Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Một bài học đắt giá đối với cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.59 KB, 25 trang )

MỘT BÀI HỌC ĐẮT GIÁ ĐỐI VỚI CUỘC ĐẤU TRANH
CHỐNG QUAN LIÊU, THAM NHŨNG

Vụ tiêu cực xảy ra tại PMU18 thuộc Bộ Giao thông vận tải
vừa là một vụ án tham nhũng tệ hại nhất, vừa là "nỗi sỉ nhục
quốc gia", ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của Ðảng, Nhà
nước ta ở trong và ngoài nước.
Từ vụ này đã đặt cho Ðảng, Quốc hội, Nhà nước ta rất
nhiều vấn đề then chốt, từ đường lối, chính sách, đến tổ chức,
quản lý, bồi dưỡng, khen thưởng và kỷ luật cán bộ.
Nhân dân không những chờ đợi chúng ta xử lý vụ này
bằng luật pháp trước mắt, mà còn đòi hỏi chúng ta phải làm
sao có đường lối, chính sách, biện pháp để giải quyết được
nạn quan liêu, tham nhũng một cách cơ bản và triệt để. Họ
không chấp nhận việc chúng ta cứ nhắc đi nhắc lại mãi
"khơng ít cán bộ đảng viên, viên chức nhà nước quan liêu,
tham nhũng" và "quan liêu, tham nhũng chưa được đẩy lùi".
Ðây vừa là thời cơ vừa là thách thức của Ðảng và Nhà
nước ta. Thời cơ là chúng ta nhân vụ này tìm ra những nguyên
nhân cốt lõi của quan liêu, tham nhũng ngày càng có tính
chất nghiêm trọng và phổ biến, từ đó đề ra đường lối, chủ
trương, biện pháp cơ bản nhất, tích cực nhất để đẩy lùi, đi đến
triệt tiêu nạn quan liêu, tham nhũng.
Bản lĩnh của Ðảng, Quốc hội và Chính phủ ta phải được
chứng minh hùng hồn trên thực tế, đáp ứng tốt nhất những
mong đợi thiết tha của đảng viên và nhân dân; biến xấu
thành tốt. Nhất thiết Ðảng, Quốc hội và Chính phủ phải trao


đổi, bàn bạc thật kỹ về vấn đề này, không thể đề cập một
cách hời hợt được.


Nhân dân chưa được thông tin một cách đầy đủ về vốn
vay ODA, vốn vay mượn và tài trợ của nước ngoài, cũng như
việc chi tiêu, trả nợ và số nợ tồn đọng của các tài khoản này.
Tôi đề nghị công khai hơn nữa vấn đề này, để QH tăng
cường giám sát, khắc phục tình trạng quản lý kém hiệu quả
hiện nay của các bộ, ngành liên quan.
Ðể triệt tiêu tham nhũng, Ðảng, Nhà nước cần có những
biện pháp cụ thể gì?
Trước khi xảy ra vụ tiêu cực ở PMU18, đã có bao vụ tham
nhũng ở một số bộ, một số địa phương đã cảnh báo chúng ta.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn không cảnh giác đầy đủ, khơng
có những đối sách cơ bản, quyết liệt nên đã dẫn đến vụ
PMU18 ngay trước thềm Ðại hội X và trước Kỳ họp thứ 9, Quốc
hội khóa XI.
Chúng ta không những phải đánh giá đúng những thay
đổi to lớn của đất nước trong 20 năm đổi mới mà cịn phải
nhất thiết nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật về những suy
thoái đạo đức trong xã hội và nạn quan liêu, tham nhũng,
phân hóa giàu nghèo trong Ðảng, phát huy cao độ phê bình
và tự phê bình để khuếch trương tốt nhất những thắng lợi đã
đạt được, khắc phục bằng được những khó khăn, trở ngại,
những thiếu sót làm cho thắng lợi của chúng ta tồn diện,
vững bền hơn, tạo ra một bước ngoặt chiến lược mới.
Không làm như thế quốc gia sẽ lâm nguy.


Những nguyên nhân cơ bản gì đã làm cho sự xuống cấp
về văn hóa, đạo đức xã hội, gia tăng tội phạm đến như bây
giờ?
Những nguyên nhân gì đã làm cho một bộ phận cán bộ,

