Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu từ thực tiễn tại cục hải quan lào cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 92 trang )

TẠ THANH ĐÔNG

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

Ph¸p lt
LUẬT KINH TẾ

vỊ qu¶n lý th xt khÈu, th nhËp khẩu
từ thực tiễn tại Cục Hải quan Lào Cai

T THANH ĐÔNG

2018 - 2020

HÀ NỘI - 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NI

LUN VN THC S

Pháp luật
về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
từ thực tiễn tại Cục Hải quan Lào Cai
TẠ THANH ĐÔNG


Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số

: 8 38 01 07

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN TUYẾN

HÀ NỘI - 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Tạ Thanh Đông, học viên lớp Luật Kinh tế khóa 2018 - 2020 xin
cam đoan đây là cơng trình độc lập của riêng tơi mà khơng sao chép từ bất kỳ
nguồn tài liệu nào đã được công bố. Các tài liệu, số liệu sử dụng phân tích trong
luận văn đều có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đầy đủ, có xác nhận của cơ
quan cung cấp số liệu. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn là kết quả
nghiên cứu của tôi được thực hiện một cách khoa học, trung thực, khách quan.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của các nguồn số liệu
cũng như các thông tin sử dụng trong cơng trình nghiên cứu của mình.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2021

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Tạ Thanh Đông



LỜI CẢM ƠN
Được sự phân công của Khoa Sau đại học, Trường Đại học Mở Hà
Nội và sự đồng ý của giáo viên hướng dẫn TS. Nguyễn Văn Tuyến về đề tài
luận văn: "Pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu từ thực tiễn
tại Cục Hải quan Lào Cai". Để hồn thành được luận văn này, tơi đã nhận được
rất nhiều sự quan tâm, động viên, giúp đỡ của quý thầy, cô giáo trong trường.
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn tới các thầy, cô giáo của
Trường Đại học Mở Hà Nội đã tận tình hướng dẫn, giảng dạy trong suốt q
trình tơi học tập, nghiên cứu tại Trường.
Chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn khoa học TS. Nguyễn Văn
Tuyến đã tận tình hướng dẫn tơi nghiên cứu thực hiện luận văn của mình.
Xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Khoa đào tạo sau
đại học, Trường Đại học Mở Hà Nội đã tạo điều kiện cho tơi trong suốt q
trình học tập. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực, cố gắng để thực hiện luận văn một
cách hoàn chỉnh nhất, nhưng khơng thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định
mà tự bản thân không thể tự nhận thấy được. Tôi rất mong nhận được sự góp
ý của Q thầy, cơ giáo để luận văn được hồn chỉnh hơn.
Cuối cùng, tơi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè đã ln bên tơi,
động viên và khuyến khích tơi trong q trình thực hiện luận văn, cơng trình
nghiên cứu của mình.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2021

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Tạ Thanh Đông



MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ THUẾ XUẤT KHẨU,
THUẾ NHẬP KHẨU VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ
XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU

1.1.

6

Những vấn đề lý luận về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu trong điều kiện nền kinh tế thị trường

6

1.1.1. Khái niệm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu

6

1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu

8

1.1.3. Vai trò của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu


9

1.2.

Khái niệm và đặc điểm của quản lý thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu

11

1.2.1. Khái niệm quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu

11

1.2.2. Các đặc điểm của quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu

15

1.2.3. Nội dung quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu

19

1.3.

Lý luận pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu

21

1.3.1. Khái niệm

21


1.3.2. Cấu trúc pháp luật quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu

22

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ XUẤT KHẨU,
THUẾ NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1.

26

Thực trạng quy định về chủ thể và quyền nghĩa vụ của các
chủ thể trong quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu

26

2.1.1. Thực trạng quy định về quyền và nghĩa vụ của cơ quan quản
lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩ

26

2.1.2. Thực trạng quy định về quyền và nghĩa vụ của người nộp
thuế trong quan hệ quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
2.2.

31

Thực trạng quy định về nội dung và nguyên tắc quản lý thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu


34

2.2.1. Quy định về nội dung quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu

34

2.2.2. Quy định về nguyên tắc quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu

35


2.3.

Thực trạng quy định về trình tự, thủ tục quản lý thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu

37

2.3.1. Về thủ tục đăng ký thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu

37

2.3.2. Về thủ tục kê khai thuế, ấn định thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu

41

2.3.3. Về thủ tục nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu

43


Về thủ tục cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế
2.4.

44

Thực trạng quy định về thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm
pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu

46

2.4.1. Nguyên tắc thanh tra, kiểm tra thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu

47

2.4.2. Phương thức kiểm tra thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu

48

2.4.3. Trình tự, thủ tục kiểm tra, thanh tra thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu
2.5.

50

Nhận xét thực trạng pháp luật về quản lý thuế xuất, thuế nhập
khẩu ở Việt Nam hiện nay

52


Chương 3: THỰC TIỄN QUẢN LÝ THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU
TẠI CỤC HẢI QUAN LÀO CAI VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

3.1.

54

Thực tiễn quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu tại Cục Hải
quan Lào Cai

3.1.1. Khái quát về Cục Hải quan Lào Cai

54
54

3.1.2. Những kết quả đạt được trong thực tiễn quản lý thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu tại Cục Hải quan Lào Cai từ năm 2018
đến nay

56

3.1.3. Những hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn quản lý
thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu tại Cục Hải quan Lào Cai
3.2.

