Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Những nguyên tắc tổ chức của lênin về đảng kiểu mới của giai cấp công nhân trong tác phẩm “một bước tiến hai bước lùi” ý nghĩa đối với xây dựng chỉnh đốn đảng ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.04 KB, 27 trang )

1
Những nguyên tắc tổ chức của Lênin về Đảng kiểu mới
của giai cấp công nhân trong tác phẩm “Một bước tiến
hai bước lùi”. Ý nghĩa đối với xây dựng chỉnh đốn Đảng
ta hiện nay

V.I.Lênin vị lãnh tụ vĩ đại, thiên tài của phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế. Người dã có cơng lao to lớn trong
việc kế tục và phát triển chủ nghĩa Mác lên một tầm vóc mới.
Những cống hiến của ơng được thể hiện trên tồn bộ các lĩnh
vực nhưng đặc biệt suất xắc là về những nguyên lý xây dựng
Đảng, nguyên tắc tổ chức về Đảng kiẻu mới của giai cấp cơng
nhân.
Tồn bộ những quan điểm, tư tưởng của Lênin về xây
dựng Đảng nói chung và những nguyên tắc tổ chức về Đảng
kiểu mới của giai cấp cơng nhân nói riêng đã được Lênin nêu
ra trong một loạt tác phẩm và nó đã trải qua quá trình hình
thành và phát triển theo một quá trình lịch sử của phong trào
cộng sản với thuộc tính cơ bản là tính cách mạng và khoa học
hết sức đúng đắn. Nó là cơ sở nền tảng kim chỉ nam cho các
Đảng cộng sản trong quá trình tổ chức xây dựng và phát
triển. Và có thể nói những nguyên tắc tổ chức của Lênin về
Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân được ông thể hiện một
cách cụ thể và đầy đủ nhất trong tác phẩm “Một bước tiến hai
bước lùi”.
I. Hoàn cảnh lịch sử ra đời của tác phẩm
Sau Đại hội I (1898), Đảng công nhân dân chủ- xã hội
Nga rơi vào tình trạng phân tán về tư tưởng, tan rã về tổ chức.


2


Nhờ có tác phẩm “làm gì” và một loạt bài báo khác của
V.I.Lênin trên báo “Tia lửa” những quan điểm tư tưởng cơ hội
của phái “kinh tế” bị bóc trần và bị đánh bại một bước, tạo
điều kiện cho việc thành lập một Đảng tập trung thống nhất.
V.I.Lênin và Ban biên tập của tờ báo Tia lửa tiến hành làm
công tác chuẩn bị cho Đại hội II.
Tháng 7 năm 1903 Đại hội II Đảng công nhân dân chủxã hội Nga đã được triệu tập và có nhiệm vụ: thơng qua
cương lĩnh, điều lệ, bầu Ban chấp hành Trung ương, kiện tồn
cơ quan ngơn luận của Đảng (Ban biên tập tờ báo tia lửa).
Đại hội II diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa
phái Bơnsêvích đứng đầu là V.I.Lênin và phái Mensêvích đứng
đầu là Mác-tốp và ác-xen-xrốt. Cuối cùng cương lĩnh, điều lệ
được thông qua, Ban chấp hành Trung ương và Ban biên tập
của tờ báo Tia lửa đã được bầu. Đó là một bước tiến lớn của
phong trào công nhân Nga và những người dân chủ-xã hội.
Tuy nhiên sau Đại hội phái Mensêvích đã phản kích lại: xuyên
tạc kết quả Đại hội, chiếm Ban biên tập báo Tia lửa, vu khống
bịa đặt, nói xấu V.I.Lênin và những người Bơnsêvích. Đảng lại
lâm vào khủng hoảng, chia rẽ về mặt tổ chức. Đó là những
bước lùi lớn của phong trào. Thực tiễn đặt ra cho V.I.Lênin và
những người Bơnsêvích nhiệm vụ đánh bại bọn cơ hội, bảo vệ
Đảng, bảo vệ những quan điểm mác xít về mặt tổ chức trong
Đảng. Đáp ứng tình hình đó V.I.Lêin đã viết tác phẩm “Một
bước tiến hai bước lùi”, tháng 5 năm 1904.
II. Tư tưởng chủ yếu và nội dung cơ bản của tác
phẩm


