Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

BAI TAP LON MON VAN HOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.61 KB, 13 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC – MẦM NON

TÊN ĐỀ TÀI:
NHÀ THƠ PHẠM HỔ, GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT
BÀI THƠ CHÚ BÒ TÌM BẠN

Chữ ký của học viên
(ký và ghi rõ họ tên)

HỌC VIÊN: TRẦN TRUNG AN
MÃ HV: 0021460004
LỚP: ĐHGDTH21-B2

ĐỒNG THÁP, NĂM 2023


ĐÁNH GIÁ CỦA GIẢNG VIÊN
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………


……………………………………………………………………………………
Giảng viên chấm 2
(ký và ghi rõ họ tên)

Đồng Tháp, ngày ……tháng …..năm 2023
Giảng viên chấm 1
(ký và ghi rõ họ tên)


PHẦN BÀI LÀM

I. MỞ ĐẦU

Những ai quan tâm đến nền văn học Việt Nam hiện đại hẳn đều biết tên tuổi nhà
văn Phạm Hổ ông là một nhà văn chuyên viết cho thiếu nhi. Hơn nữa thế kỷ cầm bút,
Phạm Hổ đã tạo được một sự nghiệp văn chương phong phú bao gồm thơ, truyện và
kịch. Dù viết theo thể loại nào, Phạm Hổ cũng đều đạt được những thành cơng quan
trọng. Ơng thực sự đã tạo được cho mình một phong cách nghệ thuật riêng.
Nói riêng về thơ, Phạm Hổ có khoản 20 tập thơ. Thơ Phạm Hổ như Vũ Duy
Thông nhận xét “thiên về lứa bạn đọc nhỏ tuổi, từ 5 đến 8 tuổi” [1]. Đây là lứa tuổi có
những đặc thù riêng về tâm lý tiếp nhận thơ ca. Trên cơ sở hiểu biết về đối tượng,
Phạm Hổ đã không ngừng tìm tòi những nội dung, những hình thức biểu đạt phù hợp,
khiến cho mỗi bài thơ là một niềm vui dành tặng cho các em.
Trước khi bàn vào thơ, thiết nghĩ cần nói đôi điều về quan niệm làm thơ cho các
em của Phạm Hổ. Không thuộc loại người thích tuyên ngôn nhưng đâu đó, ông cũng
có những phát biểu về thơ cho lứa tuổi nhi đồng. Có thể nhận thấy điều đó qua các bài
Những bài thơ nho nhỏ và Thêm mấy suy nghĩ về việc làm thơ cho nhi đồng.
Khác với nhiều người, Phạm Hổ chọn con đường đi vào thế giới tâm hồn trẻ thơ.
“Đối với tôi, được viết cho các em là cả một hạnh phúc”. Rất nhiều lần, ông đã phát
biểu như vậy. Tinh thần đó, một lần nữa ta lại bắt gặp trong Những bài thơ nho nhỏ,

một bài thơ có tính chất tâm tình về chuyện lập ngôn. “Suốt đời tôi chỉ mơ/ Được viết
cho các em/ Những bài thơ nho nhỏ”, “Thật đơn sơ là hạnh phúc của tôi/ Được viết
cho các em/ Những bài thơ nho nhỏ”. Làm thơ cho lứa tuổi nhi đồng có những đòi hỏi
riêng về nguyên tắc sáng tạo. Không phải ngẫu nhiên mà Phạm Hổ mơ ước được viết
lên “những bài thơ nho nhỏ”. Quy mô đó là phù hợp với tầm đón nhận của các em.
Nhưng đây là lứa tuổi ưa thích sự đa dạng, mới lạ nên thơ phải “như những hòn bi
xanh, đỏ”, “như những quả quýt, quả cam”… vừa gần gủi và vừa hấp dẫn. Mỗi bài thơ
cho các em phải là “ những ô cửa xinh xinh” mở ra những ô trời xanh để các em “đón
hương lúa thơm và tiếng hót chim trời”. Sứ mệnh thơ cho lứa tuổi nhi đồng, theo Phạm
Hổ là mang lại cho các em một niềm vui thật sự.
Năm 1982, tại Hà Nội, nhân kỷ niệm lần thứ 25 ngày thành lập, nhà xuất bản
Kim Đồng đã tổ chức cuộc Hội thảo về “Sáng tác thơ cho thiếu nhi”. Tại Hội thảo này,
Phạm Hổ đã đọc tham luận Thêm mấy suy nghĩ về việc làm thơ cho nhi đồng. Trong
bài viết này, Phạm Hổ nêu lên, nhiều vấn đề có ý nghĩa đới với người sáng tác. Ơng


