Một số nội dung về sự hình thành phép biện chứng, quan
niệm về phép biện chứng duy vật và các quy luật của nó
được đề cập trong tác phẩm “Chống Đuyrinh” của
Ph.Ăngghen
Tác phẩm Chống Đuyrinh hay Ông ễ. Đuyrinh đảo lộn khoa
học được Ph. Ăngghen viết vào mùa thu năm 1876 đến giữa
năm 1878. Khi đọc bản thảo của tác phẩm này, Mác đã trực tiếp
viết chương X của phần II. Từ năm 1877 đến năm 1878 tác
phẩm được công bố dưới hàng loạt bài báo trên tờ Tiến lên.
Năm 1878 cuốn sách được xuất bản toàn bộ. Đây là tác phẩm
bút chiến nổi tiếng của Ăngghen chống lại Đuyrinh, nhà tư
tưởng tiểu tư sản Đức, đồng thời đây là một trong những tác
phẩm quan trọng nhất đánh dấu sự phát triển của triết học Mác
nói riêng và chủ nghĩa Mác nói chung. Kết cấu nội dung của tác
phẩm gồm:
- Lời tựa cho ba lần xuất bản.
- Phần mở đầu (2 chương): Ăngghen nêu tóm tắt sự phát
triển của triết học và chỉ ra tính tất yếu sự hình thành chủ nghĩa
Mác. Ơng đã chứng minh tính quy luật của quá trình thay thế
các thời kỳ cơ bản của lịch sử triết học, đồng thời chỉ ra rằng
chính sự mở rộng chủ nghĩa duy vật để tìm hiểu lịch sử xã hội
đã tạo ra cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa và nghiên cứu học thuyết về giá trị thặng
dư. Ngoài ra, ở phần này, Ăng-ghen cũng cho rằng sự phát triển
của khoa học tự nhiên và thực tiễn của cuộc đấu tranh giai cấp
là điều kiện của sự phát triển triết học.
2
- Phần thứ nhất - Triết học: Ăngghen trình bày những vấn
đề cơ bản của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng. Mà trước
hết, ông giải quyết vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường
của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Trên cơ sở nghiên cứu các
quy luật cơ bản của phép biện chứng: quy luật mâu thuẫn, quy
luật lượng chất, quy luật phủ định của phủ định, ông đã xem xét
một loạt vấn đề khác nhau của khoa học tự nhiên và khoa học
xã hội.
- Phần thứ hai - Kinh tế chính trị học: Ăngghen đưa ra định
nghĩa về đối tượng của kinh tế chính trị học, bóc trần quan điểm
duy tâm coi bạo lực là yếu tố quyết định sự phát triển của xã
hội, xem xét vai trò quyết định của kinh tế đối với sự phát triển
của quân đội và chính quyền, chỉ ra hai con đường hình thành
giai cấp,...
- Phần thứ ba - Chủ nghĩa xã hội: Ăngghen tóm tắt lịch sử
và lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học, đồng thời chỉ ra chủ
nghĩa xã hội khoa học là sự biểu hiện về lý luận của phong trào
vô sản, đồng thời ông cũng phác họa những đặc trưng cơ bản
của chủ nghĩa cộng sản tương lai.
Trong tác phẩm Chống Đuyrinh, Ăngghen đã trình bày
những vấn đề quan trọng nhất của triết học, của khoa học tự
nhiên và khoa học xã hội. Việc viết tác phẩm này là một đòi hỏi
tất yếu khơng chỉ về mặt lý luận, mà cịn về mặt chính trị. Đó là,
vào năm 1875, Đuyrinh đã viết một loạt bài cơng kích gay gắt
chủ nghĩa Mác, những quan điểm triết học của Đuyrinh là sự
trộn lẫn một cách chiết trung cả chủ nghĩa duy vật tầm thường,
cả chủ nghĩa duy vật thực chứng và chủ nghĩa duy tâm. Điều rất
nguy hiểm là sự cơng kích chủ nghĩa Mác mà Đuyrinh thực hiện
3
lại được một số thành viên của đảng xã hội - dân chủ Đức vừa
mới thành lập đồng tình ủng hộ. Thậm chí cịn có những người
đã chuẩn bị truyền bá học thuyết ấy trong cơng nhân, dưới một
hình thức phổ cập. Trước tình hình đó, một số người bạn của
Ăngghen đã đề nghị ông tiến hành phê phán học thuyết của
Đuyrinh. Để ngăn chặn khuynh hướng chia rẽ trong đảng và bảo
vệ chủ nghĩa Mác, Ăng-ghen đã nhận và hồn thành xuất sắc
nhiệm vụ này. Ơng đã phê phán tất cả các lĩnh vực mà Đuyrinh
đã đặt ra, đồng thời trình bày và phát triển những quan điểm cơ
bản của chủ nghĩa Mác. Thông qua các nội dung được đề cập
trong tác phẩm, có thể khẳng định: lần đầu tiên Ph. Ăngghen đã
trình bày một cách hồn chỉnh thế giới quan mác-xít về chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kinh tế
chính trị học, lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học và chỉ ra mối
liên hệ hữu cơ giữa ba bộ phận hợp thành chủ nghiã Mác.
