm 4/5 diện tích đại dương.
− Vùng đáy cực sâu (>6000m): diện tích chỉ chiếm khoảng 1% của đại dương, có các khe rất sâu,
như hố Maria ở TBD sâu 11,034km.


Hình 2.6: Sự phân vùng thuỷ vực của đại dương
Còn theo chiều ngang, người ta chia đại dương thành hai vùng lớn, đó là vùng ven bờ và vùng
khơi. Vùng ven bờ là vùng nước tương ứng với vùng dưới triều, từ bờ tới độ sâu 500m, còn tiếp đó
ngoài độ sâu 500m là vùng khơi.
Tuy nhiên không phải tất cả các tác giả đều phân chia theo kiểu trên. Nhưng hầu hết họ đều căn
cứ vào độ chiếu sáng của tầng nước, sự phân bố của các loài, các đặc điểm riêng biệt của các nhân tố
vô sinh, và mục đích nghiên cứu cụ thể của họ. Không chỉ các vùng ở đại dương, mà cả các vùng
trong các thuỷ vực nội địa, sự phân chia các vùng thuỷ vực đều tương ứng với qui luật phân bố của

thuỷ sinh vật theo chiều ngang, chiều thẳng đứng, trong tầng nước, trên nền đáy Vì thế mà, mỗi nhóm
thuỷ sinh sống trong mỗi vùng thường mang tên gọi vùng nơi chúng phân bố.

2.1. Biển.
 Biển: Là các phần riêng biệt của Đại dương ăn sâu vào đất liền ở các mức độ khác nhau.
 Những biển lớn trên TG có diện tích lớn hơn 2 triệu km2, theo thứ tự là biển Đông (3,687 triệu
km2), biển Caribê (2,755 triệu km2), Địa Trung Hải và Bering
 Biển được phân chia thành các nhóm dựa vào: Nông - Sâu; Chế độ thuỷ văn; độ muối
 Các loại biển: Dựa vào sự tương tác với lục địa, chia thành 4 loại biển sau:
− Biển ven lục địa: - thường phân cách với ĐD bằng các dãy đảo/ bán đảo
- ít bị chia cắt, chế độ thuỷ văn gần giống với phần ĐD
- Ví dụ: Bering, Nhật Bản, Đông
− Biển giữa các lục địa: - ăn sâu vào đất liền và thông với ĐD bằng các eo biển
- Biển thường bị chia cắt nhiều, có nhiều đảo, độ sâu lớn
- Thường tập trung ở những đới hoạt động kiến tạo
- Địa Trung Hải, Hồng hải, Vịnh Mexico
− Biển bên trong lục địa: - Có đường bờ thuộc cùng một lục địa
- Là biển nông, nằm gọn trong những vùng thềm lục địa
- Điều kiện tự nhiên gắn chặt với đk TN của đất liền
- Ví dụ: Ban tích, Hắc hải, Bạch hải
− Biển giữa các đảo: - Biển này được bao quanh bởi chuỗi đảo/ vòng cung đảo
- Biển Celebes, Banda, Sulu (TBD)
78

Thái Bình Dương Đại Tây Dương Ân Độ Dương Bắc Băng Dương
Số biển 17 11 3 11
Số vịnh 2 4 2 1

2.2. Vịnh và vụng, phá
Vịnh: là phần Đại dương/ Biển ăn sâu rõ rệt vào đất liền tạo nên vùng lõm sâu hơn là sự ốn cong của

bờ biển. ĐK: S (Vịnh) >= 1/2 S đường tròn (có đường kính là đường kẻ ngang cửa)
Hình dạng: - Tròn: Vịnh Bắc bộ, Vịnh Thái Lan, Vịnh Ghinê, Vịnh Hạlong (3000km2)
- Phễu: Vịnh Dvina
- Kéo dài: Vịnh California, Vịnh Fundy
- Nhánh: Sydney
Vụng: là Vịnh có kích thước không lớn, được bảo vệ chống sóng và gió bởi các mỏm nhô ra biển. Ví
dụ: Vụng Ghêlengic, vụng Vladivôstôk, vụng Nha Phu.
Vũng: là loại vịnh cạn, ăn lõm sâu vào đất liền, có các doi đất và cồn cát, chúng thường là thung lũng
của các đoạn cửa sông hay vùng hạ lưu bị ngập đầy nước biển.
Phá: là dạng địa hình kéo dài dọc theo bờ, là loại vịnh hoặc vụng nông chứa đầy nước mặn hoặc lợ,
nối với biển bằng 1 eo không lớn, hoặc bị ngăn cách với biển bằng doi cát. Nước đổ vào phá thường là
những con sông không lớn, bờ phá có thể kéo rất dài

II. CÁC LOẠI TÀI NGUYÊN CỦA BIỂN VÀ ĐẠI DƯƠNG
Tài nguyên biển là một bộ phận của TN nước, hình thành và phân bố trong khối nước biển,
trên bề mặt đáy biển và trong lòng đất dưới đáy biển. Tài nguyên biển được chia thành 2 nhóm lớn:
TN sinh vật và TN phi sinh vật, trong loại tài nguyên phi sinh vật lại có 3 nhóm nhỏ:
• Tài nguyên khoáng sản: Dầu khí, Sa khoáng, Kết hạch Fe - Mn, Vật liệu xây dựng, Photphorit,
Bùn khoáng, Nước biển - hoá phẩm tổng hợp
• Tài nguyên năng lượng: Sóng; Thuỷ triều; Dòng chảy; Các dạng NL khác
• Các dạng tài nguyên khác: Du lịch biển; Hàng hải; Vị thế - 1 dạng tiềm năng phát triển.

1. Tài nguyên sinh vật
a. Nguồn lợi sinh học biển
Sinh vật sống trong biển vô cùng phong phú và đa dạng bởi nước có nhiều đặc tính tạo điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển của các sinh vật. Chúng phân bố từ phía trên mặt nước, tới các tầng
nước có cường độ ánh sáng khác nhau và cho tới cả những nơi tối tăm, thậm chí ở các vực sâu, các
hẻm vực đại dương sâu hàng chục km.
Đến năm 1990, người ta đã thống kê được 200.000 loài sinh vật biển, chủ yếu là ĐV đáy, trên
thực tế số loài sẽ lớn hơn rất nhiều. Vì biển là nơi mà còn nhiều điều bí mật nhất mà con người chưa

thể khám phá. Trong biển và đại dương có tới 20 HST thường gặp với qui mô lớn nhỏ khác nhau:
RNM, RSH, bãi cỏ biển, đầm phá, vũng vinh, bãi triều lầy, bờ đá, doi cát chắn, thềm lục địa, đảo, rìa
biển,
Hệ sinh thỏi rạn san hụ có tính ĐDSH cao nhất Mặc dù chỉ chiếm 0,25% diện tích đáy Đại
dương, nhưng nó cung cấp tới 93.000 loài sinh vật biển, là chỗ dựa cho khoảng 500 triệu người trên
toàn cầu (sử dụng hàng hoá và dịch vụ) tuơng đương với khoảng 375 tỷ USD.
Biển Việt Nam được xem là 1 trung tâm đa dạng sinh học của TG, tổng số trên 11.000 loài đã
được phát hiện, gồm 6000 loài ĐV đáy (350 loài san hô), 2038 loài cá, 653 loài rong biển, 657 loài
ĐV phù du, 537 loài thực vật phù du, 225 loài tôm biển, 43 loài chim biển, 15 loài rắn, 12 loài thú và 4
loài rùa biển. Ước tính có khoảng 200 tỷ tấn sinh vật sống trong biển và ĐD, đây là nguồn tài nguyên
tái tạo rất lớn, là nguồn dự trữ thực phẩm quan trọng, chỉ riêng động vật biển có 32,5 tỷ tấn so với 10
tỷ tấn động vật lục địa. Mỗi năm sinh vật biển có thể sản sinh ra 135 tỷ tấn hữu cơ, trong đó là 3 tỷ tấn
79
hải sản (gấp 30 lần tổng lượng KT/năm), năng lực cung cấp thức ăn hàng năm của biển gấp 1000 lần
sản phẩm NN toàn cầu nếu chỗ nào cũng canh tác. ở biển có tới hơn 500 loài tạo ra các chất hoá học
dùng để điều trị bệnh ung thư. Hiện nay số loài đựơc sử dụng điều trị bệnh và bồi bổ sức khoẻ được rất
nhiều người dân nhiều quốc gia ưa dùng.

b. Khai thác thuỷ sản
- Biển bao phủ 71% bề mặt Trái đất với diện tích 361 triệu km
2
, là nơi sinh sống của khoảng 2
vạn loài thực vật, hơn 400 loài cá có giá trị kinh tế cao, trên 70 loài tảo biển cùng vô số các loài khác
Sức sản xuất nguyên khai của biển khoảng 500 tỷ tấn/năm và sản lượng khai thác hàng năm đạt tối đa
600 triệu tấn. Đây là tiềm năng rất lớn đối với ngành khai thác thủy sản của thế giới.
- Khai thác thủy sản là hoạt động đánh bắt từ hồ ao, sông ngòi, biển và đại dương các loài thuỷ
sản khác nhau trong đó cá chiếm đến 85- 90% sản lượng. Sản lượng thuỷ sản đánh bắt được chủ yếu là
từ biển và đại dương.
Theo thống kê của FAO, hiện nay toàn thế giới có hơn 160 quốc gia làm kinh tế thuỷ sản, trong
đó 21 quốc gia có sản lượng đánh bắt cá biển trên 1 triệu tấn/năm thuộc châu á, châu Âu và châu Mỹ.

Các ngư trường khai thác thủy sản chủ yếu trên thế giới là Biển Bắc, Đông Bắc Đại Tây Dương,
Tây Bắc Đại Tây Dương, Trung tâm Tây Đại Tây Dương, Tây Nam Đại Tây Dương, Bắc Địa Trung
Hải, Đông ấn Độ Dương, Tây Bắc Thái Bình Dương, Đông và Đông Bắc Thái Bình Dương và Tây
Nam Thái Bình Dương (xem bản đồ các ngư trường chính và sản lượng khai thác và nuôi trồng thuỷ
sản). Sản lượng khai thác thuỷ sản từ nửa sau thế kỉ XX cho đến nay ngày càng tăng nhanh. Các nước
có sản lượng đánh bắt thuỷ sản lớn nhất thế giới là Trung Quốc (gần 18 triệu tấn), Pêru (gần 8 triệu
tấn), Hoa Kỳ (5 triệu tấn), Nhật Bản (4,8 triệu tấn), Inđônêxia (4,3 triệu tấn), Chi Lê (4 triệu tấn), ấn
Độ (3,9 triệu tấn), LB Nga (3,7 triệu tấn), Thái Lan (2,9 triệu tấn) và Nauy (2,8 triệu tấn).

Ngành khai thác thuỷ sản đòi hỏi phải có cơ sở vật chất kỹ thuật đồng bộ. Đó là các đội tàu đánh
cá lớn với tàu chế biến đi kèm, lưới tốt, thiết bị hiện đại thăm dò luồng cá hiện đại, các cảng cá, xí
nghiệp sửa chữa tàu, chế tạo ngư cụ, các cơ sở hậu cần dịch vụ
Việc khai thác thuỷ sản quá mức ảnh hưởng lớn tới nguồn lợi thuỷ sản. Vì vậy, vấn đề khai thác
hợp lý kết hợp với bảo vệ và phát triển nguồn tài nguyên thuỷ sản có ý nghĩa to lớn.