cho rằng, trong thơ cho nhi đồng, nhất thiết phải có hình tượng thiên nhiên. Theo ông
thiên nhiên là hiện thân của cái đẹp. “Bằng chính cái đẹp, thiên nhiên dạy cho chúng ta
yêu cái đẹp. Bằng chính sự phong phú, thiên nhiên gợi cho ta nên có cuộc sống phong
phú về vật chất, về tinh thần”. Ông cũng đòi hỏi thơ cho lứa tuổi nhi đồng cần phải
tươi, hấp dẫn. Muốn vậy, nghệ thuật thơ phải có biến hóa về nhạc điệu, ngôn từ, màu
sắc và hình tượng. Một vấn đề khác cũng được nhà thơ quan tâm là con đường tạo vốn
của người viết. “Theo tôi vấn đề vốn vẫn là một trong những vấn đề gốc gác và có tính
quyết định nhất” [2]. Phạm Hổ tán đồng hai nguyên tắc mà K.Tsucôpxki: một là học
tập vốn cổ, hai là học tập các em, tìm hiểu đời sống tâm hồn các em. Một sự kết hợp
hài hòa trên cơ sở hòa giải giữa cảm quan của người lớn với cảm quan của tuổi thơ sẽ
góp phần vào thành công của nhà thơ.
Thơ Phạm Hổ chính là sự thể hiện sinh động cho những quan niệm nghệ thuật
tích cực nói trên của ông.
Đi vào thế giới thơ Phạm Hổ, ta bắt gặp tất cả những gì quen thuộc trong cuộc

sống hằng ngày của các em. Đó là cái kéo, cái chổi, dây cầu chì là con chó, con mèo,
là cây na, quả khế… Tất cả đều có mặt trong thơ ông một cách tự nhiên, dung dị. Thực
ra, những nhân vật này cũng hiện diện trong sáng tác của hầu hết các nhà thơ viết cho
thiếu nhi. Vậy đâu là nét riêng trong nghệ thuật chữ tình của Phạm Hổ?
Điều dễ nhận thấy là thơ Phạm Hổ nói nhiều về chủ đề tình bạn. Phạm Hổ thừa
nhận tôi “Tôi đặc biệt chú ý đến tình bạn trong đời sống con người, trong hơn 10 tập
thơ viết cho các em, đã có 6 tập”. Mối quan tâm của tác giả là có cơ sở hiện thực. Trẻ
em vốn rất khát khao tình bạn. Kỷ niệm dưới đây của Xuân Quỳnh giúp ta hiểu thêm
điều này: “Có lần tôi cãi nhau với một đứa bạn, hai đứa bỏ nhau, không chơi với nhau
nữa. Tôi rất buồn… về nói lại chuyện đó với bà tôi, muốn tìm ở bà một lời cảm thông,
hoặc một cách giải quyết. Thế mà bà tôi lại bảo: “Nó không chơi với cháu thì thôi, cần
gì, cháu ở nhà chơi với bà”. Thế là tôi hoàn toàn cô độc. Bà tôi đâu hiểu là tôi cần chơi
với bạn ấy bao nhiêu” [3]. Tâm sự của Xuân Quỳnh phản ánh một khát vọng chung
của trẻ em. Chỉ với bạn, các em mới thực sự có được nét đồng điệu trong hoạt động
vui chơi, học tập. Hứng thú hoạt động nhờ thế mới được phát huy tối đa, niềm vui mới
được trọn vẹn.
Từ khi còn là một cậu học sinh theo học trường làng, Phạm Hồ đã say mê đọc
nhiều tác phẩm văn học, đặc biệt là các tác phẩm viết cho thiếu nhi. Thiên hướng về
văn học thiếu nhi được hình thành từ đó. Sau Cách mạng tháng Tám, trong khi làm
công tác tuyên truyền phụ tá cho nhà thơ Trần Mai Ninh về hoạt động văn hóa ở TP
Quy Nhơn, Phạm Hồ đã học hỏi được nhiều về kinh nghiệm sáng tác. Tác phẩm của


Phạm Hồ thuộc khá nhiều thể loại: thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, phê bình và cả hội
họa. Tuy vậy, nhắc đến Phạm Hổ người ta thường nghĩ ngay đến một nhà thơ viết cho
thiếu nhi. Trong đời thường cũng như trong tác phẩm, nhà thơ đều bộc lộ một tình u
thương, q mến của mình với tuổi thơ. Lịng u thương ấy cộng với sự say mê sáng
tạo nghệ thuật, Phạm Hồ đã đem đến cho các em những vần thơ hết sức hồn nhiên,
hóm hỉnh. Thơ của ơng đối với các em hết sức quen thuộc và gần gũi. Những trò chơi
dân gian của trẻ em như trồng nụ trồng hoa, dung dăng dung dẻ, nu na nu nống…,