Chống Đuyrinh là tác phẩm gối đầu gường của những
người cộng sản. Với ý nghĩa và giá trị to lớn ấy khẳng định:
Chống Đuyrinh là một trong những tác phẩm quan trọng nhất
của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác. Đồng thời đó là tác phẩm
tiêu biểu, đặc sắc về hình thức luận chiến và bách khoa về các
nội dung của học thuyết Mác.
Trong tác phẩm này, Ăngghen đã đấu tranh chống lại các
quan điểm của Đuy-rinh, một nhà triết học tiểu tư sản cùng
những trào lưu tư tưởng sai trái, xuyên tạc chủ nghĩa Mác. Đồng
thời phát triển chủ nghĩa Mác trên các bộ phận cấu thành nó.
Một trong những vấn đề có vị trí quan trọng trong tác phẩm đó
là phép biện chứng duy vật với tư cách là một hệ thống thể hiện
4
bước phát triển cao trong lịch sử tư tưởng triết học của nhân
loại.
Sự ra đời của tác phẩm Chống Đuyrinh nhằm đáp ứng nhu
cầu ổn định tình hình xã hội Đức lúc đó đang rối loạn, nhiều trào
lưu tư tưởng “Mọc ra như nấm sau một trận mưa” 1 và đang thả
sức truyền bá ảnh hưởng của trường phái mình. Như Ăngghen
đã nhận xét : “Một vị tiến sĩ triết học xồng nhất, thậm chí cả
một sinh viên, cũng bắt tay vào việc sáng tạo ra một “hệ thống”
hoàn chỉnh chứ khơng kém hơn”2 và trong đó Đuyrinh, một nhà
cải cách xã hội chủ nghĩa, một nhà triết học tiểu tư sản đã “đột
nhiên khiêu chiến với thời đại”, đưa ra nhiều quan điểm tư
tưởng sai trái nhằm xuyên tạc chủ nghĩa Mác, đảo lộn những
nguyên lý cơ bản của triết học mác-xít, truyền bá trong phong
trào cơng nhân Đức lúc đó cái lí luận xã hội chủ nghĩa của ông
ta. Chống Đuyrinh ra đời một mặt định hướng đúng cho phong
trào công nhân, làm trong sạch đảng dân chủ - xã hội Đức, đồng
thời bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác nói chung và triết học
Mác nói riêng.
Mặc dù các quan điểm tư tưởng mà Ăng ghen trình bày đôi
khi không thành hệ thống, nội dung các nguyên lý triết học có
thể nằm rải rác trong từng chương, từng phần. Tuy nhiên khi đi
vào nghiên cứu toàn bộ tác phẩm chúng ta sẽ thấy tính lơ-gích,
hệ thống, nhất qn trong các nội dung mà ơng trình bày. Đặc
biệt, các nguyên lý, quy luật của phép biện chứng đã được
Ăngghen làm sáng tỏ cùng với những minh chứng thực tiễn sôi
động, cùng những vấn đề về chủ nghĩa duy vật lịch sử, lý luận
nhận thức,…đã đáp được yêu cầu đấu tranh của giai cấp cơng
nhân Đức về lí luận chính trị, giải phóng tư tưởng khỏi ảnh
5
hưởng của lý luận tiểu tư sản, tiếp tục đưa phong trào đấu tranh
phát triển một cách đúng hướng.
(1) (2) C.Mác, Ph Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội,
1994,
t20,
tr.17.
Về chủ đề và nội dung thu hoạch:
Trong khuôn khổ của bài thu hoạch và khả năng nhận thức
của bản thân, qua nghiên cứu tác phẩm, tơi xin trình bày một số
nội dung về: Sự hình thành phép biện chứng; quan niệm
về phép biện chứng duy vật và các quy luật của nó được
đề cập trong tác phẩm “Chống Đuy rinh” của Ph.
Ăngghen.
Thứ nhất - Về sự hình thành phép biện chứng:
Phép biện chứng thực ra chỉ là phương pháp nhìn nhận,
xem xét, nhận thức về thế giới các sự vật của các các nhà triết
học nói riêng và của con người nói chung. Cách đây hơn 2000
năm, cùng với sự xuất hiện các trào lưu tư tưởng triết học, phép
biện chứng cũng đã được ra đời và nó ln trở thành tâm điểm
của cuộc đấu tranh giữa các trường phái triết học khác nhau.