đảng viên của Ðảng, công chức, viên chức của Nhà nước ta
quan liêu, tham nhũng, phân hóa giàu nghèo như bây giờ?
Trong lịch sử, chưa bao giờ nhân dân ta lại có một đời
sống vật chất cao như hiện nay, mặc dầu vẫn còn nhiều
người, nhiều vùng nghèo đói và nước ta cũng vẫn cịn là nước
nghèo trên thế giới, nhưng tội phạm hình sự, ma túy, mại dâm
lại phát triển nhiều như bây giờ.
Chưa bao giờ Ðảng ta có số lượng đảng viên đơng như
bây giờ, được học tập văn hóa, bồi dưỡng chính trị một cách
có hệ thống, bằng cấp nhiều như bây giờ, cán bộ đảng viên ta
được rèn luyện trong khói lửa chiến tranh, chịu đựng gian khổ
cực kỳ anh hùng, lại được tư tưởng sáng ngời của Bác Hồ dẫn
dắt, thế nhưng cũng chưa bao giờ trong Ðảng lại có nhiều
hiện tượng quan liêu, tiêu cực, tham nhũng, phân hóa giàu
nghèo như bây giờ.
Nếu chỉ dựa vào chỉ thị, luật pháp như chúng ta đã làm,
mặc dầu rất cần thiết nhưng rõ ràng là chưa đủ để ngăn chặn,
triệt tiêu được những hiện tượng tiêu cực đó.
Chúng ta phải tìm ra cho được những nguyên nhân cơ
bản nhất để giải quyết tận gốc những vấn đề này, đi đôi với
những biện pháp nghiêm ngặt trước mắt. Chỉ có thế chúng ta
mới khắc phục, đẩy lùi, triệt tiêu được tiêu cực, làm cho xã hội
ta lành mạnh, Ðảng ta trong sạch, vững mạnh, đoàn kết, nhất


trí, phát huy thắng lợi một cách tồn diện, vững bền và vĩ đại
hơn.
Năm nguyên nhân cơ bản tác động cực kỳ nghiêm trọng
đến hiện trạng xã hội và Ðảng ta
Thứ nhất: Chúng ta đã sai lầm về giáo dục, không thực

sự coi trọng giáo dục làm người như Bác Hồ đã chỉ dạy.
Sau sự Thứ hai: sụp đổ của mơ hình chế độ XHCN duy ý
chí, quan liêu, tập trung, bao cấp, cuộc khủng hoảng niềm tin
đối với CNXH đã diễn ra rất nghiêm trọng trong một bộ phận
nhân dân và Ðảng ta. Trong khơng ít người, lý tưởng bị lung
lay, thậm chí có những cán bộ (kể cả một số cán bộ lão
thành) cũng cho rằng chủ nghĩa Mác, CNXH đã lỗi thời, trong
khi đó chúng ta chưa tập trung đúng mức cho công cuộc xây
dựng XHCN, thậm chí khơng dám cơng khai, quyết liệt bảo vệ
và đề cao CNXH.
Thứ ba: Bệnh quan liêu, quyền bính đang ngự trị trong
nhiều cơ quan của Ðảng và Nhà nước, coi thường nhân dân,
coi thường phong trào quần chúng, hoàn toàn trái ngược với
tư tưởng của Bác Hồ. Bác Hồ đã dạy chúng ta:
"Ai cũng phải làm dân vận. Làm dân vận là phải chân đi,
tai nghe, mắt thấy, miệng nói, tay làm".
Thử hỏi cán bộ của chúng ta hiện nay có bao nhiêu người
đã làm đúng như thế?
Lê-nin đã nghiêm khắc cảnh báo chúng ta với một câu
nói nổi tiếng:
"Nguy cơ lớn nhất của Ðảng cầm quyền là bệnh quan
liêu. Nếu có gì dẫn đến đổ vỡ chính là tại cái đó".


Hồi mới thành lập, Ðảng đã đưa ra khẩu hiệu "Vơ sản
hóa", đưa các cán bộ, đảng viên trí thức vào lao động ở các
hầm mỏ, xí nghiệp, bến cảng... để rèn luyện tình cảm, tác
phong, tư tưởng cách mạng cho cán bộ. Ðến kháng chiến
chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ, chúng ta lại có khẩu
hiệu ba cùng: "Cùng ăn, cùng ở, cùng làm với nhân dân".

Ðến nay đồng lương tuy còn thấp nhưng thật sự đời sống
của cán bộ, đảng viên trong các cơ quan Ðảng, Nhà nước từ
Trung ương đến cơ sở đều cao hơn đời sống người dân bình
thường nhưng chúng ta lại chẳng có khẩu hiệu gì, chưa có
phong trào gì để rèn luyện trong thực tế phẩm chất cán bộ,
đảng viên.
Không sâu sát, lăn lộn với quần chúng, không gần gũi với
đồng bào nghèo khổ, đối thoại với người giàu nhiều hơn là đối
thoại với quần chúng lao động nghèo, mặc dầu đối thoại với
doanh nhân, tư sản là rất cần thiết và cũng chưa đủ sâu sát,
thế nhưng buông lơi sự gần gũi, đối thoại với nhân dân lao
động thì khơng thể rèn luyện được cán bộ.
Chỉ có trui rèn trong phong trào cách mạng của quần
chúng thì cán bộ mới có tâm, đức, có tài năng. Cán bộ tốt chỉ
có thể là từ phong trào cách mạng của quần chúng mà ra.
Thứ tư: Khi đổi mới chúng ta thấy rất rõ lợi ích của cơ chế
thị trường và phát triển tư bản, nhưng lại quá coi nhẹ, mất
cảnh giác với mặt trái của cơ chế thị trường và chủ nghĩa tư
bản, không lường trước được một cách đầy đủ mặt tiêu cực
của cơ chế này. Chúng ta cũng đã từng nói: "Mở cửa sẽ đón
được luồng gió mát lành nhưng ruồi muỗi, khói bụi cũng bay


