Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

đồng bitcoin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.18 KB, 7 trang )

Lý thuyết Tài chính – Tiền tệ
ĐỒNG BITCOIN
Đồng bitcoin lần đầu tiên được nhắc đến năm 2008, khi một người
đàn ông mang tên Satoshi Nakamoto đã đăng tải một email với tiêu đề:
“Bitcoin, hệ thống tiền điện tử ngang hàng”. Trong tài liệu này, anh ra đã phác
thảo khái niệm của loại tiền được khoá mã này. Bitcoin có thể được trao đổi
trực tiếp bằng máy tính cá nhân thông qua một tập tin hoặc một trang web mà
không cần ngân hàng trung ương, hay bất kỳ tổ chức tài chính trung gian nào.
Bitcoin đã ra đời như thế. Vấn đề ở đây là không ai biết chính xác Satoshi là ai.
Sau khi bitcoin ra mắt người sử
dụng thì giá trị của nó ngày một
tăng cao. Năm 2011, giá trị của
đồng Bitcoin tăng từ $0.30 lên
$32, trước khi rớt trở lại $2.
Bitcoin bắt đầu thu hút dư luận từ
2012, khi có rất nhiều bài báo
nhắc đến nó. Năm 2013, một số
dịch vụ lớn như OKCupid, Baidu,
Reddit, Humble Bundle, Foodler
và Gyft bắt đầu sử dụng nó.
Hiện nay, trên thế giới nói chung và tại đất nước Việt Nam nói riêng
chưa có quốc gia nào thừa nhận đồng tiền bitcoin. Việc giữ và đầu tư vào
bitcoin có thể mang lại rủi ro cho người sử dụng, bởi bitcoin thực chất là đồng
tiền được mã hóa, nên khi có sự cố gì, như đơn giản nhất là có đoạn mã nào bị
lỗi thì người sở hữu sẽ không biết đổi cho ai. Ngoài ra, hành lang pháp lý ở việt
Nam và cả trên thế giới là không có. Tiền tệ phải do một ngân hàng trung ương
của một quốc gia phát hành, nên đồng bitcoin không được coi là tiền tệ, và nếu
có tranh chấp pháp lý xảy ra quanh đồng tiền này, thì người sở hữu sẽ không có
cơ sở để được bảo vệ. Vì vậy không có cơ sở pháp lý cho đồng tiền bitcoin.
Mặc dù không có quốc gia nào thừa nhận đồng tiền bitcoin, nhưng số
lượng người biết đến và đang sử dụng bitcoin ngày càng lớn. Thị trường trong


nước đang xôn xao khi đã có doanh nghiệp Việt Nam đầu tiên chính thức chấp
nhận thanh toán bằng Bitcoin - đồng tiền ảo phát sinh từ hệ thống điện tử nhưng
có giá trị rất cao. Hiện giá mua vào một đồng Bitcoin tại Việt Nam là 15 triệu
đồng, giá bán ra là 17 triệu đồng. Do được nhiều người, nhiều tổ chức chấp
nhận nên giá của đồng Bitcoin rất cao. Chỉ trong năm 2013, giá Bitcoin đã tăng
1
Lý thuyết Tài chính – Tiền tệ
98 lần và trở thành kênh đầu tư hấp dẫn với nhiều người. Chuyên gia kinh tế
Phan Dũng Khánh giải thích, khác với giá vàng mang tính thế giới, giá Bitcoin
ở mỗi quốc gia khác nhau bởi sàn giao dịch của nó không thống nhất. Đức trở
thành quốc gia đầu tiên thừa nhận Bitcoin có chức năng của tiền. Thậm chí
Canada còn lắp đặt cây ATM giao dịch Bitcoin đầu tiên trên thế giới, cho phép
khách dùng tiền thật để mua Bitcoin hoặc ngược lại. Tuy vậy, đa phần chính
phủ trên thế giới không công
nhận tiền ảo này, thậm chí
cấm sử dụng như Trung Quốc
hay Thái Lan. Do thiết kế,
không ai có thể điều khiển
được đồng tiền bitcoin cả.
Tiền bitcoin không được điều
khiển bởi Ngân Hàng hay
Chính Phủ, mà đã có thể trở
về tay của từng người, từng cá
nhân. Tuy nhiên tư tưởng của
đa số mọi người hiện nay họ
đều nghĩ rằng vai trò của nhà
nước là cần thiết, sự hiện diện của nhà nước là để bảo vệ họ, giúp đỡ họ. Và
nhiều người vì vẫn còn tin vào nhà nước, tin vào chính phủ của họ cũng sẽ sẵn
sàng chấp nhận sử dụng đồng tiền được chính phủ bảo kê này. Đây chính là vấn
đề; vấn đề không phải là Bitcoin có tốt cho chúng ta hay không (vì câu hỏi này