Theo ngược dòng lịch sử triết học, người đầu tiên có cơng
đề xướng tư tưởng biện chứng là Dênôn (490-430 tr.CN), Dênôn
quan niệm: vận động là một quá trình thống nhất biện chứng
giữa vận động và đứng im. Tư tưởng này đã được đề cập trong
Chống Đuyrinh của Ăng ghen, ông cho rằng: vận động cơ học
cũng là quá trình chứa đựng mâu thuẫn, sự vật trong cùng một
6
thời điểm vừa vận động lại vừa đứng im, vừa ở vị trí này đồng
thời lại khơng phải ở vị trí đó nữa. Sau Dênơn cịn có Đêmơcrít,
Arixtốt , đặc biệt là Hêraclít, người được Ăngghen đánh giá cao
và là người đầu tiên sáng lập ra phép biện chứng. Trên lập
trường duy vật, Hêraclít cho rằng: Vạn vật trong thế giới khơng
nằm im bất động, mà nó ln vận động, chuyển hóa khơng
ngừng, nó vừa “Tồn tại và đồng thời lại khơng tồn tại, vì mọi vật
đang trơi đi, mọi vật đều không ngừng thay đổi, mọi vật đều
không ngừng phát sinh và tiêu vong”1. Vũ trụ không phải do lực
lượng siêu nhiên, thần bí nào tạo ra, mà nó “Mãi mãi đã, đang và
sẽ là ngọn lửa vĩnh viễn đang không ngừng bừng cháy và tàn
lụi”, “Chúng ta không thể tắm hai lần trên cùng một dịng sơng
vì nước mới không ngừng chảy trên sông” và “Ngay cả mặt trời
cũng mỗi ngày một mới”2…Mặc dù đó là những tư tưởng quý giá
của những nhà triết học thời cổ
(1) C.Mác, Ph Ăng ghen, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội,
1994, t20, tr.35.
(2) Các nhà duy vật Hy lạp cổ đại, Nxb Tư tưởng,
Mátxcơva, 1955 (Dẫn từ : Giáo trình Triết học, Nxb CTQG, Hà
Nội, 1997, t1, tr.187 và: Giáo trình Lịch sử Triết học, Nxb QĐND,
Hà Nội, 2003, tr.105).
đại để lại, nhưng nhìn chung những tư tưởng biện chứng
ấy mới chỉ dựa trên sự phỏng đoán, nhận thức trực quan, ước lệ
về thế giới hiện thực. Theo Ăngghen: “Cách nhìn ấy, dù cho nó
có nắm đúng tính chất chung của tồn bộ bức tranh về các các
hiện tượng, vẫn không đủ để giải thích những chi tiết hợp thành
bức tranh tồn bộ”1. Vì lẽ đó, phép biện chứng thời cổ đại chỉ là
tự phát, ngây thơ mà thôi. Do nhu cầu khám phá thế giới, đến
7
thế kỷ XVII, XVIII nhiều ngành khoa học ra đời và phát triển,
những thành tựu của khoa học tự nhiên đã cho phép con người
nhận thức thế giới rõ nét hơn, cụ thể và chi tiết hơn. Tuy nhiên
nó cũng ảnh hưởng không nhỏ đến phương pháp tư duy của các
nhà triết học, họ xem xét sự vật trong trạng thái cơ lập, tách
rời, bất động và theo đó phương pháp tư duy mới, phương pháp
tư duy siêu hình ra đời thay thế cho tư duy tự phát, ngây thơ
thời cổ đại. Như Bêcơn, nhà triết học người Anh thế kỷ XVII cho
rằng: con người chỉ là một cỗ máy, trong đó trái tim là lị xo,
thần kinh là những sợi chỉ đỏ. Cịn Hốpxơ thì cho rằng: thế giới
này là thế giới vật chất, nhưng các sự vật hiện tượng tồn tại
trong đó chỉ quan hệ với nhau thuần túy về số lượng…
Những quan niệm nêu trên cho thấy rõ các nhà triết học
thời kỳ này đã mổ xẻ, phân chia và tách rời thế giới, họ khơng
nhìn thấy tính đa dạng, phong phú, nhiều vẻ trong mối liên hệ
tác động qua lại giữa các sự vật, hiện tượng trong thế giới mà
họ nhìn thế giới trong thể bất động, riêng biệt, tách rời, họ chỉ
quen nói: “Có là có, khơng là khơng; ngồi cái đó ra chỉ là trị
xảo quyệt”2 chứ khơng có gì lại vừa có vừa khơng. Theo Ăng
ghen: “Đối với họ thì sự vật hoặc là tồn tại hoặc là không tồn
tại; một sự vật khơng thể vừa là bản thân nó lại vừa là một sự
vật khác, cái khẳng định và cái phủ định tuyệt đối bài trừ lẫn
nhau, nguyên nhân và kết quả cũng đối lập hẳn nhau” 3. Họ chỉ
nhìn thấy cây mà khơng thấy rừng. Vì vậy kết cục của phương
pháp tư duy này là: “Chóng hay chày nó cũng sẽ gặp phải một
ranh giới mà nếu nó vượt q thì nó trở thành phiến diện, hạn
chế, trìu tượng và sa vào những mâu thuẫn không thể nào giải
8
quyết được”4. Thực sự phép siêu hình đã hồn tồn bất lực trước
những yêu cầu của đời sống hiện thực. Nó khơng
(1) C.Mác, Ph Ăng ghen, Tồn tập, Nxb CTQG, Hà Nội,
1994, t20, tr.35.
