Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Một số nội dung của v i lênin về phép biện chứng duy vật trong tác phẩm “bút ký triết học” và ý nghĩa thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.95 KB, 17 trang )

1

Một số nội dung của V.I.Lênin về phép biện chứng duy vật trong tác
phẩm “Bút ký triết học” và ý nghĩa thực tiễn.

Khi nói đến phép biện chứng, thì đã xuất hiện từ thời cổ đại và từ đó
đến nay, phép biện chứng đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau,
gắn liền với sự phát triển của khoa học và thực tiễn gồm :
Phép biện chứng mộc mạc, thô sơ, chất phác thời cổ đại .
Phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển đức .
Phép biện chứng duy vật.
Ăngghen đưa ra định nghĩa về phép biện chứng duy vật là : “phép biện
chứng là khoa học về sự liên hệ phổ biến”. “phép biện chứng(….) là môn
khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự
nhiên, của xã hội loài người và của tư duy” 1 phép biện chứng duy vật là sự
thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với phương pháp biện chứng;
giữa lý luận nhận thức với tư duy biện chứng. Sự ra đời của phương pháp duy
vật là cuộc cách mạng trong phương pháp tư duy triết học; là phương pháp tư
duy khác về chất so với các phương pháp tư duy trước đó; là “phương pháp
mà điều căn bản là nó xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng
trong tư tưởng, trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng
buộc, sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng”2. Mác-Ăngghen là
những người sáng tạo nên phép biện chứng duy vật, Lênin đã bổ sung hồn
thiện phát triển nó lên một bước mới.
Tác phẩm: “Bút ký triết học” (thể hiện trong Lênin: toàn tập,t.29, Nxb
Tiến bộ, M, 1981). Là một tác phẩm bao gồm những đoạn trích dài, được
Lênin tiến hành từ năm 1914-1916 (thuộc về thời kỳ chiến tranh thế giới thứ
1

C.Mác và Ph.Ăngghen:Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H,2004, t.20, tr.455


2

V.I Lênin: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H,2004, t.41.


2
nhất: 1914-1918). Những bản tóm tắt các đoạn trích và các ghi chú triết học
được hoàn thiện lần cuối cùng trong những năm 1914-19415 (tuy chưa xong)
nhưng đã có ý nghĩa to lớn đối với triết học Mácxít, góp phần phát triển hơn
phép biện chứng duy vật, áp dụng phép biện chứng đó để phân tích, khái qt
những kinh nghiệm xã hội trong thời kỳ mới (thời kỳ chủ nghĩa đế quốc );
chống lại chủ nghĩa tầm thường; chủ nghĩa chiết trung; thuyết nguỵ biện cũng
như các mưu toan phủ nhận triết học mác; đồng nhất học thuyết kinh tế của
Mác với chủ nghĩa Cantơ, chủ nghĩa thực chứng…. Bút ký triết học là cái
mốc quan trọng đánh dấu bước phát triển mới của triết học Mác. đây cũng là
sự tiếp tục phát triển những luận điểm trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”. Bên cạnh chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
kinh nghiệm phê phán, tập bút ký triết học là một tài sản tư tưởng vơ giá, có ý
nghĩa lý luận và chính trị đặc biệt và là cơ sở của giai đoạn Lênin trong sự
phát triển của tư tưởng triết học Mácxít.Nếu trong tác phẩm triết học chính
của mình (“Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”), Lênin
chủ yếu chú ý đến các vấn đề cơ bản của chủ nghĩa duy vật triết học, thì điểm
trung tâm của “Bút ký triết học”, (nơi được coi là tiêu điểm quy tụ những
quan điểm của Lênin trong các lĩnh vực khác nhau của tri thức loài người)-lại
là phép biện chứng duy vật, là những quy luật và phạm trù cơ bản của nó, lịch
sử hình thành của chúng, ý nghĩa của chúng đối với các khoa học xã hội và
khoa học tự nhiên, tính chất biện chứng của sự phát triển của kỷ thuật.
Kết cấu của “Bút ký triết học” có 3phần
Phần I: gồm 9 bản tóm tắt các tác phẩm triết học được mở đầu bằng
bảng tóm tắt các tác phẩm viết chung đầu tiên của Mác và Ăngghen: “gia

đình và thần thánh, hay sự phê phán có tính chất phê phán”, trung tâm trong
phần mở đầu là những bản tóm tắt các tác phẩm của Hêghen, tiếp theo là các
bản tóm tắt các cuốn sách của Ghi-Nơ- En; Ph.Lát.Xan và A-ri-Xtốt. Phần
một kết thúc bằng bản tóm tắt cuốn: “phép siêu hình” của A-Ri-Xtốt. Ngồi