chỉ có một câu trả lời), mà vấn đề chính là tư tưởng của chúng ta có hiểu được
Bitcoin để chấp nhận nó hay không, có hiểu được những gì đang xảy ra trên thế
giới này hay không, có hiểu được những chuyện căn bản về kinh tế, chính trị
hay không.
Bitcoin hoạt động dựa vào thuật toán mã cao cấp dưới dạng mã nguồn
mở, mỗi người tham gia bitcoin sẽ có một “chìa khóa riêng” để quản lý các
đồng bitcoin, tạo ra nhiều địa chỉ khác nhau để quản lý các bitcoin mình có và
tham gia giao dịch trong mạng lưới. Những người tham gia không cần định
danh, chính vì thế bitcoin không nằm dưới sự kiểm soát của bất kỳ chính phủ
hay ngân hàng trung ương nào. Kinh doanh đồng bitcoin là hình thức gần giống
kinh doanh tiền tệ. Nói một cách đơn giản, nó gần như chúng ta đi mua xổ số.
Tất cả người tham gia dùng tiền thật để đổi thành đồng bitcoin. Giả sử như
chúng ta ví dụ 1 bitcoin bằng một ounce vàng (gần một lượng (8.3 chỉ), ounce là
đơn vị đo độ nặng của vàng của người Tây), thì cứ khoảng mỗi 10 phút thì sẽ có
2
Lý thuyết Tài chính – Tiền tệ
một số lượng bitcoin (vàng) “đào” lên được. Con số này hiện nay là 25, vì đã
giảm đi phân nửa sau mỗi 4 năm so với con số ban đầu là 50. Và cho tới năm
2140, sẽ có tổng cộng tất cả là 21 triệu bitcoins. Nói cách khác, sau khi 21 triệu
bitcoins đã đào lên hết vào năm 2140, sẽ không còn bitcoins để đào nữa. 1
bitcoin có thể phân chia ra được 100 000 000 lần. Đơn vị nhỏ nhất không thể
chia nhỏ hơn nữa được gọi là Satoshi, nhân danh người đã sáng tạo ra Bitcoin.
Vậy là 1 bitcoin = 100 000 000 (một trăm triệu) Satoshis. Hay 1 Satoshi = 0.000
000 01 Bitcoin.
Tính thanh khoản của đồng bitcoin ngày càng cao, tại Việt Nam, tuy
Nhà Nước không công nhận đồng tiền này nhưng đã có một vài doanh nghiệp
công nhận nó. Mặc dù thừa nhận những rủi ro với loại hình tiền bitcoin nhưng
công ty Hiệp Đồng (đơn vị sở hữu một diễn đàn dành cho các bậc cha mẹ) vẫn
chấp nhận thanh toán bằng bitcoin. Thực tế trên thế giới có nhiều doanh nghiệp
cũng công nhận thanh toán bằng đồng tiền này. Điều đó làm tăng khả năng đồng