Hình 2.7: Đánh bắt cá hồi ở Hockaido, Nhật Bản
80

c. Nuôi trồng thuỷ sản
Tuy việc đánh bắt từ biển và đại dương vẫn còn cung cấp cho thế giới tới 2/3 sản lượng thuỷ
sản, song ngành nuôi trồng đã và đang phát triển nhanh với vị thế ngày càng cao. Rõ ràng, nguồn tài
nguyên biển là có giới hạn, lại đang bị con người khai thác quá mức. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng
tăng của thế giới, việc phát triển nuôi trồng thuỷ sản có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng của thế giới từ năm 1950 đến 2001 tăng gấp 3 lần, đạt trên 48
triệu tấn (Hình 2.8). Các loài thuỷ sản được nuôi không chỉ trong ao, hồ, sông ngòi nước ngọt, mà còn
ngày càng phổ biến ở các vùng nước lợ và nước mặn. Nhiều loài có giá trị cao về thực phẩm, về kinh
tế đã trở thành đối tượng nuôi trồng để xuất khẩu như tôm (tôm sú, tôm hùm ), cua, cá (cá song, thu,
ngừ ), đồi mồi, trai ngọc, sò huyết và cả rong tảo biển (rong câu ).
Ngành nuôi trồng thuỷ sản phát triển mạnh ở các nước châu á như Trung Quốc (34,5 triệu tấn,

chiếm 71,3% sản lượng nuôi trồng của thế giới), ấn Độ (2,2 triệu tấn), Nhật Bản (1,3 triệu tấn),
Philippin (1,2 triệu tấn), Inđônêxia (1,1 triệu tấn), Thái Lan và Việt Nam (cùng 0,7 triệu tấn). Ngoài ra,
còn có các nước khác như Bănglađét, Hàn Quốc, Chi Lê

Hình 2. 8:. Sản lượng khai thác và nuôi trồng thuỷ sản thời kì 1950- 2001


81
Hình 2.9: Lược đồ các ngư trường lớn, sản lượng đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản TG 2000-2002


Trai ngọc Đồi mồi

Vùng ven bờ là nơi thuận lợi để phát triển nuôi trồng nhiều loài sinh vật biển có giá trị kinh tế
cao, như: tôm, cua, nhuyễn thể, rùa, baba Sản lượng nuôi trồng trên thế giới năm 2000 đạt khoảng 33
triệu tấn (= 1/3 tổng sản lượn khai thác).
Việt Nam có đường bờ biển dài 3.260 km với nhiều ngư trường lớn ở vịnh Bắc Bộ và vịnh Thái
Lan (Hải Phòng- Quảng Ninh, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bà Rịa- Vũng Tàu, Cà Mau- Kiên Giang ).
Đây là điều kiện thuận lợi để phát triển ngành thuỷ sản. Sản lượng thuỷ sản của nước ta tăng lên nhanh
chóng, từ 890,6 nghìn tấn năm 1990 (trong đó khai thác 728,5 nghìn tấnvà nuôi trồng 162,1 nghìn tấn)
đã tăng lên gấp hơn 3 lần, đạt 2.794,6 nghìn tấn (khai thác 1.828,5 nghìn tấn và nuôi trồng 966,1 nghìn
tấn) năm 2003. Việt Nam nằm trong số 21 nước có sản lượng đánh bắt cá biển trên 1 triệu tấn/năm.
Ngành thuỷ sản phát triển mạnh và tập trung ở các vùng như là đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam
Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ và đồng bằng sông Hồng.
Vấn đề nảy sinh hiện nay là ở nhiều nơi do thiếu qui hoạch và quản lí, việc phá rừng ngập mặn
để lấy diện tích nuôi tôm đã làm ô nhiễm môi trường nước và phá huỷ môi trường sinh thái. Việc đánh
bắt quá mức ở vùng ven bờ cũng dẫn đến cạn kiệt nguồn lợi thuỷ sản.

2. Tài nguyên khoáng sản
Các loại tài nguyên khoáng sản trong khối nước.

Như chúng ta đã biết, biến và đại dương lớn mênh mông, chiếm tới 71% diện tích của TĐ và
97% lượng nước của TĐ, vì thế mà có người nói đùa rằng hành tinh của chúng ta là trái nước, hình
ảnh trái đất nhìn từ vệ tinh có màu xanh của nước biển - chứ không phải là màu xanh của thực vật.
Hàng năm, biển và đại dương có thể cung cấp 135 tỷ tấn chất hữu cơ (gấp 1000 lần sản phẩm NN toàn
cầu nếu chỗ nào cũng canh tác), cung cấp 3 tỷ tấn hải sản và trong đại dương thế giới đang chứa đựng
khoảng 3-4 trăm tỷ tấn hydrrocacbon, và các nhà địa hoá đã xác định rằng trữ lượng chung của tất cả
các nguyên tố hoà tan trong nước biển và đại dương là 50 triệu tỷ tấn. Lượng vật chất khổng lồ này
không được khai thác hết, chúng sẽ bị chôn vùi dưới các điều kiện khác nhau và tạo nên các loại
khoáng sản mà con người sẽ khai thác trong tương lai. Chính vì vậy mà khi khai thác các nguồn tài
nguyên trên biển đã cạn kiệt, con người đã nói rằng "Biển và đại dương là niềm hy vọng của loài
người trong tương lai".
Trong khối nước biển và đại dương chứa tới 80 nguyên tố hoá học tồn tại ở các dạng và hàm
lượng rất khác nhau, trong 1 km3 nước chứa 21.10
6
tấn Clo; 11,8.10
6
tấn Natri; 1,5 .10
6
tấn Magie;
1.10
6
tấn S; Ca, K, Br, C, St, B, ngay cả Vàng cũng có tới 6kg/km3, Bạc có tới 225kg/km3. Vì thế có
nhiều nhà khoa học nói rằng nước biển là hoá phẩm tổng hợp. (Tổng l−ợng nước ĐD khoảng 1.338
triệu km
3
)
82
Trong nước biển và đại dương cũng có tới 50.10
15
tấn các loại muối hoà tan, riêng lượng muối

ăn trong đại dương có thể đủ cung cấp cho nhu cầu của con nguời tới 1,5 tỷ năm. Nếu mang tất cả vật
chất của đại dương rải đều lên bền mặt lục địa chúng ta sẽ được 1 lớp dày khoảng 200m. Nếu đại
dương bốc hơi hết nước, thì bề mặt của nó sẽ phủ một lớp muối dày 60m (NaCl=80%). Trữ lượng
NaCl được dự tính là 38. 10
15
tấn hay 22.10
6
km3. Hiện nay, phương pháp khai thác muối truyền
thống vẫn được sử dụng rộng rãi trên 111 quốc gia có bờ biển, vì PP này rẻ và hiệu quả. Những nước
sản xuất nhiều muối nhất là: Trung Quốc, Anh, Hoa Kỳ, Tây Ban Nha, ý, Nhật, Pháp. Trung Quốc -
quốc gia sản xuất muối sớm nhất - suốt 4000 năm qua họ là số 1 về sản lượng muối, hiện nay đang
chiếm 1/5 tổng sản lượng muối thế giới (50 triệu tấn).
Việt Nam cũng là 1 trong những quốc gia sản xuất nhiều muối trên TG, tính đến năm 1995,
chúng ta có gần 11.500 ha ruộng muối, đạt tổng sản lượng là 630.000 tấn và đã có thể xuất khẩu sang
1 vài nước trong khu vực và SNG.
Nguyên tố có hàm lượng thứ nhì trong biển và Đại dương là Magie. Mg là 1 loại kim loại nhẹ,
được sử dụng trong các ngành công nghiệp quan trọng như: CN sản xuất máy bay, CN dệt, CN giấy,
cao su, Trữ lượng Mg trong nước biển và đại dương là 18.10
14
tấn, hiện nay riêng lượng Mg khai
thác được từ biển chiếm 40% tổng lượng Mg được khai thác hàng năm.
Bên cạnh Mg, nhiều Kim loại và Phi kim khác cũng được con người đã và đang tìm cách khai
thác từ nước biển và đại dương, như: Kali có trữ lượng 5.10
14
tấn, Brôm có trữ lượng khoảng gần
1.10
14
tấn, trong tương lai sẽ là Vàng, Bạc, Đồng, Mn, Kẽm,
Nước biển là nơi chứa đựng rất nhiều vật chất là tài nguyên mà con người có thể khai thác, và
bản thân nó cũng chính là một loại tài nguyên rất quí - loại tài nguyên không thể thiếu cho sự tồn tại

của các sinh vật - đó chính là nước. Như chúng ta biết, nước biển và đại dương là nước mặn, nhưng
khi tài nguyên nước có giới hạn của lục địa khan hiếm thì con người sẽ phải làm ngọt hoá nước biển
để sử dụng. Một số thí nghiệm gần đây cho thấy, nếu chúng ta khai thác 1kg Vàng từ nước biển, sẽ
được 1 lượng nước ngọt đủ tưới cho 40ha đất canh tác ở các vùng khô hạn.

Các loại tài nguyên KS trên đáy và trong lòng đất dưới đại dương
Dưới đáy biển và đại dương còn chôn vùi rất nhiều các loại vật chất, khoáng sản cần thiết cho
sự phát triển của xã hội loài người, một số loại khoáng sản còn có trữ lượng lớn hơn cả trên lục địa, có
thể gộp các loại KS này thành 3 loại: (1) Khoáng sản dạng lỏng và hoà tan; (2) Khoáng sản rắn nằm
bên dưới bề mặt đáy; (3)Khoáng sản nằm ngay trên bền mặt đáy dưới dạng trầm tích hiện đại. Cho đến
nay, việc khai thác khoáng sản mới chỉ tập trung ở vùng thềm lục địa, việc thăm dò ở các vùng sâu đại
dương đã được tiến hành và cho thấy có tiềm năng rất lớn, tuy nhiên trong điều kiện hiện tại thì việc
khai thác ở các khu vực này là quá khó khăn. Dù con nguời đã nỗ lực nhiều trong việc thăm dò, điều
tra và khám phá biển và đại dương, nhưng những gì mà họ biết được về nó còn rất ít ỏi, biển và đại
dương vẫn còn nhiều điều bí ẩn và ngay cả trữ lượng vật chất, khoáng sản trong biển và đại dương
cũng chưa thể dự báo hết.
* Dầu mỏ và khí đốt:
Tổng diện tích các vùng có khả năng về dầu khí là khoảng 50.10
6
km
2
(so với trên lục địa là
30.10
6
km
2
), trữ lượng khoảng 150 tỷ tấn (chiếm 45%) trữ lượng của cả TG và chiếm 90% tổng giá trị
khai thác khoáng sản từ biển và đại dương của cả TG. Trong thực tế, dầu khí bắt đầu được khai thác
mạnh từ năm 1960 và tăng lên nhanh chóng cho tới nay. Dầu khí được khai thác chủ yếu từ độ sâu
200m của mực nước biển trở vào, mặc dù hiện nay con người đã có khả năng khai thác dầu khí ở độ

sâu 4000m, và các lỗ khoan thăm dò đã kết luận rằng số lượng các mỏ dầu ở vùng đáy biển chiếm tới
77% tổng số các mỏ dầu trên toàn TG. Dầu khí phân bố không đều trên TG, trữ lượng dầu khí tập
trung ở vùng Trung Đông (4.10
9
tấn), ở Vịnh Mexico (2.10
9
tấn). Nhờ việc khai thác dầu khí mà nhiều
quốc gia đã trở nên phồn thịnh như NaUy, Anh, ả Rập, Mexico, Mỹ, Nhưng nhiều quốc gia có trữ
lượng dầu khí lớn cũng lâm vào cảnh bi thương của các cuộc chiến tranh tàn khốc do các Mỹ và thế
lực rắp tâm xâm chiếm nguồn tài nguyên quí giá này. Nước ta có diện tích thềm lục địa rộng chừng 1
triệu km2 và là nơi có triển vọng dầu khí lớn, đến nay đã xác định được 7 bồn trầm tích có triển vọng
83
chứa dầu. Từ năm 1986 đến nay, Việt Nam cũng là một trong những nước khai thác dầu khí đáng kể
trong khu vực Đông Nam á, sản lượng dầu thô khai thác hàng năm tăng 30%. Đến nay, tổng sản lượng
khai thác ước tính trên 100 triệu tấn dầu thô, ngành dầu khí đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của
đất nước và luôn đứng đầu về kim ngạch xuất khẩu. Bên cạnh việc khai thác dầu, chúng ta đã xây
dựng nhà máy điện khí Bà Rịa để sử dụng nguồn khí thải ra trong khai thác dầu, nhà máy đã đi vào
hoạt động năm 1996, có công suất khoảng 300MW. Nhà máy lọc dầu đầu tiên của Việt Nam cũng đã
được xây dựng tại Dung Quất tỉnh Quảng Ngãi nhằm sử dụng hiệu quả hơn các tài nguyên mà nước ta
đang có. Tuy nhiên, trong số 170 lô dầu khí đã thăm dò được thì có 79 lô đang trong vùng chồng lấn
và tranh chấp với các nước láng giềng. Phương hướng của VN sắp tới là đẩy mạnh công tác tìm kiếm
và thăm dò trên thềm lục địa, xác minh các trữ lượng công nghiệp có khả năng khai thác để đến năm
2010 đạt sản lượng 40 triệu tấn dầu và 5-10 tỷ m3 khí/ năm.
* Than đá: Ngoài dầu mỏ và khí thiên nhiên, thì than đá cũng được khai thác từ thềm lục địa.
Hiện nay, trên TG có khoảng hơn 100 hầm lò khai thác than đá dưới đáy biển, trong đó Nhật Bản
chiếm 30%, Anh chiếm 10%. Người Nhật đã xây dựng các đảo nhân tạo ở ngoài biển để khai thác
Than và phát huy tối đa vị thế của quốc gia mình, nhờ vậy họ đã tạo nên các điểm hút rất hiệu quả cho
việc phát triển kinh tế - xã hội.
* Các quặng kim loại khác: Các quặng Sắt, Đồng, Thiếc, Niken và cả đá vôi, Phôtpho, Lưu
huỳnh cũng được khai thác trên đáy biển. Tuy nhiên, vì còn nhiều khó khăn nên chúng chỉ được khai