3
các bản tóm tắt, phần I cịn gồm 2 đoạn trích của Lênin, một là :”Dàn mục của
phép biện chứng” (lôgic) của Hê Ghen”, hai là: “về vấn đề phép biện chứng”
Phần II: tập hợp những ghi chú của Lênin về các cuốn sách, bài viết, và
các bài phê bình sách triết học và khoa học tự nhiên trong những năm 19031916. Những ghi chú ấy là sự bổ sung quan trọng cho sự hiểu biết của chúng
ta về việc Lênin nghiên cứu các vấn đề triết học, đặc biệt là những vấn đề triết
học của khoa học tự nhiên, về việc phê phán triết học tư sản…
Phần cuối của tác phẩm: gồm những đoạn trích từ các cuốn sách của IĐit-xơ-Ghen. G.V.Plê-Kha-Nôp; V.M-Đê-Bô- Rin. Với những ý kiến và bút
tích của Lênin, những ý kiến ấy khơng chỉ đánh giá một tác giả nào đó mà cịn
đề cập rất nhiều vấn đề của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử , lịch sử triết học, những vấn đề của khoa học tự nhiên, chủ nghĩa
vô thần khoa học ….
Đọc tác phẩm của Lênin trong: “Bút ký triết học”, chúng ta nhận thấy:
nội dung xuyên suốt của tác phẩm là vấn đề phép biện chứng hay nói cách
khác trung tâm của “ Bút ký triết học”, là phép biện chứng, trong đó Lênin đã
trình bày khái quát, sâu sắc và ngắn gọn phép biện chứng duy vật( đưa ra định
nghĩa sâu sắc về phép biện chứng duy vật, làm sáng tỏ mọi mặt bản chất và
các yếu tố của phép biện chứng duy vật cũng như lịch sử hình thành và ý
nghĩa của phép biện chứng duy vật đối với khoa học…) nội dung cụ thể về tư
tưởng phép biện chứng của Lênin được bản thân nghiên cứu, tìm hiểu và xin
trình bày trên một số vấn đề cơ bản sau đây:
Đầu tiên Lênin đánh giá về triết học duy vật và phép biện chứng trong
lịch sử (từ triết học Hy Lạp cổ đại đến triết học cổ điển Đức). Ơng đã phân
tích, chọn lọc, những tính hợp lý trong triết học Hêghen, Phơ- Bách; A-RiXtốt…đồng thời kịch liệt phê phán các quan niệm sai lầm, đối lập với triết

học Mác. Các nhà biện chứng cổ điển Đức mà điển hình là Hêghen, đã áp
dụng biện chứng vào các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, qua đó đã


4
xây dựng được hệ thống phạm trù, quy luật chung thống nhất, có lơgic chặt
chẽ của nhận thức, tinh thần, và trong một ý nghĩa nào đó, là của cả hiện thực
vật chất. Mặc dù có nhiều “hạt nhân hợp lý”, và “Lấp lánh mầm mống phôi
thai của chủ nghĩa duy vật” song theo Lênin những kết luận của phép biện
chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức là những phỏng đốn tài tình về
“biện chứng của sự vật trong biện chứng của khái niệm” 3 . phép biện chứng
duy tâm trong triết học cổ điển Đức đã hoàn thành cuộc cách mạng về phương
pháp, nhưng cuộc cách mạng đó lại ở tận trên trời, chứ khơng phải ở dưới trần
gian, trong cuộc sống hiện thực của loài người,và do vậy, phép biện chứng đó
“Khơng tránh khỏi tính chất gị ép, giả tạo, hư cấu, tóm lại là bị xuyên tạc” .
Vì thế triết học Hêghen tạo khoảng trống cho các quan điểm thực tiễn có tính
chất đảng phái và hết sức khác nhau. Người nào đặc biệt dựa vào hệ thống
triết học của Hêghen thì người đó có thể là khá bảo thủ, còn người nào cho
phương pháp biện chứng là chủ yếu, thì người đó, về chính trị cũng như về
tơn giáo, đều có thể thuộc vào phái cực đoan nhất. Cống hiến lớn của Hê ghen
là đã trở lại phép biện chứng, coi phép biện chứng như một phương pháp đối
lập với phương pháp siêu hình thế kỷ XVII, XVIII. Lần đầu tiên phép biện
chứng thể hiện với tư cách là lôgic biện chứng, khắc phục một số hạn chế của
lơgic hình thức. Từ việc nghiên cứu tính biện chứng của ý niệm, đã dẫn
Hêghen đến chỗ đua ra hệ thống các khái niệm, các phạm trù và các quy luật
cơ bản của phép biện chứng, trình bày phép biện chứng trên cả 3 lĩnh vực: tự
nhiên, tinh thần và kết thúc bằng biện chứng của quá trình lịch sử. Lênin cố
tìm: “cái hạt chân lý sâu sắc trong cái vỏ thần bí của chủ nghĩa Hêghen” 4 “nói
chung tơi cố gắng đọc Hêghen theo quan điểm duy vật” “có nghĩa là phần lớn,
tơi loại bỏ thượng đế, tuyệt đối, ý niệm thuần tuý etc”. Song phép biện chứng

của Hêghen là phép biện chứng lộn ngược (theo Ăngghen ), bởi ông cho rằng:
Biện chứng của “ý niệm tuyệt đối” quy định biện chứng khách quan chứ
3

.V.I Lênin: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H,2005, t.29, tr.209

4

.V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, M,1981, t.29, tr.164


5
khơng phải ngược lại, vì vậy triết học Hêghen là chủ nghĩa duy tâm khách
quan và biện chứng của ông mang tính chất tự biện. Mặt khác triết học của
Hêghen cịn mang tính khơng triệt để , biểu hiện ở khuynh hướng giải thích
cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập theo tinh thần điều hoà mâu thuẫn,
khuynh hướng quay về với quá khứ chứ không hướng tới tương lai của sự
phát triển. Điều đó phản ánh sâu sắc giữa hệ thống duy tâm và phương pháp
biện chứng của triết học Hêghen. Phương pháp biện chứng của Hêghen là
phương pháp suy ngẫm triết học về thế giới. Kết quả của phương pháp này là
hình ảnh suy tư chỉnh thể về thế giới chứ không phải là bức tranh về thế giới
thu được nhờ kết quả của khoa học cụ thể. Còn nhận xét về hạn chế của triết
học Phoiơbắc Lênin viết: “Do đó thấy rằng giới tự nhiên bằng tất cả, trừ cái gì
siêu tự nhiên. Phơbách sáng tỏ nhưng không sâu sắc. Ph.Ăng ghen đã định
nghĩa một cách sâu sắc hơn sự khác nhau giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm”5. Còn khi phê phán Arixtốt Lênin nhận định “ở Arixtốt, đâu đâu
lơgíc khách quan cũng lẫn lộn với lơgíc chủ quan, và lẫn lộn một cách khiến
cho đâu đâu lơgíc khách quan cũng lộ ra. Khơng cịn gì nghi ngờ về tính
khách quan của nhận thức nữa. lòng tin chất phác vào sức mạnh của lý tính,
vào năng lực, vào tính khách quan của nhận thức. Và sự lẫn lộn chất phác, sự