vào theo". Chúng ta hết sức vui mừng với những thắng lợi
nhanh chóng gần như vũ bão của vế trước câu nói, nhưng vế
sau của câu nói đó thì gần như nói qua rồi bỏ.
Thực hiện cơ chế thị trường, phát triển tư bản tư nhân là
cực kỳ cần thiết cho phát triển kinh tế, cải thiện đời sống
nhân dân, xây dựng cơ sở vật chất cho bước quá độ đi lên
CNXH. Nhưng nếu không thấy mặt tiêu cực nguy hiểm của cơ

chế thị trường và chủ nghĩa tư bản thì thật là chủ quan, mơ
hồ, phủ nhận thực tế, phủ nhận quan điểm của chủ nghĩa Mác
về tính chất "vơ tình vơ nghĩa" của đồng tiền trong xã hội tư
bản. Ðây cũng chính là xa rời, phủ nhận chủ nghĩa Mác.
Mặt trái tiêu cực của cơ chế thị trường và chủ nghĩa tư
bản là coi đồng tiền và lợi nhuận trên hết. Chủ nghĩa thực
dụng, tư tưởng hưởng lợi ngày càng phá hoại đạo đức xã hội
và phẩm chất cán bộ, đảng viên. Thậm chí có người cịn tơn
sùng đồng tiền đến mức ca tụng:
"Ðồng tiền là Tiên, là Phật
Là sức bật tuổi trẻ
Là sức khỏe tuổi già..."
Hậu quả này, có người đã phải thốt lên một cách hết sức
châm biếm và cũng hết sức bi quan:
Nhân phẩm ngày nay xuống giá rồi
Chỉ cịn thực phẩm giá cao thơi
Lương tâm còn rẻ hơn lương thực
Chân lý, chân giò cũng thế thôi..."


Thứ năm: Ðồng lương của cán bộ, công nhân, viên chức
quá thấp.
Mấy giải pháp cơ bản để giải quyết 5 nguyên nhân cốt lõi
nêu trên
Một là: Phải lấy giáo dục làm người là chính, theo tư
tưởng Bác Hồ. Phải coi trọng giáo dục nhân cách làm người,
con người Việt Nam chân chính với truyền thống văn hóa, đạo
đức tư tưởng Việt Nam và tinh hoa của văn hóa, triết học
phương Ðông kết hợp với chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Ðây đích
thực là tư tưởng của Bác Hồ. Bác đã từng nói:

"Khổng Tử, Giê-su, Mác, Tơn Dật Tiên chẳng có những
điểm chung đó sao? Họ đều muốn mưu hạnh phúc cho lồi
người, mưu phúc lợi cho xã hội. Nếu hơm nay họ còn sống
trên đời này, nếu họ hợp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định
chung sống với nhau rất hồn mỹ như những người bạn thân
thiết.
Tơi cố gắng làm người học trị nhỏ của các vị ấy".
Phải có quy chế thực hiện cụ thể "Tiên học lễ, hậu học
văn" cho các cháu từ mẫu giáo đến tiểu học. Các cháu phải
được học về luân lý. Công dân giáo dục không thể thay thế
được giáo dục luân lý.
Nhà văn hóa và giáo dục lớn của nước ta Lê Quý Ðôn đã
để lại cho chúng ta một câu bất hủ:
"Trẻ khơng kính già,
Trị khơng trọng thầy,
Quan kiêu, tướng thối,


Tham nhũng tràn lan,
Sĩ, phu ngoảnh mặt,
Xã tắc lâm nguy".
Phải hết sức coi trọng giáo dục lịch sử.
Bác Hồ đã dạy:
"Dân ta phải học sử ta".
Giáo sư Trần Văn Giàu cũng đã phát biểu:
"Học làm người thì phải học sử"
Thế mà vừa qua, khi thi hết cấp 3 rất nhiều cháu thi môn
sử chỉ đạt từ 0 đến 3 điểm. Như vậy, làm sao không mất gốc
được. Trước nguy cơ lớn lao như thế, một số vị có trách nhiệm
trong Ðảng, Nhà nước cũng như trong ngành tư tưởng, văn