thác trong những trường hợp đặc biệt. Trên các vùng đá gốc lộ ra dưới đáy biển Thái Bình Dương còn
phát hiện ra các vỏ Coban-Mangan là một loại quặng giàu Coban, Mn, Zn, Platin và Molypden. Dưới
đáy đại dương còn có các loại kim loại đa kim nguồn gốc nhiệt dịch, chúng là thành phần của lớp
Manti thâm nhập vào vỏ trái đất theo cơ chế đối lưu nhiệt, thành phần của chúng gồmL Au, Ag, Cu,
Zn, Pb, Sn
* Kết hạch Sắt và Mangan: Đây là một loại tài nguyên khoáng sản nằm ở bề mặt đáy đại
dương nước sâu (2000 - 6000m), có qui mô lớn và không gặp trên lục địa, Kết hạch này bao gồm
nhiều thành phần khác nhau, đó là các oxit kim loại Sắt, Nhôm, Đồng, Chì, Magie, Mangan, Bo Vì
hai loại oxit kim loại chiếm hàm lượng cao nhất các các kết hạch là oxit Sắt và oxit Mangan nên kết
hạch này được gọi là Kết hạch Sắt và mangan. Hiện nay, việc khai thác các kết hạch là nhằm vào mục
tiêu khai thác Mn, Br, Cu và Co. Theo tính toán, tổng trữ lượng ở cả 3 địa dương là 3 ngàn tỷ tấn,
trong đó tập trung nhất ở TBDương (1,7 ngàn tỷ tấn với 16 tỷ tấn Ni, 9 tỷ tấn Cu, 6 tỷ tấn Co và 400 tỷ
tấn Mn), ngoài ra còn có Molipden, Kẽm và Ziaconi có trữ lượng cao hơn nhiều lần so với trữ lượng
trên lục địa. Nếu khai thác được số lượng kết hạch trên thì có thể cung cấp cho sự phát triển của nhân
loại hàng ngàn đến hàng chục ngàn năm. Mặc dù trữ lượng là rất to lớn, song trong điều kiện kỹ thuật
và công nghệ hiện nay thì chỉ có các khu vực nào có sự phân bố trên 5kg/m
2
; hàm lượng Cu-Ni đạt
1,8% trở lên và thoả mãn nhiều tiêu chí khác nữa thì mới được đánh giá là có giá trị khai thác thương
mại. Nếu theo tiêu chí này thì ở Thái Bình Dương có khoảng hơn 10 triệu km2 có phong phú kết hạch
Fe-Mn; ở khu vực này có hàm lượng Cu-Ni đạt hơn 3% với mật độ phân bố đạt trên 10kg/m
2
. Đã có
nhiều nước bắt đầu nghiên cứu để khai thác các kết hạch này từ sớm (trong đó Trung Quốc là một
quốc gia bắt đầu muộn nhưng lại đầu tư khai thác sớm nhất), nhưng cho đến nay, do việc khai thác quá
khó khăn và gặp nhiều rủi ro, đầu tư lớn nên nguồn tài nguyên này vẫn chưa mang lại những lợi nhuận
như mong đợi và vẫn được coi là có giá trị tiềm tàng.
* Bùn khoáng: Bùn khoáng là một dạng khoáng sản rất đặc biệt, trước đây chưa biết đến, nó
như một loại bùn chứa quặng đa kim, chứa nhiều loại kim loại khác nhau, nó còn được gọi là trầm tích
thuỷ nhiệt, có phân bố hạn chế trên bề mặt đáy biển sâu. Bùn khoáng được phát hiện nhiều ở Biển Đỏ

và Vinh Aden, chúng có màu sắc rất phong phú, từ xám, xám đen đến hồng, vàng nâu và đỏ phụ
thuộc vào thành phần, thành phần thường là Fe, Mn, Zn, Cu, Pb, Li, Ge, As, Au, Ag Sự hình thành
của chúng có thể liên quan chặt chẽ với các hoạt động của núi lửa ngầm. Tại độ sâu 2.500m nước biển,
thuộc thung lũng Riftơ Galapagos đã phát hiện ra một vùng bùn khoáng dài 1.000km, rộng 200m và
dày 35m có trữ lượng khoảng 25 triệu tấn với tổng giá trị khoảng 3,9 tỷ USD. Tổng V bùn khoáng
84
dưới đáy đại dương được đánh giá sơ bộ khoảng 3.932 vạn m
3
. Trong các lớp bùn thuỷ nhiệt dưới đáy
đại dương còn chứa các Sunfua đa kim có giàu Fe, Cu, Zn, Ag và Au.
* Photphorit: Photphat là một dạng KS có ích, hấp dẫn và đầy triển vọng của Đại dương thế
giới, các quặng nổi tiếng nhất ở California kéo dài trên 200km, ở Nam Mỹ, Astralia, Nhật Bản Độ
sâu phân bố thường là từ 50-60m đến 5000m, hàm lượng khoảng 75kg/m2. Quặng P thường có màu
đỏ nhạt, hình dạng góc cạnh, hình ống, tấm, hạt hoặc dài mài tròn Phần chứa P của các quặng này
thường là hỗn hợp của các nhóm apatit khác nhau. Trữ lượng chung ước tính khoảng hơn3.10
11
tấn.
Việc thăm dò và khai thác P hiện nay đang được nhiều quốc gia quan tâm, tuy nhiên việc đầu tư khai
thác khá tốn kém làm cho giá thành sản phẩm cao.
* Các loại sa khoáng: Dọc theo dải bờ biển và đáy biển gần bờ, đã phát hiện và khai thác nhiều
loại khoáng vật nặng với cái tên là Sa khoáng. Sa khoáng bãi biển hay Sa khoáng biển là những
khoáng vật nặng được phân tách và tích tụ ở những nơi thuận lợi do tác động của dòng chảy sông,
sóng và biển dọc theo bờ biển nhiệt đới hiện đại cũng như các đường bờ cổ. Các sa khoáng này khá
phổ biến ở rìa TBD và Ân Độ Dương hay Nam Phi. Hiện nay có khoảng hơn 30 quốc gia có đường bờ
biển đang khai thác Sakhoáng, nổi tiếng là Alaska (vàng, platin), Thái Lan, Malaixia (Thiếc), úc, Nam
Phi (Kim cương, vàng) , có nơi đã khai thác đến độ sâu 100m.
Dọc bờ biển nước ta cũng có rất nhiều điểm tập trung các sa khoáng (Titan và đất hiếm) với trữ lượng
đáng kể, như: Móng Cái - Quảng Ninh, Bình Ngọc, Quảng Xương - Thanh Hoá, Hà Tĩnh, Quảng Trị,
Bình Định, Khánh Hoà Trữ lượng Titan dự báo khoảng 22 triệu tấn, đất hiếm khoảng 300.000 tấn


3. Giao thông trên biển
Số lượng hàng hóa vận chuyển bằng đường biển không lớn, nhưng vì đường dài, nên hiện nay
đường biển đảm đương tới 3/5 khối lượng luân chuyển hàng hóa của tất cả các phương tiện vận tải trên
thế giới. Không chỉ có các tuyến viễn dương có ý nghĩa quan trọng, mà cả các tuyến vận tải ven bờ
cũng có ý nghĩa đối với các nước có đường bờ biển.
Các tuyến hàng hải thường được chia thành 3 loại: từ cảng đến cảng (port-to-port), tuyến con lắc
(Pendulum) và vòng quanh thế giới (Round-the-World). Các dịch vụ kiểu con lắc rất được ưa chuộng
do tính chất uyển chuyển trong dịch vụ và đặc biệt là trong thời đại chuyên chở bằng các tầu contenơ.
Trong những năm gần đây, còn có khuynh hướng tích hợp và chuyên môn hóa các tuyến đường biển
nhờ các tầu chuyển tải đường ngắn nối các cảng lớn với nhau.
Đại dương bao la, nhưng các tuyến đường hàng hải lại chỉ tập trung ở một số tuyến quan trọng:
Bắc Đại Tây Dương nối châu Âu và Bắc Mĩ, Địa Trung Hải - châu á qua kênh Xuy-ê, đường qua kênh
Panama nối châu Âu và bờ Đông Hoa Kì với bờ Tây Hoa Kì và châu á; đường biển Nam Phi nối châu
Âu và châu Mĩ với châu Phi; đường biển Nam Mĩ nối châu Âu và Bắc Mĩ với Nam Mĩ; đường biển
Bắc Thái Bình Dương nối Tây Hoa Kì với Nhật Bản và Trung Quốc; đường biển Nam Thái
BìnhDương từ Tây Hoa Kì đến Ôxtrâylia, NiuDilân, Inđônêxia và Nam á. Đường biển từ vùng Vịnh
Pecxich qua mũi Hảo Vọng (Nam Phi) đến châu Âu và châu Mĩ dành riêng cho các tàu chở dầu khổng
lồ không đi qua được kênh Xuy-ê.
Vận tải đường biển là loại phương tiện vận tải hàng hóa chủ yếu nhất trong thương mại quốc tế.
Trước khi thế giới bước vào kỉ nguyên của các chuyến bay liên lục địa, thì vận chuyển hành khách
bằng tầu biển khá quan trọng, nhất là ở Bắc Đại Tây Dương, nối châu Âu với Bắc Mĩ. Vào năm 1838,
vượt Đại Tây Dương hết 15,5 ngày (tầu Great Western), thì đến đầu thế kỉ XX chỉ còn 4,5 ngày (tàu
Mauritania, 1907), và đến năm 1952 chỉ còn 3,5 ngày (tàu United States, 1952). Nhưng cũng từ thời
điểm đó, vận tải hàng không đã chiếm mất vị trí độc tôn của tàu vận tải khách xuyên Đại Tây Dương.
Hiện nay, chỉ còn một số tầu chở khách viễn dương, nhằm mục tiêu du lịch, các phà biển (ferries) hay
các tầu chở khách nhỏ ở các nước quần đảo như Inđônêxia, Philippin, các nước vùng Caribê. Trong
khi việc chuyên chở hành khách bằng đường biển giảm sút, thì việc chuyên chở dầu mỏ, các hàng hóa
khác lại tăng lên mạnh. Mặc dù việc chuyên chở các loại khoáng sản, gỗ, ngũ cốc vẫn còn chiếm
khối lượng lớn, nhưng từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, việc chuyên chở các loại hàng chế biến
ngày càng tăng mạnh.

85
Khoảng 1/2 khối lượng hàng vận chuyển trên đường biển quốc tế là dầu mỏ và các sản phẩm dầu
mỏ. Việc chở dầu bằng các tanke luôn đe dọa ô nhiễm biển và đại dương. Toàn thế giới có hàng trăm
tầu chở dầu có trọng tải trên 100 nghìn tấn đang hoạt động. Tàu chở dầu chở tới hơn ba trăm loại sản
phẩm dầu mỏ và mỡ. Mỗi khi lấy hàng, người ta xả nước, nước nóng vào các khoang để rửa sạch tàu
rồi trút nước và cặn bẩn xuống biển. Theo đánh giá của UNEP (Chương trình môi trường của Liên
Hợp Quốc) năm 1987, thì mỗi năm các tàu chở dầu trút xuống biển 1,1 triệu tấn dầu mỏ từ nước rửa
tàu và nước trọng tải dầu, cộng thêm khoảng 500 nghìn tấn dầu do các sự cố tàu dầu.
Nhờ có những công ước quốc tế về môi trường biển, nên các sự cố tràn dầu có xu hướng giảm.
Tuy nhiên, có thể thấy từ năm 1970 đến năm 2003 đã thống kê được hơn 9200 sự cố tràn dầu từ các
tầu chở dầu. Trong thập kỉ 70 (của thế kỉ XX) lượng dầu tràn là 3142 nghìn tấn, trong thập kỉ 80 là
1176 nghìn tấn và trong thập kỉ 90 là 1140 nghìn tấn.