3
1. Tư tưởng chủ yếu của tác phẩm

Nguồn gốc, diễn biến, ý nghĩa của cuộc đấu tranh trong
và sau đại hội II của Đảng Công nhân dân chủ- xã hội Nga
vạch trần các quan điểm và thủ đoạn cơ hội về mặt tổ chức
của phái Mensêvích, khẳng định những nguyên tắc mácxít về
mặt tổ chức của Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.
2. Nội dung cơ bản của tác phẩm
a. Diễn biến Đại hội II của Đảng công nhân dân
chủ- xã hội Nga
* Sự phân chia các phái trong Đại hội II của Đảng công
nhân dân chủ –xã hội.
Thành phần triệu tập tham gia Đại hội II Đảng công nhân
dân chủ-xã hội Nga gồm 51 đại biểu của 26 tổ chức đảng, có
mặt tham dự đại hội 43 đại biểu, một số đại biểu dự khuyết.
Do một số tổ chức có đại biểu vắng mặt được quyền biểu
quyết thay (biểu quyết hai tay) nên mọi vấn đề trong Đại hội
đều được quyết định thông qua 51 phiếu bầu.
Thành phần tham gia Đại hội rất phức tạp, với nhiều
khuynh hướng chính trị khác nhau. Ngay từ đầu Đại hội đã
hình thành 3 nhóm:
Một là, nhóm “Tia lửa” gồm 33 đại biểu do V.I.Lênin đứng
đầu, đầu giai đoạn 2 của Đại hội, nhóm này lại phân hố
thành hai phái: Phái đa số (Bơnsêvích) gồm 9 đại biểu, do Mác
– tốp đứng đầu.
Hai là, nhóm lừng chừng ngả nghiêng gồm đại biểu của
nhóm “cơng nhân miền Nam” nhóm này ngồi miệng thì thừa
nhận những quan điểm của nhóm “Tia lửa” nhưng lại có kế


4
hoạch riêng, họ khơng vững vàng về ngun tắc. Ngồi ra cịn

có một số nhóm nhỏ khác phụ thuộc vào nhóm cơng nhân
miền Nam. Đại biểu nhóm này là Êgơ Rốp, MaKhốp, L.Vốp.
Ba là, nhóm “chống tia lửa” gồm đại biểu của phái Bun,
họ phản đối chế độ tập trung, chủ trương thành lập Đảng theo
dân tộc theo vùng lãnh thổ. Đại biểu là Libe, Bơruke,
Gơndơlát. Trong nhóm chống “Tia lửa” cịn có đại biểu của
nhóm “Sự nghiệp cơng nhân”, họ chống lại nguyên tắc của
nhóm “Tia lửa” về cương lĩnh, sách lược và tổ chức, đại biểu
của nhóm này là Máctưnốp, Akinốp…
Sự tồn tại của các nhóm với khuynh hướng chính trị khác
nhau là nguồn gốc của cuộc đấu tranh giữa hai khuynh
hướng: khuynh hướng cách mạng và khuynh hướng cơ hội
trong suốt quá trình đại hội và sau đại hội trên tất cả các vấn
đề về cương lĩnh, sách lược và điều lệ.
* Cuộc đấu tranh diễn ra trong Đại hội II
Cuộc đấu tranh diễn ra trong đại hội II của Đảng công
nhân dân chủ-xã hội Nga chia thành làm 3 giai đoạn.
Giai đoạn 1: Chủ yếu diễn ra giữa nhóm Tia lửa và nhóm
chống Tia lửa trên các vấn đề cơ bản: Thành phần tham gia
đại hội, vị trí của phái Bun, cương lĩnh ruộng đất, quyền bình
đẳng về ngơn ngữ và chế độ tập trung trong Đảng.
Quá trình đấu tranh trên các vấn đề cơ bản đã thể hiện
rõ khuynh hướng chính trị của các nhóm đại biểu và sự dao
động ngả nghiêng của một số đại biểu trong nhóm “Tia lửa”.
Tuy có những ý kiến khác nhau, song các đại biểu trong nhóm
“Tia lửa” đều nhất trí với nhau trên các vấn đề cơ bản về


5
cương lĩnh và sách lược. Vì vậy những nghị quyết của Đại hội

được thơng qua theo quan điểm của nhóm “Tia lửa”.
Giai đoạn 2: Cuộc đấu tranh diễn ra giữa một bên là phái
đa số với một bên là phái thiểu số trong nhóm “Tia lửa” liên
kết với các phần tư cơ hội chủ nghĩa trên các vấn đề: Tiết 1
bản dự thảo Điều lệ Đảng và các vấn đề cơ bản về nguyên
tắc, chế độ tổ chức và sinh hoạt đảng. Khi thảo luận các vấn
đề này sự bất đồng ý kiến trong nhóm “Tia lửa” đã bộc lộ
hồn toàn, phái thiểu số tách khỏi phái đa số và liên minh
chặt chẽ với những phần tử cơ hội chủ nghĩa. Trong Đại hội đã
xảy ra tranh luận gay gắt giữa quan điểm của V.I.Lênin và
quan điểm của Mác tốp về tiết 1 của Điều lệ Đảng.
Do phái thiểu số trong nhóm “Tia lửa” liên kết với các
phái cơ hội nên những quan điểm của phái đa số về tiết 1 của
Điều lệ Đảng và các vấn đề cơ bản về nguyên tắc tổ chức và
sinh hoạt Đảng không được Đại hội biểu quyết thông qua.
Giai đoạn 3: Bầu Ban chấp hành trung ương và Ban biên
tập của báo “Tia lửa”. Những quan điểm của nhóm “Chống Tia
lửa” khơng được Đại hội thừa nhận, do đó đến giai đoạn này
các đại biểu của nhóm “Chống Tia Lửa” bỏ Đại hội ra về. Vì
vậy Đại hội đã bầu các cơ quan lãnh đạo của Đảng theo đề
xuất của phái đa số. Thất bại trong bầu cử các cơ quan lãnh
đạo của Đảng càng làm cho phái thiểu số bất đồng gay gắt
với phái đa số.
Mặc dù cuộc đấu tranh trong Đại hội diễn ra gay gắt giữa
phái đa số và phái thiểu số nhưng cuối cùng cương lĩnh, điều
lệ được thông qua, Ban chấp hành Trung ương và Ban biên