(2)(3)(4) Sđd, tr.37.
thể lý giải nổi các hiện tượng chuyển động trong tự nhiên,
không hiểu được quy luật vận động, biến đổi của các sự vật hiện
tượng. Vì vậy tư duy siêu hình dù có tiến bộ trong phân tích thì
nó vẫn rất hạn chế trong xem xét thế giới. Tiếp theo đó, một
phương tư duy mới, phép biện chứng duy tâm của triết học cổ
điển Đức cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã ra đời thay thế
phương pháp tư duy cũ, tư duy siêu hình.
Nói đến phép biện duy tâm thời cận đại ít ai không nhớ đến
Hêghen, nhà triết học xuất sắc, tác giả của học thuyết “ý niệm
tuyệt đối”. Khi trình bày về sự ra đời của phép biện chứng,
Ăngghen đã đánh giá cơng lao to lớn của Hêghen là: “Trong đó
lần đầu tiên - và đây là công lao to lớn của ơng - tồn bộ thế giới
tự nhiên, lịch sử và tinh thần được trình bày như là một quá trình,
nghĩa là ln ln vận động, biến đổi, biến hóa và phát triển” 1.
Khơng chỉ có thế, theo quan niệm của Hêghen: “Lịch sử lồi
người…nó là một q trình phát triển của bản thân loài người, và
nhiệm
vụ
của
tư
duy
hiện nay là phải theo dõi bước tiến tuần tự của quá trình ấy qua
tất cả những khúc quanh co của nó và chứng minh tính quy luật
bên trong của nó qua tất cả những cái ngẫu nhiên bề ngồi"2.
Tuy nhiên, Hêghen đã khơng giải quyết được nhiệm vụ do chính
9
mình đặt ra, bởi vì: “ Một là, bởi những giới hạn không thể tránh
được của những tri thức của bản thân ông, và hai là bởi những tri
thức và những quan niệm của thời đại ông, những tri thức và
những quan niệm này cũng bị hạn chế hệt như vậy về bề rộng
và bề sâu. Ngồi ra cịn có thêm một điều thứ ba nữa. Hêghen
là một nhà duy tâm”3. Với những quan niệm và lý do hạn chế
ấy, phép biện chứng của Hêghen tuy đã phản ánh đúng được
mối liên hệ phổ biến của các sự vật hiện tượng, các quy trình
trong tự nhiên, xã hội và tư duy nhưng nó vẫn là phép biện
chứng duy tâm, coi thế giới ý niệm là bản nguyên của thế
giới hiện thực và sinh ra tất cả, còn “ý niệm tuyệt đối” là cái
gì thì chính Hêghen cũng khơng thể giải thích được. Với cách
nhìn lộn ngược, Hêghen được các nhà kinh điển mác-xít gọi
phép biện chứng của ơng
(1) Sđd, tr 39.
(2) (3) Sđd, tr 40.
là phép biện chứng đi bằng đầu, như Ăngghen nhận xét:
“Tất cả đều bị đặt lộn ngược và mối liên hệ hiện thực của các
hiện tượng của thế giới đều hoàn toàn bị đảo ngược” 1.
Mặc dù cịn có những hạn chế, song Mác, Ăngghen và sau
này là Lênin đã đánh giá cao sự cống hiến của Hêghen trong
việc khôi phục và phát triển phép biện chứng tự phát thời cổ
đại. Đồng thời phép biện chứng của Hêghen là tiền đề cho phép
biện chứng đối lập với nó ra đời, đó là phép biện chứng duy vật
do Mác và Ăngghen sáng lập ra.