Hình 2.9. Bản đồ sự cố tầu gây tràn dầu lớn trên thế giới 1967-2003

Hình 2.9 thể hiện 20 sự cố tàu thuyền gây tràn dầu và ô nhiễm dầu lớn trên thế giới, ghi lại được
từ năm 1967 đến năm 2003, trong đó phải kể đến 4 vụ có lượng dầu tràn lớn nhất là sự cố tầu Atlantic
Empress xảy ra năm 1979 ở bờ biển Tobago, vùng biển Caribê, tràn 287 nghìn tấn dầu; vụ tầu ABT
Summer năm 1991, 700 hải lí cách bờ biển Angola, tràn 260 nghìn tấn dầu; vụ tầu Castillo de Bellver
năm 1983 ở vịnh Saldanha, Nam Phi, tràn 252 nghìn tấn dầu và vụ tầu Amoco Cadiz năm 1978 ở bờ
biển Brơtanhơ (Pháp) tràn 223 nghìn tấn dầu. Tất nhiên, các sự cố tầu chở dầu gây ô nhiễm nghiêm
trọng các vùng nước đại dương và ven bờ, làm ảnh hưởng nặng đến các hệ sinh thái ven biển.
Hiện nay, khoảng 85.000 tầu biển có trọng tải trên 100 tấn đang hoạt động khắp thế giới, trong
đó 1/2 làm nhiệm vụ vận tải, còn 1/2 làm nhiệm vụ dịch vụ. Cùng với sự mở rông buôn bán quốc tế,
đội tàu biển đã tăng lên cả về số lượng và trọng tải trung bình. Năm 2000, tổng trọng tải của đội tàu
buôn toàn thế giới là 558 nghìn tấn, tăng gần 142 nghìn tấn so với năm 1985, chủ yếu là do sử dụng
nhiều hơn các tầu lớn trên 20.000 tấn. Trong đời sống ngành hàng hải thế giới phổ biến hiện tượng chủ
tàu mượn cờ của nước khác, chẳng hạn gần như toàn bộ đội tanker của Libêria và Panama là thuộc về
các chủ tàu Hoa Kì, Hi Lạp và một số nước khác. Điều này giải thích tại sao có các quốc gia tuy không
đóng vai trò lớn trong nền kinh tế thế giới nhưng lại có đội tàu buôn với trọng tải rất lớn. Đội tàu buôn

được chia thành tầu chở khách, tầu chở hàng (cargo ship) và tầu chở dầu (tanker). Các tầu hàng thông
86
thường có thể chở hàng được đóng gói, hàng rót (quặng, ngũ cốc), và cả một số hàng lỏng (mủ cao su,
dầu ăn ). Có những tầu hàng được thiết kế chuyên dụng để chuyên chở ô tô, ngũ cốc.
Việc chuyên chở bằng tầu contenơ bắt đầu được phát triển mạnh ở Hoa Kì từ nửa cuối thập kỉ 50
của thế kỉ XX. Mỗi contenơ có kích thước 2,4 m x 2,4 m x 6 m (8 ft x 8 ft x 20 ft[1]). Những tầu chở
contenơ lớn có thể chở hơn 6800 thùng hàng. Việc chuyên chở bằng contenơ đảm bảo việc bốc dỡ
hàng nhanh hơn, chuyên chở an toàn hơn và cũng dễ dàng tập kết và phân phối hàng đi hơn. Vì vậy,
việc chuyên chở bằng tầu contenơ và xây dựng các cảng contenơ có thể coi là biểu hiện của xu hướng
hiện đại trong chuyên chở hàng hóa bằng đường biển hiện nay.

Bảng 2.1: Mười nước có đội tàu buôn lớn nhất thế giới
TT Nước Tấn đăng kí năm 2002
STT
Nước Số tầu buôn năm 2002
1 Panama 130707060 1 Nhật Bản 7893
2 Libêria 54036570 2 Panama 6476
3 Bahamas 35875664 3 Hoa Kì 6136
4 Hi Lạp 30637116 4 Nga 4789
5 Manta 28303411 5 Trung Quốc 3299
6 Sip 23754844 6 Inđônêxia 2560
7 Xingapo 22193670 7 Hàn Quốc 2460
8 Trung Quốc 16749458 8 Xingapo 1835
9 Nhật Bản 14412153 9 Philippin 1693
10 Quần đảo Macsan

13645802 10 Nauy 1650

Đối với địa lí vận tải đường biển, mạng lưới các cảng biển có ý nghĩa căn bản. Cảng biển là nơi
tàu đỗ tiện lợi và an toàn, nơi có thể tiến hành bốc dỡ hàng hóa và xếp hàng mới, tàu có thể lấy dự trữ

thêm nhiên liệu, thực phẩm, nước ngọt. Thường thì các cảng tự nhiên được xây dựng ở bờ vịnh nước
sâu hay ở các cửa sông. Người ta thường phân loại các cảng thành cảng địa phương, cảng khu vực hay
cảng quốc tế, cảng chuyển tải, cảng bách hóa hay cảng chuyên dụng.
Cảng nằm trong một hệ thống phân phối hàng hóa. Vì vậy, để phân tích sự phát triển và hoạt
động của cảng, người ta phải quan tâm đến hậu phương (hinterland) và vùng trước cảng (foreland).
Hậu phương của cảng có thể được hiểu là một bộ phận lãnh thổ của đất nước (hoặc một vùng) tạo nên
thị trường tự nhiên và phục vụ cho cảng. Chẳng hạn, có thể coi đồng bằng sông Hồng, trung du và
miền núi phía Bắc và một phần Bắc Trung Bộ là hậu phương của cảng Hải Phòng. Tất nhiên, các cảng
có thể cạnh tranh nhau về vùng hậu phương của cảng. Vùng trước cảng có thể được hiểu là vùng đất
đối diện với hậu phương của cảng qua vùng biển, đại dương, nơi mà hàng hóa được chở từ đó đến
cảng và ngược lại. Vùng trước cảng xác định sự tham gia của cảng vào nền kinh tế thế giới.
Trên thế giới có khoảng 6000- 7000 cảng đang hoạt động, nhưng chưa đến 100 cảng có ý nghĩa
toàn cầu. Nền kinh tế Nhật Bản bị đình trệ nhiều năm qua làm cho nhiều cảng của Nhật Bản không
còn giữ được vị trí là các cảng hàng đầu thế giới. Trong khi đó, sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế
Trung Quốc và Hàn Quốc đã nâng cao vị thế của các cảng lớn của nước này trong danh sách các cảng
lớn nhất thế giới.

Bảng 2.2: Mười cảng có lượng hàng hóa thông qua cảng lớn nhất thế giới năm 2000 và năm 2003
(đơn vị tính: triệu tấn)
TT

Tên cảng
Nước,
lãnh thổ
Năm 2000

TT

Tên cảng
Nước,

lãnh thổ
Năm
2003
1 Rôttecđam Hà Lan 322,1 1 Rôttecđam Hà Lan 327,8
2 Xingapo Xingapo 311,8 2 Xingapo Xingapo 320,5
3 Thượng Hải TrungQuốc 204 3 Thượng Hải Trung Quốc 315,4
4 Hồng Kông Trung Quốc 174,6 4 Hồng Kông Trung Quốc 205,8
87
5 Nagoya Nhật Bản 147,3 5 Ninh Ba Trung Quốc 185,2
6 Anve
(Anvecpen)
Bỉ 130,5 6 Quảng Châu Trung Quốc 171,1
7 Busan Hàn Quốc 117,2 7 Thiên Tân Trung Quốc 161,8
8 Yokohama Nhật Bản 117 8 Nagoya Nhật Bản 153,2
9 Macxây Pháp 94,1 9 Anve Bỉ 142,9
10 Hambua Đức 85,1 10 Thanh Đảo Trung Quốc 140,9
Nguồn: Port of Rotterdam
Về các cảng contenơ, đáng chú ý là vào năm 1985 Rôttecđam là cảng contenơ lớn nhất thế giới,
với hơn 2,65 triệu TEU qua cảng, tiếp sau là Hồng Kông (2,29 triệu TEU) và Xingapo (2.0 triệu TEU).
Sự khác biệt giữa 10 cảng lớn nhất thế giới không thật lớn. Nhưng càng những năm gần đây, càng nổi
rõ vị trí của hai cảng contenơ lớn nhất thế giới là Hồng Kông và Xingapo và sự tập trung những cảng
contenơ hàng đầu ỏ khu vực Đông á.

Bảng 2.3: Mười cảng contenơ có lượng hàng hóa thông qua cảng lớn nhất thế giới năm 2000 và năm
2003 (đơn vị tính: nghìn TEU)
TT

Tên cảng
Nước,
lãnh thổ

Năm 2000

TT Tên cảng Nước,
lãnh thổ
Năm 2003

1 Hồng Kông Trung Quốc 18100 1 Hồng Kông Trung Quốc 20449
2 Xingapo Xingapo 17040 2 Xingapo Xingapo 18410
3 Busan Hàn Quốc 7540 3 Thượng Hải Trung Quốc 11280
4 Cao Hùng Đài Loan 7426 4 Thâm Quyến Trung Quốc 10600
5 Rôttecđam Hà Lan 6275 5 Busan Hàn Quốc 10370
6 Thượng Hải Trung Quốc 5613 6 Cao Hùng Đài Loan 8843
7 Lôx Angiơlet Hoa Kì 4879 7 Lôx Angiơlet Hoa Kì 7200
8 Long Bits Hoa Kì 4601 8 Rôttecđam Hà Lan 7107
9 Hambua Đức 4248 9 Hambua Đức 6138
10 Anve Bỉ 4082 10 Anve Bỉ 5445
Nguồn: Port of Rotterdam

Từ năm 2000 đến năm 2003, thứ tự của 10 cảng contenơ có luồng hàng thông qua lớn nhất thế
giới đã có nhiều thay đổi. Long Bits (Hoa Kì) đã rơi ra khỏi danh sách, trong khi Thâm Quyến từ chỗ
ngoài danh sách năm 2000 đã vượt lên chiếm vị trí thứ 4 (năm 2003). Thượng Hải từ vị trí thứ 6 tiến
lên vị rí thứ 3…
Cuối cùng, cần phải đề cập đến ba vị trí địa chiến lược cực kì quan trọng trong hàng hải thế giới
hiện đại: Kênh Xuyê, Kênh Panama và Eo biển Malacca.

Kênh Xuyê được đào cắt ngang eo đất Xuyê của Ai Cập, nối Đại Tây Dương với ấn Độ Dương
bằng con đường ngắn nhất đi qua Hồng Hải và Địa Trung Hải. Kênh được đào vào năm 1859 và được
mở cho tầu qua lại vào ngày17 tháng 11 năm 1869. Kênh dài 195 km (121 dặm). Kênh thiết kế cho tầu
150 nghìn tấn tổng trọng tải (TDW) chở đầy hàng qua được. Sau lần tu bổ vào năm 1984, tầu chở dầu
250 nghìn tấn qua được kênh. Kênh Xuyê làm xích gần hai khu vực công nghiệp ở Tây Âu với khu

vực Đông á và Nam á giàu tài nguyên khoáng sản và các loại nguyên liệu nông nghiệp. Kênh Xuyê đã
phục vụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế của các nước đế quốc phương Tây, mà chủ yếu là đế quốc
Anh. Ngay từ năm 1869, đế quốc Anh đã chiếm quyền quản trị kênh. Tháng 6 năm1956, Ai Cập tuyên
bố quốc hữu hoá kênh Xuyê. Cho tới trước năm 1967, năm xảy ra chiến tranh Ixraen - Ai Cập, gần
15% các luồng hàng viễn dương và trên 20% các luồng hàng vận chuyển dầu mỏ và sản phẩm dầu mỏ
toàn thế giới đã được vận chuyển qua kênh đào.

88


Hình 2.11. Kênh đào Panama

Hình 2.10: Kênh đào Xuyê

Kênh được thiết kế cho phép 25.000 chiếc tầu qua lại được mỗi năm, nhưng thực tế cho được
khoảng 14.000 tàu, trung bình 38 chiếc mỗi ngày, bằng khoảng 14% luồng hàng buôn bán trên thế
giới. Vì kênh chi đi được một chiều, nên mỗi lần mở kênh phải tổ chức thành đoàn tàu 10 - 15 chiếc.
Có ba chuyến mỗi ngày: hai chuyến từ cửa phía Nam và một chuyểns từ cửa phía Bắc.

Kênh Panama cắt qua eo đất Panama rộng 50 km là con đường ngắn nhất nối Thái Bình Dương
và Đại Tây Dương. Tổng chiều dài của kênh là 64 km (40 dặm), bắt đầu từ vịnh Limôn bên vịnh
Caribê. Dọc tuyến kênh, người ta phải làm nhiều âu tầu để có thể đưa tầu lên hồ nhân tạo Gatun (độ
cao +25,9m), rồi xuống hồ Miraflores (độ cao +10m) và sau đó xuống mực nước Thái Bình Dương.
Như vậy, khác với kênh Xuyê, kênh Panama có tới ba đoạn phải xây dựng âu tàu. Chính điều
này làm hạn chế khả năng qua kênh: tàu có trọng tải dưới 65 nghìn tấn có chở hàng và tàu tới 85 nghìn
tấn với trọng tải dằn là qua được. Phecđinăng đơ Letxep (Ferdinand de Lesseps), người Pháp, đã trúng
thầu để đào kênh Panama và người Pháp đã khởi công vào năm 1882. Nhưng người Pháp thành công
trong đào kênh Xuyê thì lại đã thất bại trong đào kênh Panama do những khó khăn về địa hình, khí hậu
nhiệt đới, bệnh dịch, và sai lầm trong thiết kế. Người Mĩ đã thay người Pháp, tổ chức đào kênh từ năm
1904. Kênh được đưa vào sử dụng từ năm 1914. Kênh này có tầm quan trọng đặc biệt đối với nền kinh