lẫn lộn bất lực và đáng thương trong phép biện chứng của cái chung và cái
riêng-của khái niệm và tính thực tại do giác quan tri giác được của đối tượng
cá biệt , của sự vật, của hiện tượng” 6, như vậy Lênin đánh giá cao tư tưởng
biện chứng khách quan và niềm tin vào sức mạnh lý tính trong q trình nhận
thức của Arixtốt.
Phép biện chứng duy vật có khả năng đem lại cho con người tính tự
giác cao trong mọi hoạt động . Mỗi luận điểm của phép biện chứng duy vật là
kết quả của sự nghiên cứu rút ra từ giới tự nhiên, cũng như lịch sử xã hội loài
người. Mỗi nguyên lý, quy luật, phạm trù của phép biện chứng được khái quát
5

.Sđd, tr54

6

.Sđd, tr390


6
và luận giải trên cơ sở khoa học. chính vì vậy, phép biện chứng duy vật đã
đưa phép biện chứng từ tự phát đến tự giác. Chính sự phong phú, đa dạng
mn hình, mn vẻ, của các sự vật hiện tượng ở trong tự nhiên, xã hội và tư
duy sẽ quy định nội dung của phép biện chứng duy vật. Nội dung của phép
biện chứng duy vật trước hết là nguyên lý về mối quan hệ phổ biến và nguyên
lý về sự phát triển. Đây là các nguyên lý có ý nghĩa khái quát nhất, các phạm
trù, các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật là sự cụ thể các nguyên
lý trên. Theo Lênin: “phép biện chứng, tức là học thuyết về sự phát triển, dưới
hình thức hồn bị nhất, sâu sắc nhất và khơng phiến diện, học thuyết về tính
tương đối của nhận thức của con người, nhận thức này phản ánh vật chất luôn
luôn phát triển không ngừng”. Trong “Bút ký triết học”, Lênin coi phép biện

chứng là lý luận duy nhất đúng về sự phát triển; nó “cho ta chìa khố của “sự
tự vận động” của tất thảy mọi cái đang tồn tại”; làm rõ những yếu tố dang phổ
biến “trong tất cả các hiện tượng và quá trình của giới tự nhiên ( kể cả tinh
thần và xã hội )”7, nêu ra “những quy luật chung của vận động của thế giới và
tư duy”8. “phép biện chứng với tính cách là nhận thức sinh động, nhiều mặt
(số các mặt không ngừng tăng lên mãi mãi) bao hàm vơ số các khía cạnh
trong cách tiếp cận, đi gần tới hiện thực (với một hệ thống triết học đi từ mỗi
khía cạnh mà phát triển thành một tồn thể )- đó là nội dung phong phú không
lường được so với chủ nghĩa duy vật , siêu hình” 9. Trong sự phát triển mới
của khoa học tự nhiên đã buộc những người bảo thủ nhất trong triết học siêu
hình phải thừa nhận sự phát triển, song họ lại hiểu không đúng về sự phát
triển. Lênin viết: “ở đầu thế kỷ XX( và ngay cuối thế kỷ XIX ), “mọi người
đồng ý” với “nguyên tắc về sự phát triển”.- nhưng sự “đồng ý” nông cạn,
thiếu suy nghỉ ngẫu nhiên, Phi-Li-Xtanh ấy là một loại đồng ý mà người ta
dùng để bóp nghẹt và tầm thường hố chân lý”10cho nên Lênin cho rằng: lúc
7