63

Một số kiến nghị nhằm nhằm hoàn thiện pháp luật, nâng cao
hiệu quả quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở Việt Nam
hiện nay


64

KẾT LUẬN

71

TÀI LIỆU THAM KHẢO

72


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

Trang

bảng
3.1

Số liệu bắt giữ và xử lý vi phạm hành chính

59


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong bối cảnh thế giới đương đại, pháp luật thuế nói chung và pháp

luật về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nói riêng đã và đang là một
trong những công cụ quan trọng để Nhà nước điều tiết nền kinh tế, tạo nguồn
thu cho ngân sách nhà nước, bảo hộ sản xuất trong nước, góp phần hạn chế
tình trạng gian lận thương mại, trốn thuế và định hướng phát triển quốc gia.
Trước tình hình kinh tế thế giới hiện nay đang suy thoái, do ảnh hưởng
nặng nề của đại dịch Covid-19 đang diễn ra rất phức tạp, chưa thể kiểm sốt
trên phạm vi tồn cầu; cuộc chiến tranh thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc
đã gây ra suy giảm tăng trưởng kinh tế thế giới và gây ra sự gia tăng chủ
nghĩa bảo hộ thương mại, đã ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế mở của
Việt Nam. Do vậy, Nhà nước phải có những cơng cụ mạnh mẽ để quản lý chặt
chẽ đối với hoạt động thu nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trong hoạt động
thương mại, góp phần ổn định nguồn thu cho ngân sách nhà nước, đồng thời
thiết lập lại trật tự, kỷ cương trong hoạt động thương mại quốc tế.
Với vai trò là công cụ quan trọng để quản lý nền kinh tế, pháp luật
thuế nói chung và pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nói
riêng đang ngày càng được quan tâm, xây dựng hoàn thiện theo hướng ngày
càng tiếp cận với chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Bằng chứng rõ nhất là gần
đây Quốc hội khóa XIV đã ban hành Luật Quản lý thuế số 39/2019/QH14
ngày 13/6/2019 để thay thế cho Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 đã được
áp dụng tại Việt Nam từ hơn 10 năm nay. Sự thay đổi chính sách về quản lý
thuế nói chung và quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nói riêng thể hiện
trong đạo luật về quản lý thuế năm 2019 chắc chắn rất cần được nghiên cứu,
tìm hiểu để đánh giá về mức độ hiệu quả của nó trong q trình thực hiện.
Đây chính là lý do để tác giả lựa chọn đề tài: “Pháp luật về quản lý thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu từ thực tiễn tại Cục Hải quan Lào Cai” để nghiên
cứu cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Kể từ sau thời điểm Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 ra đời cho
đến nay, vấn đề pháp luật thuế nói chung và pháp luật về quản lý thuế nói
1



riêng đã nhận được sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều học giả với cách tiếp
cận nghiên cứu từ các góc độ khác nhau. Một cách khái quát, có thể kể đến
những cơng trình nghiên cứu tiêu biểu sau đây:
- Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Mạnh Cường với đề
tài: “Hoàn thiện pháp luật về quản lý nợ thuế ở Việt Nam”, bảo vệ năm 2015,
tại Trường Đại học Luật Hà Nội. Luận văn trình bày những vấn đề lý luận về
quản lý nợ thuế và pháp luật về quản lý nợ thuế; phân tích thực trạng pháp
luật và thực tiễn thi hành pháp luật về quản lý nợ thuế ở Việt Nam hiện nay và
đề xuất các biện pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này. Luận văn này
không trực tiếp nghiên cứu về vấn đề quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
theo pháp luật Việt Nam và cũng không nghiên cứu thực tiễn thực hiện quản
lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu tại một địa phương cụ thể là Cục Hải quan
Lào Cai.
- Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Mạnh Hùng với đề tài:
“Pháp luật về quản lý thuế đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam và thực
tiễn thi hành tại Cục Hải quan thành phố Hà Nội”, bảo vệ năm 2018, tại
Trường Đại học Luật Hà Nội. Luận văn nghiên cứu những vấn đề cơ bản của
pháp luật về quản lý thuế và nội dung quản lý thuế đối với hàng hóa nhập
khẩu vào Việt Nam. Luận văn cũng phân tích thực tiễn thi hành pháp luật về
quản lý thuế đối với hàng hóa nhập khẩu tại Cục Hải quan thành phố Hà Nội;
từ đó đưa ra giải pháp, kiến nghị nhằm hồn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả công tác này trong thực tiễn.
- Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Lan Hương với đề tài:
“Pháp luật về quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp từ thực tiễn thi hành tại
Cục Thuế tỉnh Lạng Sơn”, bảo vệ năm 2018, tại Trường Đại học Luật Hà
Nội. Luận văn trình bày cơ sở lý luận về pháp luật quản lý thuế thu nhập
doanh nghiệp; phân tích thực trạng pháp luật quản lý thuế thu nhập doanh
nghiệp và thực tiễn thi hành tại Cục Thuế tỉnh Lạng Sơn; từ đó đưa ra một

số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả công
tác này trong thực tiễn.
- Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Khuất Thị Thu Hà với đề tài:
“Thực tiễn áp dụng pháp luật về quản lý thuế giá trị gia tăng đối với các hộ
2


kinh doanh trên địa bàn thành phố Vũng Tàu”, bảo vệ năm 2013, tại Trường
Đại học Luật Hà Nội.
- Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Anh với đề
tài “Pháp luật quản lý thuế thu nhập ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế”, bảo vệ năm 2013, tại Trường Đại học Luật Hà Nội. Đề tài
này nghiên cứu khái quát về pháp luật quản lý thuế thu nhập trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế; phân tích thực trạng pháp luật quản lý thuế thu nhập
ở Việt Nam hiện nay; đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về lĩnh
vực này trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế;
- Luận án tiến sĩ của tác giả Vũ Văn Cương về đề tài: “Pháp luật quản
lý thuế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam - Những vấn đề lý luận và
thực tiễn”, bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội.
Có thể nhận thấy các cơng trình nghiên cứu nêu trên phần nhiều đề
cập đến cơng tác quản lý thuế nói chung, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nói
riêng chưa phân tích, đề cập một cách đầy đủ, chuyên sâu ở một địa phương
cụ thể. Chính vì vậy tác giả nghiên cứu đề tài “Pháp luật về quản lý thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu từ thực tiễn tại Cục Hải quan Lào Cai” là cần thiết; từ
đó đưa ra những kiến nghị về giải pháp hồn thiện pháp luật quản lý thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội trong giai đoạn
hiện nay ở Việt Nam.
3. Mục đích, nhiệm vụ đề tài
Mục đích của đề tài là nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận về
pháp luật quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; đánh giá thực trạng tại một