tế Mĩ và cả các hoạt động quân sự của quân đội Mĩ. Chính vì vậy, Mĩ đã tìm mọi cách để kiểm soát
kênh Panama. Từ năm 1904 đến năm 1979, Mĩ không những kiểm soát kênh đào mà còn chiếm giữ
vùng kênh đào Panama, diện tích tới 1.430 km
2
, mỗi bên kênh đào rộng 8 km. Vùng kênh đào đã thực
sự là một căn cứ thương mại và quân sự quan trọng của Hoa Kì ở Trung Mĩ. Có thể hình dung qua con
số sau đây: Năm 1996, hơn 15.000 tầu, trung bình 42 chiếc mỗi ngày, đã qua kênh đào. Số tiền lệ phí
qua kênh thu được năm 1995 là 460 triệu đô la Mĩ, tăng 50% so với năm 1985. Khoảng 14.000 tầu,
400.000 thuỷ thủ và 300.000 hành khách đã qua kênh đào năm 1995. Do sự đấu tranh kiên quyết và
bền bỉ của nhân dân Panama, Mĩ đã phải kí Hiệp ước kênh đào Panama năm 1977, và vùng kênh đào
bị bãi bỏ năm 1979 và kênh đào được trao trả hoàn toàn cho nhân dân Panama vào tháng 12 năm 1999.
Eo biển Malacca là một trong những tuyến hàng hải chiến lược nhất thế giới, vì một khối lượng
rất lớn hàng hóa trao đổi bằng đường biển giữa châu Âu và vùng châu á -Thái Bình Dương đã di qua
89
eo biển này. Tính ra là 50.000 tàu mỗi năm (600 chiếc mỗi ngày). Khoảng 30% hàng mậu dịch trên thế
giới và 80% lượng dầu mỏ nhập khẩu của Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan quá cảnh qua eo biển. Eo
Malacca là đường biển chủ yếu nối Thái Bình Dương và ấn Độ Dương. Eo biển này dài khoảng 800
km, rộng 50 đến 320 km (chỗ hẹp nhất là 2,5 km) và độ sâu lòng dẫn tối thiểu là 23 m. Đây là eo biển
dài nhất được sử dụng cho hàng hải quốc tế. Một trong những vấn đề của eo biển này là phải nạo vét,
vì nhiều chỗ dường như không đủ sâu cho tàu 300.000 dwt qua lại. Eo biển lại nằm giữa ba nước
Xingapo, Malaixia và Inđônêxia nên không dễ thảo thuận về việc chia chi phí đào kênh cũng như thu
phí qua kênh. Tình trạng cướp biển, tình trạng bất ổn về chính trị ở tỉnh Aceh phía Inđônêxia cũng là
một trở ngại cho sự an toàn hàng hải. Eo biển Malacca còn là điểm cuối của vùng nam Biển Đông,
một vùng biển giàu tiềm năng và là nơi có các tuyến hàng hải quan trọng trong vùng.

Có thể nói rằng từ xưa đến nay, GTVT đường biển là quan trọng nhất bởi nó có hàng loạt các ưu
điểm so với các tuyến GT trên đất liền: không phải làm đường và bảo dưỡng thường kì; không gian
rộng lớn có thể đến tất cả các châu lục; năng lượng tiêu hao ít; có thể vận chuyển khối lượng và kích
thước hàng hoá cực lớn, đủ mọi chủng loại; Những ưu điểm trên mà tiền cước vận chuyển hàng hoá
rẻ hơn nhiều và thương mại quốc tế phát triển nhanh chóng và mang lại nguồn thu lớn cho các quốc

gia trên TG. Nhờ đường biển mà thị trường thương mại quốc tế được hình thành và phát triển, cũng từ
đó mà khoa học biển phát triển như ngày nay. Trong thực tế, con người vẫn chưa khai thác hết tiềm
năng vận tải biển, lượng hàng hoá được chuyển bằng đường biển hiên nay khoảng 70%, cước phí chỉ
chiếm 40% tổng lượng. Hoạt động hang hải cũng xảy ra nhiều rủi ro, ước tính khoảng 65% số tàu chở
dầu bị đắm, cứ 1,5 ngày thì có 6000 tấn dầu bị đổ xuống biển. Việt Nam là một quốc gia có lãnh hải
lớn, bờ biển dài, các cửa sông nhiều và dày đặc phân bố với khoảng cách trung bình hơn 20km trên
đường bờ, các vũng vịnh ven bờ chiếm đến 60% đường bờ và có đến 12 vũng vịnh lớn. Đó chính là
những tiềm năng cho sự phát triển cảng và hàng hải của Việt Nam. Đến nay, nước ta có tổng số 52
cảng, nhưng còn nhỏ bé và lạc hậu, cơ sở vật chất còn yếu kém Đội tàu biển nước ta cũng tương tự,
gồm khoảng hơn 300 chiếc với sức chở 800.000 tấn, tuổi tàu đều lớn (gần 20 năm) nên trang thiết bị
đã cũ kỹ. Công nghiệp cơ khí tầu thuyền của nước ta cũng còn yếu kém, chủ yếu là sửa và đóng tàu có
trọng tải bé. Dự kiến đến năm 2010, nhu cầu vận tải biển của nước ta tăng lên nhiều, tới 50 triệu tấn.
Vì thế hiện nay chúng ta cần tập trung cải tạo, nâng cấp và mở rộng hải cảng và đội ngũ tàu biển. Hiện
nay, bên cạnh việc phát triển GTVT trên biển, nguời ta còn xây dựng những đường ngầm dưới đáy
biển để nối liền các phần lục địa và các đảo tách rời, làm ngắn khoảng cách và đi lại thuận tiện, nhanh
chóng. Nhật, Anh, Pháp, Mỹ là những nước đi đầu trong lĩnh vực này, hiện nay người ta đang xây
dựng con đường hầm xuyên biển dài 250km nối Nhật với Hàn.

4. Năng lượng
* Năng lượng tạo ra từ sự chênh lệch nhiệt và độ mặn:
Một trong những nguồn năng lượng lớn trong đại dương là sự chuyển hoá NL nhiệt của nước
biển và đại dương thành năng lương điện. Nhiệt độ của lớp nước mặt và và lớp nước dưới sâu của các
vùng biển nhiệt đới và á nhiệt đới chênh nhau tới 20 - 25
o
C, đây là nguồn năng lượng sạch, vĩnh cửu
và tái tạo vô cùng to lớn mà con người có thể khai thác trong tương lai, tiềm năng có thể tới 5 tỷ
KW/năm. Hiện nay Nhật Bản, Mỹ và Tahiti đã sử dụng nguồn NL này. Tiềm năng khai thác NL loại
này ở nước ta khoảng 0,15 tỷ kW. Như chúng ta đã biết, do sự bốc hơi mạnh nên nước biển và đại
dương mặn, điển hình là độ mặn ở bờ biển chết lên đén 25%, người ta lợi dụng sự chênh lệch độ mặn
giữa nước của biển Chết và Địa Trung Hải để chạy máy phát điện, khi nước mặn chảy qua màng thẩm

thấu sang phía nước nhạt đẩy cột nước lên cao, khi cột nước đổ xuống làm bánh xe quay. Tuy nhiên,
phương pháp này mới bắt đầu được thử nghiệp, tiềm năng ước tính cỡ 2,6 tỷ kW/năm.
* Năng lượng thuỷ triều:
Sử dụng năng lượng của thuỷ triều(sự nâng lên và hạ xuống) có thể là một trong những cách
đơn giản nhất tạo ra điện từ NL đại dương. Tiềm năng của loại NL này được đánh giá là khoảng 1.240
tỷ kW/ năm, về mặt lý thuýêt, nó có thể cung cấp 20% sản lượng NL toàn cầu hiện nay. Cách sử dụng
90
thuỷ triều để phát điện đã được tiến hành ở Pháp, TQuốc, Nga. Người ta cho rằng, ở những nơi có biên
độ triều lớn thì việc khai thác loại NL này sẽ kinh tế hơn nhiều so với thuỷ điện sử dụng dòng chảy.
ở biển Việt Nam, dao động mực n−ớc thủy triều không thuộc loại lớn, không phải lµ nơi công
suất nhiều triển vọng để xây dựng các nhµ máy điện thủy triều lớn nh− các địa điểm khác trên thế giới.
Tuy nhiên, vùng biển n−ớc ta có một hệ thống vùng vịnh ven biển có thể tận dụng khai thác năng
l−ợng thủy triều. Tổng công suất năm (GWh): Vịnh Hạ Long: 4729; Vịnh Diễn Châu (Nghệ An): 620;
Vịnh Quy Nhơn: 135; Vịnh Văn Phong - Bến Gội: 308; Vịnh Cam Ranh: 185; Vịnh Phan Rang: 190;
Vịnh Pa Đa Răng: 171; Vịnh Phan Rí: 221; Mũi Né: 109; Vịnh Phan Thiết; 615; Vịnh Gµnh Rái: 714;
Vịnh Đồng Tranh: 371; Vịnh Rạch Giá: 139.
* Năng lượng sóng:
Chúng ta hầu như ai cũng biết đến sức mạnh của sóng biển, đặcbiệt là vào khi biển động hay
dông bão. Sóng biển chứa đựng nguồn NL vô cùng to lớn, hơn 100 năm trước đây, sóng biển đã được
dùng để tạo thành điện. Theo đánh giá hiện nay, tổng NL sóng biển là 2,7.10
12
kW. Người Nhật đi tiên
phong trong việc sử dụng NL sóng biển tạo thành điện, nhưng NaUy là nước đầu tiên lắp đặt máy phát
điện nhờ sóng biển có quy mô lớn với công suất 500kW. Sử dụng nguồn NL này chúng ta không hề
tốn 1 tý NL khởi động mà lại bảo vệ tốt môi trường sống.
Số liệu năng lượng sóng ở biển Viẹt Nam: Vịnh Hạ Long lớn: 4.728,990; Vịnh Hạ Long nhỏ: 852,986;
Vịnh Diễn Châu: 619,966; Vũng áng:16,086; Vụng Cầu Hai (Thừa Thiên - Huế): 34,590; Vịnh е
Nẵng: 48,785; Vịnh Bãi Nam (е Nẵng): 98,674.
*Năng lượng dòng chảy đại dương:
Các dòng hải lưu trên biển thường được ví như các dòng sông, chảy theo một đường tương đối

cố định và có chiều rộng tới hàng chục thậm chí hàng trăm km, chiều dài có thể đến hàng nghìn km,
tốc độ từ 1 - 3km/h. Trên TG có 2 dòng hải lưu cực lớn với 2 chiều nóng - lạnh ngược nhau, đó là
dòng Gulf Stream và Kurôshio, riêng dòng Kuroshio đã có lưu lượng nước gấp 20 lần tổng lưu lượng
các dòng sông trên TG. Theo tính toán thì tổng tiềm năng của các hải lưu là 5 tỷ kW, có nhiều kỹ thuật
khác nhau để biến NL này thành NL điện, như: Tập trung dòng chảy bằng các dù, Liên kết dòng chảy
hay máy chân vịt, dạng vòng cung hay dạng Coriolit, Đây là nguồn năng lượng có tiềm năng và tính
khả thi lớn, hiện nay người ta vẫn tiếp tục nghiên cứu và phát triển KH - KT và CN để có thể đi vào
khai thác.
ở Việt Nam, Năng l−ợng dòng chảy tổng hợp do gió vµ thủy triều tập trung t−ơng đối lớn ở
phía Tây Nam đảo Hải Nam: mùa đông đạt công suất 400 - 600w/m2; mùa hạ: 200 - 350; Vùng quanh
mũi Cµ Mau: mùa đông: 200 - 300; mùa hạ: 300 - 450; vùng ngoµi khơi Đông Nam của Nam Bộ: 100
- 300.
* Hydro nặng trong nước biển:
H năng là nguyên tố đồng vị của H nguyên tố nhẹ, trong nhân của H nặng có thêm 1 trung tử
vì thế nó có nguyên tử lượng là 2. Trong nước biển H nặng có hàm lượng khoảng 30mg/lít. Nếu vậy
thì trong biển và đại dương có tới 10.000 tỷ tấn H nặng, đốt nó sẽ tạo ra NL tương đương với 30 lần
NL của dầu mỏ của cả TĐ. Năm 1984, TQuốc đã chế tạo thành công thiết bị thực nghiệm phản ứng
hạt nhân sử dụng H nặng, sau đó là đến các nhà khoa học Anh Những thành công bước đầu này đã
mở ra thêm một hướng mới, 1 hy vọng lớn cho việc khai thác NL trên TG.