Sđd, tr.379

8

Sđd, tr.184

9

Sđd, tr.382

10

.Sđd, tr.270



7
này vấn đề khơng cịn là thừa nhận hay khơng thừa nhận nguyên tắc về sự
phát triển, mà là hiểu sự phát triển như thế nào. Khi coi phép biện chứng là
học thuyết hoàn thiện nhất về sự phát triển, Lênin đã hiểu sự phát triển
“không phải là một sự lớn lên, một sự tăng thêm ( respective một sự giảm
bớt ) etc. Đơn giản, phổ biến và vĩnh viễn. Đã như vậy thì một là phải hiểu
một cách chính xác hơn, sự tiến hoá là sự sinh ra và sự huỷ diệt của mọi vật,
là những sự chuyển hoá lẫn nhau- và hai là, nếu tất cả đều phát triển, thì cái
đó áp dụng cho những khái niệm và những phạm trù chung nhất của tư duy
không ?... Nếu có tức là sự biện chứng của những khái niệm, và phép biện
chứng của nhận thức”11.
Trong quá trình giải quyết vấn đề trung tâm trong lý thuyết về sự phát
triển Lênin chỉ ra sự đối lập nhau giữa hai quan niệm ( quan niệm biện chứng
và quan niệm siêu hình ), thực chất của sự khác biệt của hai quan niệm này
khi giải quyết vấn đề trên là ở cách giải thích khác nhau về nguồn gốc, động
lực của sự phát triển. Lênin viết : “hai quan niệm cơ bản…về sự phát triển (sự
tiến hoá): sự phát triển coi như là giảm đi và tăng lên, như là lặp lại, và sự
phát triển coi như là sự thống nhất của các mặt đối lập (sự phân đôi của cái
thống nhất thành những mặt đối lập bài trừ lẫn nhau và mối quan hệ lẫn nhau
giữa những mặt đối lập ấy )…quan niệm thứ nhất là chết cứng, nghèo nàn,
khô khan, Quan niệm thứ hai là sinh động Chỉ có quan niệm thứ hai mới cho
ta chìa khố của sự “tự vận động”, của tất cả mọi cái đang tồn tại; chỉ có nó
mới cho ta chìa khố của những “bước nhảy vọt”, của sự “gián đoạn của tính
tiệm tiến”, của sự “chuyển hoá thành mặt đối lập”, của sự tiêu diệt cái cũ và
sự nảy sinh cái mới”12. Nguyên lý về sự phát triển cung cấp cho ta phương
pháp nghiên cứu khoa học về thế giới, chỉ cho chúng ta con đường đúng đắn
để cải tạo tự nhiên và xã hội. Nếu phát triển là một quá trình đổi mới khơng
ngừng thì nhiệm vụ của khoa học là phải nghiên cứu xem xét các sự vật, hiện

11

Sđd, tr.116

12

Sđd, tr.379


8
tượng của thế giới đang vận động, biến đổi từ dạng này sang dạng khác, từ
đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao như thế nào...vì thế phép biện chứng
yêu cầu chúng ta phải hướng tơí cái mới, phát hiện cái mới một cách nhạy
bén, nhìn về tương lai phát triển của nó. Đồng thời trong phát hiện, hướng tới
cái mới, phải phân biệt cái mới thực sự với những cái giả danh để kịp thời
ngăn chặn, loại trừ, Chỉ những cái nào ra đời hợp với quy luật, mang nội dung
mới trên cơ sở kế thừa có chọn lọc loại bỏ cái cũ, có sự phát triển cao hơn về
chất so với cái cũ, mới được coi là cái mới.
Lênin cho rằng quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là
quy luật cơ bản của phép biện chứng. chỉ có xuất phát từ quy luật đó mới có
thể hiểu được các quy luật và phạm trù khác. Theo người “có thể định nghĩa
vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối
lập”13.Trong đoạn trích viết về những yếu tố của phép biện chứng, Lênin đã
coi : “sự chuyển hố lượng thành chất và ngược lại” như một ví dụ về sự
chuyển hoá của các mặt đối lập. Trong bản “tóm tắt khoa học lơgíc”, người
đã chép ra và nêu lên tầm quan trọng của cách nhận định của Hêghen về các
phạm trù chất, lượng và phạm trù thống nhất của chúng là độ. Khi xét tất cả
các yếu tố của các phạm trù ấy( hữu hạn và vô hạn, giới hạn, v...v ), Lênin
xem xét tỉ mỉ hình thức chyển hoá lẫn nhau của các biến đổi về lượng và chất
– nghĩa là sự nhảy vọt, “sự gián đoạn của tính tiệm tiến”. Lênin nhấn mạnh ý

nghĩa quyết định của quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập với
sự phát triển khi khẳng định bản chất, nguồn gốc, động lực của sự phát triển
là cuộc đấu tranh giữa hai mặt đối lập: “Sự phân đôi của cái thống nhất và sự
nhận thức các mâu thuẫn của nó...đó là thực chất...cuả phép biện chứng”, “sự
thống nhất (phù hợp, đồng nhất, tác dụng ngang nhau) của các mặt đối lập là
có điều kiện, tạm thời, thống qua, tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối
lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối”14. Lênin nêu lên sự chuyển hoá của các mặt
13

Sđd, tr.240

14

Sđd, tr.379-380


9
đối lập: “phép biện chứng là học thuyết vạch ra rằng những mặt đối lập làm
thế nào mà có thể và thường là (trở thành) đồng nhất, -trong những điều kiện
nào chúng là đồng nhất, bằng cách chuyển hoá lẫn nhau,- tại sao lý trí con
người khơng nên xem những mặt đối lập ấy là chết cứng, cứng đờ, mà là sinh
động, có điều kiện, năng động, chuyển hố lẫn nhau” 15, và Lênin khái quát
rằng, hạt nhân của phép biện chứng là quy luật thống nhất và đấu tranh của
các mặt đối lập và có như vậy mới là nắm được hạt nhân của phép biện
chứng. Chúng ta biết rằng: mâu thuẫn quy định quá trình phát triển của các
sự, hiện tượng, vì thế nên quá trình nhận thức để hiểu được sự vận động phát
triển của các sự vật, hiện tượng ấy, tất yếu phải xem xét các giai đoạn phát
triển của mâu thuẫn ấy ( từ triển khai mâu thuẫn đến giải quyết mâu thuẫn )
Khi trình bày 16 yếu tố của phép biện chứng, Lênin không chỉ chú ý đến sự
thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập ( yếu tố 4, 5, 6 : “...4,: Những