địa phương cụ thể và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về quản
lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay.
Với mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu và pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu;
- Phân tích các quy định pháp luật hiện hành về quản lý thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu ở Việt Nam và đánh giá thực tiễn thực hiện công tác
quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu tại Cục Hải quan Lào Cai;
- Trên cơ sở lý luận và thực trạng pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu tại Cục Hải quan Lào Cai để chỉ ra một số tồn tại, nguyên
3


nhân và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về quản lý thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vào ba nhóm vấn đề cơ bản bao gồm:
- Lý luận về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
- Thực trạng pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở
Việt Nam và thực tiễn thực hiện tại Cục Hải quan Lào Cai từ năm 2018 đến
năm 2020.
- Giải pháp hoàn thiện pháp luật quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu trong giai đoạn hiện nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở áp dụng các phương pháp
nghiên cứu có tính chất phổ qt trong khoa học xã hội và nhân văn như:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, khái qt hóa: được sử dụng để
nghiên cứu các vấn đề lý luận về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và
pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
- Phương pháp thống kê, phân loại và hệ thống hóa: được sử dụng để

thu thập thông tin, thống kê số liệu, sắp xếp, phân loại quy định pháp luật và
các vấn đề có cùng bản chất để phục vụ cho việc nghiên cứu lý thuyết và thực
tiễn thực hiện công tác quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu tại Cục Hải
quan Lào Cai.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: được sử dụng để đánh giá, bình
luận pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu giữa các văn bản
pháp luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam với nhau.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sau:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu và pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
- Đánh giá, bình luận thực trạng pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu và chỉ ra những vấn đề cần lưu ý trong thực tiễn thi hành,
đóng góp ý kiến xây dựng hoàn thiện pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu.
4


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được
thiết kế thành 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu và pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Thực tiễn quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu tại Cục
Hải quan Lào Cai và một số kiến nghị.

5



Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ THUẾ XUẤT KHẨU,
THUẾ NHẬP KHẨU VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ
THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU
1.1. Những vấn đề lý luận về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
trong điều kiện nền kinh tế thị trƣờng
1.1.1. Khái niệm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Trong đời sống kinh tế xã hội, thuế được biết đến như là khoản tiền do
các tổ chức, cá nhân nộp cho Nhà nước để góp phần chia sẻ gánh nặng chi
tiêu với Nhà nước trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Ở mỗi quốc gia, cấu trúc hệ thống thuế thường bao gồm hai nhóm cơ
bản là thuế nội địa và thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. với tư cách là một loại
thuế đánh vào hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa qua biên giới, thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu có vai trị rất quan trọng, khơng chỉ góp phần tạo nguồn
thu cho ngân sách nhà nước hàng năm mà cịn là cơng cụ hữu hiệu trong tay
Nhà nước để kiểm soát hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa với nước ngồi,
bảo hộ sản xuất trong nước và thực hiện các mục tiêu đối ngoại của Chính
phủ trong từng thời kỳ. Lịch sử hình thành và phát triển của thuế cho thấy
rằng mặc dù xuất hiện tương đối muộn nhưng thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
đã nhanh chóng khẳng định được vai trị, tác dụng to lớn của mình đối với nền
kinh tế quốc gia, đặc biệt là vai trị kiểm sốt hoạt động xuất nhập khẩu hàng
hóa với bên ngồi và bảo hộ nền sản xuất trong nước1.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế đang ngày càng thu hẹp phạm
vi ảnh hưởng và tầm quan trọng của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu song về
cơ bản, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu vẫn sẽ là giải pháp quản lý vĩ mô có
hiệu quả đối với nền kinh tế trong nước, nhất là đối với những quốc gia đang
trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế kinh
tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước như Việt Nam.

Xét về phương diện lý thuyết, có nhiều cách hiểu khác nhau về khái
niệm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, tùy thuộc vào từng góc độ tiếp cận.
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thuế Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2017.

6


Xét về phương diện kinh tế, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được
quan niệm là khoản đóng góp bằng tiền của tổ chức, cá nhân vào ngân sách
nhà nước theo quy định của pháp luật, khi họ có hành vi xuất khẩu, nhập khẩu
hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế qua biên giới của một nước.
Với cách tiếp cận này, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được quan
niệm như là một quan hệ phân phối các nguồn lực tài chính, phát sinh giữa
các chủ thể là tổ chức, cá nhân nộp thuế với người thu thuế là Nhà nước. Mặt
khác, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu còn được hiểu như là đòn bẩy kinh tế
hay biện pháp kinh tế để Nhà nước điều tiết trực tiếp đối với quá trình sản
xuất, tiêu dùng trong phạm vi mỗi quốc gia và chi phối một cách gián tiếp đối
với hoạt động kinh tế trên phạm vi khu vực và toàn cầu.
Xét về phương diện pháp lý, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có thể
được hình dung như là quan hệ pháp luật phát sinh giữa Nhà nước (người thu
thuế) với tổ chức, cá nhân (người nộp thuế), theo đó các bên phải thực hiện
các quyền, nghĩa vụ pháp lý đối với nhau trong quá trình hành thu thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu. Quan hệ pháp luật này phát sinh từ cơ sở pháp lý là đạo
luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu do Quốc hội ban hành mà hậu quả pháp
lý chủ yếu của việc áp dụng đạo luật đó trong thực tiễn là làm phát sinh quyền
thu thuế cho Nhà nước và nghĩa vụ đóng thuế cho các tổ chức, cá nhân là
người nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu2.
Việc tiếp cận khái niệm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu từ góc độ
pháp lý có nhiều ý nghĩa thiết thực, trước hết là giúp chúng ta nhận diện rõ
hơn về bản chất của thuế nói chung và thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nói

riêng, thực chất là một quyết định hành chính đơn phương của quốc gia đối
với người đóng thuế, hay là một “thoả thuận” song phương giữa người thu
thuế với người nộp thuế? Trên cơ sở lý thuyết đó, giúp cho Nhà nước hoạch
định và thực thi chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu phù hợp hơn với
quyền lợi của quốc gia và của người đóng thuế, xét trong mối quan hệ lợi ích
với các quốc gia khác trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Ở nhiều nước trên thế giới, hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá
qua biên giới được điều tiết và kiểm soát bởi hai công cụ chủ yếu là “hàng rào
thuế quan” và “hàng rào phi thuế quan”. Hàng rào thuế quan ở những nước
2. Trường Đại học Luật hà Nội, Giáo trình Luật thuế Việt Nam, NXB Cơng an nhân dân, Hà Nội, 2017.