những loài cây, con vật… được thể hiện qua cách viết hết sức sáng tạo của ông đã thực
sự cuốn hút độc giả nhỏ tuổi. Qua những tác phẩm ấy, các em được vun đắp lòng yêu
thương đối với những người thân trong gia đình, với cộng đồng xã hội, cùng với như
thế giới loài vật xung quanh. Mong ước của nhà thơ là nếu như được sống thêm một
lần nữa, ông vẫn làm thơ, viết văn cho các em đọc và ơng muốn thể hiện tấm lịng của
mình với dân với nước qua tấm lòng yêu thương đối với thiếu nhi.
II. NỢI DUNG
1. Tiểu sử c̣c đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Phạm Hổ
Phạm Hổ sinh ngày 28 tháng 11 năm 1926 ở xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh
Bình Định. Vùng đất này là nơi gặp gỡ nhiều tài năng thơ như Xuân Diệu, Chế Lan
Viên, Hàn Mặc Tử… Phạm Hổ còn được biết đến với bút danh Hồ Huy. Sinh ra và lớn
lên trong một gia đình có truyền thống văn học nên ơng sớm ni dưỡng tình u với
nghiệp văn. Cách mạng tháng Tám thành công, Phạm Hổ tham gia hoạt động tuyên
truyền tại Quy Nhơn, sau đó làm thư ký thường trực ở Chi hội văn hóa cứu quốc Bình
Định. Nhà thơ Trần Mai Ninh, Chi hội trưởng của Chi hội văn hóa cứu quốc đã có
những ảnh hưởng tích cực với con đường nghệ thuật của Phạm Hổ về sau. Trong cuộc
đời của mình, Phạm Hổ đã từng làm biên tập viên báo tin tức Bình Định, làm ủy viên
Ban chấp hành Đồn hội họa liên khu năm, làm cơng tác đối ngoại ở Hội văn nghệ
Trung ương. Ông là một thành viên tích cực góp phần sáng lập nhà xuất bản Kim
Đồng vào năm 1957. Tâm huyết và đóng góp của ông cho văn học thiếu nhi nước nhà
là rất lớn. Năm 1983, ông đã tham gia công tác tại Hội nhà văn, tiểu ban văn học thiếu
nhi. Sau đó, vào năm 1994, ông là Chủ tịch Hội đồng văn học thiếu nhi.
Tên tuổi Phạm Hổ gắn liền với văn học thiếu nhi. Ơng phát biểu: “Đối với tơi,
được viết cho các em là cả một hạnh phúc”; “Nếu được sống thêm một lần nữa, tôi
vẫn chọn nghề cũ: làm thơ, viết văn cho các em đọc, còn vẽ tranh cho các em xem
nữa”. Quả thực, trong quãng đời cầm bút của mình, ơng đã viết rất nhiều tác phẩm cho
các em, những tác phẩm như “Những hòn bi xanh đỏ các em chơi; Như những quả
quýt, quả na; Các em tay bóc vỏ, miệng cười”. Tình u ấy, hạnh phúc ấy ông gửi cả



vào thơ, vào truyện, vào kịch. Trọn một đời văn, ông đã viết 25 tập thơ, 35 tập truyện,
10 kịch bản sân khấu và phim hoạt hình cho thiếu nhi. Những giải thưởng mà ông
nhận được trong sự nghiệp sáng tác của mình cũng đều liên quan đến những tác phẩm
dành riêng cho tuổi nhỏ. Đó là tập thơ Chú bị tìm bạn - Giải A cuộc vận động sáng tác
cho thiếu nhi (1957 - 1958), tập thơ Chú vịt bông - Giải A cuộc vận động sáng tác cho
thiếu nhi (1967 - 1968), tập thơ Những người bạn im lặng - Giải chính thức về thơ viết
cho thiếu nhi của Hội đồng Văn học thiếu nhi, Hội nhà văn Việt Nam (1985), vở kịch
Nàng tiên nhỏ thành Ốc - Giải thưởng cuộc thi sáng tác kịch bản cho thiếu nhi do Hội
nghệ sĩ sân khấu tổ chức (1986). Năm 2001, ông được tặng giải thưởng Nhà nước về
văn học nghệ thuật (đợt 1)…
Từ những sáng tác trên, người đọc nhận diện được một Phạm Hổ yêu trẻ, yêu đời một
cách đơn hậu, một Phạm Hổ với trí tưởng tượng dồi dào và cũng rất đỗi kì diệu. Trần
Đăng Khoa gọi ông là người ở xứ thần tiên cũng là vì điều kì diệu đó. Rạng sáng ngày
5 tháng 5 năm 2007, người viết nên huyền thoại về chuyện hoa, chuyện quả cho thiếu
nhi đã qua đời sau những cơn đau kéo dài suốt ba năm.
Phạm Hổ là một người rất đa tài. Ông được mọi người biết đến với vai trò của
một dịch giả, một họa sĩ, một nhà thơ, một nhà viết kịch… Tuy nhiên, thơ là thể loại
Phạm Hổ dành nhiều tâm huyết hơn cả. Ông từng quan niệm, tôi học vẽ chỉ cốt để làm
thơ hay hơn mà thôi. Với hơn mười tập thơ viết cho các em, Phạm Hổ trở thành người
bạn thân thiết với tuổi thơ Việt Nam nhiều thế hệ. Trong thơ Phạm Hổ, gương mặt tâm
hồn của thiếu nhi hiện lên thật đáng yêu qua đời sống của những người bạn nhỏ (chó,
mèo, gà, thỏ, dê, bị…), những người bạn trong vườn (chuối, nhãn, dừa, cam, bưởi…),
những người bạn im lặng (đinh, chổi, que đan, bảng chỉ đường…), những người bạn
hay kêu (tàu hỏa, xe chữa cháy, máy khâu, rađiô)… Phạm Hổ có một phẩm chất của
những người sáng tác cho thiếu nhi là biết cách làm bé mình lại để nhìn đời bằng cái
nhìn trong veo, tin cậy của trẻ thơ. Về với thơ Phạm Hổ là về với thời ấu thơ của cuộc
đời, hồn nhiên và vụng dại. Đọc bài thơ Chú bị tìm bạn, người đọc có những ngỡ
ngàng thi vị trước sự ngờ nghệch dễ thương của nhân vật: Bóng bị chợt tan biến Bị
tưởng bạn đi đâu Cứ ngối trước nhìn sau Ậm… ị tìm gọi mãi. Đây là một bài thơ hay
mà Phạm Hổ đã ban tặng cho trẻ thơ. Ông nâng niu sự ngây thơ, hồn nhiên của các em