khuynh hướng( và # những mặt) mâu thuẫn bên trong của sự vật ấy. - 5 Sự
vật (hiện tượng ect.) coi là tổng số # và sự thống nhất của các mặt đối lập. 6,:Sự đấu tranh respective, sự triển khai của các mặt đối lập ấy, của những
khuynh hướng mâu thuẫn ect .”......).mà Lênin còn nhấn mạnh đến sự chuyển
hoá giữa chúng ( yếu tố 9 : “Không phải chỉ là sự thống nhất giữa các mặt đối
lập, mà cịn là chuyển hố của mỗi quy định, chất, đặc trưng, mặt, thuộc tính,
sang mỗi cai khác”16 ), còn yếu tố 15-16 : (- ...15,: “đấu tranh của nội dung
với hình thức và ngược lại. vứt bỏ hình thức, cải tạo nội dung”- ..16,: “Sự
chuyển hoá lượng thành chất và vice versa”. đây là những thí dụ của yếu tố 9.
Tư tưởng về quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập,
phép biện chứng còn được Lênin trình bày dưới góc độ quy luật chuyển hoá
những biến đổi về lượng thành những biến đổi về chất và ngược lại, đó chính
là yếu tố 16 trong các yếu tố của phép biện chứng duy vật (đã nêu ở trên).
Trong bản tóm tắt: “khoa học lơgíc”, với quan điểm duy vật biện chứng,
15

Sđd, tr.116-117

16

Sđd, tr.239-240


10
Lênin đã nhìn thấy “đêm hơm trước” sự chuyển hố từ chủ nghĩa duy tâm
khách quan sang chủ nghĩa duy vật” của Hêghen. Hêghen đã tiến gần hơn cả
đến chủ nghĩa duy vật khoa học , biện chứng, Lênin đã bút ký và nhận xét
những tư tưởng quý giá của Hêghen. Khi Hêghen viết: “một tồn tại được quy
định, có hạn là một tồn tại có liên hệ với cái khác nào đó; nó là một nội dung
nằm trong mối quan hệ tất yếu với một nội dung khác, với toàn bộ thế
giới.....một sự khẳng định về thực chất là lắp lại – rằng một hạt bụi bị huỷ

diệt thì tàn bộ vũ trụ sẽ sụp đổ”, được Lênin nhận xét: (có một giọng rất duy
vật), “liên hệ tất yếu của tồn bộ thế giới”... “liên hệ có tính quy định nhau
của tất cả”17. Lênin coi bước nhảy vọt, sự đứt đoạn trong tính liên tục là
những đặc trưng của sự chuyển hoá chất – lượng. Từ sự biến đổi dần dần, nhỏ
nhặt về lượng, đến một độ nhất định (điểm nút ) dẫn đến sự biến đổi về chất
(nhảy vọt về chất) và ngược lại. Chất mới ra đời lại quy định sự biến đổi mới,
cứ như vậy sự vật biến đổi, phát triển khơng ngừng, “sự chuyển hố lượng
thành chất và ngược lại” , tức là khi chất mới ra đời lại quy định sự biến đổi
mới về lượng, lượng mới lại tiếp tục biến đổi đến điểm nút lại đẫn đến sự thay
đổi về chất, và cứ như vậy làm cho sự vật phát triển không ngừng. Trên cơ sở
chuyển hoá lẫn nhau giữa chất và lượng, Lênin xem xét một số phạm trù như
hữu hạn, vô hạn, giới hạn....ví dụ: giới hạn trong đó những thay đổi về lượng
của sự vật chưa gây ra những thay đổi căn bản về chất được gọi là độ. Những
thay đổi về lượng vượt qua giới hạn độ làm cho chất của sự vật biến đổi căn
bản...
Tư tưởng phép biện chứng của Lênin trong; “Bút ký triết học” cũng
được trình bày trong quy luật phủ định của phủ định. Lênin coi đặc trưng cơ
bản của quá trình phát triển là “sự lặp lại ở giai đoạn cao, của một số đặc
trưng, đặc tính etc. Của giai đoạn thấp và sự quay trở lại dường như cái cũ
(phủ định của phủ định). Nếu quy luật mâu thuẫn chỉ ra nguồn gốc bên trong
của q trình phát triển, quy luật chuyển hố của những biến đổi về lượng
17

.Sđd. tr.113


11
thành những biến đổi về chất là nội dung của nó, thì quy luật phủ định của
phủ định bao qt tồn bộ q trình, xem mỗi giai đoạn của sự phát triển là
một bước, một giai đoạn của toàn bộ q trình và nhấn mạnh mối liên hệ, tính

kế thừa và tính chất tiến bộ của sự phát triển, trong đó mỗi một bước là sự
phủ định bước trước và đồng thời là tiền đề cho sự phủ định nó, tất nhiên biện
chứng của sự phủ định theo như người: “không phải là sự phủ định sạch trơn,
không phải sự phủ định không suy nghỉ, không phải sự phủ định hồi nghi,
khơng phải sự do dự, cũng khơng phải sự nghi ngờ là cái đặc trưng và cái bản
chất trong phép biện chứng,- dĩ nhiên phép biện chứng bao hàm trong nó
nhân tố phủ định,và thậm chí với tính cách là nhân tố quan trọng nhất của nó,khơng, mà là sự phủ định coi như là vòng khâu của sự liên hệ, vòng khâu của
sự phát triển, với sự duy trì cái khẳng định, tức là khơng có một sự do dự nào,
khơng có một sự chiết trung nào” 18 . thực tế là sự vận động hiện thực sẽ là sự
thống nhất giữa tiến lên và lặp lại theo huynh hướng phát triển, sự phủ định
có kế thừa, mang tính tích cực, lần phủ định sau bao giờ cũng phong phú, đa
dạng hơn lần phủ định trước, sự phủ định thống nhất với cái khẳng định.
Lênin viết “từ khẳng định, đến phủ định, từ sự phủ định đến sự thống nhất với
cái khẳng định, khơng có cái đó, phép biện chứng trở thành sự phủ định sạch
trơn, một trò chơi hay chủ nghĩa hoài nghi”19.
Tác phẩm “bút ký triết học”, Lênin còn cho ta những mẫu mực tuyệt
vời về sự nghiên cứu các phạm trù của phép biện chứng duy vật. Người đã
xem xét các phạm trù quan trọng nhất của phép biện chứng như: hiện tượng
và bản chất, trừu tượng và cụ thể, hình thức và nội dung, nguyên nhân và kết
quả , khả năng và hiện thực, ngẫu nhiên và tất nhiên...Cùng với các nguyên lý,
các quy luật đã nêu trên, các cặp phạm trù góp phần tạo nên hệ thống phép
biện chứng một cách có hệ thống chặt chẽ tính chất biện chứng của thế giới,
các phạm trù (cùng các quy luật), chính là sự cụ thể hoá nguyên lý về mối liên
18