hóa, giáo dục, khơng có một phản ứng bức xúc nào về vấn đề
này. Ðó là điều rất khơng đúng.
Theo tơi, hệ số của môn sử phải bằng hệ số của mơn
tốn. Thi hết cấp 3 và thi vào đại học phải coi môn sử là môn
bắt buộc. Chúng ta nhất thiết phải khôi phục môn học Hán
Nôm, hệ số của mơn Hán Nơm chí ít cũng phải bằng hệ số của
môn Anh văn.
Tại sao như thế?
Trong hơn 1000 năm bắc thuộc, dân tộc ta đã tiếp thu
chữ Hán, nhưng sau đó ơng cha ta đã cải tiến thành chữ Nơm,
làm chữ viết chính thức của ta vào khoảng thế kỷ thứ VII hoặc
thứ VIII, sau công nguyên.
Sự sáng tạo thông minh này là một bước phát triển vượt
bậc về văn hóa, giúp dân tộc ta tiếp thu và phổ biến rộng rãi


được kiến thức mới về nhiều mặt, nhanh chóng thúc đẩy sự
phát triển tồn diện của dân tộc ta.
Trước đó, chúng ta đã có chữ viết nhưng cịn rất thơ sơ,
nghèo nàn, ngày càng bị mai một.
Dân tộc ta đã sử dụng chữ Hán Nôm suốt khoảng 1500
năm cho đến khi bị đế quốc Pháp đô hộ nước ta vào giữa thế
kỷ 19. Ðồng thời, đế quốc Pháp thay thế chữ Hán Nôm bằng
chữ "Quốc ngữ" nguồn gốc la-tinh, bắt học sinh học tiếng
Pháp là chủ yếu ngay từ lớp 1.
Ngang ngược đến trắng trợn, chúng dạy cho học sinh ta
nhận tổ tiên mình là người Gaullois. Gaullois là tổ tiên của
người Pháp.
Một lần nữa dân tộc ta phải đối mặt với nguy cơ đồng
hóa.

Tuy nhiên, cho tới nay, từ gốc Hán vẫn chiếm 60, 70%
trong ngôn ngữ của chúng ta.
Những kiệt tác văn chương của dân tộc ta đều mang
đậm nét văn hóa Hán Nơm, như:
- Tun ngơn độc lập đầu tiên của nước ta, "Nam quốc
sơn hà, Nam đế cư" của Lý Thường Kiệt.
- Hịch tướng sĩ của Hưng Ðạo đại vương.
- Bình Ngơ đại cáo của Nguyễn Trãi.
- Truyện Kiều của Nguyễn Du.
- Tập thơ trong tù "Ngục trung nhật ký" của Bác Hồ.
Tư tưởng, văn phong, thơ văn, phong cách của Hồ Chủ
tịch đều đậm đà mầu sắc văn hóa Hán Nơm, văn hóa dân tộc.


Chỉ tiếc rằng khơng ít người trong chúng ta, nhất là tầng lớp
thanh niên, hiểu rất ít về văn hóa Hán Nơm. Ðó là do những
thế hệ lãnh đạo sau Bác Hồ như chúng tôi đã không quan tâm
đầy đủ đến việc giữ gìn và phát huy nền văn hóa, truyền
thống cao đẹp đầy tính nhân văn như thế. Văn hóa dân tộc bị
phai nhạt, bị xâm thực bởi văn hóa ngoại lai, thực dụng, bị
Tây hóa... Chính vì vậy mà văn hóa, đạo đức xã hội bị xuống
cấp nghiêm trọng.
Hán Nôm là chữ viết của dân tộc ta trong suốt khoảng 15
thế kỷ. Hơn nữa nhiều câu, chữ Hán Nôm chứa đựng ý nghĩa
sâu sắc về đạo lý. Theo tơi, đáng lý Hán Nơm cịn phải được
coi trọng hơn Anh văn.
Học Anh văn là rất cần thiết để hội nhập toàn cầu, tiếp
cận với nền khoa học, kỹ thuật tiên tiến của thế giới. Tuy
nhiên, cũng phải thấy Anh văn hiện nay là thế lực văn hóa cực
thịnh đang có chiều hướng lấn át các nền văn hóa khác. Nhiều

nước lớn trên thế giới như Pháp, Trung Quốc... cũng đang phải
cảnh giác trong việc bảo tồn nền văn hóa của mình trước sự
bành trướng của Anh văn.
Nước Việt Nam ta nhỏ hơn lại càng phải giữ gìn, tơn
trọng nền văn hóa của mình.
Càng học ngoại ngữ giỏi bao nhiêu thì lại càng phải bảo
trọng và phát huy ngơn ngữ của chúng ta bấy nhiêu.
Trước đây dân tộc ta đã từng bị phong kiến phương bắc
đô hộ hàng ngàn năm. Chúng đã dùng mọi mưu mơ và sức
mạnh văn hóa của chúng để đồng hóa dân tộc ta. Ơng cha ta