Thứ hai - Quan niệm về phép biện chứng duy vật:
10
Trong tác phẩm, Ăngghen đã phân biệt sự khác nhau về
chất giữa phép biện chứng duy vật với tư cách là phương pháp
nhận thức của những người cộng sản với các phương pháp nhận
thức trước đó. Nếu như phép biện chứng tự phát, ngây thơ thời
cổ đại chỉ là cách nhìn nhận thế giới bằng sự phỏng đốn, quan
sát ngắm nhìn bề ngồi, cho ta một bức tranh mờ nhạt về thế
giới, thì đối lập với phép siêu hình xem xét thế giới trong sự
tách rời, biệt lập, phép biện chứng mác-xít ln coi các sự vật
hiện tượng, q trình của thế giới tồn tại thống nhất trong một
chỉnh thể, có mối liên hệ tác động và ảnh hưởng lẫn nhau. Ngay
trong thế giới hữu cơ sự vật bao giờ cũng vừa là bản thân nó,
vừa khơng phải là bản thân nó, trong giây lát, một số tế bào
trong cơ thể của nó chết đi nhưng lại có ngay các tế bào khác
được hình thành. Trong các mặt đối lập (khẳng định và phủ
định, nguyên nhân và kết quả,…) cũng vậy, hai mặt đối lập vừa
thống nhất vừa đấu tranh với nhau, chúng ln thâm nhập
chuyển hóa sang nhau, q trình đó diễn ra liên tục làm cho sự
vật vận động, phát triển khơng ngừng.
Phép biện chứng mác-xít cũng khác với phép biện chứng
duy tâm của Hê ghen. Phép biện chứng của Hêghen là phép
biện chứng của của khái niệm, còn phép biện chứng của Mác,
Ăngghen là phép biện chứng hiện thực. Các nhà duy vật mác-xít
kế thừa những hạt nhân hợp lý của phép biện chứng duy tâm
Đức, cảo tạo nó, dựng nó dậy để phép biện chứng ấy đứng trên
đơi chân của hiện thực, loại bỏ tính duy tâm, thần bí, phản
động của nó để xây dựng nên phép biện
(1) Sđd, tr.41.
11
chứng khoa học. Ăngghen đã chỉ ra rằng: cái biện chứng
của khái niệm, của tư duy thật ra chỉ là sự phản ánh cái biện
chứng đang diễn ra trong thế giới hiện thực, vì vậy theo
Ăngghen: “Giới tự nhiên là hòn đá thử vàng đối với phép biện
chứng”1, “Trong tự nhiên, rút cục lại, mọi cái đều diễn ra một
cách biện chứng chứ khơng phải siêu hình”2.
Như vậy phép biện chứng khơng phải tự phát sinh ra, mà
nó được các nhà bác học thiên tài đứng trên lập trường duy vật
với nhãn quan tinh tế và tư duy khoa học xây dựng lên. Đó là
phép biện chứng mang tính tự giác, được dùng trang bị cho một
lực lượng vật chất xã hội tiến bộ để cải tạo xã hội. Trong tác
phẩm, Ăngghen cũng đã so sánh phép biện chứng với lơ-gích
hình thức, khi phê phán Đuy - rinh: “Coi phép biện chứng như là
một công cụ chỉ dùng để chứng minh, giống như khi nhận thức
một cách nơng cạn thì người ta có thể coi lơ-gích hình thức hay
tốn học sơ cấp là một công cụ như thế, - đã chứng tỏ rằng ơng
Đuyrinh hồn tồn khơng hiểu gì bản chất của phép biện chứng
cả”3, theo Ăng ghen: “Lơ-gích hình thức, trước hết, cũng phải là
một phương pháp để tìm ra những kết quả mới, để tiến từ cái
biết đến cái chưa biết”4 nhưng đối với phép biện chứng thì khác,
nó “Phá vỡ cái chân trời nhỏ hẹp của lơ-gích hình thức, đồng
thời lại chứa đựng mầm mống của một thế giới quan rộng lớn
hơn”5. Cuối cùng Ăngghen đã đưa ra định nghĩa kinh điển về
phép biện chứng: “Phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa
học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát
triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy” 6.
Thứ ba - Các quy luật của phép biện chứng duy vật:
12
Về quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập:
Quy luật này khơng được Ăngghen trình bày riêng mà xen vào
các phần khác nhau trong tác phẩm, bởi vì Đuy-rinh phủ nhận
mâu thuẫn của thế giới, xem đó chỉ là thao tác của tư duy mà
thơi, mâu thuẫn : “Chỉ là sự kết hợp tư tưởng khác nhau chứ
không
thuộc về hiện thực. Trong các sự vật không hề có mâu
thuẫn nào”7, như vậy là ơng Đuyrinh vừa duy tâm lại vừa siêu
hình, bởi vì ơng khơng nhìn thấy mâu thuẫn nảy sinh từ hiện
thực, không biết mâu thuẫn có nguồn gốc từ đâu và cái gì đã
tạo
(1) Sđd, tr.38; (2) Sđd, tr.39; (3) (4) Sđd, tr.191; (5) Sđd,
tr.192; (6) Sđd, tr.201; (7) Sđd, tr171.
nên mâu thuẫn, do đó ơng mới cho rằng mâu thuẫn chỉ có
thể tồn tại trong tư tưởng, trong ý thức tư duy của con người.