7


này được hiểu thực chất là thuế nhập khẩu đánh vào hàng hố nhập khẩu3,
chứ khơng bao gồm cả thuế xuất khẩu đánh vào hàng hoá xuất khẩu như Việt
Nam hay Trung Quốc4.
Do có quan niệm khác nhau như trên giữa các nước về nội hàm của
khái niệm “thuế quan” nên chính sách thuế quan của các nước cũng có sự
khác nhau. Sở dĩ có sự khác nhau này trong chính sách thuế quan của các
nước là bởi vì, mỗi quốc gia đều có phong tục, tập quán riêng cần được duy
trì, tơn trọng, bảo vệ và quan trọng hơn, mỗi quốc gia đều có quyền đánh thuế
đối với các cơng dân hay tổ chức mang quốc tịch nước mình hoặc đối với các
cơng dân, tổ chức nước ngồi có hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá diễn ra
trên lãnh thổ nước mình. Quyền đánh thuế của quốc gia chính là cơ sở, là đạo
lý cơ bản để Nhà nước - với tư cách là người đại diện hợp pháp cho quốc gia,
ban hành và áp dụng các đạo luật về thuế quan trên tinh thần của nguyên tắc
lãnh thổ và nguyên tắc quốc tịch.
1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
So với các loại thuế nội địa thì thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có

nhiều điểm khác biệt quan trọng cần được nhận diện đầy đủ và chính xác.
Những điểm khác biệt này bắt nguồn từ bản chất và chức năng của thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu. Theo quan điểm nhận thức của tác giả luận văn, các
đặc điểm cơ bản này bao gồm5:
Thứ nhất, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có đối tượng chịu thuế là
các hàng hoá được phép vận chuyển qua biên giới của một quốc gia theo quy
định của pháp luật quốc gia đó. Khái niệm “hàng hố” là đối tượng chịu thuế
nhập khẩu có thể hiểu theo nghĩa thơng thường, bao gồm các tư liệu sản xuất
và tư liệu tiêu dùng do con người sản xuất ra và được lưu thông trên thị
trường bằng cách chuyển vào hoặc chuyển ra khỏi biên giới của một nước.
Trong xã hội hiện đại ngày nay, xuất hiện ngày càng nhiều loại hàng
hoá vơ hình được chuyển vào hoặc ra khỏi biên giới một nước nhưng không
phải bằng phương thức thông thường mà cơ quan Hải quan có thể kiểm sốt
được. Ví dụ điển hình cho những loại hàng hố này chính là những sản phẩm
3. Khoản 1 Điều 12 Luật Hải quan Indonesia; tiết 100 Luật thuế quan trong Bộ Luật Hải quan Philippines và
Luật thuế hải quan (chống bán phá giá) năm 1975 của Úc.
4. Điều 53 Luật Hải quan Trung Quốc.
5. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thuế Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2017.

8


phần mềm công nghệ thông tin được giao dịch hàng ngày qua mạng máy tính
tồn cầu (internet).
Thứ hai, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có tính chất đặc thù so với
nhiều loại thuế nội địa khác. Điều này thể hiện ở chỗ, đối với thuế xuất khẩu,
loại thuế này luôn có tính chất là thuế gián thu, vì khoản thuế xuất khẩu sau
khi nộp sẽ được tính vào giá xuất khẩu và chuyển cho người nhập khẩu chịu
thông qua việc thanh tốn tiền hàng cho người xuất khẩu. Cịn đối với thuế
nhập khẩu, khi nhà nhập khẩu nộp thuế nhập khẩu và tự tiêu dùng số hàng

hố nhập khẩu đó chứ khơng bán ra bên ngồi thì khi đó khoản thuế nhập
khẩu đã nộp có tính chất giống như là thuế trực thu, vì chính người nhập khẩu
vừa là người nộp thuế đồng thời là người chịu thuế. Ngược lại, khi nhà nhập
khẩu đã nộp xong thuế nhập khẩu và bán lại số hàng hố đó cho người khác
thì số tiền thuế nhập khẩu đã nộp có xu hướng chuyển sang cho người mua
hàng chịu và do đó, khoản thuế nhập khẩu này lại có tính chất là thuế gián
thu, bởi lẽ người nộp thuế và người chịu thuế không phải là một.
Thứ ba, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có chức năng đặc trưng là bảo
hộ sản xuất trong nước và điều tiết hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa qua biên
giới. Chức năng này thể hiện sự khác biệt căn bản giữa thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu với các loại thuế nội địa khác như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ
đặc biệt, thuế sử dụng đất, thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh
nghiệp… Tuy nhiên, trải qua thời gian, dưới sức ép của trào lưu hội nhập kinh
tế quốc tế và tự do hoá thương mại, chức năng bảo hộ nền sản xuất trong nước
của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có xu hướng ngày càng giảm sút, để nhường
chỗ cho chức năng tạo nguồn thu ngân sách nhà nước. Ngày nay, do chính sách
thuế nhập khẩu của các nước có xu hướng cắt giảm dần các mức thuế suất
nhằm đáp ứng yêu cầu tự do hố thương mại quốc tế nên có thể trong tương lai,
ranh giới để phân biệt giữa thuế nhập khẩu và thuế nội địa sẽ trở nên rất mong
manh và thậm chí có thể bị “xố nhồ” hồn tồn, khi mà tự do hố thương
mại đã trở thành xu hướng tất yếu và mang tính hiện thực trên tồn thế giới6.
1.1.3. Vai trị của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Giống như bất kỳ loại thuế nào, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cũng
thể hiện ba vai trò cơ bản sau đây:
6. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thuế Việt Nam, NXB Cơng an nhân dân, Hà Nội, 2017.