đã đấu tranh rất kiên cường, cực kỳ trí tuệ để dân tộc ta
trường tồn đến ngày nay.
Bị thống trị về chính trị thì dân tộc vẫn tồn tại được, bị
đồng hóa về văn hóa thì dân tộc sẽ tiêu vong.
Bài học xương máu vô cùng quý giá này không cho phép
chúng ta coi nhẹ sự xâm thực về văn hóa.
Khơng coi trọng sử học, khơng coi trọng Hán Nơm thì làm
sao mà khơng mất gốc được?
Sai lầm này là cực kỳ nguy hiểm.
Học tư tưởng của Bác Hồ nhất thiết phải học văn hóa, tư
tưởng Việt Nam và tinh hoa của văn hóa triết học phương
Ðơng, của Tam giáo (Lão, Nho, Phật). Tư tưởng của Bác Hồ là
kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa Mác - Lê-nin với tinh hoa văn
hóa đạo đức tư tưởng Việt Nam và tinh hoa văn hóa triết học
phương Ðơng. Tư tưởng của Bác Hồ là một bước phát triển
mới của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin đạt đến đỉnh cao nhân văn.
Chính nhờ vậy mà chúng ta đã ngăn chặn, hạn chế được
tối đa những khuynh hướng quá thô bạo trong khi vận dụng

một cách sai lầm chủ nghĩa Mác - Lê-nin như ở một số nước
khác. Tư tưởng Hồ Chí Minh khơng những chinh phục được
dân tộc Việt Nam mà còn chinh phục được cả thế giới. Bác đã
được thế giới công nhận là Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh
nhân văn hóa thế giới.
Chính vì những lý lẽ trên, trong trường Ðảng và trong các
trường của hệ thống giáo dục nước ta, học tư tưởng Hồ Chí
Minh là phải kết hợp học những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa


Mác - Lê-nin với tinh hoa văn hóa, đạo đức Việt Nam, tinh hoa
văn hóa, triết học thế giới, đặc biệt là tinh hoa văn hóa, triết
học phương Ðơng. Ðó là những bộ phận cấu thành của tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Hai là: Chúng ta nhất thiết phải theo đường lối đúng đắn
của Ðảng là giương cao ngọn cờ: Ðộc lập dân tộc và Chủ
nghĩa xã hội. Phải đi vững chắc trên cả hai chân. Nếu chỉ coi
trọng phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường mà không coi
trọng xây dựng CNXH thì là sai đường lối, mất phương hướng,
mất lý tưởng. Như thế thì làm sao khắc phục được khủng
hoảng niềm tin đối với CNXH dẫn đến tình trạng ly tâm trong
Ðảng. Mất niềm tin đối với CNXH, không có lý tưởng cao đẹp
thì sẽ dẫn đến tiêu cực trong xã hội cũng như trong Ðảng, dẫn
đến sự phân hóa trong nội bộ Ðảng. Hiện nay, khơng thiếu gì
cán bộ, đảng viên cho rằng, CNTB hơn hẳn CNXH. Có người thì
cho CNXH là lỗi thời, "hết đát", ca tụng thuyết "mèo trắng,
mèo đen".
Thuyết "mèo trắng, mèo đen" cũng có lý lẽ của nó,
nhưng vì thế mà bác bỏ CNXH thì quả là sai lầm nghiêm
trọng.

Ðặng Tiểu Bình khơng chỉ xướng xuất luận thuyết "mèo
trắng, mèo đen" mà còn nêu ra 10 điều cảnh báo mà chúng ta
rất cần tham khảo. Có những cán bộ, đảng viên hiện nay rất
mộ đạo, đi chùa, ăn chay, tụng kinh, niệm Phật, nhưng lại
khơng màng gì đến học thuyết Mác - Lê-nin và CNXH...
Ðạo Phật cũng có những giáo lý rất tuyệt vời. Phật dạy
người ta:


"Quên mình, vì người
Từ bi, bác ái,
Cứu nhân, độ thế,
Phổ độ chúng sinh"
Mác, CNXH chủ trương giải phóng nhân loại khỏi đói
nghèo, áp bức, bất cơng, xây dựng xã hội ấm no, hạnh phúc,
bình đẳng, bác ái.
Phản bác học thuyết Mác, khơng thiết tha với CNXH thì
khơng thể có tâm Phật được.
Mặt khác, cũng phải cơng bằng mà nói, cán bộ, đảng
viên cộng sản nào không tôn trọng chủ trương tự do tín
ngưỡng của Ðảng, kỳ thị những tơn giáo, tín ngưỡng dạy
người ta làm lành, lánh dữ, từ bi, bác ái, cứu nhân, độ thế,
những tổ chức quần chúng đơn thuần làm công tác tương trợ
lẫn nhau, xã hội, từ thiện, khơng có ý đồ chính trị nào cả, thì
cũng khơng thể có tâm cộng sản được, lại càng không thể
thừa kế tư tưởng cao đẹp của Bác Hồ.
Về việc một vài nơi đã hạn chế hoạt động của Hội hướng
đạo. Hội hướng đạo là một tổ chức quần chúng tốt, hợp pháp,
được Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa cho phép hoạt
động.