.Sđd, tr.245

19

.Sđd, tr.246



12
hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển. Các phạm trù dược hình thành và
phát triển trong quá trình hoạt động nhận thức, hoạt động cải tạo tự nhiên, xã
hội, trong tất cả các cặp phạm trù thì phạm trù : Cái riêng, cái chung; tất
nhiên, ngẫu nhiên; bản chất và hiện tượng là cơ sở phương pháp luận trực tiếp
của các phương pháp như: phân tích và tổng hợp; diễn dịch và quy nạp; khái
quát, hoá trừu tượng hoá, để giúp chúng ta rút ra được mối liên hệ bản chất, từ
đó nhận thức được tồn bộ các mối liên hệ theo hệ thống nhất định, còn các
phạm trù nguyên nhân và kết quả; khả năng và hiện thực, là cơ sở phương
pháp luận chỉ rõ trình tự kế tiếp nhau của các mối liên hệ, và sự phát triển
giữa các sự vật, hiện tượng là một quá trình tự nhiên với cặp phạm trù nội
dung và hình thức đây lại là cơ sở phương pháp luận để xây dựng các hình
thức tồn tại trong sự phụ thuộc vào nội dung, phản ánh tính đa dạng của các
phương pháp nhận thức và thực tiễn. Chẳng hạn:
Đối với cặp phạm trù bản chất và hiện tượng: Nói đến bản chất là nói
đến những mối liên hệ tất yếu, những mặt tương đối ổn định, những mâu
thuẫn nội tại, những thuộc tính, quy luật quy định sự vận động của sự vật, bản
chất là cái bên trong và tương đối ổn định, hiện tượng ở bên ngoài, thường
xuyên biến đổi, Lênin viết : “bản chất hiện ra. Hiện tượng là có tính bản
chất”20 ; nhận thức của con người là quá trình: “đi từ hiện tượng đến bản chất,
từ bản chất ít sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn” 21 “cái khơng bản chất, cái bề
ngồi, cái trên mặt thường biến mất, không bám chắc”, “ngồi vững” bằng
“bản chất”. Đại để sự vận động của một con sông bọt ở bên trên và luồng
nước sâu ở dưới. Nhưng bọt cũng là biểu hiện của bản chất” 22, “không chỉ
riêng hiện tượng là tạm thời, chuyển động, lưu động bị tách rời bởi những
giới hạn có tính chất ước lệ, mà bản chất của sự vật cũng như thế.” 23 ...Tóm
20


.Sđd, tr.268

21

.Sđd, tr.240

22

.Sđd, tr.288

23

.Sđd, tr.268


13
lại bản chất và hiện tượng vừa thống nhất vừa đối lập biện chứng với nhau.
Bản chất quy định hiện tượng, còn hiện tượng là biểu hiện của bản chất.
Cặp phạm trù cái chung và cái riêng: Cái chung và cái riêng có mối
quan hệ biện chứng với nhau, điều này biểu hiện rõ qua luận điểm sau của
Lênin: “...Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung . Cái
chung chỉ tồn tại trong cái riêng. Bất cứ cái riêng (nào cũng) là cái chung. Bất
cứ cái chung nào cũng là (một bộ phận, một khía cạnh, hay là một bản chất)
của cái riêng, bất cứ cái chung nào cũng bao quát một cách đại khái tất cả mọi
sự vật riêng lẻ. Bất cứ cái riêng nào cũng không gia nhập đầy đủ vào cái
chung, v. v., v.v. Bất cứ cái riêng nào cũng thông qua hàng nghìn sự chuyển
hố mà liên hệ với những cái riêng thuộc loại khác “sự vật, hiện tượng, quá
trình”24. “theo một quan điểm nào đấy, trong điều kiện nào đấy cái chung là
cái riêng và cái riêng là cái chung”25 . Như vậy theo Lênin thì cái chung và cái
riêng không cố định bất biến mà trong những điều kiện cụ thể khác nhau giữa

cái chung và đặc điểm riêng có sự chuyển hố lẫn nhau.
Cặp phạm trù nhân quả: Nguyên nhân và kết quả quan hệ thống nhất
biện chứng tác động qua lại lẫn nhau, nguyên nhân có trước và sinh ra kết
quả, khơng có hiện tượng nào lại khơng có ngun nhân. Q trình hoạt động
thực tiễn muốn đem lại kết quả, điều quan trọng là phải phát hiện được mối
liên hệ nhân quả trong mối liên hệ phổ biến, phong phú của hiện thực. Mối
liên hệ nhân quả chỉ là một mối liên hệ phổ biến, nhưng không phải mối liên
hệ chủ quan mà là mối liên hệ của hiện thực khách quan, Lênin viết: “Nguyên
nhân và kết quả, ergo, chỉ là những vòng khâu của sự phụ thuộc lẫn nhau phổ
biến, của liên hệ ( phổ biến), của sự liên kết nhau của những sự biến, chỉ là
những mắt khâu trong sợi dây chuyền phát triển của vật chất”26 ....