9


Một là, tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Vai trị này thể hiện ở

chỗ, nhờ có thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu mà Nhà nước có thêm nguồn thu
cho ngân sách nhà nước và nguồn thu này có thể chiếm một tỷ lệ khác nhau
trong tổng thu ngân sách nhà nước ở từng quốc gia, tùy thuộc vào kim ngạch
xuất, nhập khẩu hàng năm của mỗi quốc gia là nhiều hay ít. Trong điều kiện
tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng trở nên mạnh mẽ, vai trò tạo
nguồn thu cho ngân sách nhà nước của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu chắc
chắn sẽ có xu hướng ngày càng giảm sút và chính phủ các nước thường có xu
hướng lựa chọn các giải pháp khác để tăng nguồn thu cho ngân sách nhà
nước, trong khi thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu buộc phải giảm do các quốc
gia phải thực hiện các cam kết quốc tế về cắt giảm thuế quan.
Hai là, điều tiết hoạt động kinh tế. Có thể nhận thấy, đây là vai trị rất
quan trọng của thuế nói chung và thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nói riêng ở
mọi quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Vai trị này thể hiện ở chỗ,
Nhà nước có thể sử dụng thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu như một công cụ
kinh tế - tài chính để tác động vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp, từ đó điều tiết hoạt động kinh tế trong nước và đồng thời cũng
điều tiết mức độ tăng trưởng của nền kinh tế quốc gia cho phù hợp với yêu
cầu phát triển kinh tế trong từng thời kỳ.
Ba là, hướng dẫn tiêu dùng trong xã hội. Vai trò này của thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu thể hiện ở chỗ, nếu Nhà nước muốn người tiêu dùng
trong nước ưu tiên sử dụng hàng hóa sản xuất trong nước và hạn chế dùng
hàng hóa nhập khẩu thì Nhà nước sẽ có xu hướng đánh thuế thấp đối với hàng
hóa sản xuất trong nước và đánh thuế nhập khẩu cao đối với hàng nhập khẩu.
Ngược lại, nếu Nhà nước muốn thúc đẩy việc xuất khẩu hàng hóa có xuất xứ
Việt Nam để tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị
trường quốc tế thì Nhà nước sẽ giảm thuế xuất khẩu, thậm chí khơng đánh
thuế đối với hàng xuất khẩu được xuất sang các thị trường mà Nhà nước
mong muốn nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa có nguồn gốc, xuất
xứ từ Việt Nam.
Ngoài ra, do đặc trưng cơ bản của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là

đánh vào các hàng hoá xuất khẩu hoặc nhập khẩu và sau đó được cấu thành
trong giá cả của hàng hoá xuất, nhập khẩu nên loại thuế này cịn có một vai
10


trị khá đặc thù, đó là bảo hộ nền sản xuất trong nước và chống lại xu hướng
cạnh tranh không cân sức giữa hàng hoá trong nước với hàng hoá ngoại nhập.
Xét trên bình diện lý thuyết, vai trị này của thuế nhập khẩu được thể
hiện ở chỗ: do bị đánh thuế nhập khẩu nên về lý thuyết, giá cả của loại hàng
hoá này trên thị trường nước nhập khẩu sẽ tăng lên, trong khi đó các hàng hố
được sản xuất trong nước, do không phải chịu thuế nhập khẩu (hoặc chỉ phải
chịu thuế nhập khẩu cho phần nguyên liệu hay máy móc, thiết bị là tài sản cố
định nhập khẩu) nên giá thành sản phẩm của loại hàng hoá này có xu hướng
rẻ hơn và do đó có sức cạnh tranh lớn hơn so với hàng ngoại nhập. Điều này
cho thấy việc đánh thuế xuất khẩu hay thuế nhập khẩu thực chất là một biện
pháp để một quốc gia thực hiện chính sách bảo hộ nền sản xuất trong nước,
khi Chính phủ nhận thấy những bất lợi nghiêng về phía các hàng hố được
sản xuất từ các doanh nghiệp trong nước7.
1.2. Khái niệm và đặc điểm của quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
1.2.1. Khái niệm quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Để làm rõ khái niệm quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, có lẽ
trước hết cần bắt đầu từ việc làm rõ các khái niệm có tính chất tiền đề như
khái niệm “quản lý” và khái niệm “quản lý thuế”.
Về khái niệm “quản lý”.
Theo Từ điển Hán - Việt của tác giả Đào Duy Anh, “quản lý” được
giải nghĩa là “sắp đặt, chăm nom công việc”8. Tương tự, theo Từ điển từ và
ngữ Hán Việt của tác giả Nguyễn Lân, “quản lý” cũng được giải nghĩa là
“chăm nom và sắp đặt công việc trong một tổ chức”9. Theo Từ điển Việt Nam
của tác giả Thanh Nghị, “quản lý” được giải nghĩa là “trông nom, coi sóc”10.
Trong đời sống kinh tế, xã hội, quản lý được quan niệm là việc quản

trị của một tổ chức, cho dù đó là một doanh nghiệp, một tổ chức phi lợi nhuận
hoặc cơ quan chính phủ. Quản lý bao gồm các hoạt động thiết lập chiến
lược của một tổ chức và điều phối các nỗ lực của nhân viên (hoặc tình nguyện
viên) để hồn thành các mục tiêu của mình thơng qua việc áp dụng các nguồn
7. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thuế Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2017.
8. Đào Duy Anh, Từ điển Hán Việt, NXB Khoa học Xã hội, tr. 154.
9. Nguyễn Lân, Từ điển từ và ngữ Hán Việt, NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội 2002, tr. 555.
10. Thanh Nghị, Từ điển Việt Nam, NXB Thời Thế, Sài Gòn, 1958, tr. 1063.

11


lực sẵn có, như tài chính, tự nhiên, cơng nghệ và nhân lực. Thuật ngữ “quản
lý” cũng có thể chỉ những người quản lý một tổ chức.
Về khái niệm “Quản lý thuế”.
Trong khoa học kinh tế - tài chính, khái niệm “quản lý thuế” đã được
một số tác giả nhắc đến trong cuốn “Tài chính cơng” được xuất bản bởi
Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh (năm 2005), theo đó: “Quản
lý thuế là những biện pháp nghiệp vụ do cơ quan có chức năng thu ngân sách
nhà nước thực hiện”. Với cách định nghĩa này, các tác giả của tác phẩm nói
trên cho rằng quản lý thuế là hoạt động mang tính chức năng, nhiệm vụ của
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu ngân sách nhà nước (ví dụ: cơ quan
thuế, cơ quan hải quan…), hướng tới mục tiêu cơ bản là đảm bảo thu đúng,
thu đủ số thuế phải nộp đối với người nộp thuế.
Trong khoa học pháp lý, một số tác giả luận văn, luận án khi thực hiện
cơng trình nghiên cứu của mình đã đưa ra những định nghĩa khác nhau về
quản lý thuế nhưng các định nghĩa này đều chỉ phản ánh quan điểm cá nhân
của mỗi tác giả, chưa phải là định nghĩa chính thức được thừa nhận rộng rãi
trong giới luật học.
Trong pháp luật thực định (bao gồm cả Luật Quản lý thuế mới nhất