Bác Hồ là người hướng đạo sinh đầu tiên của Việt Nam ở
Anh từ năm 1915. Bác cũng là Chủ tịch danh dự Hội hướng
đạo Việt Nam sau khi nước nhà được độc lập năm 1945.
Vì vậy, theo tôi, nên để cho Hội hướng đạo hoạt động,
phát huy truyền thống chân chính của Hội, khơng làm gì vi


phạm pháp luật, chủ yếu hướng vào các hoạt động nhân đạo,
từ thiện, thế là vừa thể hiện cái tâm của người cộng sản, vừa
thể hiện sự kính trọng Bác Hồ.
Ðảng độc quyền lãnh đạo chứ không phải độc quyền
cách mạng. Cách mạng là của quần chúng và là từ cơ sở mà
lên.
Nếu anh độc quyền cách mạng không vận động quần
chúng tham gia làm cách mạng, thì sẽ có người khác lơi kéo
quần chúng về phía người ta, gây ra tình hình phức tạp.
Phải tích cực tập trung giải quyết khủng hoảng niềm tin
đối với CNXH, bằng những lý lẽ, lập luận đầy sức thuyết phục,
bằng việc toàn tâm toàn ý xây dựng CNXH, bằng những việc
làm hiệu quả, ích nước lợi dân; khơng thể tự ép mình, ép
người phải tin vào CNXH.
Suốt quá trình lịch sử của dân tộc ta là quá trình bị xâm
lược và chống xâm lược. Chính vì vậy mà nhân dân ta có
truyền thống đại đồn kết cực kỳ cao đẹp.
Bác Hồ đã vơ cùng sáng suốt nêu lên khẩu hiệu:
"Ðoàn kết, đoàn kết, đại đồn kết,
Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng".
Trong nội bộ nhân dân ta, khơng có cơ sở cho sự phát
triển mâu thuẫn đối kháng địch, ta, chủ yếu chỉ có mâu thuẫn
nội bộ nhân dân.

Ứng xử với nhau trong vấn đề giải quyết mâu thuẫn nội
bộ nhân dân của cả hai phía theo kiểu giải quyết mâu thuẫn


đối kháng địch, ta, là vô cùng sai lầm, thậm chí lại cịn mắc
mưu kẻ thù.
Giải quyết mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân là phải bình
tĩnh, đối thoại, lắng nghe nhau, phân rõ phải, trái, đấu tranh
thuyết phục, thậm chí phải nhân nhượng, chờ đợi nhau, tìm ra
những biện pháp trung gian, nhân vật trung gian, để từng
bước giải quyết vấn đề. Chính quyền phải hết sức hạn chế
những biện pháp hành chánh, cảnh sát; đó là những biện
pháp khơng thích hợp trong đấu tranh nội bộ nhân dân.
Những biện pháp này chỉ có thể nhất thời áp dụng trong tình
thế vạn bất đắc dĩ.
Hiện nay cuộc khủng hoảng niềm tin đối với CNXH ở một
bộ phận cán bộ, đảng viên trong Ðảng và nhân dân ta là cực
kỳ nghiêm trọng và nguy hiểm.
Trong kháng chiến, nhân dân ta tự giác chấp nhận hy
sinh cực kỳ anh hùng trong một thời gian lâu dài. Họ thiết tha
hy vọng sau chiến thắng được sống hịa bình, ấm no, tự do,
dân chủ. Sai lầm của mơ hình XHCN duy ý chí, quan liêu, tập
trung, bao cấp đã làm cho họ mất hy vọng, dồn họ đến một
cuộc sống cùng cực; tự do, dân chủ bị xâm phạm nghiêm
trọng.
Ngay sau giải phóng Miền Nam 3 ngày, Khơ-me đỏ đã
chiếm đảo Thổ Chu, đảo Phú Quốc và tiến hành cuộc chiến
tranh biên giới ngay từ đó. Chúng đã chiếm nhiều vùng biên
giới của ta ở An Giang, Tây Ninh, giết hại hàng trăm ngàn
đồng bào ta.



