Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Nghiên cứu một số đặc điểm sinh vật học, sinh thái học của mọt ngô sitophilus zeamais motschulsky (coleoptera curculionidae) năm 2021

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.21 MB, 85 trang )

HỌC VIỆN NƠNG NGHIỆP VIỆT NAM

KHOA NƠNG HỌC
--------

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
“NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH VẬT
HỌC,SINH THÁI HỌC CỦA MỌT NGÔ SITOPHILUS
ZEAMAIS MOTSCHULSKY (COLEOPTERA:
CURCULIONIDAE) NĂM 2021 ”

Ngƣời thực hiện

: NGUYỄN THỊ THU THÚY

Mã SV

: 620053

Lớp

: K62-BVTVA

Ngƣời hƣớng dẫn

: PGS. TS. HỒ THỊ THU GIANG

Bộ mơn

: CƠN TRÙNG



HÀ NỘI - 2021


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong khóa luận này là
hồn tồn trung thực, chưa được sử dụng và bảo vệ cho một học vị nào. Mọi
việc giúp đỡ cho việc hoàn thành khóa luận này đã được cảm ơn, các thơng tin
trích dẫn trong khóa luận đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Tơi xin chịu trách nghiệm về tính trung thực của tồn bộ nội dung khóa
luận tốt nghiệp.

Hà Nội, ngày

tháng

năm 2021

Sinh viên

Nguyễn Thị Thu Thúy

i


LỜI CẢM ƠN

Để hồn thành khóa luận tốt này, ngồi sự nỗ lực của bản thân tơi cịn
nhận được sự quan tâm giúp đỡ nhiệt tình của thầy cơ giáo trong Bộ mơn Cơn

Trùng, gia đình và bạn bè.
Tơi xin đặc biệt cảm ơn PGS. TS. Hồ Thị Thu Giang - người đã hết sức
tận tâm hướng dẫn, chu đáo, động viên và chỉ bảo, truyền đạt kinh nghiệm cho
tôi và anh anh Nguyễn Trung Cường (Trạm kiểm dịch thực vật Hạ Long thuộc
Chi cục kiểm dịch thực vật vùng I) đã hỗ trợ và đồng hành cùng tôi trong suốt
q trình thực hiện đề tài và hồn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Bên cạnh đó, tơi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô Bộ
môn Côn trùng, Khoa Nông học, Học viện nông nghiệp Việt Nam đã giúp đỡ tơi
trong q trình thực hiện đề tài và hồn thành khóa luận tốt nghiệp.
Cuối cùng tơi xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới những người thân trong
gia đình và những người bạn đã giúp đỡ, động viên và tạo điều kiện tốt nhất để
tôi n tâm hồn thành khóa luận tốt nghiệp.
Khóa luận này khó tránh khỏi những thiếu sót, khiếm khuyết, tơi rất mong
nhận được sự góp ý của các thầy cơ và bạn đọc. Tôi xin trân trọng cảm ơn.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2021

Sinh viên

Nguyễn Thị Thu Thúy

ii


MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN................................................................................................... i

LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................... ii
MỤC LỤC ............................................................................................................ iii
DANH MỤC BẢNG ..............................................................................................v
DANH MỤC HÌNH ............................................................................................. vi
TĨM TẮT KHÓA LUẬN .................................................................................. vii
PHẦN I: MỞ ĐẦU ...............................................................................................1
1.Đặt vấn đề........................................................................................................... 1
1.2.Mục đích và yêu cầu........................................................................................ 2
1.2.1. Mục đích ...................................................................................................... 2
1.2.2. Yêu cầu ........................................................................................................ 2
PHẦN II: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ
NGỒI NƢỚC .....................................................................................................3
2.1. Tình hình nghiên cứu ngồi nước .................................................................. 3
2.1.1.. Vị trí phân loại và phạm vi ký chủ của mọt ngô (Sitophilus zeamais) ...... 3
2.1.2. Nghiên cứu về phân bố và gây hại của mọt ngô Sitophilus zeamais ......... 3
2.1.3. Nghiên cứu về đặc điểm hình thái, sinh học, sinh thái học của mọt ngô....... 4
2.1.4. Nghiên cứu khả năng chống chịu của các giống ngô đối với mọt ngô. ...... 9
2.1.5. Đánh giá ảnh hưởng mật độ mọt ngô đến sự hao hụt trọng lượng thức
ăn sau thời gian bảo quản .................................................................................... 12
2.1.6. Nghiên cứu ảnh hưởng của xử lý nhiệt độ cao 500C đến mọt ngơ ........... 13
2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước ................................................................. 13
2.2.1. Vị trí phân loại học, phân bố của mọt ngơ Sitophilus zeamais ................. 13
2.2.2. Nghiên cứu về tình hình gây hại của mọt ngơ Sitophilus zeamais ........... 13
2.2.3. Những nghiên cứu về đặc điểm sinh học, đặc tính sinh thái học của
mọt ngô Sitophilus zeamais Motschulsky ........................................................... 14
iii


2.2.4. Nghiên cứu các biện pháp phịng trừ mọt ngơ trong kho bảo quản .......... 16
PHẦN III: NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................... 18