được ban hành năm 2019), các nhà làm luật cũng khơng giải thích thuật ngữ
“quản lý thuế” là gì. Rõ ràng, sự thiếu vắng một định nghĩa chính thức về
quản lý thuế đã phần nào gây khó khăn cho việc nghiên cứu lý thuyết về quản
lý thuế nói chung và quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nói riêng.
Qua nghiên cứu, tìm hiểu lý thuyết về quản lý thuế cho thấy, có hai
luồng quan điểm, ý kiến khác nhau về khái niệm và bản chất của quản lý thuế
nói chung và quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nói riêng.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, quản lý thuế là hoạt động quản lý hành
chính nhà nước về thuế, do cơ quan thuế và các cơ quan hành chính nhà nước
khác thực hiện với tư cách là chức năng quản lý hành chính của nhóm chủ thể
này. Quan điểm này thể hiện cách tiếp cận quản lý thuế theo nghĩa hẹp, chỉ
bao gồm hoạt động quản lý hành chính về thuế của các cơ quan hành chính
nhà nước mà thơi. Ví dụ điển hình cho quan điểm này là định nghĩa đã dẫn ở
trên, theo đó: “Quản lý thuế là những biện pháp nghiệp vụ do cơ quan có chức
12


năng thu ngân sách nhà nước thực hiện”11. Ngoài ra, tác phẩm này cũng cho
rằng quản lý thuế “đó là những hoạt động thường xuyên của cơ quan thu
hướng về phía đối tượng nộp nhằm đảm bảo thu thuế đầy đủ, kịp thời và đúng
luật định”. Với quan niệm như vậy, quản lý thuế được hiểu gần như đồng
nghĩa với quản lý thu thuế. Nó bao gồm việc xây dựng kế hoạch thu thuế, tổ
chức các biện pháp hành thu và tổ chức bộ máy ngành thuế. Theo quan điểm
này, quản lý thuế là quá trình Nhà nước sử dụng hệ thống các cơng cụ và
phương pháp thích hợp tác động lên đối tượng của quản lý thuế làm cho
chúng vận động phù hợp với mục tiêu đặt ra.
Như vậy, với quan điểm tiếp cận coi quản lý thuế là quản lý hành
chính nhà nước thì đương nhiên chủ thể quản lý thuế sẽ được xác định là Nhà
nước (thông qua các cơ quan nhà nước cụ thể được trao thẩm quyền như cơ
quan thuế, cơ quan hải quan, các cơ quan quản lý nhà nước các cấp tham gia

vào hoạt động quản lý thuế…) và đối tượng quản lý thuế sẽ là các tổ chức, cá
nhân - với tư cách là người nộp thuế. Cũng theo quan điểm này, các công cụ
được Nhà nước sử dụng trong quản lý thuế chính là pháp luật, là kế hoạch, là
chính sách và một số công cụ khác.
Trong số các công cụ này, pháp luật là cơng cụ quản lý thuế có tính
định hướng và điều tiết quan trọng nhất. Nó tạo tiền đề để điều chỉnh các quan
hệ kinh tế, duy trì sự ổn định lâu dài của nền kinh tế quốc dân nhằm thực hiện
mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững. Nó tạo cơ chế pháp lý hữu hiệu để
thực hiện sự bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ về thuế giữa các chủ thể kinh
tế. Kế hoạch cũng là một công cụ không thể thiếu trong quản lý thuế. Nếu
quản lý thuế không lên kế hoạch ngắn hạn, trung và dài hạn một cách cụ thể
thì khơng thể đánh giá so sánh được chất lượng hiệu quả của quản lý thuế qua
các từng giai đoạn, không rút ra được những kinh nghiệm bổ ích phục vụ
cơng tác quản lý thuế. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường hiện nay, với
nhiều nhân tố tác động đến quản lý thuế từ trong và ngồi nước, cơng tác lập
kế hoạch và quản trị chiến lược trong quản lý thuế càng trở nên quan trọng
hơn bao giờ hết.
Trong hệ thống các cơng cụ quản lý, các chính sách được xem là bộ
phận năng động nhất, có độ nhạy cảm cao trước những biến động trong đời
11. Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh, “Tài chính cơng”, xuất bản năm 2005.

13


sống kinh tế xã hội của đất nước. Các chính sách về kinh tế rất đa dạng,
nhưng đều có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới quản lý thuế. Những chính
sách chủ yếu tác động tới quản lý thuế gồm có chính sách kinh tế đối ngoại,
chính sách cơ cấu kinh tế, chính sách thuế. Chính sách kinh tế đối ngoại thay
đổi theo hướng mở cửa, hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới thì cơng tác
quản lý thuế sẽ trở nên khó khăn, phức tạp hơn, do phải đối mặt với những