Sau nhiều lần chúng ta đề nghị giải quyết hòa bình cuộc
xung đột, Khơ-me đỏ đều thẳng thừng bác bỏ. Khơng cịn
cách nào khác, năm 1979 chúng ta buộc phải phản công
quyết liệt, đập tan chế độ Khơ-me đỏ, đồng thời tận lực góp
phần cùng nhân dân Cam-pu-chia xây dựng chính quyền,
quân đội cách mạng Cam-pu-chia đủ sức giữ chính quyền và
đối đầu thắng lợi với Khơ-me đỏ, cứu nhân dân Cam-pu-chia
khỏi nạn diệt chủng. Chỉ có đạt được mục tiêu đó thì chúng ta
mới có thể rút chân khỏi cuộc chiến tranh nghiệt ngã này. Một
cuộc chiến tranh hoàn tồn chính nghĩa, lâu dài, gian khổ như
thế nhưng lại là một cuộc chiến tranh ít được tuyên truyền,
giải thích nhất. Thậm chí cịn có một số nước đã tiếp tay cho
Khơ-me đỏ và đồng minh của chúng chống lại chúng ta. Ðến
nay họ mới chịu lên án và dự định đưa ra xét xử Khơ-me đỏ.
Làm sao nhân dân trong nước và thế giới hiểu hết được
những uẩn khúc khơng nói ra được của Ðảng, Nhà nước ta.
Làm sao họ thấy hết được chính nghĩa, sự hy sinh cao cả cũng
như sự quyết đoán đúng đắn của nhân dân, của Ðảng, Nhà
nước ta trong cuộc chiến tranh chính nghĩa này.
Những nhận thức sai lầm, những tư tưởng lệch lạc đối với
CNXH, những ngộ nhận về các cuộc kháng chiến của dân tộc
ta, đặc biệt là cuộc kháng chiến bảo vệ biên giới Tây Nam của
Tổ quốc, có lý do khách quan của nó. Chúng ta khơng chỉ
phản bác lại, mà cịn phải có sự thơng cảm nhất định với
những người có những lệch lạc này.
Sau giải phóng, chính sai lầm của chúng ta đã đưa nhân
dân đến cảnh đói khổ khơng đáng có. Cũng chính là Khơ-me



đỏ đã xâm phạm biên giới của Tổ quốc ta. Nhân dân ta lại
phải tiếp tục đổ máu thêm nữa.
Nếu khơng nói rõ ràng, thật khách quan về diễn biến
chiến tranh Việt Nam, đặc biệt là cuộc chiến tranh bảo vệ
biên giới phía Tây Nam mà cứ im hơi, lặng tiếng, e ngại, đơn
thuần "khép lại quá khứ", thì chúng ta không thể nào giải tỏa
được ngộ nhận sai lầm, cũng như phản bác lại luận điệu ác ý
cho chúng ta là kẻ hiếu chiến.
"Khép lại quá khứ" có nghĩa là xóa bỏ hận thù, cùng
nhau chung sống hịa bình, hợp tác và phát triển.
Lịch sử là khách quan, không thể và không nên che giấu.
Nỗi ám ảnh về một chế độ XHCN nghiệt ngã, nghèo đói,
chiến tranh, trong tâm trí nhân dân là rất sâu đậm, nhất là
nhân dân miền nam với quá nhiều éo le, uẩn khúc của họ.
Nhân dân không thể phân biệt rõ ràng đâu là CNXH đích
thực, khoa học, biện chứng và đâu là CNXH duy ý chí, quan
liêu. Hơn nữa, cịn có lý do là cho đến nay chúng ta chưa xây
dựng được mô hình XHCN đích thực, ưu việt hơn hẳn CNTB, có
sức thuyết phục cao.
Phải dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật,
phê bình, tự phê bình một cách nghiêm túc, chân thành, sòng
phẳng, cả về thắng lợi to lớn, cũng như khuyết điểm chủ quan
nghiêm trọng, rút ra những bài học kinh nghiệm xương máu,
xây dựng cho bằng được chế độ XHCN ưu việt hơn hẳn CNTB.
Ðó là: Tập trung sức của toàn Ðảng, toàn dân, phát huy sức
mạnh đại đoàn kết dân tộc, sức mạnh tổng hợp của Nhà nước,
phát động phong trào sơi nổi xóa đói, giảm nghèo của quần



chúng, đồng thời tăng cường mạnh mẽ các chính sách xã hội,
giáo dục, y tế, thực hiện Di chúc của Hồ Chủ tịch làm cho ai
cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành, được chăm
sóc sức khỏe, từng bước vững chắc làm giảm khoảng cách
giàu nghèo giữa các tầng lớp nhân dân, các dân tộc và các
địa phương, thực hiện thành công chủ trương: dân giàu, nước
mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh.
Chỉ có như thế chúng ta mới vượt qua được thách thức
nguy hiểm, giữ vững được lý tưởng, mới giải tỏa được một
cách thuyết phục những ngộ nhận, những khuynh hướng sai
lầm trong Ðảng và trong nhân dân, mới phản bác được bằng
lý lẽ vững chắc những luận điệu xuyên tạc ác ý của các thế
lực thù địch đối với chủ nghĩa Mác và CNXH.
Sau sự sụp đổ của mơ hình XHCN duy ý chí, quan liêu,
tập trung, bao cấp, cuộc khủng hoảng niềm tin đối với CNXH
diễn ra rất nghiêm trọng ở một bộ phận trong nhân dân và
trong Ðảng ta. Tình trạng khủng hoảng về tư tưởng, khuynh
hướng xét lại thể hiện trên nhiều mặt, thậm chí có người cịn
cho ta là hiếu chiến làm cho đất nước nghèo khổ.
Với tâm lý thất bại chủ nghĩa đối với CNXH, nhiều người
mất tự tin, giảm sút ý chí chiến đấu, nhận thức tình hình
khơng cịn sáng suốt và nhạy bén nữa.
Hiện nay hàng tỷ người trên thế giới đang sống trong
nghèo đói, bệnh tật, bị áp bức bất công. Cuộc đấu tranh
chống đói nghèo đang diễn ra mạnh mẽ và quyết liệt.
Cuộc họp thiên niên kỷ của Liên hợp quốc, cuộc hội nghị
của hàng trăm lãnh tụ quốc gia ở Cô-pen-ha-ghen (Ðan