5. Vị thế và cảnh quan
Ngày nay, du lịch đã trở thành một trong những hoạt động kinh tế lớn nhất toàn cầu, được gọi
là ngành công nghiệp không khói. Xu hướng hiện nay là du lịch sinh thái và du lịch biển, như thế là
phù hợp với xu hướng thân thiện và gắn kết với thiên nhiên và có trách nhiệm xã hội ngày càng nhiều
hơn. Du lịch biển phát triển gắn liền với nhiều yếu tố như: vị trí địa lý, địa hình, cảnh quan, khí hậu,
hải văn, sự đa dạng của sinh vật và văn hoá - nhân văn. Hiện nay loại hình du lịch biển chứa đựng một
tiềm năng vô cùng to lớn với 3S và thực, trú, hành, lạc và y; vì thế nó vẫn là loại hình hấp dẫn nhiều
khách du lịch nhất. Trên TG, hiện nay đang phát triển nhiều loại hình du lich rất hấp dẫn trên biển:
du lịc ngầm dưới biển, du lịch lặn, xây dựng các công viên biển (TG đã có hơn 200 công viên biển).
91

Việt Nam có nhiều lợi thế để phát triển du lịch như: Vùng biển rộng, bờ biển dài, có đến 3000 đảo lớn
nhỏ, khí hậu nhiệt đới gió mùa, bãi biển đẹp, đa dạng sinh học cao, nhiều phong cảnh ven biển đẹp,
văn hoá dân gian và di sản văn hoá ở ven biển nước ta đã xác đinh được khoảng 126 bãi cát biển, có
20 bãi đạt tiêu chuẩn quốc tế, dài đến 16km, bên cạnh đó còn có hàng trăm các bãi biển nhỏ, tĩnh lặng
nằm ven các đảo, các vụng Du lịc biển nước ta thu hút khoảng 80% khách du lịch nước ngoài/ khách
DL nước ngoài đến VN. Hiện nay, Việt Nam đã xác định 10 cụm du lịch biển lớn, cần chú trọng và ưu
tiên phát triển. Mức khách đến VN vào năm 2000 là trên 3 triệu lượt với mức thu khoảng 600 triệu
USD, dự kiến đến năm 2010 sẽ tăng lên 7,5 triệu lượt và thu về 2 tỷ USD. Chủ trương đẩy mạnh du lịc
quốc tế làm động lực phát triển du lịch nội địa, từng bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá và luôn giữ
phương châm: sinh thái - môi trường, văn hoá - hiện đại, dân tộc - độc đáo.
Khí hậu, địa hình: Địa hình là một hợp phần quan trọng của hệ thống môi trường tự nhiên-xã
hội, nó quyết định đặc điểm phân bố vật chất và năng lượng ngoại sinh trên bền mặt trái đất hay
TNTN ở các nới khác nhau. Vì thế địa hình làm một trong những tài nguyên quan trọng phục vụ cho
quy hoạch và xây dựng các dự án phát triển. Địa hình được khai thác bền vững có nghĩa là khi chúng
ta sử dụng nó, làm thay đổi nó nhưng không phá vỡ nó làm xẩy ra các tai biến và vấn đề môi trường,
mà nó vẫn nằm trong trạng thái cận bằng phù hợp với điều kiện mới. Địa hình có thể được sử dụng
trực tiếp - ví dụ như trong du lịch, hay gián tiếp. Địa hình ven bờ và biển Việt Nam đã được khai thác
nhiều cho sự phát triển, như khai thác cho DL, hàng hải, thương mại Biển và địa dương còn có một
vai trò vô cùng quan trọng đối với con người đó là điều hoà khí hậu, gió đất và gió biển làm giảm
nhiệt độ, sự oi nồng, bụi và khí thải ở lực địa, thay thế vào đó một không khí mát mẻ, trong lành nhờ
vào đặc tính nhiệt dung cao của nước Không khí ở biển chứa các anion - được coi là một loại
vitamin không khí.
Vị thế: Là những lợi thế so sánh về phương diện địa lý, vị trí trong một tổng thể phát triển, từ
đó phân tích, đánh giá và phát hiện để chủ động khai thác tốt nhất các giá trị vật chất và phi vật chất
mà quốc gia đang có. Vị thế của một vùng hay 1 quốc gia nằm bên bờ biển cũng với không gian biển
rọng lớn đã mang lại nhiều cơ hội phát triển cho chủ thể, Singapore và nhật Bản là những ví dụ về việc
khai thác tốt vị thế đó. Mục tiêu của việc phân tích vị thế là phải xác đinh cho được các cực phát triển
với bán kính ảnh hưởng và các tuyến lực nối các cực để tạo thành mạng phát triển. Ví dụ như Nhật
Bản đã sử dụng các chiến lược khai hoang lấn biển, xây dựng các biển nhân tạo phía ngoài bờ, nối các
cực nhân tạo với mạng ven biển để tạo nên mạng phát triển hoàn chỉnh, biết phát huy vị thế, họ đã

phát triển cực nhanh mặc dù tài nguyên của họ không giàu có. ở Việt Nam, trong những năm đổi mới
gần đây đã có các chiến lược để bắt đầu khai thác vị thế trong phát triển kinh tế, ví dụ việc hình thành
các tam giác và hành lang kinh tế: Tam giác Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh; tam giác TP. HCM -
Biên Hoà - Vũng Tầu và hành lang kinh tế Dung Quất - Đà Nẵng - Huế. Trong đó chú trọng phát triển
hành lang kinh tế miền Trung để làm đối trọng với ASEAN thông qua Lào. Như vậy, vị thế của một
mảnh đất, một khu vực hay một quốc gia là tự nó có được, nhưng hiệu quả phát huy lợi thế và mang
lại lợi ích cho chủ thể thì lại phụ thuộc vào khả năng phân tích, tổ chức, xây dựng chiến lược khai thác
nó.

6. Vật liệu xõy dựng
* Vật liệu xây dựng: VLXD ở biển bao gồm các thành tạo bở rời như cát, cuội, sỏi, đá vôi, vỏ sò ốc
phân bố chủ yếu ở các vùng ven biển, ven đảo, đáy các vũng, vịnh và trong trầm tích thềm lục địa.
Tiềm năng nguồn vật liệu này lớn, hầu hết các quốc gia ven biển đều khai thác cho việc xây dựng,
nung vôi và làm xi măng. Khối lượng đã khai thác rất lớn, nhưng khó lòng thống kê sát thực tế. Riêng
Mỹ, hang năm khai thác khoảng 500 triệu tấn cát, sỏi và 40 triệu tấn vỏ sò ốc Tuy nhiên việc khai
thác các loại vật liệu này nên hạn chế, tránh xói lở đường bờ, phá huỷ các sinh cảnh và môi trường
sống ven bờ.
92
III.
III. NHỮNG VÙNG VEN BIỂN ĐẶC SẮC


Vùng ven bờ luôn là nơi được con người quan tâm do nguồn tài nguyên của nó. Đây là nơi có
vùng đồng bằng màu mỡ và tài nguyên biển phong phú, vùng ven bờ cũng là nơi dễ dàng cho sự tiếp
cận của thị trường quốc tế. Nó tạo ra không gian sống, các tài nguyên sinh vật và phi sinh vật cho các
hoạt động của con người và có chức năng điều hoà đối với môi trường tự nhiên cũng như môi trường
nhân tạo.
Vùng ven bờ là vùng trọng tâm của nhiều ngành kinh tế quốc gia, là nơi mà phần lớn các hoạt
động về kinh tế, xã hội diễn ra và cũng là nơi mà tác động của các hoạt động này nhiều nhất. Đối với
những nước có vùng bờ rộng lớn, hơn một nửa dân số sống tại đây và tầm quan trọng của vùng ven bờ

còn gia tăng trong tương lai do sự gia tăng không ngừng của việc di dân từ các vùng sâu trong lãnh thổ
tới đây. Do vậy, không ngạc nhiên khi có sự xung đột sâu sắc giữa nhu cầu tiêu dùng hiện nay đối với
tài nguyên và việc đảm bảo cho việc tiêu thụ tài nguyên đó trong tương lai. Trong một số quốc gia, sự
xung đột đó đã đạt đến mức nguy cấp do phần lớn vùng ven bờ đã bị ô nhiễm do các nguồn khác nhau.
Rất nhiều hoạt động phát triển đô thị, công nghiệp và nông nghiệp trên vùng ven biển là nằm trong
vùng đất ngập nước ven biển có năng suất cao và các dự án phát triển đang làm biến đổi hệ sinh thái
ven biển trên một qui mô rất lớn. Nước thải từ hầu hết các đô thị và khu công nghiệp trên thế giới đổ
trực tiếp vào biển hoặc gián tiếp qua các hệ thống sông mà không được xử lý hoặc xử lý rất ít. Nghề cá
bị sa sút, đất ngập nước bị khô, các rạn san hô bị phá hủy, các bãi biển bị xuống cấp,

1. Khái niệm vùng ven biển (vùng ven bờ - Coastal Zone).
Vùng ven bờ là khu vực có giao diện khá hẹp giữa biển và đất liền, đó là nơi các quá trình sinh
thái phụ thuộc vào sự tác động lẫn nhau giữa đất liền và biển, các tác động này diễn ra khá phức tạp và
nhạy cảm.
Vùng ven bờ thường được hiểu như là nơi tương tác giữa đất và biển, bao gồm các môi trường
ven bờ cũng như vùng nước kế cận. Các thành phần của nó bao gồm các vùng châu thổ, vùng đồng
bằng ven biển, các vùng đất ngập nước, các bãi biển và cồn cát, các rạn san hô, các vùng rừng ngập
mặn, đầm phá, và các đặc trưng ven bờ khác. Khái niệm vùng ven bờ thường được xác định một cách
tùy tiện, hơi khác nhau giữa các quốc gia và thường dựa vào giới hạn pháp lý và ranh giới hành chánh.
Ngoài ra, còn có những sai khác về địa văn (physiography), sinh thái và kinh tế giữa các vùng khác
nhau, do đó không có một định nghĩa được chấp nhận rộng rãi về vùng ven bờ. Thay vào đó, có nhiều
định nghĩa bổ sung phục vụ cho những mục đích quản lý khác nhau, trong đó vấn đề ranh giới cần
được xem xét. Ví dụ ở một số nước Châu Âu, vùng ven bờ mở rộng ra tới vùng lãnh hải, một số nước
khác thì lấy đường đẳng sâu làm giới hạn. Còn về ranh giới đất liền thì cũng rất mơ hồ do tác động của
biển vào khí hậu có thể vào đến vùng nội địa bên trong cũng như vùng đồng bằng ngập lụt rộng lớn.
Vấn đề ranh giới vùng ven bờ có thể được xác định một cách thực tế bao gồm các khu vực và
các hoạt động liên quan đến vấn đề quản lý mà chương trình sẽ nhắm vào. Trong nhiều trường hợp,
ranh giới vùng đất và biển được chọn thường có một khoảng cách nhất định với một mốc tự nhiên
chẳng hạn như là mức nước thấp trung bình (MLWM, Mean Low Water Mark) hay mức nước cao
trung bình (MHWM, Mean High Water Mark).


Bảng 1. Một số ví dụ về ranh giới vùng ven bờ
Nước, bang Ranh giới đất liền Ranh giới biển
Rhode Island 200 bộ kể từ bờ biển Vùng lãnh hải (3 dặm)
Hawaii Tất cả đất liền trừ vùng các khu rừng bảo vệ Vùng nước của Bang
Brunei Tất cả vùng đất liền và nước cách MHWM 1
km
Từ MHWM đến 200 m nước sâu
Singapore Toàn bộ đất liền Vùng lãnh hải và các đảo xa bờ
Sri Lanka 300 m từ MHWM 2 km từ MLWM
Malaysia Ranh giới huyện 20 km từ bờ
93

Theo IUCN (1986), vùng ven bờ được định nghĩa như sau: "là vùng ở đó đất và biển tương tác
với nhau, trong đó ranh giới về đất liền được xác định bởi giới hạn các ảnh hưởng của biển đến đất và
ranh giới về biển được xác định bởi giới hạn các ảnh hưởng của đất và nước ngọt đến biển."
Theo World Bank, vùng ven bờ được hiểu là " dựa vào những mục tiêu thực tiễn, mà vùng ven
bờ là một vùng đặc biệt có những thuộc tính đặc biệt, mà ranh giới được xác định, thường dựa vào
những vấn đề được giải quyết"
Ngoài ra còn có một số thuật ngữ khác được sử dụng trong QLTHVB bao gồm:
− Vùng ven biển (Coastal area): về mặt địa lý thì rộng hơn vùng ven bờ, đường biên của nó mở
rộng về phía đất liền hơn. Vùng ven bờ chỉ là một phần của khu vực ven biển. Điều này rất quan
trọng, đứng trên phương diện chức năng, bởi trong nhiều quy trình về môi trường, nhân khẩu,
kinh tế và xã hội trên thực tế bắt nguồn từ vùng ven biển rộng lớn, tuy nhiên những biểu hiện
của chúng chỉ thấy rõ được trong phạm vi vùng ven bờ.
− Vùng nước ven biển (Coastal water): vành đai hẹp gần bờ có nước biển và nước cửa sông.
− Vùng gian triều (Intertidal area): vùng giữa đường ngập triều khi triều thấp nhất và đường ngập
triều khi triều cao nhất (phần đất liền chịu tác động của thủy triều).
− Vùng bờ biển (Coastline): đường tiếp xúc tại điểm chia cắt đất liền với các vùng nước ven biển.
− Vùng đất ven bờ (Shore lands): vùng đất liền xuống tới đường biên cao nhất bị ảnh hưởng bởi

thủy triều
Do có nhiều sự khác nhau trong định nghĩa về khái niệm vùng ven bờ, có một số vấn để thường
nảy sinh trong quá trình thực thi quản lý tổng hợp vùng ven bờ. Thứ nhất, pháp luật quốc gia liên quan
tới giải quyết vấn đề này, nếu nó tồn tại, thường không rõ ràng trong việc đưa ra những định nghĩa và
tiêu chí biên giới vùng ven bờ một cách chính xác. Thứ hai, thường các ranh giới được xác định theo
qui định của hành chính không đồng nhất với ranh giới của hệ sinh thái. Thứ ba, việc quản lý các vùng
ven bờ xuyên quốc gia thường rất khó khăn do nó liên quan tới lợi ích từng quốc gia. Ngoài ra, pháp
chế và sự phân định đới bờ có thể có sự khác nhau rất lớn giữa các quốc gia cận kề nhau.
Như vậy có thể thấy là định nghĩa về vùng ven bờ thường phục vụ và hỗ trợ cho các kế hoạch
chính trị, chính sách để cân bằng nhu cầu đối với tài nguyên và giải quyết các xung đột nhiều mặt
trong vấn đề sử dụng tài nguyên.
Do vậy, định nghĩa vùng ven bờ phải phản ảnh các tiếp cận tổng hợp bao gồm (a) vùng ven bờ
được quản lý là một hệ tổng hợp về tài nguyên và sử dụng tài nguyên và (b) chức năng quản lý phối
hợp giữa các tổ chức khác nhau liên quan đến qui hoạch và thực thi.
Để định nghĩa về vùng ven bờ tiếp tục được chuẩn bị kỹ lưỡng và cập nhật trong các dự án của
các quốc gia, các yếu tố sau đây cần phải được tính đến:
• Phạm vi phần đất bên trong vùng ven bờ phải được thoả thuận cũng như phần nước thuộc lãnh thổ quản lý.
• Định nghĩa vùng ven bờ phải xuất phát từ các đặc điểm tự nhiên (địa mạo) và chức năng sinh thái.
• Xác định ranh giới hành chính dựa vào pháp luật quốc gia, các vùng đặc trưng và các qui hoạch chi tiết.
• Sử dụng các kỹ thuật bản đồ để phác họa ranh giới đường bờ và đường vùng ven bờ trên các bản đồ