Bitcoin sẽ trở thành đồng tiền trong tương lai. Tuy nhiên, đồng Bitcoin hiện có
rất nhiều hạn chế. Đầu tiên, những tập đoàn tài chính thực sự thì không tham
gia. Bởi chính sự không rõ ràng, không chính thống và minh bạch của đồng
Bitcoin nên Ngân hàng không đầu tư vào đồng tiền này, mặc dù Ngân Hàng
cũng đầu tư vào chứng khoáng. Thứ hai là không có sự quản lý đồng Bitcoin, vì
các trang web không có tính pháp nhân ở Việt Nam và trên thế giới, đồng tiền
Bitcoin là tiền ảo nên khi xảy ra tranh chấp thì hầu như không thể giải quyết
được. Chưa kể, mật mã bạn có được đều nằm trên mạng hay ổ cứng máy tính,
nếu máy tính hư hoặc tài khoản bị hack thì toàn bộ số tiền bạn có mất hết. Cuối
cùng, nếu nhiều người tham gia vào trò chơi tiền ảo này thì một dòng tiền đang
ở Ngân hàng sẽ bị chuyển dịch qua. Khi nhiều người bị lôi kéo vào thì đây cũng
là cơ hôi trục lợi của một số bang nhóm, buôn bán hàng hóa trái phép, rửa tiền,
chuyển ngân lậu… làm mất tác dụng của cơ chế quản lý ngoại hối của Ngân
Hàng.
Hệ thống lưu thông tiền tệ ngày càng phát triển với sự quản lý chặt chẽ.
Nắm giữ tiền mặt có mặt tích cực và mặt tiêu cực. Các doanh nghiệp nắm giữ
tiền mặt có ba mục đích chính:thứ nhất là mức tồn quỹ tiền mặt được hoạch
định để đáp ứng kịp thời các khoản chi tiêu phục vụ cho hoạt động sản xuất
kinh doanh. Thứ hai, dự trữ tiền mặt là một hành động dự phòng trước khả năng
gia tăng nhu cầu chi tiêu. Cuối cùng, dự trữ tiền mặt là một hành động đầu cơ
ứng biến trước sự khan hiếm của hàng hóa, sự biến động giá cả hoặc sự biến
động về tỉ giá hối đoái trên thị trường. Nhưng việc nắm giữ tiền mặt làm chúng
3
Lý thuyết Tài chính – Tiền tệ
ta bỏ qua không ít chi phí cơ hội, ví dụ như mang tiền đi đầu tư, gửi ngân
hàng, Tiền mặt chắc chắn sẽ bị hao mòn và hư hao qua một thời gian sử dụng.
Trong tương lai, để tiền mặt không còn tồn tại nữa là một điều khó khăn, cần
phải có một nền kinh tế vững chắc, tất cả mọi người phải có kiến thức, hiểu biết
về tiền tệ, ngân hàng, sự luân chuyển tiền. Nếu không tồn tại tiền mặt thì mọi
thanh toán đều được ghi nhận lại, không còn tham nhũng, mọi thứ đều rõ

ràng… Bên cạnh đó là sự khó khăn trong quản lý hệ thống, những sự cố trong
hoạt động chuyển tiền Hiện nay tiền mặt phổ biến trong mọi hoạt động giao
dịch của chúng ta. Khi trao đổi mua bán ra đời cũng là lúc tiền tệ xuất hiện, điều
đó đồng nghĩa với việc tiền tệ gắn liền với hoạt động trao đổi buôn bán. Tiền
mặt luôn cần thiết, vì vậy sự tồn tại của tiền mặt là điều tất yếu.
4
Lý thuyết Tài chính – Tiền tệ
TIỀN ĐÔNG DƯƠNG
Đơn vị tiền tệ người Pháp cho phát hành và lưu thông tại Đông Dương
thuộc Pháp trong thời gian từ năm 1885 đến 1954.
Tiền Đông Dương được chia thành các đơn vị piastre, cent/centime và
sapèque. Một piastre bằng 100 cent. Một
cent lại bằng 2-6 sapèque tùy theo triều
đại. Theo tỷ lệ đó thì một đồng bạc Đông
Dương có giá trị từ 200 đến 600 đồng
tiền cổ truyền của người Việt. Mặt trước
của các tờ tiền giấy hoặc tiền kim loại ghi
bằng tiếng Pháp. Mặt sau ghi bằng chữ
Hán, chữ Quốc ngữ,chữ Lào và chữ
Khmer, song cũng có lúc chỉ ghi chữ
Pháp. Piastre thông dụng gọi là đồng,
hoặc đồng bạc hay thậm chí ngắn gọn là
bạc (khi tiền Đông Dương còn theo chế
độ bản vị bạc cho đến tháng 5, 1930),
hoặc đồng vàng (khi tiền Đông Dương
theo chế độ bản vị vàng từ tháng 5, 1930 về sau). Cent khi phiên âm sang chữ
quốc ngữ thành xu. Người Việt Nam còn có thói quen gọi các tiền mệnh giá
hàng chục xu trở lên là cắc (gọi chệch từ âm giác của chữ Hán). Về sau, người
Pháp viết chính thức bằng chữ quốc ngữ là hào. Sapèque tục gọi là đồng kẽm
hay đồng điếu, là đơn vị có giá trị nhỏ nhất.