Mạch), cuộc họp bàn về lương thực ở Ma-ni-la (Phi-li-pin), cuộc

họp của Phụ nữ quốc tế ở Bắc Kinh (Trung Quốc) đều bàn về
chống đói nghèo. Ðặc biệt cuộc hịa nhạc của các nghệ sĩ âm
nhạc đủ loại, nổi tiếng của thế giới, tập hợp hàng triệu thính
giả ở Ai-len để địi chống đói nghèo, xóa nợ cho các nước
nghèo ở châu Phi.
Thậm chí những nhà tư bản giàu nhất nhì thế giới như
Bin Ghết (Bill Gates), Oa-ren Buy-phê (Warren Buyfet) đã
tuyên bố bỏ ra một phần khá lớn tài sản đồ sộ của mình, tập
trung tâm trí cho cơng tác xã hội, từ thiện.
Ở Việt Nam không phải không có hiện tượng này. Có
đồng bào giàu có, trước khi chết đã để lại di chúc hiến dâng
toàn bộ tài sản, tiền bạc phúng điếu cho công tác từ thiện,
hiến dâng thân xác cho nghiên cứu khoa học.
Trên đây là hiện tượng chuyển biến đến bất ngờ của
lương tâm nhân loại.
Niềm tin vào con người, vào cái thiện nhất định thắng cái
ác ngày càng được củng cố vững chắc.
Cu-ba, mặc dù là nước nhỏ bé, chỉ cách Mỹ có 80 cây số,
bất chấp sự chống đối ác liệt của chính quyền Mỹ, vẫn phát
huy thắng lợi tính ưu việt của CNXH và tinh thần quốc tế vô
sản.
Ở Cu-ba đời sống nhân dân rất hài hịa, hạnh phúc. Mọi
cơng dân đều được chăm sóc sức khỏe miễn phí như nhau,
khơng phân biệt đẳng cấp. Giáo dục từ mẫu giáo mầm non
cho đến đại học đều miễn phí.


Hằng năm Cu-ba đào tạo hàng vạn bác sĩ, kỹ sư giúp các
nước nghèo ở châu Mỹ la-tinh và châu Phi.
Ảnh hưởng của Cu-ba và Fidel Castro rất lớn.

Mới đây cuộc họp của các nước không liên kết gồm trên
100 quốc gia, đại bộ phận đại biểu là nguyên thủ quốc gia, đã
bầu Fidel làm Chủ tịch Phong trào Không liên kết lần thứ 2
mặc dù Fidel đang lâm trọng bệnh.
Một loạt nước Mỹ la-tinh như Venezuela, Boliviaa, Chi-lê,
Brazin, Mexico... đang nghiêng về cánh tả. Ảnh hưởng của Cuba đối với khu vực này rất là tích cực.
Tất cả tình hình trên đây chứng minh xu thế địi cơng
bằng xã hội, thực hiện xã hội xã hội chủ nghĩa là không thể
đảo ngược được.
Những tổ chức như Liên hợp quốc, Tổ chức Thương mại
thế giới (WTO)... cũng đang tuột khỏi tầm khống chế độc
quyền của các siêu cường tư bản và đang trở thành diễn đàn
đấu tranh cho quyền lợi của các nước đang phát triển, nghèo
đói và bị đối xử bất cơng.
Trên thế giới khơng chỉ có diễn biến hịa bình phản cách
mạng. Diễn biến hịa bình cách mạng đang phát triển mạnh
mẽ, tập hợp lực lượng rất đa dạng, rộng lớn và đang ngày
càng trở thành xu thế chủ yếu của thời đại.
Sự phân tích tình hình thế giới, tình hình tương quan lực
lượng trên phạm vi tồn cầu không được quan tâm đúng mức
như trước nữa. Nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên
trong Ðảng về những vấn đề này còn mơ hồ. Cuộc đấu tranh
quyết liệt để khẳng định chính nghĩa và sự tất thắng của



×