vấn đề mới phát sinh như thuế trùng, chuyển giá, cạnh tranh thuế... Chính
sách cơ cấu kinh tế thay đổi theo hướng chuyển dịch từ nông nghiệp, cơng
nghiệp sang dịch vụ thì cơ cấu nguồn thu từ thuế cũng có sự thay đổi. Chính
sách thuế thay đổi để phù hợp với yêu cầu của hội nhập như cắt giảm thuế
quan và tuân theo các nguyên tắc quốc tế thì nguồn thu từ thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu cũng bị ảnh hưởng. Ngồi ra, nó có thể tác động tới bộ máy
quản lý thuế, chu trình quản lý thuế. Bộ máy quản lý thuế phải hình thành
thêm những phịng chức năng mới, chu trình quản lý thuế phải thiết kế phù
hợp với chuẩn mực quốc tế. Với những lý do trên, hệ thống các chính sách
kinh tế là công cụ vô cùng quan trọng cần được xây dựng phù hợp với đặc
điểm của nền kinh tế trong nước và xu thế tồn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc
tế đang ngày càng gia tăng.
Quan điểm thứ hai cho rằng, quản lý thuế là hoạt động của nhiều chủ
thể khác nhau, trong đó có chủ thể là Nhà nước (thơng qua các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền) và các tổ chức, cá nhân (trong đó có những người nộp
thuế). Quan điểm này thể hiện cách tiếp cận quản lý thuế theo nghĩa rộng,
theo đó quản lý thuế khơng chỉ là hoạt động có tính chất quyền lực của Nhà
nước, mà cịn là hoạt động có tính cách xã hội và giám sát cộng đồng của các
tổ chức, cá nhân, trong đó bao gồm cả những người trực tiếp hoặc gián tiếp
nộp thuế cho Nhà nước.
Ở Việt Nam hiện nay, quan điểm này đã được thể hiện khá rõ trong
Luật Quản lý thuế năm 2019, theo đó Khoản 3 Điều 5 đạo luật này quy định
một trong những nguyên tắc quản lý thuế là: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có
trách nhiệm tham gia quản lý thuế theo quy định của pháp luật”12.
Theo quan điểm này, các yếu tố cấu thành của quản lý thuế có sự khác
biệt nhất định so với quan điểm thứ nhất về quản lý thuế. Cụ thể là:
12. Điều 5 Luật Quản lý thuế năm 2019.

14



(i) Về chủ thể quản lý thuế, không chỉ là các cơ quan hành chính nhà
nước mà cịn bao gồm rất nhiều chủ thể khác như các cơ quan quyền lực nhà
nước, các cơ quan tư pháp, các tổ chức đoàn thể xã hội, mọi doanh nghiệp và
cá nhân, trong đó bao gồm cả những người trực tiếp nộp thuế cho Nhà nước;
(ii) Về đối tượng quản lý thuế, không chỉ là hoạt động đăng ký, kê
khai, nộp thuế, quyến tốn thuế của người nộp thuế mà cịn bao gồm cả hoạt
động hành thu thuế, giải quyết khiếu nại về thuế, xét miễn giảm thuế, hoàn
thuế hay truy thu thuế của các cơ quan nhà nước và công chức nhà nước có
thẩm quyền trong q trình thực thi cơng vụ.
Tóm lại, từ sự phân tích các quan điểm trên đây về quản lý thuế, tác
giả luận văn đồng ý với quan điểm thứ hai về quản lý thuế, theo đó cần phải
tiếp cận khái niệm quản lý thuế nói chung và quản lý thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu nói riêng theo nghĩa rộng. Với quan điểm này, tác giả cho rằng có
thể định nghĩa về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu như sau: Quản lý
thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là hoạt động có mục đích của các chủ thể liên
quan gồm các cơ quan nhà nước, các tổ chức và cá nhân thông qua việc áp
dụng những biện pháp nhất định, phù hợp với pháp luật nhằm đảm bảo cho
việc đăng ký, kê khai, tính thuế, nộp thuế, quyết tốn thuế, truy thu, hồn thuế,
miễn giảm thuế và giải quyết khiếu nại, khởi kiện về thuế nhập khẩu được
thực hiện hiệu quả, đúng pháp luật, góp phần ổn định nguồn thu cho ngân
sách nhà nước, điều tiết hiệu quả các hoạt động kinh tế và hướng dẫn tiêu
dùng hợp lý trong xã hội.
1.2.2. Các đặc điểm của quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Xét về phương diện lý thuyết, có thể cho rằng quản lý thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu thể hiện những đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, về chủ thể quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
Như đã đề cập ở trên, chủ thể tham gia quản lý thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu bao gồm trước hết là các cơ quan nhà nước (cơ quan lập pháp, cơ
quan hành pháp, cơ quan tư pháp), trong đó các cơ quan hành pháp nói chung

và cơ quan thuế, hải quan nói riêng đóng vai trị chủ đạo trong cơng tác quản
lý thuế. Ngồi ra, chủ thể tham gia quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
còn bao gồm các tổ chức, cá nhân khác, kể cả các tổ chức, cá nhân là người
có nghĩa vụ kê khai, nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
15


Thực tế cho thấy, mặc dù thành phần chủ thể tham gia quản lý thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu tương đối đa dạng nhưng thực tế đa số các ý kiến
đều cho rằng chủ thể chính tham gia quản lý thuế nói chung và quản lý thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu nói riêng là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
như cơ quan thuế, cơ quan hải quan, các cơ quan hành chính nhà nước khác.
Thứ hai, về đối tượng quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
Trong khoa học pháp lý, đối tượng quản lý thuế là khái niệm gây
nhiều tranh cãi. Có ý kiến cho rằng: Đối tượng của quản lý thuế là các quan
hệ phát sinh trước, trong và sau quá trình triển khai tổ chức thu nộp thuế cho
nhà nước. Các quan hệ này có thể diễn ra giữa cơ quan thuế với người nộp
thuế, giữa người nộp thuế với nhau, giữa nội bộ cơ quan thuế, thậm chí giữa
cơ quan thuế trong nước với cơ quan thuế các nước khác... Vì vậy, nó hết sức
đa dạng và phức tạp địi hỏi phải có các cơng cụ và phương pháp quản lý
thích hợp. Quan điểm này coi đối tượng quản lý thuế chính là các quan hệ xã
hội phát sinh trong lĩnh vực thuế giữa cơ quan thuế với nhau hoặc giữa cơ
quan thuế với người nộp thuế. Tuy nhiên, quan điểm khác lại cho rằng: Đối
tượng quản lý thuế chính là hành vi của các chủ thể tham gia quan hệ thuế, ví
dụ, hành vi của người nộp thuế, hành vi của cơ quan thuế hoặc công chức
thuế, hành vi của các tổ chức, cá nhân khác có liên quan (tổ chức cung cấp
dịch vụ thuế, tổ chức khấu trừ thuế tại nguồn…). Quan điểm này thể hiện
cách tiếp cận đối tượng quản lý thuế từ khía cạnh hành vi của chủ thể tham
gia quan hệ quản lý thuế chứ khơng phải là chính quan hệ quản lý thuế.
Thứ ba, về phương pháp quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.