3.1. Đối tượng và vật liệu nghiên cứu. ................................................................ 18
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu................................................................................ 18
3.1.2. Vật liệu nghiên cứu. .................................................................................. 18
3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu ................................................................ 18
3.3. Nội dung nghiên cứu .................................................................................... 18
3.4. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 19
3.4.1. Nghiên cứu đặc điểm hình thái, sinh học mọt ngơ Sitophilus zeamais .... 19
3.4.2.Nghiên cứu về một số đặc điểm sinh thái của mọt ngô S.zeamais. ........... 22
3.4.3. Đánh giá ảnh hưởng mật độ mọt ngô đến sự hao hụt trọng lượng thức
ăn sau thời gian bảo quản .................................................................................... 24
3.4.4. Nghiên cứu sự cạnh tranh của mọt mọt gạo và mọt ngô .......................... 24
3.4.5. Ảnh hưởng của xử lý nhiệt độ cao 50ºC đến mọt ngơ .............................. 25
3.5. Cơng thức tính tốn và Phương pháp xử lí số liệu ....................................... 25
PHẦN IV: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ....................................................... 27
4.1. Nghiên cứu đặc điểm hình thái, sinh học, sinh thái lồi mọt ngơ
Sitophilus zeamais. .............................................................................................. 27
4.1.1. Đặc điểm hình thái của mọt ngơ S.zeamais. ............................................. 27
4.1.2. Đặc điểm sinh học, sinh thái của mọt ngô S.zeamais ............................... 31
4.1.3. Đánh giá mức độ thiệt hại của mọt ngô sau thời gian bảo quản ............... 44
4.1.4. Nghiên cứu sự cạnh tranh của mọt mọt gạo và mọt ngô .......................... 46
4.1.5. Ảnh hưởng của nhiệt độ cao 50ºC đến trưởng thành mọt ngô S.zeamais ...... 48
PHẦN V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ .............................................................. 50
5.1. Kết luận ........................................................................................................ 50
5.2. Đề nghị ......................................................................................................... 51
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 52
PHỤ LỤC ........................................................................................................... 57

iv



DANH MỤC BẢNG

Bảng 4.1.

Kích thước các pha phát dục lồi mọt mọt ngô S.zeamais ............. 27

Bảng 4.2.

Thời gian phát dục của mọt ngô ở các mức nhiệt độ khác nhau .... 31

Bảng 4.3.

Ảnh hưởng của nhiệt độ đến thời gian sống, sức sinh sản của
mọt ngô ........................................................................................... 34

Bảng 4.4.

Ảnh hưởng số lượng hạt ngô đến một số chỉ tiêu sinh sản của
trưởng thành mọt ngô...................................................................... 38

Bảng 4.5.

Ảnh hưởng của sự hiện diện của ngô bảo quản đến thời gian
sống của trưởng thành mọt ngô ...................................................... 40

Bảng 4.6.

Ảnh hưởng sự hiện diện của ngơ đến sự sống sót và sinh sản
của trưởng thành cái mọt ngô ......................................................... 41


Bảng 4.7.

Ảnh hưởng thức ăn khác nhau đến thời gian phát dục của mọt ngô.... 42

Bảng 4.8.

Đánh giá mức độ mẫn cảm của các giống ngô khác nhau đối
với mọt ngô ..................................................................................... 43

Bảng 4.9.

Số lượng trưởng thành mọt ngô sau thời gian bảo quản................. 44

Bảng 4.10. Ảnh hưởng của mật độ mọt ngô đến hao hụt khối lượng của
ngô sau các thời gian bảo quản ....................................................... 45
Bảng 4.11. Số lượng và tỷ lệ hai lồi mọt mọt ngơ Sitophilus zeamais M.
mọt gạo Sitophilus oryzae L. sau 60 ngày theo dõi. ....................... 46
Bảng 4.12. Sự thiệt hại ngơ khi có sự cạnh tranh mọt gạo và mọt ngô
Sitophilus sau 60 ngày bảo quản ..................................................... 47
Bảng 4.13. Ảnh hưởng của xử lí nhiệt độ cao đến tỷ lệ chết của mọt ngô, tỷ
lệ chết sau thời gian phục hồi và số lượng mọt sinh ra sau 8
tuần tiếp xúc .................................................................................... 48

v


DANH MỤC HÌNH

Hình 4.1:


Trứng của mọt ngơ Sitophilus zeamais ........................................... 28

Hình 4.2:

Các tuổi của sâu non mọt ngơ Sitophilus zeamais .......................... 29

Hình 4.3:

Nhộng của mọt ngơ Sitophilus zeamais .......................................... 29

Hình 4.4:

Trưởng thành mọt ngơ .................................................................... 30

Hình 4.5:

Tỷ lệ (%) trưởng thành đẻ trứng trong ngày ................................... 36

Hình 4.6:

Số lượng trứng đẻ trung bình (quả/con) của 1 trưởng thành cái ở
các khung giờ khác nhau trong ngày .............................................. 37

vi


TĨM TẮT KHĨA LUẬN
Mọt ngơ Sitophilus zeamais là một lồi côn trùng gây hại phân bố ở khắp
nơi trên thế giới gây hại ở trong các kho bảo quản lương thực hiện nay. Nghiên
cứu về đặc điểm hình thái, sinh học, sinh thái và các mức độ gây hại của mọt