6
tập của báo “Tia lửa” được bầu. Đó là một bước tiến lớn của

phong trào công nhân Nga và của đảng dân chủ-xã hội Nga.
* Cuộc đấu tranh sau Đại hội II
Sau Đại hội, phái thiểu số cố tình khơng hợp tác, chúng
ra sức xuyên tạc kết quả Đại hội và chống V.I.Lênin, chống
phái đa số. Phái thiểu số đã lôi kéo mua chuộc Plêhanốp và
Ban biên tập của báo “Tia lửa”, biến báo “Tia lửa” thành cơ
quan ngôn luận của phái thiểu số. Phái thiểu số lợi dụng cơ
quan ngôn luận của Đảng để tuyên truyền những quan điểm
cơ hội, phủ nhận nghị quyết của Đại hội II, không phục tùng
sự lãnh đạo của Ban chấp hành Trung ương và tìm cách tách
ra khỏi Đảng: “Bọn Mensêvích đã biến báo “Tia lửa” thành
công cụ đấu tranh chống Đảng, thành diễn đàn để tuyên
truyền chủ nghĩa cơ hội”. Đảng công nhân dân chủ-xã hội Nga
lại lâm vào khủng hoảng, chia rẽ nghiêm trọng. Đó là những
bước lùi lớn của nguồn gốc, ý nghĩa của cuộc đấu tranh trong
Đảng vạch trần bản chất của quan điểm cơ hội về tổ chức của
phái Mensêvích.
b. Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tổ chức của Đảng
* Cuộc đấu tranh xung quanh tiết 1 trong bản dự thảo
Điều lệ Đảng
Cuộc đấu tranh gay gắt nhất trong Đại hội II Đảng công
nhân dân chủ – xã hội Nga là cuộc đấu tranh xoay quanh tiết
1 trong bản dự thảo Điều lệ Đảng nói về điều kiện trở thành
đảng viên giữa công thức của V.I.Lênin với công thức của Mác
tốp.


7
Công thức của V.I.Lênin đưa ra là: “Tất cả những người
nào thừa nhận cương lĩnh của Đảng và ủng hộ Đảng bằng

những phương tiện vật chất cũng như bằng cách tự mình
tham gia trong những tổ chức của Đảng thì được coi là đảng
viên của Đảng”.
Công thức của Mác tốp đưa ra là: “Tất cả những người nào
thừa nhận cương lĩnh của Đảng, ủng hộ Đảng bằng những
phương tiện vật chất và tự mình giúp đỡ Đảng một cách đều
đặn dưới sự chỉ đạo của một trong những xã hội Nga”.
Hai cơng thức này có nội dung giống nhau song điểm
căn bản khác nhau:
- Cơng thức của V.I.Lênin địi hỏi và bắt buộc người đảng
viên phải tự minh sinh hoạt và chịu sự quản lý của tổ chức
Dảng. Công thức đó đề cao danh hiệu đảng viên, địi hỏi trách
nhiệm và ý thức tổ chức, kỷ luật cao của người đảng viên, là
tiêu chí để phân biệt người có tổ chức với người khơng có tổ
chức, đảng viên với quần chúng ngồi Đảng, V.I.Lênin nhấn
mạnh: “…Tơi địi hỏi, Đảng đội tiên phong của giai cấp phải
hết sức có tổ chức, rằng Đảng chỉ nên thu nhận những phần
tử ít nhất cũng phải chấp nhận một tính tổ chức tối thiểu”.
- Cơng thức của Mác tốp: Khơng địi hỏi đảng viên phải tự
mình sinh hoạt và chịu sự quản lý của một tổ chức Đảng.
Cơng thức đó mở rộng đội ngũ đảng viên vô hạn độ. “Mỗi
người tham gia bãi công là một đảng viên”. V.I.Lênin phê
phán công thức của Mác tốp đã khuyến khích:


8
V.I.Lênin kết luận: Trên thực tế công thức của Mác tốp
nhằm phục vụ cho lợi ích của những người trí thức tư sản sợ kỷ
luật và tổ chức của những người vô sản.
* Cuộc đấu tranh về chế độ tập trung và chấp hành nghị

quyết
V.I.Lênin phê phán chủ nghĩa cơ hội khi họ cho rằng:
Đảng không nên là một khối tổ chức chặt chẽ trong Đảng có
thể tồn tại những cá nhân những tổ chức không thuộc một tổ
chức nào của Đảng. Theo V.I.Lênin: đó là thứ tổ chức hồn
tồn xa lạ đối với Đảng, thứ tổ chức lỏng lẻo, rời rạc, tiểu tổ,
bè phái.
V.I.Lênin phê phán Máctốp phủ nhận chế độ tập trung,
cho rằng đó là thiết lập chcế độ nông nô trong Đảng, là chủ
nghĩa quan liêu. Theo V.I.Lênin, đó là tư tưởng kéo lùi Đảng
trở lại tình trạng tiểu tổ, phân tán, tạo điều kiện cho những
phần tử cơ hội chui vào Đảng.
c. Những nguyên tắc tổ chức của V.I.Lênin về đảng
kiểu mới của giai cấp công nhân
Trong khi phê phán những quan điểm tư tưởng cơ hội về
mặt tổ chức của phái thiểu số, V.I.Lênin làm sáng tỏ những
quan điểm Mác xít, khẳng định những nguyên tắc tổ chức cơ
bản của Đảng kiểu mới.
* Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân
Nguyên lý Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân
đã được C.Mác, Ph.Ăngghen nêu ra trong Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản từ năm 1848. Phái thiểu số chủ trương xố
nhồ ranh giới giữa Đảng với giai cấp, hạ thấp vai trò của


9
Đảng. V.I.Lênin kịch liệt phản đối điều đó và xác định: “Đảng
là của giai cấp nhưng là đội tiên phong của giai cấp chứ khơng
phải tồn bộ giai cấp là Đảng”. Người chỉ ra: “Những người
nào nói rằng, dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, hầu như toàn bộ

giai cấp, hay toàn bộ giai cấp một ngày kia sẽ đủ sức vươn
mình lên đến chỗ đạt tới trình độ giác ngộ và tích cực của đội
tiên phong của mình, của Đảng dân chủ-xã hội của mình thì
người ấy sẽ mắc cái bệnh của Malilốp và “chủ nghĩa theo
đuôi”. Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa nguy cơ tổ chức cơng
đồn (tổ chức sơ khai hơn, vừa tầm hơn với sự giác ngộ của
những tầng lớp cịn lạc hậu) cũng khơng đủ sức bao trùm
hầu như toàn bộ, hay toàn bộ giai cấp công nhân”.
Đảng là một bộ phận ưu tú, giác ngộ cách mạng nhất, là
lãnh tụ chính trị, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp cơng
nhân.
Tồn bộ giai cấp công nhân phải hoạt động dưới sự lãnh
đạo của Đảng, “không được lẫn lộn Đảng tức là đội tiên phong
của giai cấp cơng nhân với tồn bộ giai cấp” và các tổ chức
khác của giai cấp công nhân.
Để giữ vững tính tiên phong của Đảng, V.I.Lênin chỉ rõ:
Đảng phải tiên phong cả về lý luận và thực tiễn, cả về chính
trị, tư tưởng và tổ chức.
Đảng phải tập hợp, lãnh đạo quần chúng nâng cao trình
độ giác ngộ cho quần chúng lên ngang tầm trình độ của
những người cách mạng, khơng theo đi quần chúng, khơng
được hạ thấp trình độ tổ chức của Đảng ngang với trình độ
của quần chúng. Người chỉ ra: “Nếu chúng ta quên mất sự


10
khác nhau giữa đội tiên phong và tất cả số quần chúng hướng
theo đội tiên phong đó, nếu chúng ta quên mất rằng đội tiên
phong có nghĩa vụ thường xuyên phải nâng các tầng lớp ngày
càng đơng đảo đó lên trình độ tiên tiến ấy”.

Đưa ra cơng thức trong tiết 1 dự thảo điều lệ Đảng,
V.I.Lênin đã bảo vệ tính chất tiên phong của Đảng, nâng cao
danh hiệu đảng viên, phòng ngừa phần tử cơ hội chui vào
Đảng.
* Đảng là bộ phận có tổ chức của giai cấp cơng nhân
Theo V.I.Lênin, Đảng là một bộ phận có tổ chức của giai
cấp cơng nhân bởi vì:
Đảng là đội tiên phong của giai cấp thì phải có tổ chức
chặt chẽ, vững chắc, có kỷ luật nghiêm minh và thống nhất.
Đó là sức mạnh của Đảng. Xuất phát từ bản chất giai cấp
công nhân, từ mục đích nhiệm vụ và đặc điểm của cuộc đấu
tranh chống giai cấp tư sản, muốn chiến thắng kẻ thù tất yếu
Đảng phải được tổ chức. V.I.Lênin còn nhấn mạnh rằng: Trong
cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, giai cấp vơ sản khơng
có vũ khí nào tốt hơn là sự tổ chức. Tổ chức quả là một vũ khí
nhờ đó mà cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, giai cấp vơ
sản khơng có vũ khí nào tốt hơn là sự tổ chức. Tổ chức quả là
một vũ khí nhờ đó mà giai cấp vơ sản sẽ tự giải phóng. Đối với
giai cấp vơ sản thì tổ chức là vũ khí đấu tranh giai cấp. Trong
cuộc đấu tranh để giành chính quyền, giai cấp vơ sản khơng
có vũ khí nào khác hơn là sự tổ chức. Sự thống nhất tư tưởng
của giai cấp vô sản dựa trên cơ sở những nguyên lý chủ nghĩa
Mác được củng cố bằng sự thống nhất vật chất của tổ chức.