Nhà triết học tiểu tư sản này vì khơng nhận thức được mâu thuẫn
tồn tại khách quan, mâu thuẫn mang tính tự thân của chính sự
vật nên ơng ta cũng khơng nhìn thấy vạn vật trong thế giới đang
vận động, biến đổi khơng ngừng. Ơng nhìn sự vật trong trạng
thái bất động, rời rạc nên đã đi đến kết luận: trong sự vật khơng
hề có một mâu thuẫn nào.
Đấu tranh chống lại Đuyrinh, Ăngghen đã khẳng định: mâu
thuẫn là khách quan, khơng những thế, tính phổ biến của mâu
thuẫn có cả trong tự nhiên, xã hội, tư duy, cả trong giới vô cơ,
hữu cơ. Theo Ăngghen: “Bản thân sự vận động đã là một mâu
thuẫn; ngay như sự di động máy móc và đơn giản sở dĩ có thể
thực hiện được, cũng chỉ là vì một vật trong cùng một lúc vừa ở
13
nơi này lại vừa ở nơi khác, vừa ở cùng một chỗ lại vừa khơng ở
chỗ đó. Và sự nảy sinh thường xuyên và việc giải quyết đồng
thời mâu thuẫn này - đó cũng chính là sự vận động” 1. Khẳng
định trên đã được Ăngghen chứng minh cụ thể trên các lĩnh vực,
theo Ăngghen: “Sự sống cũng là một mâu thuẫn tồn tại trong
bản thân sự vật và các quá trình, một mâu thuẫn thường xuyên
nảy sinh và tự giải quyết, khi mâu thuẫn chấm dứt thì sự sống
cũng khơng còn nữa và cái chết xảy đến” 2. Trong lĩnh vực tư
duy cũng như vậy: “Chúng ta khơng thể thốt khỏi mâu thuẫn;
chẳng hạn như mâu thuẫn giữa năng lực nhận thức vô tận ở bên
trong của con người với sự tồn tại thực tế của năng lực ấy” 3, đó
là mâu thuẫn giữa năng lực nhận thức với hạn chế của từng thế
hệ con người cụ thể, mâu thuẫn này sẽ được giải quyết trong sự
nối tiếp nhau của các thế hệ. Trong lĩnh vực xã hội: mâu thuẫn
trong xã hội tư bản là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và tư sản,
giải quyết mâu thuẫn này phải thơng qua cuộc cách mạng xã
hội,…
Có thể nói, với cách lý giải, phê phán và chứng minh rõ
ràng, sâu sắc sự tồn tại khách quan của mâu thuẫn và cách giải
quyết mâu thuẫn, Ăngghen đã cho chúng ta thấy rõ quy luật
thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là một
(1) Sđd, tr.172.
(2) (3) Sđd, tr.174.
trong những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật,
là nguồn gốc, động lực của mọi quá trình vận động, phát triển
của các sự vật, hiện tượng trong thế giới.
14
Về quy luật từ những biến đổi dần dần về lượng dẫn đến
sự thay đổi về chất: Với thái độ kiên quyết, thông qua việc phê
phán tư tưởng của Đuyrinh xuyên tạc tư tưởng của Mác khi Mác
phân tích biến đổi tư bản, tiền thành tư bản được đề cập ở trang
178, 179, 180 của tác phẩm, Ăngghen đã chỉ ra rằng quy luật
lượng chất cũng mang tính khách quan, phổ biến, Ông viết:
“Những thay đổi đơn thuần về lượng, đến một mức độ nhất
định, sẽ chuyển hóa thành những sự khác nhau về chất” 1.
Khẳng định đó cho thấy bản chất của quy luật này chỉ ra: trong
thế giới hiện thực, trong các sự vật hiện tượng thì sự thay đổi về
chất bao giờ cũng là kết quả từ những biến đổi tích lũy dần về
lượng, nếu khơng có những thay đổi dần về lượng thì khơng bao
giờ có sự nhảy vọt về chất trong những điều kiện nhất định.