ngô trên thức ăn ngô là cần thiết. Nuôi mọt ngô trên thức ăn ngô Argentina ở
nhiệt độ 25°C trung bình là 47,2 ± 1,57 ngày, ở nhiệt độ phịng là 42,9 ± 1,15
ngày và 30°C trung bình là 34,5 ± 0,79 ngày. Sức sinh sản của trưởng thành cái
trung bình ở 30°C là 56,5 ± 11,02quả. Mọt trưởng thành cái đẻ nhiều trứng nhất
trong khoảng thời gian từ 12 - 16h trong ngày. Khi được ni trên gạo thì thời
gian phát dục của mọt ngô là dài nhất với trung bình là 47,43 ± 0,37 ngày, ngắn
nhất là ni trên ngơ trung bình là 33,5 ± 0,15 ngày. Số lượng hạt ngô khác nhau
ảnh hưởng đến một số chỉ tiêu sinh sản của trưởng thành mọt ngô. Các chỉ tiêu
sinh sản được theo dõi đều tăng khi số lượng hạt cũng tăng.Khối lượng ngô hao
hụt tăng dần theo thời gian bảo quản sau lây nhiễm mọt ngô, khi mật độ trưởng
thành càng cao thì sự hao hụt về trọng lượng hạt càng lớn. Sau thời gian bảo
quản 120 ngày mật độ trưởng thành từ 5 - 20 cặp có ảnh hưởng đến hao hụt
trọng lượng dao động từ 1,32 - 6,34%. Khi cho cạnh tranh với mọt gạo
Sitophilus oryzae Linnaeus, mọt ngơ sinh trưởng, phát triển và có khả năng sinh
sản kém hơn so với mọt gạo. Sốtrưởng thành vũ hóa của mọt gạo cao hơn mọt
ngơ và khối lượng hạt hao hụt ở lọ chứa mọt gạo cao hơn mọt ngơ.Nhịn đói và
nhiệt độ cao là hai yếu tố ảnh hưởng lớn đến thời gian sống và sức sinh sản của
mọt ngô.

vii


PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.Đặt vấn đề
Nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng. Các chiến lược về phát triển
nông nghiệp luôn được Đảng và nhà nước quan tâm và đặt lên hàng đầu. Trong
vài thập kỷ gần đây kinh tế nông nghiệp đã đạt được nhiều thành tựu và năng
suất của nhiều loại cây trồng đã tăng lên một cách đáng kể. Bên cạnh đó sản
xuất nơng nghiệp vẫn gặp nhiều trở ngại do sự gây hại của các loài dịch hại,
trong đó những tổn thất do sâu mọt hại nông sản sau thu hoạch bảo quản trong

kho cũng không hề nhỏ. Hằng năm trên thế giới mức tổn thất về lương thực
trong bảo quản trung bình từ 6 - 10%. Ở Việt Nam mức tổn thất này từ 8 - 15%,
riêng ở ðồng Bằng Sông Cửu Long khoảng 18% (Bộ môn nghiên cứu côn trùng,
tổng Cục Lương Thực Việt Nam). Hàng năm chúng ta dự trữ, bảo quản một khối
lượng rất lớn hàng hóa nơng sản. Những thiệt hại do sâu hại trong kho gây ra
không phải là nhỏ (Vũ Quốc Trung, 1981).
Ngô (Zea mays L.) (Poaceae), là cây trồng chủ lực có sản xuất trên tồn thế
giới, ước tính khoảng 1026 triệu tấn (Cerquiglini & cs. 2016). Loại ngũ cốc này
là thực phẩm cơ bản để phát triển quốc gia về lượng calo và lượng protein, dao
động từ 61% ở Mesoamerica, 145% ở Đông và Nam Phi, 29% ở khu vực
Andean, chiếm 25% ở Tây và Trung Phi (Shiferaw & cs., 2011).
Mọt ngô Sitophilus zeamais Motschulsky là một loài đa thực, chúng ăn hầu
hết các loại ngũ cốc, các hạt đậu, các loại đậu, các loại hạt dầu và các loại thực
phẩm thực vật khác. Thức ăn thích hợp nhất của chúng là ngô hạt.
Hiện nay trong kho ngô đang bị mọt ngô gây hại nghiêm trọng và ngồi ra
chúng cịn gây hại cả ngồi đồng ruộng. Sự gây hại của chúng gây ra là rất lớn
làm ảnh hưởng đến nền kinh tế quốc dân. Do đó cơng tác phịng trừ sâu mọt nói
chung và mọt ngơ Sitophilus zeamais Motschulsky nói riêng đang là vấn đề cấp
thiết cần được giải quyết nhanh và hiệu quả. Chính vì vậy trong những năm gần

1


đây thì các nhà nghiên cứu, các nhà khoa học trong lĩnh vực côn trùng, sinh thái
học, bảo vệ thực vật và bảo quản kho trong nước đang rất quan tâm.
Hiện nay Việt Nam theo Tổng cục Hải quan, trong năm 2020, đã có 12,072
triệu tấn ngơ nhập khẩu về Việt Nam, trị giá 2,4 tỷ USD, tăng 5% về lượng và
2,8% về giá trị so với năm 2019. Như vậy, đây là năm đầu tiên, lượng ngô nhập
khẩu về Việt Nam vượt mốc 12 triệu tấn. Argentina là nước cung cấp ngô lớn nhất
cho Việt Nam. Năm 2020, Việt Nam đã nhập khẩu ngô từ Argentina với khối

lượng khoảng 8 triệu tấn, trị giá 1,6 tỷ USD. Đứng thứ 2 là Brazil với 3,063 triệu
tấn, trị giá gần 600 triệu USD. Nhập khẩu ngô về Việt Nam vẫn đang có xu hướng
tăng lên. Trong tháng 1/2021, Việt Nam đã nhập 1,147 triệu tấn ngô, tăng 53,7% về
lượng và 61,2% về giá trị so với tháng 1/2020. Việc nhập khẩu ngô cũng dẫn đến
sự lây lan của một số các lồi cơn trùng hại sau thu hoạch trong đó có mọt ngơ
Với mong muốn góp phần làm giảm tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch và trong
quá trình bảo quản, đồng thời nâng cao hiệu quả của công tác Kiểm dịch thực
vật, hạn chế tối đa sự phát sinh, phát triển và sự gây hại của mọt ngô gây hại trên
ngô nhập khẩu để mang lại hiệu quả kinh tế đảm bảo an ninh quốc gia, chúng tôi
thực hiện đề tài: “Nghiên cứu một số đặc điểm sinh vật học, sinh thái học của
mọt ngô Sitophilus zeamais Motschulsky năm 2021 ”.
1.2.Mục đích và yêu cầu
1.2.1. Mục đích
Xác định được đặc điểm sinh vật học, sinh thái học của mọt ngô
Sitophilus zeamais Motschulsky trên ngô nhập khẩu vào Việt Nam từ một số
nước qua cảng Hải Phịng. Từ đó xây dựng các biện pháp ngăn ngừa sự lây lan
và biện pháp quản lý phòng chống đạt hiệu quả.
1.2.2. Yêu cầu
- Xác định được một số đặc điểm hình thái, sinh học, sinh thái của mọt ngô
Sitophilus zeamais Motschulsky.
- Xác định được sự hao hụt trong lượng hạt ngô do mọt ngô Sitophilus
zeamais sau 1 thời gian bảo quản.
2