2. Các hệ sinh thái ven biển
a. Hệ sinh thái cửa sông
Cửa sông (estuary) là thuỷ vực ven bờ tương đối kín, nơi mà nước ngọt và nước biển gặp nhau
và trộn lẫn vào nhau. Các đặc trưng về địa mạo, lịch sử địa chất và điều kiện khí hậu tạo nên sự khác
biệt về tính chất vật lý và hoá học của các kiểu cửa sông. Kiểu tiêu biểu nhất là cửa sông châu thổ ven
bờ (coastal plain estuary). Các cửa sông thuộc kiểu này được hình thành vào cuối kỷ băng hà muộn,
khi nước biển dâng lên ngập các châu thổ sông ven bờ biển. Kiểu cửa sông thứ hai là vịnh nửa kín
(semi-enclose bay) hoặc đầm phá (lagoon). Ở đây các doi cát song song với đường bờ hình thành và
ngăn cản một phần sự trao đổi nước từ biển. Độ muối trong các đầm khác nhau nhiều, phụ thuộc vào

điều kiện khí hậu. Kiểu cửa sông cuối cùng là vịnh hẹp. Các thung lũng này bị trũng bởi hoạt động
94
băng hà và sau đó bị ngập bởi nước biển. Chúng đặc trưng bởi cửa nông làm hạn chế trao đổi nước
trong vịnh với biển.
Các kiểu cửa sông còn được phân chia bằng cơ sở khác dựa trên xu thế biến thiên của độ muối.
Nước ngọt có tỷ trọng nhỏ hơn nước biển, khi gặp nhau nước ngọt sẽ nổi trên nước biển. Chúng
sẽ trộn lẫn khi tiếp xúc, quá trình này khác nhau do nhiều yếu tố. Khi cột nước thẳng đứng có độ muối
cao nhất ở đáy và thấp nhất ở tầng mặt, ngưới ta gọi là kiểu cửa sông dương (positive estuary). Ở vùng
khô hạn, lượng nước ngọt từ sông nhỏ và tốc độ bay hơi cao, hình thành kiểu cửa sông âm (negative
estuary). Đặc trưng của nó là nước mặn đi vào bề mặt và đôi khi được pha loãng bởi lượng nước ngọt
nhỏ. Kiểu cửa sông mang tính chất mùa (seasonal estuary) hình thành ở vùng có mùa mưa và mùa khô
rõ rệt. Độ muối ở đây thay đổi theo thời gian chứ không phải thay đổi theo không gian.
Hầu hết các vùng cửa sông đều có nền đáy bùn. Trầm tích được mang đến từ nước ngọt và nước
biển. Vai trò của vật chất từ sông hoặc từ biển trong quá trình hình thành nền đáy bùn khác nhau giữa
các cửa sông. Thành phần cơ học của trầm tích cũng bị chi phối bởi dòng chảy, nơi dòng chảy mạnh,
chất đáy thô hơn; còn nơi nước tĩnh, chất đáy rất mịn. Các tai biến như lũ lội, bão lớn có thể làm thay
đổi lớn đặc điểm trầm tích và gây chết hàng loạt sinh vật.
Nhiệt độ ở vùng cửa sông thay đổi lớn hơn so với các thuỷ vực ven bờ lân cận. Biến thiên của
giá trị này mang tính mùa vụ và theo điều kiện khí quyển. Nhiệt độ còn khác nhau giữa các tầng nước.
Bề mặt có dao động cao hơn do trao đổi với khí quyển.
Cửa sông được đất liền che chắn 3 phía, nên ảnh hưởng tạo sóng của gió được giảm thiểu và vì
vậy chỉ có sóng nhỏ. Hoạt động yếu của sóng tạo điều kiện cho nền đáy mịn hơn, cho phép thực vật có
rễ phát triển và nền đáy ổn định. Dòng chảy ở cửa sông do triều và nước sông chi phối. Tốc độ dòng
chảy mạnh nhất đạt được ở giữa luồng. Ở một số vùng nơi cửa sông bị đóng vào mùa khô, sự vận
chuyển nước giảm nghiêm trọng có thể dẫn đến ứ đọng nước, hàm lượng O
2
giảm, tảo nở hoa và cá
chết. Hầu hết các cửa sông đều có lượng nước ngọt chảy ra liên tục từ nguồn. Một lượng nước ngọt
vận chuyển ra cửa sông trộn lẫn vào nước biển theo mức độ khác nhau, thể tích của lượng nước này
được tải ra khỏi cửa sông hoặc bay hơi để bù cho thể tích nước tương tự chảy ra từ nguồn. Thời gian

cần thiết để đo khối nước ngọt đã cho được tải ra khỏi cửa sông được gọi là thời gian chảy. Khoảng
thời gian này có thể định lượng được tính ổn định của hệ cửa sông. Thời gian chảy kéo dài rất quan
trọng cho sự duy trì quần xã sinh vật nổi.
Do có số lượng lớn vật lơ lững trong nước vùng cửa sông, ít nhất là vào một thời kỳ nào đó
trong năm, độ đục của thuỷ vực thường rất cao. Độ đục có giá trị cao nhất khi lượng nước ngọt chảy ra
nhiều nhất và giảm dần khi ra phía cửa, nơi lượng nước biển ưu thế. Ảnh hưởng sinh thái chính của độ
đục là làm giảm đáng kể độ chiếu sáng, vì thế giảm quang hợp của thực vật phù du và thực vật đáy
làm giảm năng suất sinh học. Trong điều kiện độ đục quá cao, sinh khối thực vật phù du gần như
không có và khối lượng vật chất hữu cơ được tạo thành chủ yếu bởi thực vật bãi lầy nổi.
Sự hoà tan oxy trong nước giảm theo quá trình tăng nhiệt độ và độ muối. Vì vậy lượng oxy thay
đổi khi các thông số này biến thiên. Ở các cửa sông có độ sâu lớn, thường xuất hiện lớp đẳng nhiệt vào
mùa hè và tồn tại sự phân tầng độ muối. Trong điều kiện đó, trao đổi khí giữa lớp mặt giàu oxy và tầng
đáy sâu diễn ra rất kém. Hiện tượng này cùng với hoạt động sinh học tích cực, sự trao đổi nước chậm
gây ra sự thiếu oxy ở tầng đáy.
Động vật biển là nhóm lớn nhất ở vùng cửa sông khi xét về phương diện số lượng loài và được
xếp vào hai phân nhóm. Các động vật hẹp muối (stenohaline) không thể chịu được sự biến thiên độ
muối và chỉ sống được ở vùng cửa sông với độ muối lớn hơn 25
0
/
00
. Đây thực sự là những động vật
sống ở biển. Phân nhóm rộng muối (euryhaline) có thể thích nghi được với độ muối 15 - 18
0
/
00
, thậm
chí một số loài chịu được muối nhạt đến 5
0
/
00

.
Các loài nước lợ hay còn gọi là các loài cửa sông điển hình, có chu kỳ sống hoàn toàn ở vùng
cửa sông, sống chủ yếu ở vùng có độ muối trong khoảng từ 5-18
0
/
00
nhưng không xuất hiện trong nước
ngọt hay nước biển thực sự. Một số giống loài nước lợ có thể hạn chế phân bố về phía biển không phải
vì yếu tố sinh lý mà do các mối quan hệ sinh học như cạnh tranh hoặc vật dữ.
95
Nhóm động vật nước ngọt không thể chịu được độ muối trên 5
0
/
00
và chỉ sống ở phần trên cửa
sông. Ngoài ra, vùng cửa sông còn có nhóm sinh vật quá độ gồm những loài như cá di cư. Chúng có
thể đi qua cửa sông trên đường đến bãi đẻ ngoài biển hoặc trong sông. Ví dụ thông thường là cá hồi
hoặc cá chình. Một số sinh vật chỉ trải qua một phần cuộc đời trong cửa sông, thường gặp là giai đoạn
ấu trùng.
Số lượng loài động vật cửa sông thường nghèo hơn các quần cư biển hoặc các vùng nước ngọt
lân cận. Đây là vùng khắc nghiệt mà nhiều sinh vật biển hoặc nước ngọt không thể chịu đựng được.
Các sinh vật cửa sông thực sự chủ yếu có nguồn gốc biển. Sinh vật biển chịu sự giảm độ muối tốt hơn
sinh vật nước ngọt chịu đựng độ muối tăng, vì vậy sinh vật cửa sông có ưu thế bởi động vật biển.
Tính đa dạng kém của thành phần loài ở cửa sông được giải thích bởi vài lý do. Ý kiến phổ
biến nhất cho rằng điều kiện môi trường biến động chỉ cho phép những loài với sự chuyên hoá chức
năng sinh lý đặc biệt để thích nghi. Cách giải thích thứ hai đề cập đến thời gian địa chất của quá trình
hình thành các cửa sông. Sự tồn tại của chúng không đủ dài để khu hệ cửa sông phát triển đầy đủ. Lý
do cuối cùng có thể là do hình thái vùng cửa sông kém đa dạng nên có ít nơi sống và có ít loài động
vật.
Thành phần loài thực vật lớn ở cửa sông kém phong phú. Hầu hết các vùng ngập nước thường

xuyên đều có đáy mùn không phù hợp để rong bám. Hơn nữa, nước đục hạn chế độ chiếu sáng, vì vậy
vùng nước sâu hầu như không có thực vật. Vùng triều và vùng nước nông cho phép phân bố một số
loài rong lục, cỏ biển và đặc biệt là thực vật ngập mặn ở vùng nhiệt đới.
Tảo Silic khá phổ phong phú trên các bãi triều gần bùn vùng cửa sông. Chúng có thể di động
lên bề mặt hoặc vào trong bùn phụ thuộc vào độ chiếu sáng. Bùn cửa sông cũng là nơi sống thích hợp
của tảo lam sợi. Vi khuẩn là thành phần phong phú cả trong nước và trong bùn, nơi giàu có vật chất
hữu cơ.
Sinh vật phù du ở vùng cửa sông khá nghèo về thành phần loài. Tảo Silic thường chiếm ưu thế
trong mùa nóng và thậm chí quanh năm ở một số khu vực. Động vật phù du cũng nghèo về thành phần
cũng như biến động lớn theo mùa. Các loài cửa sông thực sự chỉ tồn tại ở các cửa sông lớn và ổn định.
Ở các cửa sông nông, thành phần động vật phù du biển điển hình chiếm ưu thế.
Năng suất sinh học sơ cấp ở vùng cửa sông chủ yếu do tảo Silic sống đáy. Tuy nhiên, cửa sông
lại có một lượng lớn chất hữu cơ và năng suất thứ cấp cao. Nguồn năng suất sơ cấp chủ yếu được cung
cấp bởi thảm thực vật vùng triều bao quanh cửa sông. Ngoài ra, cửa sông còn nhận vật chất hữu cơ từ
sông và từ biển với lượng đáng kể. Vùng cửa sông có rất ít động vật ăn thực vật và vì vậy, vật chất có
nguồn gốc thực vật phải được phân huỷ thành mùn bả để đi vào chuỗi thức ăn. Quá trình này có sự
tham gia của vi khuẩn.
Mùn bã hữu cơ lắng đọng hình thành nền đáy giàu vi khuẩn và tảo. Đây là những nguồn thức ăn
quan trọng cho các động vật ăn mùn bã và chất lơ lững. Về phương diện nguồn thức ăn, khái niệm
mùn bã được hiểu với nghĩa rộng bao gồm các mãnh hữu cơ, vi khuẩn, tảo và thậm chí cả động vật
đơn bào. Lương vật chất hữu cơ rất giàu ở cửa sông, có thể đạt giá trị 110 mg/l cao hơn nhiều so với
vùng biển ngoài 1-3 mg/l.
Năng suất sơ cấp của cột nước thấp, nghèo động vật ăn thực vật và sự phong phú của mùn bã
cho thấy mùn bã là cơ sở của chuỗi thức ăn cửa sông. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là tất cả
động vật ăn mùn bã có thể tiêu hoá các mãnh hữu cơ. Hầu như chúng chỉ tiêu hoá vi khuẩn và các vi
sinh vật khác sống trên các mãnh hữu cơ và bài tiết nguyên vẹn các mảnh này.
Nhìn chung, nhờ giàu dinh dưỡng và tương đối ít các vật dữ, cửa sông trở thành nơi nuôi dưỡng
ấu trùng của nhiều loài động vật mà khi trưởng thành chúng sống ở vùng khác. Đây cũng là bãi kiếm
ăn của nhiều loài động vật di cư. Bên cạnh đó, nhờ sự bảo vệ tự nhiên của đầm phá và vùng cửa sông
mà nó có giá trị lớn cho sự phát triển cảng và cảng biển, tiếp đến là các khu công nghiệp và dân cư lân

cận. Cửa sông cũng được xem như là môi trường tiếp nhận các loại rác thải công nghiệp và sinh hoạt
dân cư. Hoạt động đánh bắt thủy sản thường dựa trên hệ sinh thái cửa sông đầm phá. Cuối cùng thì
cửa sông, đầm phá còn được sử dụng cho mục đích nghỉ ngơi, du lịch giải trí.