11
V.I.Lênin phê phán quan điểm của phái Mensêvích về cái
gọi là nội dung quan trọng hơn hình thức, cưỡng lĩnh quan
trọng hơn tổ chức. Người chỉ rõ: “Sự thống nhất trong những
vấn đề cương lĩnh và sách lược là điều kiện tất yếu, nhưng

chưa đầy đủ để đảm bảo sự thống nhất và sự tập trung hố
cơng tác của Đảng…Muốn đạt được sự thống nhất trên đây,
thì cịn phải có sự thống nhất về tổ chức nữa”.
Đảng là một chỉnh thể có cố kết vững chắc, có kỷ luật
nghiêm minh chặt chẽ, quy định rõ những mối quan hệ giữa
cá nhân, với tổ chức, giữa bộ phận này với bộ phận khác, giữa
bộ phận với tồn bộ…
Đảng phải có đường lối, cương lĩnh, điều lệ thống nhất,
có cơ quan lãnh đạo thống nhất, phải được tổ chức, sinh hoạt
và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, cán bộ,
đảng viên phải có ý thức tổ chức kỷ luật cao.
* Đảng là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân
Theo V.I.Lênin Đảng chẳng những là đội tiên phong có tổ
chức mà còn là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân. Sự
khác nhau giữa Đảng với các tổ chức khác của giai cấp công
nhân là ở chỗ: Đảng là lãnh tụ chính trị của giai cấp, là lực
lượng lãnh đạo mọi tổ chức và toàn thể giai cấp. Đảng gồm
những đại biểu ưu tú tiên tiến, giác ngộ tích cực nhất của giai
cấp và được tổ chức chặt chẽ. Trình độ tổ chức của Đảng là
cao nhất, chặt chẽ nhất. Khơng được nhầm lẫn giữa trình độ
tổ chức cao của Đảng với địa vị của Đảng trong xã hội.
Đảng có trách nhiệm và khả năng lãnh đạo tất cả các tổ
chức khác của giai cấp công nhân, tập hợp, hướng dẫn các tổ


12
chức khác của giai cấp hướng vào thực hiện mục tiêu chung là
lật đổ chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản. V.I.Lênin chỉ ra rằng: Chúng ta là
Đảng của giai cấp, bởi vậy hầu như toàn bộ giai cấp (và trong

thời kỳ chiến tranh, trong thời kỳ nội chiến thì tồn bộ giai cấp
không trừ một người nào cả) cần phải hoạt động dưới sự lãnh
đạo của Đảng ta, phải triệt để siết thật chặt hàng ngũ chung
quanh Đảng”.
Trong tiết một của Điều lệ Đảng V.I.Lênin đòi hỏi người
đảng viên phải thừa nhận cương lĩnh và Điều lệ của Đảng, tham
gia một trong những tổ chức Đảng, nhằm làm cho Đảng thực sự
trở thành tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân.
Để bảo đảm cho Đảng thực sự là tổ chức cao nhất của
giai cấp công nhân, Đảng chỉ kết nạp những phần tử ưu tú,
tiên tiến, giác ngộ lý luận có ý thức tổ chức kỷ luật cao, có
khả năng tuyên truyền, vận động giáo dục và thu phục được
quần chúng. Đảng là một tổ chức chặt chẽ nhất, là một khối
thống nhất ý chí và hành động, có kỷ luật tự giác, nghiêm
minh.
* Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của
Đảng
Để xứng đáng với vị trí, vai trị đội tiên phong có tổ chức
và là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân, xứng đáng với
vai trị lãnh tụ chính trị của giai cấp thì Đảng phải được tổ chức,
sinh hoạt và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
ở thời kỳ này, V.I.Lênin đặc biệt nhấn mạnh chế độ tập
trung trong Đảng nhằm chống lại quan điểm của bọn cơ hội