PHẦN II: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
TRONG VÀ NGỒI NƢỚC
2.1. Tình hình nghiên cứu ngồi nƣớc
2.1.1.. Vị trí phân loại và phạm vi ký chủ của mọt ngô (Sitophilus zeamais)
Vị trí phân loại: Mọt ngơ thuộc Bộ (Oder): cánh cứng (Coleoptera); Họ

(Family): Curculionidae; Giống: Sitophilus. Loài: Sitophilus zeamais Motschulsky.


Phạm vi ký chủ:
Lồi mọt ngơ Sitophilus zeamais Motschulsky là lồi gây hại phổ biến và

là lồi cơn trùng ngun phát. Tính ăn hại của lồi mọt này khá phức tạp vì mọt
ngơ thuộc loại đa thực, nó có thể ăn hầu hết các loại ngũ cốc thô hoặc chế biến
như lúa mì, yến mạch, lúa mạch, lúa miến, lúa mạch đen, các loại đậu, hạt có
dầu, hạt bơng và nhiều sản phẩm thực vật khác. Nhưng thức ăn thích hợp nhất
với nó là ngơ hạt. Mọt hoạt động đều rất nhanh nhẹn, hay bay bị và có tính giả
chết, xuất hiện ngoài đồng trước khi thu hoạch và trong kho bảo quản, thiệt hại
kinh tế do chúng gây ra rất nghiêm trọng (CABI,2017)
2.1.2. Nghiên cứu về phân bố và gây hại của mọt ngơ Sitophilus zeamais
Phân bố: Mọt ngơ có từ thời rất xa xưa, khoảng 7,8 triệu năm về trước và
đã được công bố là động vật hại ngô mới. Mọt ngô đã được phát hiện ở 112
quốc gia trên toàn thế giới (CABI, 2017). Loài này gây hại đáng kể ở những
vùng ấm áp trên thế giới, nhất là ở Châu Á, vùng Địa Trung Hải (Châu Âu) và
Bắc Mỹ
Khả năng gây hại của mọt ngô
Theo Snelson (1987) cho thấy tổn thất trên ngô do mọt ngô (Sitophilus
zeamais), mọt cà phê (Araecerus fasciculatus), mọt râu dài (Cryptolestes
pusillus), mọt thóc đỏ (Tribolium castaneum) dao động trong khoảng 12 - 13%
sau 6 tháng bảo quản.Tổn thất trên ngô đã được thống kê: tỷ lệ hạt bị hại 30 3


50% sau 5 tháng bảo quản tại Togo, 45 - 75% sau 7 tháng bảo quản tại Uganda
và 90 - 100% sau 12 tháng bảo quản tại Zambia
Trưởng thành mọt ngơ có thể đẻ trứng ở ngồi đồng và cả trong kho. Mọt
ngô gây thiệt hại 12 - 36% lượng hạt ngơ trên tồn thế giới (Tefera & cs., 2016),

đạt 65 - 80% ở các vùng dễ bị gây hại từ các vùng nhiệt đới đến cận nhiệt đới.
Ở miền Tây Kenya, thiệt hại do mọt ngô S.zeamais gây ra khoảng 67%.
Trong khi ở Ethiopia thiệt hại lên đến 80% (Abass & cs., 2014; Affognon & cs.,
2015; Kumar & Kalita, 2017).
2.1.3. Nghiên cứu về đặc điểm hình thái, sinh học, sinh thái học của mọt ngô.
Giai đoạn trưởng thành: mọt ngơ rất giống mọt gạo, vì thế trong phân loại
trước đây, có nhiều ý kiến khác nhau. Nhiều ý kiến cho rằng mọt ngơ và mọt
gạo là cùng lồi khác tên và mọt ngơ và mọt gạo là 2 lồi độc lập.
Đặc điểm hình thái
Theo Sharifi & cs. (1971) đánh giá sự phát triển của mọt ngơ trên lúa mì.
Khi nở, mỗi sâu non được quan sát tăng chiều rộng của đường đục sau một vài
ngày, sau đó trong l đến 3 ngày chiều rộng của đường đục vẫn không có sự thay
đối sau đó nó mới được mở rộng. Có bốn giai đoạn mở rộng đường đục do có
bốnkích thước khác nhau của sâu non. Từ đó, tác giả cho rằng bốn giai đoạn mở
rộng đường đục đại diện cho các giai đoạn phát triển của sâu non. Chiều rộng
trung bình của các đường đục ở 4 giai đoạn sâu non lần lượt là 0,33, 0,55, 0,90
và 1,49 mm.
Devi & cs. (2017) đã ghi nhận rằng trứng của mọt ngơ có hình thn dài
trịn khi mới đẻ, và có màu trong mờ và kem màu trắng sau đó trở nên mờ đục
trước khi nở thành sâu non. Trứng có chiều dài trung bình là 0,43 ± 0,02mm,
chiều rộng trung bình là 0,25 ± 0,01mm. Sâu non có 4 giai đoạn phát triển, chiều
dài trung bình của các giao đoạn lần lượt là 1,02 ± 0,04, 1,89 ± 0,07, 1,68 ± 0,05
và 2,47 ± 0,05mm, chiều rộng trung bình lần lượt là 0,84 ± 0,01, 1,12 ± 0,04,
1,14 ± 0,04 và 1,46 ± 0,03mm. Ở giao đoạn nhộng có chiều dài trung bình là
4