như một phẩm vật quý của đời và ln thể hiện nó trong các tác phẩm của mình.
Ở một tác phẩm khác, trị chơi ú tim của đơi bạn Mèo và Chó được nhà thơ kết
thúc với chi tiết: Bỗng kìa chỗ khe tủ/ Chó để lộ cái đi/ Rón rén mèo đến nơi/ Ịa
chộp ngay lưng bạn/ Chó vẫn thú vị lắm/ Cứ nhe răng ra cười/ Khơng, mình nấp giỏi
thật / Lỗi chỉ tại cái đuôi (Chơi ú tim). Viết về thế giới tâm hồn trẻ, cịn gì hay và thú
vị hơn thế. Người đọc nghiêm khắc cũng khó lịng ngăn tiếng cười bật ra.


Cảm nhận chung dễ nhận thấy trong thế giới thơ Phạm Hổ là bầu khơng khí thân
thương của tình bầu bạn. Dẫu viết về cây, về con vật hay đồ vật, Phạm Hổ cũng đều
khai thác xúc cảm về tình bạn trong đối tượng. Câu chuyện của Rế và Chảo là một sự
khám phá mới mẻ nhưng rất đỗi ấm áp, nhân văn: Ôm lấy nồi, lấy chảo Rế như cái đài
hoa Chảo, nồi đang bận nấu Rế ngồi bên đợi chờ…. (Rế) Hành động chờ đợi của Rế
để được ôm lấy những người bạn của mình trong tình thân ngay lập tức đã trả cho sự
vật vô tri vô giác này thuộc tính tâm lí rất đặc trưng của con người. Những đài hoa đẹp
kiểu như Rế cứ thế không ngừng xuất hiện trong thơ Phạm Hổ, đặc biệt trong những
tập thơ mà chủ đề tình bạn được nhấn mạnh ngay từ nhan đề như: Chú bị tìm bạn, Bạn
trong vườn, Những người bạn im lặng, Những người bạn ồn ào… Khơng phải đến
Phạm Hổ, tình bạn mới trở thành một chủ đề của thơ. Thế nhưng, có thể nói Phạm Hổ
là người ý thức rõ nhất và thể hiện tập trung nhất cảm hứng này trong sáng tác của
mình. Bên cạnh đó, thơ Phạm Hổ cịn mở ra những tri thức giản đơn về thế giới cho
các em. Tác giả đã lồng ghép kiến thức phổ thông về các sự vật hiện tượng vào thơ rất
tự nhiên. Bắp cải xanh là một bài thơ như thế: Bắp cải xanh/ Xanh mát mắt/ Lá cải sắp
Sắp vòng tròn/ Búp cải non/ Nằm ngủ giữa. Ở bài thơ này, Phạm Hổ đã làm rất tốt
công việc của một nhà sinh học, đã giới thiệu cho các em hình dáng, đặc điểm của bắp
cải. Hình thức thơ đều đặn, vần vè mang phong vị đồng dao càng làm cho trẻ thích thú
trước những thơng tin bổ ích đấy. Dẫu viết truyện hay làm thơ, Phạm Hổ đều có khả
năng tạo nên thế giới thần tiên trong thơ mình. Thơ Phạm Hổ đã làm sống lại khơng
khí của những câu chuyện kể dân gian bằng cách khai thác những thi liệu đã từng xuất
hiện trong các câu chuyện cổ tích, truyền thuyết như quả thị, quả khế, quả dưa hấu…