24

.Sđd, tr.381

25

.Sđd, tr.196

26

.Sđd, tr.168


14
Khi viết thu hoạch tác phẩm “Bút ký triết học” bài viết thấy đây là một
tác phẩm triết học lớn của Lênin, là tác phẩm có nhiều vấn đề triết học, là
kiểu mẫu về phát triển chủ nghĩa Mác đặc biệt là triết học; một tài sản tư
tưởng vô giá, có ý nghĩa lý luận và chính trị đặc biệt, là cơ sở của giai đoạn

Lênin trong sự phát triển của tư tưởng triết học Mácxít, nội dung tác phẩm
chứa đựng rất nhiều tư tưởng và những ý kiến quan trọng của Lênin về nhiều
lĩnh vực khác nhau, trong đó chủ đề nổi bật trung tâm là tư tưởng về phép
biện chứng, ở đó Lênin đã đưa ra một định nghĩa sâu sắc về phép biện chứng,
về mặt bản chất các nguyên lý, quy luật, phạm trù...Phép biện chứng duy vật
mang tính khoa học và cách mạng sâu sắc, xét về bản chất, phép biện chứng
khoa học có tính phê phán và cách mạng. Bản chất cách mạng của phép biện
chứng duy vật thể hiện ở chỗ, trong khi đưa ra quan niệm về tính hợp lý của
cái hiện tồn tại thì đồng thời cũng bao hàm trong nó quan niệm về sự diệt
vong tất yếu của cái hiện tồn tại đó, phép biện chứng duy vật chống lại mọi
quan điểm bảo thủ, trì trệ, chính q trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn bên
trong sự vật, q trình tích luỹ dần về lượng, đến một thời hạn nhất định, khi
điều kiện chín muồi, tất yếu đẫn đến sự tự phủ định của sự vật, làm cho sự vật
phát triển lên một giai đoạn mới cao hơn, tiến bộ hơn về chất, phép biện
chứng duy vật là cơ ở phương pháp luận chỉ đạo chủ thể xác định phương
pháp cách mạng khoa học và đúng đắn. Bất cứ hành động cách mạng nào, nếu
xa rời những quan điểm và nguyên tắc của phép biện chứng duy vật, thì sớm
hay muộn cũng sẽ phải trả giá và như vậy phép biện chúng duy vật trở thành
công cụ quan trọng bậc nhất không thể thiếu được của nhận thức và hành
động để cải tạo hồn cảnh và cải tạo bản thân. Chính Lênin là người nêu tấm
gương sáng về việc nắm vững và vận dụng tài tình phép biện chứng duy vật
trong việc nhận định khả năng và đề ra phương pháp tiến hành cách mạng vô
sản trong thời đại mà tất cả những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản gay gắt
đến cực độ và cuộc khủng hoảng cách mạng mới đang chín muồi, sự phân
tích của Lênin về các vấn đề cơ bản của phép biện chứng duy vật giữ một vai


15
trị quan trọng trong việc xây dựng lý luận Mácxít về Chủ nghĩa đế quốc,
trong việc phát triển lý luận cách mạng xã hội chủ nghĩa, phát triển học thuyết

về nhà nước, chiến lược và sách lược của đảng. Những tóm tắt, những đoạn
trích, những ghi chú của Lênin về triết học, chỉ ra những con đường phát triển
hơn nữa chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và lịch sử
khoa học của triết học. Phép biện chứng duy vật mà Lênin phát triển trong
“Bút ký triết học” có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng để nghiên cứu các
quy luật xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa, phân tích những mâu thuẫn của
chủ nghĩa tư bản hiện đại, xác định sách lược của phong trào cộng sản quốc tế
trong điều kiện hiện nay, đấu tranh chống triết học tư sản, chống chủ nghĩa cơ
hội xét lại và chủ nghĩa giáo điều...
Hiện nay trong bối cảnh quốc tế đang diễn ra hết sức phức tạp, có sự
đan xen lẫn nhau giữa những thuân lợi , khó khăn, thời cơ và thách thức , đặc
biệt là sự sụp đổ của hệ thống các nước Xã hội chủ nghĩa, ở Liên Xô và các
nước Đông Âu, Chủ nghĩa xã tạm thời lui vào thoái trào, Chủ nghĩa Tư Bản,
Chủ nghĩa đế quốc đang tìm mọi cách thích nghi với điều kiện mới...trong bối
cảnh đó các nhàchính trị, lý luận Tư sản phản động hí hửng tung ra đủ thứ lý
luận nhằm bác bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung, triết học Mác- Lênin nói
riêng, chúng rêu rao về thắng lợi của Chủ nghĩa tư bản, sự diệt vog của Chủ
nghĩa Cộng Sản, về “Chiến thắng không cần chiến tranh” ( Ních Xơn ), “về sự
kết thúc của lịch sử” (Fukuyama ). Thậm chí một số người một thời trước đây
được coi là Mácxít cũng ra sức xuyên tạc, bác bỏ, cơng kích chủ nghĩa Mác –
Lênin, họ viện dẫn những sai lầm, thiếu sót ở các nước Xã hội chủ nghĩa coi
đó là sai lầm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, chúng tìm mọi cách phủ nhận tính
khoa học của chủ nghĩa Mác, triết học Mác, cố chứng minh rằng Mác,
Ăngghen, Lênin, không phải là những nhà khoa học, họ rêu rao :”Chủ nghĩa
Mác chỉ là một ý thức hệ hư ảo”, “một thứ nói dối có ý thức”, “những vở kịch
giả hình”...cịn Lênin thì làm tăng sự huyễn tưởng của Mác “lên hơn một lần”,
rằng”Mác và Lênin là những nhà xã hội duy tâm, siêu hình và khơng tưởng”