3,67 ± 0,05mm và chiều rộng trung bình là 1,71 ± 0,05mm. Ở trưởng thành
S.zeamais thì trưởng thành cái có kích thước lớn hơn so với trưởng thành đực.
Cụ thể, trưởng thành cái có chiều dài trung bình là 4,47 ± 0,05mm, chiều rộng

trung bình là 1,46 ± 0,04mm. Trong khi đó chiều dài trung bình của trưởng
thành đực là 3,70 ± 0,05mm, chiều rộng trung bình là 1,30 ± 0,05mm. Trưởng
thành mọt ngơ có màu đen đỏ nhạt màu hơn so với mọt gạo.
Theo Le J. & cs.(2018) cũng cho rằng mọt ngô sinh trưởng và phát triển
qua bốn giao đoạn là trứng, sâu non (4 tuổi), nhộng và trưởng thành. Chiều dài,
chiều cao và chiều rộng của sâu non tăng lên cùng với sự phát triển của bốn tuổi
sâu non. Chiều dài cơ thể tuổi 1, 2, 3 và tuổi 4 lần lượt là 0,554, 0,746, 1,462 và
2,147mm. Chiều cao của sâu non qua từng giai đoạn là 0,338, 0,575, 0,874,
1,651mm. Chiều rộng của sâu non tuổi 1, 2, 3 và tuổi 4 lần lượt là 0,34, 0,598,
0,798 và 1,568 mm. Chiều rộng của bề ngang mảnh đầu của sâu non tuổi 1, 2, 3
và 4 tương ứng là 0,203, 0,317, 0,535, và 0,603mm. Sâu non mọt ngô
S.zeamais khơng có chân, tiền nhộng và nhộng có màu trắng kem, ngoại trừ đầu
và miệng của sâu non. Khi sâu non chuẩn bị hóa nhộng thì chúng có sẫm màu hơn
và có màu vàng, khi đó chân và râu tách ra khỏi cơ thể nhiều hơn. Trưởng thành
có màu từ màu vàng nhạt, vàng đậm sang nâu trong 4 ngày tiếp theo. Chiều dài,
chiều cao và chiều rộng của cơ thể tăng dần theo thời gian phát triển.
Đặc điểm sinh học
Theo Howe (1965) mọt ngơ S.zeamais thường ưa nóng trong tự nhiên.
Mọt ngô bắt đầu phát dục ở nhiệt độ 18⁰C (64,4⁰F). Mức nhiệt độ thích hợp nhất
của mọt ngơ là 25 - 35⁰C (77 - 95⁰F). Ở mức nhiệt độ 3 - 4⁰C chúng vẫn có khả
năng tồn tại.
Thời gian phát triển trung bình của 4 tuổi sâu non ở 27⁰C và ẩm độ 69% là
3,6; 4,7; 4,8 và 5 ngày. Thời gian phát dục pha nhộng và giai đoạn trước trưởng
thành là 5,3 và 5,3 ngày. Thời gian phát triển từ giai đoạn đẻ trứng 3 ngày đến
khi xuất hiện trưởng thành là 36.3 ngày ( Sharifi & cs.,1971 ).
5


Longstaff (1981) ghi nhận trưởng thành có thể sống lâu từ vài tháng đến
một năm. Trứng được đẻ trong suốt thời gian sống của trưởng thành, mỗi con

cái có thể đẻ tới 150 trứng. Trứng được đẻ riêng lẻ trong các hạt ngũ cốc. Thời
gian phát dục của trứng là khoảng 6 ngày ở 25⁰C ( Howe, 1952 ). Trứng được đẻ
ở nhiệt độ từ 15 đến 35⁰C (thích hợp nhất là khoảng 25⁰C) và ở độ ẩm hạt trên
10%. Tuy nhiên, tỷ lệ trứng nở rất thấp khi nhiệt độ dưới 20⁰C hoặc trên 32⁰C,
và độ ẩm dưới 12% ( Birch, 1944 ). Sau khi nở, nhộng bắt đầu ăn bên trong hạt,
đào đường đục bị ra ngồi khi nó phát triển. Nhộng sống ở trong hạt, trưởng
thành vũ hóa đào đường đục và bị ra ngồi hạt. Tổng thời gian phát triển từ
khoảng 35 ngày trong điều kiện thích hợp đến hơn 110 ngày trong điều kiện bất
lợi ( Birch, 1944; Howe, 1952).
Vịng đời của mọt ngơ phụ thuộc vào các loại giống và chất lượng của hạt:
Các giống ngơ khác nhau, thời gian phát triển trung bình của S.zeamais ở nhiệt
độ 270C và ẩm độ 70% thay đổi từ 31 đến 37 ngày. Sitophilus zeamais có nhiều
khả năng gây hại cho ký chủ từ khi cây đang chín trên đồng ruộng và gây bệnh
cho hạt trước khi thu hoạch hơn Sitophilus oryzae.
Ojo & Omoloye (2016) cho biết mọt ngơ có thời gian sinh sản dao động từ
9 đến 29 ngày, với thời kỳ đẻ trứng trung bình lần lượt trên kê và ngô là 20,3 và
22,2 ngày. Thời gian phát dục của trứng dao động từ 3 đến 7 ngày.Thời gian
phát dục ngắn nhất khi mọt ngô được nuôi trên thức ăn lúa là 5,1 ngày và kéo
dài nhất khi nuôi trên kê là 5,4 ngày. Mọt ngô trưởng thành sống dài nhất trên
ngô và kê lần lượt là 122,3 ± 1,87 và 126 ± 3,20 ngày so với lúa và cao lương
tương ứng là 120,3 ± 3,24 và 117,6 ± 2,07 ngày.
Trưởng thành đẻ trứng ở vị trí khác nhau của hạt lúa mì và tỷ lệ số trứng ở
nội nhũ, quanh mầm và trong mầm lần lượt là 42,37 và 21%.
Sitophilus zeamais được nuôi trên các loại hạt ngũ cốc khác nhau. Khơng
có sự khác biệt về sức sinh sản của mọt ngô trên ngô, gạo, cao lương và kê.