Bà kể thị này/ Ngày xưa cô Tấm/ Chui vào đây trốn/ Đợi ngày gặp vua (Thị). Không
chỉ thế, rất nhiều bài thơ của Phạm Hổ mang dáng dấp của truyện ngụ ngôn và truyện
cổ tích lồi vật. Ở bài thơ Bồ câu và Ngan, tác giả mượn cuộc trò chuyện của những
con vật để gá gửi bài học giáo dục đến trẻ em: Ngan giờ mới gạ chuyện: -“Thóc đẻ đấy
thật à?” Bồ Câu cười rồi đáp: - Chết! Tôi đùa đấy mà!/ Thóc nào thóc lại đẻ!/ Chỉ có
cơng sức ta/ Nhặt mỗi ngày một ít/ Dồn lại hóa nhiều ra!” Đưa yếu tố truyện vào thơ là
một đặc trưng nữa của thơ Phạm Hổ. Tác giả đã tổ chức rất nhiều bài thơ theo kết cấu
của tác phẩm tự sự. Điều đó đồng nghĩa với việc để cho nhân vật vận động trên mối
quan hệ liên tục của chuỗi sự kiện và làm cho nhân vật đầy đặn hơn về xuất thân, diện
mạo, hành động, tính cách… Gấu đen là một ví dụ cho sự kết hợp thi pháp giữa thơ và
truyện: Gấu đen chụp ảnh Gửi tặng bạn thân Gấu trắng, thợ giỏi “Tách” cái, chụp xong
Lúc nhận ảnh xem Gấu đen trợn mắt: - Sao mình bé choắt Lại cụt cả chân! Chụp
chẳng nên thân Này đây, trả cậu! (Gấu đen) Tổ chức bài thơ theo kết cấu hỏi đáp cũng
là lối đi thường tình của nhà thơ này. Hiện tượng tương tác lượt lời thường xuyên diễn
ra, làm cho thơ Phạm Hổ càng giàu âm thanh và nhạc điệu. Trong những cuộc đối


thoại ngắn này, trẻ con hiện lên với tất cả khát vọng muốn khám phá thế giới tự nhiên,
ln nhìn cuộc sống với cái nhìn ngỡ ngàng, tị mị: Sao kim phút chạy nhanh Kim giờ
lại chạy chậm? (Kim đồng hồ) Chị ơi, vì sao Hoa hồng lại khóc (Bướm em hỏi chị)
Với những bài thơ được xây dựng theo cấu trúc tương tác lượt lời như thế, kết thúc bất
ngờ thường xuyên xuất hiện. Đây được xem là sự chuyển vị thành công một thủ pháp
rất đặc trưng của thể loại truyện ngắn. Cách nhìn đời tinh khơi, tươi non của Phạm Hổ
đưa đến những lời giải thích thú vị, nằm ngoài trường liên tưởng quen thuộc của người
đọc. Cắt nghĩa cho hiện tượng chênh lệch về tốc độ chạy của kim giờ và kim phút, tác
giả viết: Vì kim phút chân dài Còn kim giờ chân ngắn. Tiêu biểu cho những câu
chuyện thơ có kết cấu bất ngờ chính là Ngủ rồi: Gà mẹ hỏi con: Ngủ chưa đấy hả? Cả
đàn nhao nhao: Ngủ rồi đấy ạ! Khi câu đối thoại cuối vang lên cũng chính là lúc sự
hồn nhiên của nhân vật hiện ra trọn vẹn nhất. Những chú gà con với lời nói dối tập thể
dễ thương đã tạo nên vĩ thanh ấn tượng cho bài thơ rất ngắn này. Những ai đã từng là

trẻ con đều gặp lại chính mình trong câu trả lời nhanh nhảu đáng yêu ấy. Với những
đặc sắc nghệ thuật trên, thơ Phạm Hổ đã làm rất tốt chức năng giáo dục, hồn thiện
tâm hồn trẻ. Bài thơ Cơ dạy là một trong những bài thơ như thế: Mẹ, mẹ ơi! Cơ dạy:
Phải giữ gìn đơi tay/ Bàn tay mà dây bẩn/ Sách, áo cũng bẩn ngay/ Mẹ, mẹ ơi! Cô dạy:
Cãi nhau là khơng vui/ Cái miệng nó xinh thế/ Chỉ nói điều hay thơi. Mượn phát ngơn
của cơ giáo để chuyển thông điệp giáo dục là thêm một lần nữa Phạm Hổ thể hiện sự
khơn ngoan của mình. Ơng hiểu được vị trí của giáo viên đối với trẻ và mượn chính
giáo viên làm người phát ngơn cho mong muốn và ước vọng mà mình muốn gửi đến
các em thơ. Cứ thế, Phạm Hổ dẫn ta đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác trên hành trình
về với thế giới thần tiên của con trẻ.
2. Giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ Chú bò tìm bạn
Dấu hiệu nhận biết chủ đề tình bạn trong thơ Phạm Hổ trước hết là ở việc đặt tên
cho các tập thơ: Chú bò tìm bạn, Bạn trong vườn, Những người bạn im lặng, Những
người bạn ồn ào… Đi vào văn bản, ta thấy cảm hứng tình bạn xuyên thấm ở hầu hết
mọi bài thơ, tập thơ. Dù viết về điều gì Phạm Hổ cũng đều gợi lên cho các em một câu
chuyện tình bạn. Một chú bò đi lang thang trong chiều với tiếng “ậm…ò…” đã trở
thành hình ảnh đáng yêu trong nỗi thiết tha gọi bạn.
Tôi muốn nói đến bài thơ Chú bò tìm bạn. Bài thơ này được Phạm Hổ viết vào
năm 1952. Gợi nguồn cảm hứng cho nhà thơ là hình ảnh những chú bò chiều chiều ra
sông uống nước. Đâu đó trong không gian chiều muộn vang vọng tiếng “Ậm…ò…”.
Tứ thơ chợt đến, bài thơ hiện ra sau những thăng hoa của cảm xúc:


CHÚ BÒ TÌM BẠN
Mặt trời rúc bụi tre
Buổi chiều về nghe mát
Bò ra sông uống nước
Thấy bóng mình, ngỡ ai.
Bò chào: “Kìa anh bạn”
Lại gặp anh ở đây !”