Để chứng minh cho tính khách quan, phổ biến của quy luật
này, Ăng ghen đã dẫn chứng bằng nhiều ví dụ trong các lĩnh
vực đã được kiểm chứng của các thành tựu nghiên cứu khoa học
như: các trạng thái của nước khi nó ở các điều kiện nhiệt độ
khác nhau, về những dãy đồng đẳng của các hóa hợp Các bon
khi thêm các nguyên tử mới vào theo một tỷ lệ nhất định nó sẽ
cho ra đời các chất mới khác nhau, hoặc sự khác nhau về chất
trong quân đội Pháp do Napôlêông chỉ huy với đội kỵ binh Mame-lúc…
Như vậy, quy luật lượng chất đã khái quát quá trình vận
động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong cả tự nhiên, xã hội
và tư duy. Nó chỉ ra cách thức, trạng thái vận động, phát triển
của sự vật hiện tượng, đó là q trình biến đổi dần dần về lượng
dẫn đến sự thay đổi về chất.
15
Về quy luật phủ định của phủ định: Đây là một trong ba quy
luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Nó khẳng định q
trình phát triển của sự vật phải
trải qua những chu kỳ phủ định biện chứng. Sau những chu
kỳ phủ định ấy, sự vật dường như lặp lại cái ban đầu nhưng trên
cơ sở cao hơn. Trong tác phẩm này, để chứng minh cho tính
khách quan, phổ biến của quy luật, Ăngghen đã đưa ra ví
(1) Sđd, tr.179.
dụ về một hạt đại mạch ban đầu gặp điều kiện sinh trưởng
cho phép đã phát triển thành cây đại mạch. Như vậy, cây đại
mạch đã phủ định hạt, đó là lần phủ định thứ nhất. Cây ra hoa
kết trái tạo ra nhiều hạt khác, khi cây chết đi, tạo ra nhiều hạt
đại mạch đã chín, và như vậy đã hoàn thành lần phủ định thứ
hai. Kết thúc một vòng khâu phủ định chúng ta thu lại được
lượng hạt đại mạch khác hơn nhiều lần ban đầu.
Trong tư duy, Ăngghen cũng đã chứng minh sự ra đời tất
yếu của phép biện chứng duy vật đã phủ định phép siêu hình thế
kỷ XVII, XVIII, phép biện chứng duy tâm Đức thời cận đại để trở
lại với phép biện chứng duy vật chất phác thời cổ đại nhưng với
chất cao hơn trên nền chủ nghĩa duy vật và những thành tựu vĩ
đại của khoa học tự nhiên.
Các nhà triết học tư sản và ơng Đuyrinh phản đối quy trình
phủ định của phủ định trong sự phát triển của sự vật. Họ cũng
thừa nhận có sự phủ định xảy ra nhưng đó là sự phủ định siêu
hình. Ăngghen đã chỉ ra sự khác biệt cơ bản giữa phủ định biện
chứng và phủ định siêu hình. Phủ định siêu hình là phủ định sạch
trơn theo kiểu nghiền nát một hạt lúa, giẫm chết một con sâu,
16
hay phủ định là một lời nói bằng một mệnh đề ngược lại. Phủ
định này không thể tạo ra sự phát triển mới, mà yêu cầu của phủ
định biện chứng đặt ra là “Phải thiết lập sự phủ định thứ nhất
như thế nào cho sự phủ định thứ hai vẫn sẽ cịn hay có thể có
được”1.
Như vậy, phủ định biện chứng khác về chất so với phủ định
siêu hình. Nếu như phủ định siêu hình chỉ đơn thuần mang tính
cơ học, cực đoan, gạt bỏ hoàn toàn những đặc điểm, thuộc tính
của sự vật, thì phủ định biện chứng lại
biết kế thừa, giữ lại
những tinh túy của sự vật, cải tạo và nhân nó lên cho q trình
sau. Nếu phủ định siêu hình đem lại một sự lụi tàn thì phủ định
biện chứng đem đến một sức sống, một sự phát triển.
Từ những phân tích, luận giải của Ăngghen nêu trên, có
thể khẳng định: sự vận động, phát triển của mọi sự vật, hiện
tượng chỉ được thực hiện thông qua phủ định biện chứng, bằng
tích lũy dần dần về lượng để dẫn đến sự thay đổi về chất và
nguồn gốc, động lực của sự phát triển chính là giải quyết
mâu thuẫn
(1) Sđd, tr.201.
trong nội tại sự vật thông qua quy luật thống nhất và đấu
tranh giữa các mặt đối lập, cứ như vậy làm cho các sự vật, hiện
tượng cả trong tự nhiên, xã hội và trong tư duy luôn vận động
và phát triển không ngừng.
ý nghĩa rút ra qua nghiên cứu tác phẩm:
Dưới hình thức bút chiến, Chống Đuyrinh là một tác phẩm
tổng kết toàn diện sự phát triển của chủ nghĩa Mác. Trong tác
phẩm này, lần đầu tiên Ăngghen trình bày một cách hồn chỉnh
17
thế giới quan mác-xít: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, khoa kinh tế và chủ nghĩa xã hội khoa
học. Ông chỉ ra mối liên hệ không thể tách rời và sự phụ thuộc
lẫn nhau giữa ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác, trong đó
phép biện chứng là một nội dung hết sức quan trọng của tác
phẩm Chống Đuyrinh.