6


Tổng số trứng đẻ cao nhất và thấp nhất được ghi nhận trên ngô và kê tương ứng

là 67,2 ± 3,16 và 53,8 ± 0,17quả.
Ngồi ra, có sự khác biệt đáng tuổi thọ của trưởng thành được thấy giữa
các loại ngũ cốc, mọt ngô trưởng thành sống lâu nhất trên ngô và kê (122,3 ±
1,87 và 126 ± 3,2 ngày) so với gạo và cao lương thời gian sống của trưởng thành
là 120,3 ± 3,24 và 117,6 ± 2,07ngày ( Ojo & cs.,2016)
Devi & cs. (2017) cho biết khi nuôi mọt ngô S.zeamais bằng ngô ở nhiệt
độ 24 - 300C và ẩm độ 70 - 80% thời gian phát triển pha trứng là 6,9 ngày; các
tuổi sâu non của tuổi 1, 2, 3 và 4 lần lượt là 5,8, 7,0, 8,4, và 7,5 ngày. Pha nhộng
là 12,5 ngày. Tiền đẻ trứng 2,9 ngày. Vòng đời là 51, 60 ngày. Giai đoạn trứng
và sâu non chiếm 93,2% thời gian phát triển, còn trưởng thành chiếm 6,7%.
Nghiên cứu cũng cho thấy rằng tuổi thọ của con cái dài hơn tuổi thọ của con
đực. Thời gian giao phối là 118,8 phút. Số lần giao phối trung bình 2,1 lần/ngày.
Sức sinh sản là 68,2 quả/con cái, số trứng đẻ trong 1 ngày trung bình là 4,7
quả/ngày/con cái. Thời gian sống của trưởng thành cái và đực lần lượt là 105,9
ngày và 67,40 ngày. Thời gian phát triển sâu non mọt ngơ ni trong lúa mì của
Sharifi & cs. (1971) ngắn hơn rất nhiều so với nuôi trên ngô.
Le J. & cs. (2018) cho biết ở nhiệt độ 280C và ẩm độ 75% thức ăn là lúa
mì thời gian phát triển các tuổi của sâu non sau tính từ khi đẻ trứng sâu non tuổi
1 dao động từ 5 - 7 ngày; tuổi 2 từ 9 - 11; sâu non tuổi 3 từ 13 - 15 ngày; tuổi 4
từ 17 - 19 ngày. Tiền nhộng là 21 ngày và đến pha nhộng là 23 - 25 ngày.
Trưởng thành phát triển đầy đủ là 31 ngày.
Khả năng nhịn đói cuả mọt ngô
Richards (1962) ghi nhận ở 25⁰C mọt ngô chịu được đói kém hơn mọt
gạo. Morrison (1964) cho biết tuổi thọ trung bình của mọt ngơ bị bỏ
đói khoảng 18,6 ngày ở 21,1⁰C; 6,6 ngày ở 26,7⁰C và 5,9 ngày ở 32,2⁰C.
Singh & Wilbur (1966) cho rằng khơng có sự khác biệt lớn hơn trong tuổi
thọ giữa con cái chưa giao phối và con cái đã giao phối. Trưởng thành ngô
7



khơng có thức ăn sống lâu hơn so với mọt gạo khoảng 28%.(Maceljski &
Korunic, 1973).
Ảnh hưởng của số lượng hạt ngô đến một số chỉ tiêu sinh sản của trưởng thành
mọt ngô
Theo Danho M. & cs. (2002) ở nhiệt độ 300C và ẩm độ 70% đã nghiên
cứu ảnh hưởng của số lượng hạt ngô đến sự đẻ trứng, sự phân bố của trứng, sự
xuất hiện trưởng thành, khối lượng trưởng thành và tỷ lệ giới tính của Sitophilus
zeamais. Số lượng hạt ngô (200, 400 và 800 hạt/lọ thủy 25 cặp mọt ngô đực/cái
được cho vào mỗi lọ thủy tinh để 12 ngày. Số lượng trứng nhiều nhất và ít nhất
được đẻ lần lượt trên các lọ 800 và 200 hạt. Tổng số lượng hạt bị hại cũng theo
xu hướng tương tự dao động từ 2,35 trên 200 hạt đến 4,49 trên 800 hạt. Tuy
nhiên, sự xuất hiện của mọt trưởng thành tối đa 472 con/lọ thủy tinh khi lượng
hạt cao nhất là 800. Khốilượng trung bình của trưởng thành mới không bị ảnh
hưởng đáng kể bởi số lượng hạt, nhưng trưởng thành cái nặng hơn trưởng thành
đực (trung bình là 3,16mg so với 3,05mg) không phân biệt số lượng ngô và số
trứng đã đẻ. Với số lượng hạt (20, 40, 80 hạt/lần), tổng cộng số trứng lần lượt là
lần lượt là 609, 713 và 863 quả trứng cho tám lần lặp lại. Số lượng trứng được
đẻ tăng lên khi lượng hạt tăng lên.
Tỷ lệ giới tính đực, cái khơng có sự khác biệt giữa các cơng thức thí
nghiệm. Tỷ lệ giới tính thấp nhất ở cơng thức 400 hạt là 79,8 và thay đổi cao
nhất là 93,4 với công thức 200 hạt. Số lượng con cái luôn luôn lớn hơn số lượng
con đực.
Nghiên cứu sự cạnh tranh của ba loài Sitophilus trên ngô và gạo.
Athanassiou & cs. (2017) đã đánh giá sự cạnh tranh giữa ba loài mọt trên
lúa và ngơ: Lồi Sitophilus granarius, Sitophilus oryzae và mọt ngơ Sitophilus
zeamais. Sau 62 ngày ở 30⁰C và độ ẩm tương đối 65% số lượng cá thể loài
S.granarius thấp nhất trong cả hai loại thức ăn và lồi S.oryzae ln cao hơn các
2 lồi cịn lại. Đối với lồi S.oryzae và S.zeamais, số lượng trưởng thành trên lúa
8