13
đồng thời để khắc phục tình trạng tiểu tổ, phân tán tản mạn,
lối làm việc thủ công nghiệp cục bộ địa phương của các tổ
chức Đảng.
Theo V.I.Lênin, Đảng phải có cương lĩnh điều lệ thống

nhất, do Đại hội vạch ra. Toàn Đảng phải nghiêm chỉnh chấp
hành cương lĩnh, Điều lệ, Nghị quyết của Đảng, Đảng phải có
một cơ quan lãnh đạo thống nhất, toàn Đảng phục tùng sự
lãnh đạo của Ban chấp hành Trung ương, đảng viên phải tự
giác phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, cấp dưới phục tùng
cấp trên, thiểu số phục tùng đa số, cá nhân phục tùng tổ
chức.
Trong và sau Đại hội II, phái Mensêvích cùng các phần tử
hội khác đã kịch liệt chống lại chế độ tập trung, nhằm kéo lùi
Đảng trở lại thời kỳ phân tán, tiểu tổ. Chúng cho rằng nếu
thiếu nguyên tắc do V.I. Lênin đề ra là biến Đảng thành cỗ
máy, mỗi đảng viên chỉ như những ốc vít, những bánh xe,
thiếu tính chủ động, sáng tạo.
V.I.Lênin đã phê phán quan điểm đó và khẳng định:
“Trước kia Đảng ta chưa phải là một khối chính thức có tổ chức,
mà chỉ là một tổng số những nhóm riêng biệt và do đó, giữa các
nhóm ấy khơng thể có những quan hệ nào khác, ngoài sự tác
động về mặt tư tưởng. Hiện nay chúng ta đã trở thành một
Đảng có tổ chức, điều đó có ý nghĩa là chúng ta đã tạo ra một
quyền lực, biến uy tín về tư tưởng thành uy tín về quyền lực,
khiến cấp dưới phải phục tùng cấp trên của Đảng…”.
Vạch trần quan điểm cơ hội chủ nghĩa của phái
Mensêvích, V.I.Lênin chỉ ra: “Lẽ tự nhiên là chủ nghĩa cơ hội


14
về mặt cương lĩnh thì gắn liền với chủ nghĩa cơ hội về mặt
sách lược và gắn liền với chủ nghĩa cơ hội trong các vấn đề tổ
chức”. Và Người khẳng định: “Bênh vực chế độ tự trị, chống
lại chế độ tập trung một đặc điểm có tính ngun tắc của chủ

nghĩa cơ hội trong các vấn đề tổ chức”.
V.I.Lênin nhấn mạnh tập trung khơng có nghĩa là xem
nhẹ dân chủ, tập trung phải đi đôi với dân chủ, tập trung và
dân chủ là hai mặt không tách rời trong chế độ tổ chức của
Đảng vô sản.
* Đảng liên hệ mật thiết với quần chúng, là hiện thân
của mối liên hệ giữa đội tiên phong với giai cấp công nhân và
nhân dân lao động.
Đảng liên hệ chặt chẽ với quần chúng là tất yếu khách
quan, bởi vì Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân
chứ không phải bao gồm toàn bộ giai cấp. Cho nên Đảng
muốn tồn tại, phát triển và có đủ lực lượng, sức mạnh hồn
thành sứ mệnh lịch sử của mình thì phải liên hệ chặt chẽ với
giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đó là điều kiện bảo
đảm mcho Đảng có sức mạnh và phát triển, là nhân tố cơ bản
quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. V.I.Lênin cho
rằng: “Muốn trở thành một Đảng dân chủ –xã hội thì cần phải
được sự ủng hộ của chính giai cấp”.
Mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng không phải do số
lượng đảng viên nhiều hay ít mà do chất lượng đội ngũ đảng
viên quyết định: “các tổ chức đảng của chúng ta bao gồm
những người dân chủ-xã hội chân chính mà càng mạnh mẽ
bao nhiêu, và trong nội bộ Đảng càng ít có tình trạng dao


15
động và khơng kiên định bao nhiêu, thì ảnh hưởng của Đảng
đối với những người trong quần chúng công nhân chung
quanh Đảng và chịu sự lãnh đạo của Đảng sẽ càng rộng rãi,
càng nhiều mặt, càng phong phú, càng hiệu quả bao nhiêu.

Để giữ vững và tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với
quần chúng, V.I.Lênin chỉ rõ: “Đảng phải tuyên truyền, giác
ngộ, tập hợp quần chúng, tổ chức vận động quần chúng, phát
huy vai trò của quần chúng trong sự nghiệp cách mạng. Người
chỉ rõ: “Đảng phải hết sức và sẽ hết sức làm cho tinh thần mình
thấm sâu vào các nghiệp đoàn và làm cho các tổ chức ấy chịu
ảnh hưởng của mình”.
Đảng phải đề phịng và khắc phục các khuynh hướng
quan liêu xa rời quần chúng, vượt quá xa trình độ của quần
chúng, hoặc hạ thấp mình ngang hàng với quần chúng.
V.I.Lênin dạy rằng: “Chúng ta sẽ chỉ tự lừa dối, nhắm mắt
trước những nhiệm vụ bao la của chúng ta, thu hẹp những
nhiệm vụ đó lại nếu chúng ta quên mất sự khác nhau giữa đội
tiên phong và tất cả số quần chúng hướng theo đội tiên phong
đó; Nếu chúng ta quên mất rằng đội tiên phong có ý nghĩa
thường xuyên phải nâng các tầng lớp ngày càng đơng đảo đó
lên trình độ tiên tiến ấy”.
* Tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của
Đảng.
Theo V.I.Lênin: Đảng phải thường xuyên tự phê bình, có
như vậy Đảng mới phát triển, tiến bộ, mới được quần chúng
tin tưởng và tơn trọng. V.I.Lênin địi hỏi sự vạch ra sai lầm
khuyết điểm, phân tích rõ nguyên nhân và tìm ra hướng khắc