96
b. Hệ sinh thái vùng triều
Vùng triều là vùng không ngập nước một khoảng thời gian trong ngày với các yếu tố tự nhiên
thay đổi do nước và không khí chi phối. Quần xã sinh vật thích nghi môi trường này và sự liên kết
giữa sinh vật và môi trường tạo nên hệ sinh thái vùng triều.
Thuỷ triều là yếu tố quan trọng nhất tác động lên mọi sinh vật vùng triều. Thiếu sự hoạt động
của thuỷ triều với sự lên xuống theo chu kỳ của mực nước biển hệ sinh thái này sẽ không tồn tại và các
yếu tố khác hết bị chi phối. Có ba chế độ thuỷ triều khác nhau gồm nhật triều, bán nhật triều và hỗn
hợp triều. Độ cao thuỷ triều khác nhau từ ngày này sang ngày khác do so sánh giữa vị trí mặt trời và
mặt trăng.
Thuỷ triều cùng với thời gian có thể ảnh hưởng trực tiếp lên sự tồn tại và cấu trúc quần xã sinh
vật vùng triều. Ảnh hưởng đầu tiên là thời gian vùng triều phơi ra không khí và thời gian ngập nước.
Trong thời gian phơi bãi, sinh vật phải chịu đựng sự dao động nhiệt lớn và dễ bị mất nước. Do hầu hết
sinh vật vùng triều phải chờ ngập nước mới bắt mồi, thời gian phơi bãi càng dài cơ hội kiếm ăn và tích
luỹ năng lượng càng ngắn. Động thực vật khác nhau về khả năng chống chịu với thời gian phơi bãi và
sự chuyên hóa này là một trong những lý do tạo nên sự phân vùng phân bố. Ảnh hưởng thứ hai lên đời
sống sinh vật là thời gian phơi bãi vào ban ngày. Triều thấp vùng nhiệt đới diễn ra lúc trời tối thuận lợi
hơn đối với sinh vật do nhiệt độ thấp hơn và ít mất nước hơn. Thuỷ triều là chu kỳ có thể dự báo trước
và hình thành nhịp điệu của nhiều loài sinh vật. Nhịp điệu này liên quan đến các quá trình sinh sản,
dinh dưỡng,
Nhờ đặc trưng vật lý, môi trường nước, nhất là các thuỷ vực lớn như đại dương có biến thiên
nhiệt độ không lớn. Giới hạn nhiệt độ ở biển hiếm quá ngưỡng gây chết đối với sinh vật. Tuy nhiên,
vùng triều thường phải chịu chế độ nhiệt của không khí. Trong thời gian khác nhau, nhiệt độ có thể
vượt quá ngưỡng gây chết hoặc có ảnh hưởng gián tiếp làm cho sinh vật suy yếu và không thể duy trì
hoạt động bình thường.
Sóng biển ảnh hưởng đến các cá thể và quần thể sinh vật ở vùng triều nhiều hơn các thuỷ vực

khác. Tác động đầu tiên với sinh vật là đập vỡ hoặc xé nát vật thể. Sự chịu sóng là giới hạn phân bố
của các sinh vật không thích nghi sóng và là nhu cầu đối với các sinh vật ưa sóng. Sóng còn có tác
động mở rộng vùng triều nhờ đẩy nước lên cao so với độ cao của triều. Nhờ vậy, nhiều sinh vật có thể
sống cao hơn ở vùng có sóng so với vùng che chắn trong cùng một mức triều.
Độ muối ở vùng cũng thay đổi lớn. Khi triều thấp, mưa lớn hoặc dòng nước từ đất liền làm giảm
độ muối, có thể làm chết sinh vật do khả năng chống chịu hạn chế của chúng.
Các sinh vật vùng triều chủ yếu có nguồn gốc biển. Sự thích nghi cơ bản là tránh sức ép của điều
kiện khí quyển.
Sự mất nước là quá trình diễn ra ngay sau khi sinh vật biển ra khỏi môi trường nước. Sinh vật
vùng triều sống sót được khi phơi bãi khi sự mất nước ở mức tối thiểu hoặc cấu tạo cơ thể thích nghi
với sự mất nước trong một thời gian nhất định. Cơ chế đơn giản nhất là trốn chạy trong các hang hốc,
rãnh hoặc tìm nơi trú ẩn ở vùng ẩm ướt phủ rong tảo. Rong biển chịu đựng sự mất nước nhờ cấu tạo
mô. Sau khi bị khô do triều rút, chúng nhanh chóng lấy nước và phục hồi hoạt động bình thường lúc
triều lên. Nhiều động vật vùng triều có cơ chế thích nghi khác thông qua cấu trúc, tập tính hoặc cả hai.
Để thích nghi với nhiệt độ dao động lớn, sinh vật vùng triều phải duy trì cân bằng nhiệt trong cơ
thể. Sinh vật tránh nhiệt độ cao bằng cách giảm sự tăng nhiệt từ môi trường nhờ kích thước cơ thể lớn
hơn. Kích thước lớn có nghĩa là vùng bề mặt tiếp xúc trên thể tích nhỏ hơn và vùng thoát nhiệt nhỏ
hơn.
Nhằm chống lại tác động cơ học của sóng, nhiều sinh vật sống cố định vào nền đáy như hà,
hầu, Một số sinh vật khác có cơ quan bám tạm thời nhưng vững chắc và vận động hạn chế như ví dụ
về tơ bám của vẹm. Vỏ dày hoặc thấp và dẹt cũng là một cách chống sóng.
Hầu hết sinh vật vùng triều có cơ quan hô hấp thích nghi với hấp thụ O
2
từ nước. Chúng có xu
thế dấu bề mặt hô hấp trong khoang kín để chống khô. Một số động vật thân mềm có mang trong
màng áo và được vỏ bảo vệ. Các thân mềm ở triều cao giảm mang và hình thành khoang áo với nhiều
mao mạch có chức năng như phổi để hấp thu khí. Để bảo toàn O
2
và nước, hầu hết động vật nằm yên
97

lặng khi triều rút. Cá vùng triều đặc trưng bởi hô hấp qua da do tiêu giảm mang và nảy nở nhiều mạch
máu trên da.
Động vật vùng triều trên nền đáy cứng chỉ kiếm ăn khi ngập triều. Điều này đúng với tất cả các
nhóm ăn thực vật, ăn lọc, ăn mùn bã và ăn thịt. Sinh vật sống trên nền đáy mềm có thể kiếm ăn khi
triều thấp nhờ trong đáy có nước.
Sự thay đổi độ muối lớn là một sức ép cho sinh vật vùng triều bởi lẽ hầu hết sinh vật vùng triều
không có khả năng thích nghi tốt như sinh vật cửa sông. Chúng không có cơ chế kiểm soát hàm lượng
muối trong dịch cơ thể. Do vậy chúng là sinh vật có khả năng thẩm thấu. Chính vì vậy, mưa lớn có thể
gây ra những tai biến lớn.
Do rất nhiều sinh vật vùng triều sống định cư hoặc sống bám, trứng đã thụ tinh và ấu trùng của
chúng phải trôi nổi tự do như sinh vật nổi để phát tán. Do vậy, chu trình sinh sản của hầu hết các sinh
vật này phải đồng bộ với chu kỳ triều nào đó để bảo đảm hiệu suất thụ tinh. Ví dụ ở vẹm Mytilus edilis
thành thục sinh dục trong thời kỳ triều cường và đẻ trứng vào thời kỳ triều kiệt sau đó.
Đặc trưng của các loại bãi triều:
Bãi triều đá: So với các loại bãi triều, bờ triều đá, đặc biệt ở vùng ôn đới có nhiều sinh vật có
kích thước lớn cư trú và đạt tính đa dạng về thành phần loài động thực vật cao nhất. Đặc trưng nổi bật
ở tất cả bãi triều đá là sự phân vùng của sinh vật tức hình thành các dãi theo chiều ngang rõ rệt.
Bãi triều cát: yếu tố môi trường quan trọng nhất chi phối đời sống sinh vật ở các bãi triều cát là
không được che chắn sóng biển và mối liên quan của nó đến độ hạt và độ dốc của bãi. Sóng gây ra sự
di chuyển của bãi, làm nền đáy không ổn định. Sinh vật có hai con đường để thích nghi, chúng có thể
vùi vào cát ở độ sâu lớn hơn nơi mà trầm tích không còn bị sóng xô đẩy. Khả năng này được quan sát
thấy ở các loài sò. Cách thích nghi thứ hai là tốc độ vùi nhanh của một số động vật thuộc nhóm giun,
giáp xác.
Bãi triều bùn: sự phân biệt giữa bãi triều cát và bãi triều bùn là không rõ ràng. Vùng triều càng
được che chắn càng có trầm tích mịn hơn và tích luỹ nhiều chất hữu cơ hơn. Đáy bùn cũng là đặc
trưng của hệ sinh thái cửa sông và quần xã sinh vật của hai hệ có những nét tương đồng. Bãi triều bùn
chỉ xuất hiện ở vùng được che chắn, không bị sóng vỗ như trong các vịnh kín, đầm và đặc biệt là cửa
sông. Bãi triều bùn tích luỹ nhiều chất hữu cơ, tạo nên tiềm năng thức ăn lớn cho sinh vật. Sinh vật
sống ở bãi triều bùn chủ yếu thuộc nhóm sống trong đáy với các ống, hang thông lên bề mặt. Kiểu
dinh dưỡng ưu thế trong môi trường này là ăn chất lắng đọng và chất lơ lững.

Vai trò của hệ sinh thái vùng triều: Hệ sinh thái vùng triều có vai trò rất quan trọng trong hệ sinh
thái nước mặn, bao gồm các chức năng sau:
− Là nơi cư trú, sinh sống của các loài sinh vật biển, như các loài hai mảnh vỏ, các loài rong tảo,
− Là nơi cung cấp nguồn lợi kinh tế và cũng là nơi diễn ra sự trao đổi vật chất, năng lượng, tạo nên
nguồn sinh khối lớn trong hệ sinh thái;
− Là nơi cung cấp năng suất sơ cấp cho vùng cửa sông, chủ yếu là thảm thực vật bao quanh cửa sông,
làm tăng sự đa dạng vùng cửa sông;
− Hệ sinh thái vùng triều góp phần vào việc điều hòa khí hậu nhờ vào sự hình thành các thảm thực
vật, ngoài ra thảm thực vật còn góp phân hình thành nên hệ sinh thái rừng ngập mặn;
− Chức năng quan trọng của hệ sinh thái vùng triều đóng vai trò quan trọng trong chu trình dinh
dưỡng cũng như góp phần hình thành các khu du lịch, khu vui chơi giải trí cho con người.
Hệ sinh thái vùng triều có vai trò quan trọng, to lớn trong việc duy trì và bảo vệ tính đa dạng
sinh học. Có thể nói rằng, vùng triều là nguồn gốc, là nền tảng cho việc hình thành và phát triển các hệ
sinh thái vùng ven bờ. Do vậy, cần phải có chính sách hợp lý trong việc quản lý cũng như khai thác tài
nguyên vùng triều, từ đó có sự khai thác đúng mức nguồn lực to lớn này góp phần thúc đẩy nền kinh tế
vùng biển một cách bền vững.

c. Hệ sinh thái rừng ngập mặn
Rừng ngập mặn (mangroves) là thuật ngữ mô tả một hệ sinh thái thuộc vùng nhiệt đới và cận
nhiệt đới hình thành trên nền các thực vật vùng triều với tổ hợp động, thực vật đặc trưng. Trong hệ

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×