Nước đang nằm nhìn mây
Nghe bò cười nhoẻn miệng
Bóng bò chợt tan biến
Bò tưởng bạn đi đâu
Cứ ngoái trước nhìn sau
“Ậm…ò” tìm gọi mãi”
(Tác giả: Phạm Hổ)


Trong cảm quan dân gian, chú bò là biểu tượng của tính lơ ngơ (Lơ ngơ như bò
đội nón). Trong thơ Phạm Hổ chú bò vẫn có cái lơ ngơ, nhưng thật đáng yêu. Đáng
yêu ở hành vi biết chào hỏi. Đáng yêu ở sự ngô nghê, không nhận ra hình ảnh phản
chiếu đó là bóng của chính mình, sự chân thành của chú bò được tác giả nhân hóa tính
cách giống như một đứa trẻ khi không còn nhìn thấy thì thiết tha gọi bạn…
Bài thơ Chú bò tìm bạn được xem là tiêu biểu cho phong cách thơ Phạm Hổ. Sau
bài thơ này, cảm hứng tình bạn như một dòng chảy tuôn trào mang những hạt phù sa
màu mỡ vào cánh đồng thơ Phạm Hổ. Kết quả, cánh đồng thơ ấy cứ lấp lánh lên những
sắc màu đáng yêu của tình bạn.
III. KẾT LUẬN
Xây dựng chủ đề tình bạn là một chủ ý nghệ thuật của Phạm Hổ. Ngoài việc đặt
tên cho từng tập thơ theo chủ đề tình bạn, ông cũng kết hợp tạo ra những hệ thống: bạn
trong nhà, bạn trong vườn, những người bạn im lặng, những người bạn ồn ào… Tất cả
những việc làm này không ngoài mục đích tô đậm cảm hứng tình bạn trong thơ ông.
Sau bài thơ Chú bò tìm bạn là một loạt các bài thơ viết về chủ đề này. Cái rế là
bạn của cái chảo, cái nồi. “Chảo, nồi đang bận nấu – Rế ngồi bên đợi chờ” (Rế). Con
chó, con mèo nào có ghét nhau. Chúng chơi với nhau thật thân thiết. “Rủ nhau chơi ú
tim/ Giờ đến phiên chó trốn/ Mèo đảo mắt nhìn quanh/ Chó nấp đâu giỏi gớm/ Bỗng
kia chổ khe tủ/ Chó để lộ cái đuôi/ Rón rén mèo đến nơi/ Òa chộp ngay lưng bạn”
(Chơi ú tim).
Cùng với nội dung tình bạn, Phạm Hổ còn muốn cung cấp cho các em những

hiểu biết ban đầu về thế giới sự vật, hiện tượng. Tùy từng trường hợp cụ thể mà ông
giới thiệu cho các em tên gọi hay đặc điểm hình thức, ích dụng của sự vật. “Chị ơi, vì
sao/ Hoa hồng lại khóc/ Không phải đâu em/ Đấy là hạt ngọc/ Người gọi là sương/ Sao
đêm gởi xuống/ Tặng cô hoa hồng” (Bướm em hỏi chị). Vẫn là bài thơ về tình bạn
nhưng ở đây đã có sự lồng ghép thật tự nhiên một tri thức về đối tượng: giọt nước trên
cánh hồng được gọi là “giọt sương”. Để mở ra khái niệm về nước, Phạm Hổ viết hẵn
một bài thơ khác theo lối định nghĩa. Nước lên xuống: biển cả/ Nước nằm im: ao hồ/
Nước chảy xuôi: sông suối/ Nước rơi đứng: trời mưa” (Nước)… Nội dung này rất dễ
làm cho thơ khô khan. Phạm Hổ biết rõ điều đó. Nhưng với ý thức “người viết cho
thiếu nhi là một nhà văn nhưng cũng đồng thời là một nhà giáo” [4]. Phạm Hổ chấp
nhận và tìm cách “thơ hóa”. Hướng giải quyết của ông là khai thác tối đa các phép
nhân hóa, so sánh, xây dựng các hình ảnh liên tưởng độc đáo và vui tươi. Đọc bài thơ
về cái đinh, ta ngỡ như đang tiếp xúc với một cậu bé vui nhộn, tự hào khi làm được
một việc tốt”…Cho chị treo gương/ Cho em treo ảnh/ Xong rồi hóm hỉnh/ Nhô đầu