16
phục. Người dạy: “Nếu một chính Đảng nào khơng dám nói
thật bệnh tật của mình ra, khơng dám chuẩn đốn bệnh một
cách thẳng tay, và tìm phương cứu chữa bệnh đó, thì Đảng đã
sẽ khơng xứng đáng được người ta tôn trọng”. Và người coi

đây là một trong những căn cứ quan trọng để xem xét một
Đảng có thật sự Mác xít chân chính hay khơng?
Theo V.I.Lênin tự phê bình là rất cần thiết nhưng phải
khoa học nghiêm túc và khéo léo, kiên trì thuyết phục bằng
chân lý khơng được dùng những thủ đoạn cực đoan. Phê bình
phải được tiến hành một cách có thể chức, có nguyên tắc đảm
bảo được tính trung thực, thẳng thắn về sự tiến bộ của Đảng
và mỗi đảng viên. Đảng phải kiên quyết trong tự phê bình và
phê bình để khẳng định phát huy ưu điểm, phát hiện, khắc
phục khuyết điểm, tăng cường đoàn kết thống nhất, nâg cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Người đã vạch
mặt bọn cơ hội chủ nghĩa (phải thiểu số) đã phê bình vơ ngun
tắc: “Những câu chuyện ngơi lê đơi mách ở bên ngồi đại hội thì
chẳng khắc nào dùng thủ đoạn đơm đặt”. Người cho rằng đó là
hành vi vu khống, là hành động thiếu nhân cách và không xứng
đáng.
Tác phẩm “Một bước tiến, hai bước lùi” ra đời và góp
phần vạch trần đặc điểm, bản chất của chủ nghĩa cơ hội về
mặt tổ chức, bảo vệ tính Đảng của giaic cấp cơng nhân, đã
phát triển và cụ thể hoá học thuyết của Mác-Ăngghen về
Đảng Cộng sản, vạch ra một cách đầy đủ và hoàn chỉnh
những nguyên tắc tổ chức cơ bản của chính Đảng cách mạng
của giai cấp vơ sản. Tác phẩm xác định rõ vai trị quan trọng
của cơng tác xây dựng Đảng về tổ chức và chỉ ra mối quan hệ


17
biện chứng giữa xây dựng Đảng về tổ chức với xây dựng Đảng
về chính trị và tư tưởng.
Trong cơng tác xây dựng Đảng về mặt tổ chức phải xây

dựng một điều lệ thống nhất, một kỷ luật thống nhất, một cơ
quan lãnh đạo tập trung thống nhất có uy tín và quyền lực.
Đảng phải xây dựng và hoạt động theo nguyên tắc tập trung
dân chủ, thường xuyên tự phê bình và phê bình. Đảng viên
của Đảng phải có ý thức tổ chức kỷ luật, người đảng viên dù ở
cương vị nào cũng phải tham gia một trong những tổ chức của
Đảng, chịu sự quản lý, giáo dục, phân công, kiểm tra, giám
sát của tổ chức đảng.
Ra đời cách đây một thế kỷ (1904-2004) tác phẩm “Một
bước tiến, hai bước lùi” đặt cơ sở cho sự nghiệp xây dựng
Đảng của giai cấp vơ sản trên tồn thế giới và đã cống hiến
lớn lao cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Hiện
nay, phong trào cách mạng thế giới đã có nhiều biến đổi,
song những luận điểm V.I.Lênin đề cập trong tác phẩm vẫn
còn nguyên giá trị trong xây dựng chính Đảng của giai cấp
cơng nhân.
Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, tác phẩm “Một bước
tiến, hai bước lùi” đã và vẫn là những chỉ dẫn có tính ngun
tắc trong quá trình xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay.
Nghiên cứu nắm vững những quan điểm tư tưởng trong
tác phẩm, nắm vững học thuyết Mác-Lênin về xây dựng Đảng,
trung thành và vận dụng sáng tạo những nguyên lý là vấn đề
cơ bản lâu dài và cũng là vấn đề cấp thiết trong công tác xây
dựng Đảng và là trách nhiệm của mọi cán bộ, đảng viên.