cao hơn ngô một cách đáng kể. Số lượng S.oryzae trưởng thành liên tục cao hơn
các loài khác trong tất cả các tổ hợp được thử nghiệm. Tác giả đã kết luận loài
S.granarius nên được coi kém phát triển và lồi S.oryzae là đối thủ cạnh tranh
có số lượng vượt trội. Sau 62 ngày ở 30⁰C và độ ẩm tương đối 65%, số lượng cá
thể của mỗi loài được đếm. Nhân bị hỏng do côn trùng (IDK), trọng lượng của
hạt và trọng lượng hạt được đo. Khi có một mình thì S.granarius có số lượng
con trưởng thành thấp nhất khơng vượt quá 34 con / lọ, và số lượng S.oryzae
luôn cao hơn các loài khác. Đối với S.oryzae và S.zeamais, số trưởng thành trên
lúa cao hơn đáng kể so với ngô. Trên lúa, S.oryzae số trưởng thành dao động từ
281 đến 563 trưởng thành mỗi lọ, trong khi đối với S.zeamais dao động từ 137
đến 372 trưởng thành trên mỗi lọ. Đồng thời, đối với cả hai lồi trên ngơ, số
lượng trưởng thành không vượt quá 54 con trưởng thành trên mỗi lọ. Số lượng
S.oryzae trưởng thành liên tục cao hơn các loài khác trong tất cả các tổ hợp được
thử nghiệm. Hơn nữa, đối với lúa, IDK trong lọ có chứa S.oryzae độc lập hoặc
kết hợp với các lồi khác, cao hơn tất cả các tổ hợp khác. Tương tự, trọng lượng
hạt là giảm cao nhất ở lọ trong lọ có chứa S.oryzae so với các tổ hợp lồi khác.
Đồng thời, việc sinh sản của cả ba lồi khơng bị ảnh hưởng bởi sự hiện diện của
loài khác bên trong lọ. Đây là báo cáo đầu tiên kiểm tra sự cạnh tranh giữa ba
loài Sitophilus. Các loài khác nhau về tỷ lệ sinh sản của chúng ảnh hưởng đến
kết quả cạnh tranh, nhưng lại bị ảnh hưởng bởi loại ngũ cốc. Đối với cả ba lồi,
lúa thích hợp cho sinh sản và tạo thế hệ con cháu hơn nhiều so với cây ngô.
2.1.4. Nghiên cứu khả năng chống chịu của các giống ngô đối với mọt ngô.
Abebe & cs. ( 2009) đã thực hiện đánh giá 13 giống ngô xác định mức độ
mẫn cảm với mọt ngô S.zeamais. Giống BHQP-542 có chỉ số mẫn cảm là thấp
nhất và được coi là kháng. Các giống Katumani, Melkasa-I, Melkasa-II,
Melkasa-III, Coree, BH-541, BH-660, BH-540, Rare-I, Awasa-511, ACV3 và
ACV6 là khả năng chống chịu vừa phải. Mọt ngô được nuôi bằng giống kháng
tạo ra số lượng thế hệ F1 thấp, có thời gian phát triển trung bình dài và tỷ lệ hạt
9



bị hư hỏng và giảm khối lượng hạt thấp. Sự gia tăng số lượng thế hệ F1 làm cho
hạt bị hư hỏng và giảm khối lượng hạt ngày càng nhiều. Việc sử dụng các giống
kháng cần được phổ biến trong việc quản lý S.zeamais trong ngô dự trữ trong
điều kiện canh tác tự cung tự cấp ở Châu Phi.
Ngoài ra trên thế giới cịn có nghiên cứu về so sánh khả năng chống chịu của
các kiểu gen khác nhau đối với mọt ngơ (Siwale & cs., 2009). Ngơ có các đặc điểm
của hạt tạo ra khả năng chống lại mọt ngô Sitophilus zeamais Motschulsky là độ
cứng, trọng lượng và hàm lượng protein, được so sánh trong 50 kiểu gen ngô cải
tiến do CIMMYT phát triển và hai dòng (Cimambwe và Pandawe).
Issa US & cs. (2011) nghiên cứu được thực hiện để xác định tình trạng chống
chịu của các dịng và giống ngô đối với sự xâm nhập tấn công Sitophilus zeamais
(Coleoptera:

Curculionidae).