nhìn quanh” (Đinh). Cái chổi khác nào là một cô bé thích làm đỏm: “Thích buộc nhiều
thắt lưng/ Cả đời không đi dép/ Chổi múa dạo một vòng/ Rác trong nhà biến sạch”
(Chổi). Phép so sánh trong trường hợp sau đây giúp các em nắm được đặc điểm của
từng đò vật: “Dao chỉ một lưỡi/ Kéo có đến hai/ Mỗi người một việc/ Ai nào kém ai/
Cả hai đều biết/ Yêu ông đá mài” (Dao và Kéo)… Những câu thơ như thế không cầu
kỳ, hoa mỹ nhưng tự nhiên, thiết thực. Đặt trong yêu cầu của nghệ thuật giáo dục cho
thiếu nhi, hoàn toàn có thể khẳng định, đó là những câu thơ giá trị.
Phạm Hổ là một nhà thơ có nhiều tìm tòi trong nghệ thuật thể hiện. Thơ ông đa
dạng về hình thức, nhạc điệu vui tươi, ngôn từ trong sáng.
Ngoài hình thức tổ chức thông thường, thơ Phạm Hổ còn sử dụng các hình thưc
khác. Đó là hình thức hỏi – đáp, hình thức định nghĩa và hình thức trích dẫn. Hình
thức hỏi – đáp xuất hiện nhiều trong thơ Phạm Hổ. Trong cuộc sống, trẻ em vẫn
thường hay hỏi người lớn về nhiều điều. Hay hỏi là một nét tính cách đặc trưng, hệ quả
tất yếu của một nhu cầu ham hiểu biết của trẻ. Người lớn trong trách nhiệm của mình

cần phải giúp trẻ giải quyết nhaungữ thắc mắc. Trả lời cho trẻ là cả một nghệ thuật
giao tiếp mà không phải ai, lúc nào cũng làm được. Trong những bài thơ hỏi – đáp của
mình, Phạm Hổ khi thì sử dụng nhân vật loài vật, khi thì sử dụng nhân vật con người.
Song dù sử dụng loại nhân vật nào thì ông cũng đều nêu ra được vấn đề mà trẻ em
quan tâm, đáp án phù hợp với đối tượng. Giọng thơ tâm tình nhẹ nhàng, có sức thuyết
phục lớn. Một ví dụ: “Cua con hỏi mẹ/ Dưới ánh trăng đêm:/ Cô lúa đang hát/ Sao
bỗng lặng im?/ Đôi mắt lim dim/ Mẹ cua liền đáp/ Chú gió đi xa/ Lúa buồn không hát”
(Cua con hỏi mẹ). Bài thơ trên gồm lời hỏi của cua con và lời đáp của cua mẹ. Cua mẹ
đã giải thích với cua con rằng, vì chú gió đi xa nên cô lúa buồn, cô thôi không hát nữa.
Lời giải thích này dễ được trẻ chấp nhận. Chuyện “cô lúa khong hát” thấm đượm tình
cảm con người.
Thực ra cấu trúc hỏi – đáp được sử dụng nhiều trong thơ cho thiếu nhi. Hình thức
này không phải là sáng rạo riêng của Phạm Hổ. Đóng góp của ông là ở chỗ đã sử dụng
thành công, tạo ra những bài thơ hay như Ngủ rồi, Bướm em hỏi chị, Đát và hoa, Thỏ
dùng máy nói… Sáng tạo riêng của Phạm Hổ chính là ở hình thức thơ định nghĩa. Dấu
hai chấm tương đương với từ “là”, tạo ra sự đồng nhất giữa hai đối tượng. Kiểu thơ
định nghĩa giới hạn ở chức năng cung cấp khái niệm về đối tượng. Kiểu thơ trích dẫn
được xây dựng dựa trên cơ sở mô phỏng lời nói. Thuộc loại thơ này là nhóm bài có
câu mở đầu “mẹ, mẹ ơi cô bảo”. Đơn cử: Mẹ, mẹ ơi, cô bảo:/ “Cháu ơi, chơi với bạn/
Cãi nhau là không vui/ Cái mồm nó xinh thế/ Chỉ nói điều hay thôi!”. Ở bài thơ này,
câu mở đầu là lời đứa trẻ, các câu còn lại là lời cô giáo được trích dẫn. Toàn bộ bài thơ
là lời đứa trẻ nói với mẹ khi ở trường về. Đến trường các em tiếp thu được nhiều điều


mới lạ. Khi trở về nhà, các em không quên khoe với mẹ về những gì mà mình học
được. Câu thơ “mẹ, mẹ ơi, cô bảo” chất chứa niềm vui, sự háo hức của đứa trẻ. Quả là,
đọc những bài thơ như thế ta cũng dễ vui lây!
Những chi tiết hồn nhiên, ngộ nghĩnh được sử dụng nhiều trong thơ Phạm Hổ. Ai
đã đọc Ngủ rồi, Chơi ú tim, Ngựa con… hẳn khó có thể quên được những câu nói,
những suy nghĩ đáng yêu của con trẻ. Trả lời câu hỏi của mẹ: “Đã ngủ chưa đấy hả?,