16

và sự thất bại của chủ nghĩa xã hội hiện thực chính là thất bại của chủ nghĩa
Mác-Lênin, những kẻ tỏ ra “khách quan”thì cho rằng chủ nghĩa Mác chỉ hợp
với giai đoạn đầu của chủ nghĩa Tư Bản giờ đã đến lúc kết thúc sứ mệnh lịch
sử, khơng cịn phù hợp với thời đại ngày nay. Với quan điểm duy vật biện
chứng, đứng trên lập trường biện chứng duy vật theo nguyên tắc cơ bản : xem
xét sự vật hiện tượng... một cách: khách quan, toàn diện; lịch sử-cụ thể và
phát triển, chúng ta tiếp tục khẳng định phép biện chứng duy vật vẫn là công
cụ quan trọng bậc nhất không thể thiếu được để nhận thức và cải tạo thế giới.
Chỉ có đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy vật chúng ta mới có thể vạch
trần bản chất của chủ nghĩa Tư bản trong giai đoạn mới, tính chất Đế quốc
chủ nghĩa, tính chất của thời đại. Rằng bản chất của chủ nghĩa tư bản, chủ
nghĩa đế quốc vẫn không hề thay đổi, Chủ nghĩa đế quốc vẫn là giai đoạn tột
cùng của chủ nghĩa tư bản và tất yếu bị diệt vong, rằng những mâu thuẫn cơ
bản của thời đại vẫn không hề thay đổi mà có phần sâu sắc hơn, thời dại hiện
nay vẫn là quá độ từ chủ nghĩa Tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn
thế giới.
Việt Nam Trong những năm qua các thế lực thù địch tập trung vào mặt
trận tư tưởng lý luận, hòng làm tan rã niềm tin, gây hỗn loạn về lý luận, tư
tưởng, tạo ra khoảng trống để dần dần đưa hệ tư tưởng tư sản vào, chúng
tuyên truyền rằng Việt Nam tiến lên Chủ nghĩa xã hội, bỏ qua Chủ nghĩa tư
bản là một điều kỳ quặc, trái quy luật (!), vì thế, hãy tạm gác mục tiêu chủ
nghĩa xã hội, lùi về cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là đúng đắn nhất,
rằng “định hướng chủ nghĩa xã hội” là giáo điều, sách vở, xuất phát từ “định
đề giai cấp” chứ không phải từ thực tiễn xã hội Việt Nam, họ cho quan hệ sản
xuất mà chúng ta đang xây dựng chỉ là phương tiện để phát triển lực lượng
sản xuất, rằng “kinh tế thị trường sẽ từng bước làm thay đổi bản chất chế độ
xã hội chủ nghĩa còn non trẻ, ốm yếu ở việt nam”....Tất cả những luận điệu đó
chỉ nhằm một mục đích cuối cùng là đưa việt nam đi vào quỹ đạo của chủ
nghĩa tư bản. Chúng ta hiểu rằng thắng lợi của sự nghiệp đổi mới đất nước



17
trong hơn 20 năm qua trước hết là thắng lợi của lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin
dưới sự lãnh đạo sáng suốt tài tình của Đảng cộng sản việt nam. Đảng ta đã
trung thành và vận dụng đúng đắn sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin vào
thực tiễn cách mạng nước ta trong điều kiện mới, những thành tựu mà chúng
ta đã dành được là một thực tiễn sống động chứng minh tính đúng đắn cũng
như giá trị vĩnh hằng của chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung, phép biện chứng
duy vật nói riêng, vấn đề còn lại là ở chỗ khả năng nắm bắt, vận dụng lý luận
đó vào điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia, dân tộc như thế nào.Đảng ta luôn
xác định “đi lên chủ nghĩ xã hội là sự lựa chọn duy nhất đúng”, “sự lựa chọn
của chính lịch sử”, “sự lựa chọn đã dứt khoát ngay từ năm 1930”...Tại Đại hội
đảng toàn quốc lần thứ X vừa qua Đảng ta khẳng định: Phải nắm vững, vận
dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh....,
phải xuất phát từ thực tiễn đất nước; tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy lý luận,
kiên định về nguyên tắc chiến lược, linh hoạt sáng tạo về sách lược, phương
pháp; chống giáo điều bảo thủ trì trệ hoặc đổi mới vơ ngun tắc, chủ quan,
nóng vội, gắn chặt chẽ và đồng bộ các nhiệm vụ, phát triển kinh tế là trung
tâm, xây dựng Đảng là then chốt và phát triển văn hoá- nền tảng tinh thần của
xã hội. Tiếp tục đổi mới tư duy, tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý
luận, kịp thời làm sáng tỏ hơn những vấn đề bức xúc về chủ nghĩa và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta..... Dưới sự lãnh đạo tài tình của
Đảng ta, dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
chúng ta tin tưởng chắc chắn rằng cách mạng Việt Nam tiếp tục tiến lên dành
những thắng lợi mới to lớn hơn nhằm đạt được mục tiêu: “Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, và xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.




×