Với tác phẩm của mình, Ăngghen đã trực tiếp tham gia vào
các cuộc tranh luận trong phong trào công nhân Đức xung quanh
các vấn đề cơ bản về thế giới quan và chính trị. Tác phẩm Chống
Đuyrinh đã góp một phần quyết định vào thắng lợi của chủ nghĩa
Mác trong phong trào công nhân. Đem lại cho học thuyết Mác
sức sống mới, làm tròn vai trò “vũ khí tinh thần” cho phong trào
cộng sản và cơng nhân quốc tế. Qua tác phẩm, chúng ta thấy rõ
Ăngghen thực sự là một tấm gương sáng về tinh thần chiến đấu
kiên quyết, không thỏa hiệp, khoan nhượng với các quan điểm
phi mác-xít bằng nghệ thuật bút chiến tuyệt vời.
Mặc dù đã hơn một thế kỷ trôi qua kể từ khi tác phẩm
Chống Đuyrinh ra đời, song những tư tưởng, quan điểm của chủ
nghĩa Mác được Ăngghen trình bày trong tác phẩm vẫn còn
nguyên giá trị, đặc biệt là phép biện chứng duy vật của chủ
nghĩa Mác có ý nghĩa vô cùng to lớn trong công cuộc đổi mới ở
nước ta hiện nay. Trước hết, nó là cơng cụ để nhận thức đúng
quá trình đổi mới, là cơ sở phương pháp luận để Đảng ta có cơ
sở khoa học xác định phương pháp cách mạng đúng đắn, đó là
tất yếu phải thực hiện nền kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, phải chủ động tham gia hội nhập với nền kinh tế
thế giới và khu vực trên cơ sở hợp tác hai bên cùng có lợi…
18
Đối với những người cộng sản thì phép biện chứng duy vật
trở thành công cụ quan trọng bậc nhất không thể thiếu của
nhận thức và hành động để cải tạo thế giới và cải tạo chính bản
thân mình, là cơ sở khoa học để xây dựng tinh thần lạc quan
cách mạng, giữ vững niềm tin vào mục tiêu lý tưởng, con đường
đã lựa chọn. Đồng thời còn là cơ sở để nhận thức đúng đắn
những biến đổi mau lẹ, sâu sắc của tình hình thế giới nhằm đáp
ứng những địi hỏi cấp bách của sự nghiệp đổi mới ở nước ta
hiện nay.
Đối với hoạt động thực tiễn quân sự, phép biện chứng duy
vật cũng cung cấp nguyên tắc, phương pháp luận khoa học và
cách mạng trong thực tiễn hoạt động qn sự, đó là ngun tắc:
khách quan, tồn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển. Mặt khác,
phép biện chứng duy vật cịn là vũ khí lí luận khoa học, cung
cấp cho chúng ta phương pháp đấu tranh chống lại các quan
điểm cơ hội, xét lại, phản động của các thế lực thù địch, bảo vệ
sự trong sáng của chủ nghĩa Mác, đường lối quan điểm của
Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Việc bảo vệ, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác
nói chung, phép biện chứng duy vật nói riêng vừa là địi hỏi cấp
bách của thực tiễn vừa là vấn đề mang tính quy luật sống cịn
mà lịch sử hình thành và phát triển của học thuyết Mác đã kiểm
chứng. Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Đông Âu
và hụn 20 năm đổi mới trên đất nước ta đã cho thấy: lúc nào xa
rời hoặc vận dụng máy móc những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không tuân theo
những nguyên tắc của phép biện chứng duy vật thì tất yếu phải
trả giá, thậm chí diễn ra cả sự đổ vỡ, khủng hoảng, thất bại.
19
Trong thời đại ngày nay, các quan điểm, tư tưởng của
Ăngghen nêu trong tác phẩm vẫn có ý nghĩa hết sức quan trọng
đối với chúng ta trong xem xét, đánh giá các vấn đề diễn ra
trong tự nhiên, xã hội và cả trong tư duy. Chúng ta cần phải
kiên định, nắm vững phép biện chứng duy vật để lý giải, nhận
thức các vấn đề mới nảy sinh và tiếp tục nghiên cứu, phát triển,
vận dụng sáng tạo những lý luận, quan điểm của phép biện
chứng duy vật của Mác, Ăngghen vào tất các các lĩnh vực:
Chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội, an ninh - quốc phịng,…góp
phần đưa sự nghiệp đổi mới theo định hướng XHCN trên đất
nước ta ngày càng phát triển, đạt những thành tựu mới vững
chắc hơn.
********************