Về lý thuyết, phương pháp quản lý thuế nói chung và quản lý thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu nói riêng bao gồm: phương pháp hành chính;
phương pháp kinh tế; phương pháp giáo dục, thuyết phục.
Phương pháp hành chính được sử dụng khi các chủ thể của quản lý
thuế muốn các địi hỏi của mình phải được đối tượng quản lý thuế tuân thủ
một cách bắt buộc, vô điều kiện. Quản lý thuế bằng phương pháp hành chính
cần tránh kiểu quản lý hành chính quan liêu, lạm dụng quyền hành. Sử dụng
phương pháp này chỉ có hiệu quả khi các quyết định mà chủ thể quản lý thuế
đưa ra có căn cứ khoa học, được luận chứng đầy đủ về mặt kinh tế. Sử dụng
phương pháp hành chính phải gắn chặt với việc xác định rõ ràng quyền hạn và
16


trách nhiệm của cấp ra quyết định, mỗi bộ phận, mỗi cán bộ khi sử dụng các
quyền hạn đó (trong đó cần đặc biệt nhấn mạnh đến trách nhiệm giải trình).
Phương pháp kinh tế được sử dụng thơng qua việc dùng lợi ích vật
chất để kích thích tính tích cực của các chủ thể quản lý, tức là tác động tới các
tổ chức và cá nhân đang thực hiện các hoạt động quản lý thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu. Phương pháp kinh tế trong quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
thể hiện dưới hình thức khốn, thưởng, ưu đãi về lợi ích vật chất...
Phương pháp giáo dục, thuyết phục trong quản lý thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu được sử dụng thông qua việc Nhà nước tác động vào nhận thức và
tình cảm của chủ thể quản lý nhằm nâng cao tính tự giác, tính tích cực của họ
trong việc thực hiện các quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Nhà nước có thể sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng như sách, báo,
đài phát thanh, truyền hình... sử dụng các tổ chức đồn thể, các hoạt động có
tính xã hội để thực hiện tun truyền, giáo dục nhằm góp phần quản lý thuế
nói chung và quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu tốt hơn.
Thứ tư, về mục tiêu quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
Tùy vào đặc điểm về kinh tế, xã hội, truyền thống văn hóa của từng

quốc gia mà quản lý thuế nói chung và quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu nói riêng sẽ có các mục tiêu khác nhau. Nhìn chung, quản lý thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu ở các nước thường nhằm vào các mục tiêu cơ bản như:
- Tập trung, huy động đầy đủ, kịp thời số thu cho ngân sách nhà nước
trên cơ sở không ngừng nuôi dưỡng và phát triển nguồn thu. Thuế là nguồn
thu chủ yếu của ngân sách nhà nước ở hầu hết các nước trên thế giới. Thuế tài
trợ cho các hoạt động cơ bản của chính phủ. Vì vậy, quản lý thuế phải hướng
đến việc khai thác tối đa nguồn thu này. Tuy nhiên, để tăng trưởng và ổn định
số thu của ngân sách nhà nước trong tương lai, công tác quản lý thuế cũng cần
chú ý duy trì và phát triển các cơ sở tạo ra nguồn thu thuế. Không nên thu
thuế với thuế suất quá cao, thu thuế bằng mọi giá. Xây dựng một chính sách
thuế phải phối hợp với việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mơ khác.
Các chính sách thuế của nhà nước, dù trực tiếp hay gián tiếp đều có tác động
đến thu nhập của các tổ chức kinh tế và cá nhân, tác động đến các hoạt động
kinh tế - vốn dĩ là cơ sở tạo ra nguồn thu thuế trong tương lai.
17


- Tối thiểu hóa chi phí để từ đó nâng cao hiệu quả quản lý thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu. Chi phí cho quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
trước hết là những chi phí của chính phủ liên quan đến quản lý thuế. Nó bao
gồm chi phí trả lương cho đội ngũ cán bộ ngành thuế hay hải quan, chi phí in
ấn tài liệu, ghi chép lưu giữ sổ sách hóa đơn chứng từ, chi cho cơ sở vật chất,
trang thiết bị máy móc, chi phí tư vấn cho người nộp thuế, chi phí khác...
Ngồi ra, chi phí cho quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu còn phải kể đến
các chi phí tuân thủ của người nộp thuế. Nếu Nhà nước chỉ quan tâm đến tối
thiểu hóa chi phí cho bộ máy hành thu, đẩy gánh nặng chi phí tn thủ cho
người nộp thuế thì khơng giải quyết được một cách căn cơ mối quan hệ giữa
cơ quan thuế với người nộp thuế. Sở dĩ như vậy là bởi vì, nếu người nộp thuế
phải gánh chịu các chi phí quá cao của việc tuân thủ pháp luật thuế thì tất yếu

họ sẽ phản ứng bằng cách tránh thuế, trốn thuế hoặc dây dưa nộp thuế, từ đó
gây khó khăn cho cơ quan thuế trong q trình hành thu.
- Phát huy tối đa vai trò của thuế trong nền kinh tế. Vai trị của thuế
nói chung và thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nói riêng mang tính tồn diện
trên nhiều lĩnh vực. Thuế (trong đó có thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu) là
nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô,
điều tiết thu nhập, giảm bớt chênh lệch giàu nghèo, thuế góp phần kiểm tra,
giám sát các hoạt động sản xuất kinh doanh. Song, những vai trị đó chỉ có thể
đạt được khi con người biết lựa chọn cách hành xử phù hợp, bởi lẽ các vai trị
đó là kết quả của những tác động từ phía con người. Những tác động này được
thực hiện thông qua những nội dung, những công việc cụ thể của công tác
quản lý thuế nói chung và quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nói riêng.
- Tăng cường ý thức chấp hành pháp luật cho các tổ chức kinh tế và
dân cư. Quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một trong những nội dung
cơ bản của quản lý tài chính nhà nước. Giống như các hoạt động quản lý
khác, quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cũng phải thông qua cơng cụ
luật pháp, chính sách để điều chỉnh hành vi của các cá nhân, các tổ chức kinh
tế trong hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa
nói riêng. Mặt khác, trong q trình triển khai thực hiện các chính sách đó,
bằng cơng tác thanh tra, kiểm tra đối tượng nộp thuế thì ý thức chấp hành
pháp luật thuế của người dân cũng sẽ được nâng cao. Ý thức chấp hành pháp
18


×