Lịch sử tiền Đông Dương:
Tiền kim loại: Đồng bạc Đông Dương được phát hành để ổn định tình
hình tiền tệ tại các xứ thuộc địa của Pháp. Ban đầu đồng Đông Dương mang giá
trị tương đương với đồng peso Mexico, thường gọi là đồng hoa xòe, đồng con
cò hay đồng con ó khi đó đang được lưu hành rộng rãi trong khu vực. Đồng con
cò trị giá 600 đồng tiền kẽm (tức đồng điếu), bằng giá với một quan tiền cổ
truyền.
Để có đơn vị nhỏ hơn để tiêu dùng, chỉ vài năm sau khi chiếm được
Nam Kỳ, người Pháp giao cho Ngân hàng Đông Dương nhiệm vụ đúc ra đồng
centime, tức đồng 1 xu vào năm1875, trị giá 5 đồng kẽm. Đồng centime hình
tròn nhưng đục thêm một lỗ bầu dục ở giữa tương tự như loại tiền cũ của người
5
Lý thuyết Tài chính – Tiền tệ
Việt vì dân bản xứ quen lối xỏ dây xách đi thành một xâu. Năm 1879 thì thay
thế đồng centime cũ bằng đồng cent mới, kích thước lớn hơn nhưng giữ tỷ lệ giá
trị 5 đồng kẽm.
Tiền giấy: Về tiền giấy thì tờ
giấy bạc Đông Dương được lưu hành
đầu tiên ở Nam kỳ. Sắc lệnh của
Tổng thống Pháp ra ngày 5 tháng 7
năm1881 đã quy định đồng bạc
Đông Dương là đơn vị dùng trông
việc giữ sổ sách cùng soạn ngân
sách, và kể từ niên khóa 1882, mọi
việc thu chi đều phải dùng đơn vị này.
Sau khi Pháp tiếp tục gây hấn ở Đông Dương và triều đình Huế phải
chấp nhận Hòa ước Quý Mùi ngày 25/8/1883 thì một đồng bạc Đông Dương
được quyền lưu hành tự do ở cả hai xứ Trung kỳ và Bắc kỳ. Vì vậy vào cuối thế
kỷ 19 ở Việt Nam, trên toàn quốc có ba loại tiền cùng lưu hành một lúc: tiền
Việt Nam (tiền, quan tiền - tiền đồng, tiền kẽm), peso México, và đồng bạc

Đông Dương. Dần dà những thể tiền cũ bị loại bỏ và riêng đồng Đông Dương
chiếm vị thế duy nhất kể từ năm 1906 khi có lệnh hủy bỏ giá trị lưu hành pháp
lý của đồng peso México
Giá trị: 5/1930, 1 đồng = 10 franc
12/1945, 1 đồng = 17 franc
Tỷ giá 1 đồng = 10 franc được khôi phục vào năm 1953
Từ năm 1883, Việt Nam chính thức bị Pháp đô hộ. Từ thời Đồng Khánh
(1885-1888), tiền lưu thông trong nước là những đồng tiền “xu”, tiền giấy
“đồng” do Ngân hàng Đông Dương của người Pháp phát hành. Các đồng tiền do
triều đình nhà Nguyễn phát hành chỉ được dùng như tiền lẻ lưu hành ở thôn quê.
Tiền do triều đình Huế đúc ra không còn yếu tố quan trọng trong đời sống kinh
tế như trước mà chỉ có tính tượng trưng.
6
Lý thuyết Tài chính – Tiền tệ
Trong thời kỳ Việt Nam là một nước thuộc Đông Dương, đơn vị tiền tệ của cả
khu vực Đông Dương là piastre, được dịch ra tiếng Việt là "đồng" hay đôi khi là
"bạc". Tiền tệ do chính quyền trong giai đoạn này lấy bạc làm bản vị nhưng
những đồng tiền của các triều vua nhà Nguyễn vẫn được lưu hành chủ yếu ở các
vùng nông thôn mặc dù bất hợp pháp. Tiền đúc lúc đầu có đồng bạc Mexico
nặng 27 gam 073 (độ tinh khiết 902 phần nghìn), sau đó là đồng bạc Đông
Dương được đúc ở Pháp nặng 27 gam (độ tinh khiết 900 phần nghìn).Tiền giấy
thời kỳ này được Ngân hàng Đông Dương phát hành và có thể đem đến ngân
hàng đổi thành bạc. Một sắc lệnh ngày 16/5/1900 cho phép Ngân hàng Đông
Dương in tiền giấy gấp ba lần số bạc đảm bảo nhưng khi Chiến tranh thế giới
lần thứ nhất xảy ra thì tỷ lệ này không còn giữ được nữa, tiền giấy phát hành
gấp nhiều lần số bạc đảm bảo. Sau một số biện pháp cải cách tiền tệ, ngày
31/5/1930, Tổng thống Pháp có sắc lệnh quy định đồng bạc Đông Pháp (Đông
Dương) có giá trị là 655 miligam vàng (độ tinh khiết 900 phần nghìn), từ đó
chấm dứt chế độ bản vị bạc mà chuyển sang bản vị vàng.
7

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×