cả đàn gà con nhao nhao: “Ngủ cả rồi đấy ạ!”. Ngủ rồi mà vẫn “nhao nhao” thì chỉ có
trẻ con mới làm được. Cũng chỉ có trẻ con mới có kiểu lý luận này: “khiong mình nấp
giỏi thật/ Lổi chỉ tại cái đuôi” (chơi ú tim)…
Đôi khi, Phạm Hổ cũng đưa cả nét dí dỏm của người lớn vào thơ. Bài thơ Soi
gương là một ví dụ. “Có ai đang khóc nhè/ Mà soi gương không bố?/ Một đứa khóc đủ
rồi/ Soi chi thành hai đứa”. Bài thơ có cái hồn nhiên của đứa trẻ (câu hỏi), lại có cái
hóm hỉnh của người bố (câu trả lời). Chất hồn nhiên, chất dí dỏm kết hợp hài hòa
khuiến cho bài thơ thêm phần dấng yêu.
Làm thơ cho các em, Phạm Hổ cũng rất coi trọng vai trò của nhạc điệu. Ông viết:
“Viết thơ cho các em bé, , rất cần chú ý đến nhạc điệu. Nhiều khi các em nhớ được là
nhờ nhạc điệu” [2]. Nhạc điệu của thơ liên quan chặt chẽ tới việc sắp xếp, tổ chức câu
thơ, vần và nhịp. Phạm Hổ thường hay sử dụng thể thơ hai, ba, bốn hoặc năm chữ.
Nhịp thơ ông thường ngắn, có giá trị miêu tả hiện thực. Chẳng hạn nhịp 2/2 ở bài Sen
nở gợi tả những cánh sen đang từ từ hé mở: “Từ từ/ Khẽ mở/ Trăm nghìn/ Cửa lụa/
Xinh tươi/ Sáng hồng…”. Bài Tàu dài lại gợi hình ảnh đoàn tàu nhiều toa, đang
chuyển động một cách nhịp nhàng, đều đặn.
Một đặc sắc khác của thơ Phạm Hổ là cách tạo nghĩa mới cho những âm thanh tự
nhiên. Tiếng “tí te…tí te” của xe chữa cháy được nhà thơ cảm nhận là sẵn sàng “có
ngay… có ngay” (Xe chữa cháy), tiếng “xạch, xạch, xạch” của máy khâu là “sắp xong
rồi, sắp xong rồi” (Máy khâu), còn tiếng “cục tác… cục tát” của cô gà mái là môttj
thông báo vui trứng còn nhiều, dẻ hoài “không hết, không hết’ (Gà đẻ)… Cách tạo
nghĩa này đã làm cho hình tượng thơ thêm phần sinh động, ý nghĩa. Cuộc sống cứ như
đang rrọn ràng lên, hối hả và tràn đầy sức sống. Về sau, các nhà thơ như Phạm Đình
Ân, Nguyễn Hoàng Sơn… cũng đã học tập cách làm này và đã tạo thêm nhiều đặc sắc
mới cho thơ thiếu nhi.
Trong tương quan với các nhà thơ viết cho thiếu nhi, Phạm Hổ là người viết
nhiều và viết hay. Thơ cho lứa tuổi nhi đồng của ông có nhiều đặc sắc về nội dung
cũng như nghệ thuật. Nói tới ông là nói tới một nhà thơ của tình bạn, một cây bút với



nhiều sáng tạo về hình thức biểu hiện. Ông thực sự có một vị trí quan trọng trong nền
thơ cho thiếu nhi Việt Nam.
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Duy Thông: Con đường đến với trẻ thơ, in trong bàn về văn học thiếu nhi,
Nxb Kim Đồng, 1983, Tr.51.
2. Phạm Hổ: Thêm mấy suy nghĩ về việc làm thơ cho nhi đồng, in trong bàn về
văn học thiếu nhi, Nxb Kim Đồng, 1983, Tr.23.
3. Xuân Quỳnh: Làm thơ cho thiếu nhi, in trong bàn về văn học thiếu nhi, Nxb
Kim Đồng, 1983, Tr.23.
4. Võ Quảng: Tuyển tập Võ Quảng, tập II, Nxb Văn học, 1998, tr.222.
5. Vân Thanh, Nguyên An (Biên soạn) (2002), Bách khoa thư văn học thiếu nhi
Việt Nam, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.
6. Hoàng Văn Cẩn (2005), Dạy học tác phẩm văn học dành cho thiếu nhi, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
7. Lã Thị Bắc Lý (2003), Giáo trình Văn học trẻ em, Nxb Đại học Sư phạm, Hà
Nội.
8. Trần Đức Ngôn (Chủ biên), Dương Thu Hương (1994), Văn học thiếu nhi Việt
Nam, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội I, Hà Nội.
9. Vân Thanh (Biên soạn) (2006), Tác giả văn học thiếu nhi Việt Nam, Nxb Từ
điển bách khoa, Hà Nội.
V. HÌNH ẢNH



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×