18
ý nghĩa đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng
ta hiện nay
Những nguyên tắc tổ chức của V.I. Lênin về Đảng kiểu

mới của giai cấp công nhân trong tác phẩm “Một bước tiến,
hai bước lùi” có ý nghĩa vơ cùng quan trọng đối với công tác
xây dựng, củng cố các Đảng cộng sản trên thế giới hiện nay.
Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, những năm qua, trong quá
trình đề ra phương hướng, biện pháp xây dựng Đảng, Đảng ta
luôn coi trọng nghiên cứu đầy đủ các nguyên tắc trên và vận
dụng một cách sáng tạo, phù hợp với điều kiện, đặc điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam, của cách mạng Việt Nam, từ đó đã
lãnh đạo cách mạng Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thách
thức, giành được những thắng lợi to lớn trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa. Chính vì vậy, chúng ta có cơ sở và niềm tin chắc
chắn để khẳng định rằng: Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là
nhân tố hàng đầu quyết định đến mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam.
Nhằm xây dựng, củng cố Đảng Cộng sản Việt Nam thực
sự trong sạch vững mạnh, có đủ năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu, lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa giành những thành tựu to lớn hơn,
đưa đất nước thốt khỏi tình trạng kém phát triển, thực hiện
thắng lợi mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng,
dân chủ, văn minh. Địi hỏi trong những năm tới toàn Đảng
phải tiếp tục nghiên cứu nắm vững và vận dụng sáng tạo
những nguyên tắc xây dựng đảng về tổ chức của V.I. Lênin.
Trước mắt phải thực hiện tốt chủ trương, phương hướng xây


19
dựng Đảng nêu trong văn kiện Đại hội X của Đảng là: “Tiếp
tục đổi mới và chỉnh đốn Đảng, xây dựng Đảng trong sạch,

vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng lên ngang tầm với yêu cầu và nhiệm vụ của tình hình
mới”.
Để biến chủ trương, phương hướng xây dựng Đảng nêu
trên thành kết quả hiện thực, các tổ chức đảng và mọi cán bộ,
đảng viên cần nắm vững và thực hiện có hiệu quả các yêu
cầu sau:
Trước hết, trong nội bộ Đảng phải chấp hành nghiêm
túc nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện tập thể lãnh đạo,
cá nhân phụ trách; nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác
kiểm tra, giám sát; đẩy mạnh tự phê bình và phê bình nhằm
giữ gìn đồn kết, thống nhất trong Đảng. Phải “Phát huy dân
chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật trong Đảng. Mọi cán bộ,
đảng viên có quyền bàn bạc, tham gia quyết định công việc
của Đảng; quyền được thông tin, tranh luận, nêu ý kiến riêng,
bảo lưu ý kiến trong tổ chức; khi đã thành nghị quyết thì phải
nói và làm theo nghị quyết của Đảng” 1. Thường xuyên giáo
dục bồi dưỡng lập trường, quan điểm, ý thức tổ chức của giai
cấp công nhân, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong
sạch vững mạnh theo lập trường, quan điểm của giai cấp
công nhân. Tăng cường củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết
với nhân dân, với khối đại đoàn kết toàn dân; chăm lo đời
sống của nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân,
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Trong công
1

. Báo cáo chính trị trình Đại hội X của Đảng CSVN



20
cuộc đổi mới, Đảng khơng thể hồn thành những nhiệm vụ
chính trị của mình với tư cách là người chiến sĩ tiên phong
lãnh đạo xã hội nếu trong nội bộ Đảng khơng có sự đồn kết,
thống nhất. Sự đồn kết đó phải dựa trên cơ sở lý luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin, thể hiện ở đường lối chính trị của
Đảng, trên cơ sở sự giác ngộ của toàn thể đảng viên về mục
đích, lý tưởng và những nhiệm vụ lãnh đạo cách mạng của
Đảng đặt ra.
Hai là, phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ
thống chính trị, đặc biệt là Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Bước
vào công cuộc đổi mới, Đảng ta đặt ra yêu cầu phải thường
xuyên đổi mới và chỉnh đốn Đảng để lãnh đạo hệ thống chính
trị, nhất là đối với Nhà nước có chất lượng và hiệu quả ngày
càng cao. Như trong văn kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng ta
đã chỉ rõ: “Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua việc đề ra
đường lối, chủ trương, các chính sách lớn, định hướng cho sự
phát triển và kiểm tra việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ
trương của Đảng và Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước...Tăng
cường chế độ lãnh đạo tập thể đi đôi với phát huy tinh thần
chủ động, sáng tạo và trách nhiệm cá nhân. Kiện toàn hệ
thống tổ chức đảng gắn với cải cách, đổi mới tổ chức, bộ máy
của các cơ quan Nhà nước và các đồn thể chính trị - xã hội”.
Trong Báo cáo chính trị trình Đại hội X của Đảng tiếp tục xác
định: “Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng đường lối, quan điểm,
các nghị quyết, quyết định;...lãnh đạo thể chế hoá, cụ thể hố
đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách lớn của Đảng
thành Hiến pháp, pháp luật, kế hoạch, các chương trình công
tác lớn của Nhà nước; xây dựng Nhà nước thật sự trong sạch




×