Mười

dịng

ngơ:

EVDTW99STRQPMCo,

FU2090DYFP, TZEEY-PopSTRC4, DMLSRYQPM, GH90DYFP, FU2080
DWF/DPop,

TZE-Y-PopDTSTRC4,


2000SYNEEWQPM,

GH90DWOP



Fu2090DWDPop và ba giống là Dorke SR, Dodzi và Mamaba. Những con mọt mới
xuất hiện đầu tiên sau 27 ngày có ở hai giống Fu2090DYFP và Fu2090DWDPop và
khoảng thời gian xuất hiện dài nhất được quan sát thấy trong EVDTW99
STRQPMCo, Dodzi, Dorke và GH90DWDP. Số lượng trung bình của các con mọt
từ các dịng và giống ngơ khác nhau có ý nghĩa. Dịng và các giống có mức độ mẫn
cảm và giảm trọng lượng khác nhau đối với sự tấn cơng của mọt, với dịng
2000S8NEEWQPMCo tạo ra số lượng mọt trung bình ít nhất, trong khi dòng
FU2090DYFP ghi nhận con số cao nhất. Dựa trên các chỉ số nhạy cảm của họ, hai
dòng và một giống được phân loại là kháng và tám dòng và hai giống ở mức kháng
vừa. Do đó, hai dịng EVDTW99STRQPMCo và GH90DYFP là được khuyến nghị
đưa vào chương trình phát hành ngơ. Dịng ngơ FU2090DYFP, DMLSRYQPM,
FU2080DWF/DPop, TZE-Y-PopDTSTRC4, GH90DWOP, Fu2090DWDPop,
TZEEY-PopSTRC4, 20008YNEEWQPMCo và các giống Mamaba và Dorke SR

10


cũng được khuyến nghị đưa vào các chương trình nhân giống để cải thiện khả năng
kháng S.zeamais của chúng để phát hành trong tương lai.
Theo Masasa RT & cs. (2013) đã tiến hành thí nghiệm trong nhiệt độ
được kiểm sốt và phịng thí nghiệm độ ẩm (CTH) tại CIMMYT-Zimbabweđể
so sánh khả năng chống chịu của ngô mới thụ phấn tự dogiống (OPVs) từ các
thử nghiệm khu vực được thực hiện ở Đông và Nam Phi đối với mọt ngô. 20
ngô OPV đã được bóc vỏ và được làm sạch trước khi cho vào tủ đông sâu ở 20⁰C để tiêu diệt sâu bệnh và trứng trong hạt từ ruộng. 50 gam hạt từ mỗi OPV

được cân sau và đặt trong phịng thí nghiệm CTH để điều hịa. Các mẫu được
đặt trong các lọ 250 mL có lưới lọc bằng đồng đậy nắp và sau đó nhiễm 32 con
mọt ngơ từ 10 đến 14 ngày. Có sự khác biệt đáng kể trong nhân các đặc điểm vật
lý trong số 20 ngô OPVs. Trong đó, Strigoff133, Chitedze6, Strig-off128,
Strigoff129 và VP072 có giá trị cao nhất đối với độ cứng của hạt. Mặt khác,
Strigoff140 và AFRICI có giá trị thấp nhất về độ cứng của hạt nhân. Có sự khác
biệt đáng kể trong phát triển của mọt ngô trong số hai mươi cây ngơ OPVs. Ngơ
OPV Strigoff126 có MDP dài nhất là 29,66 ngày, cho thấy rằng đó làkhả năng
chống lại sự tấn công của mọt cao nhất, tiếp theo là 07WEE - VIL với MDP là
29,16 ngày. Strigoff126 cũng được coi là giống kháng mọt ngô. Các OPV khác
đã cho thấy kháng là VP073, ZM721 và ZM625 với thời kỳ phát triển 29,08,
28,78 và28,70 ngày tương ứng. Strigoff129 cóthời gian phát triển ngắn nhất
(24,83 ngày),khác biệt đáng kể so với Strigoff140 với thời gian phát triển 27,41
ngày. MDP dài hơn có nghĩa là làm chậm các giai đoạn phát triển của mọt. Thời
gian phát triển của mọt lâu hơn dẫn đến ít các thế hệ mọt ngơ và do đó, ít thiệt
hại hơn. Khi mà thời kỳ phát triển ngắn hơn, mọt ngơ tăng nhanh hơn so với khi
nó MDP dài hơn. Nếu mọt sinh sơi rất nhanh, chúng có thể thiết lập tình trạng
dịch hại của chúng nhanh hơn, đạt được ngưỡng thiệt hại kinh tế sớm hơn và do
đó, gây ra kinh tế lớn thất thoát trong hạt dự trữ.

11


Bambang & cs. (2017) đã đánh giá tính mẫn cảm của một số kiểu gen ngô
bao gồm cả các giống địa phương đến mọt ngơ. Có sáu kiểu gen đó là SJA, G1012-20, G10-1-3, G10-1-20, G10-1-17 và Toari là giống địa phương được sử
dụng trong nghiên cứu. Dựa trên các chỉ số mẫn cảm, kiểu gen của G10-1-3 và
G10-1-17 chống lại mọt ngô, trong khi các kiểu gen ngô khác và giống địa
phương được coi là kháng trung bình. Từ đó đưa ra rằng kiểu gen ngơ có khả
năng tổng hợp phenolic cao và có độ cứng hạt cao thì có khả năng chống lại sự
phá hoại của mọt ngơ cao hơn. Cùng với quan điểm đó thì kiểu gen của ngô

kháng S.zeamais cũng được đánh giá bởi Boica & cs. (1997) và trên thực địa ở
Benin ( Meikle & cs., 1998 ).
2.1.5. Đánh giá ảnh hưởng mật độ mọt ngô đến sự hao hụt trọng lượng thức
ăn sau thời gian bảo quản
Tefera & cs. (2011) đã nghiên cứu với mục đích đánh giá sự thiệt hại của
hạt và sự giảm trọng lượng trong ngô do Prostephanus truncatus và Sitophilus
zeamais ở mười mật độ quần thể khác nhau (5, 10,15, 20, 25, 30, 35, 40, 45 và
50 con trên 200g hạt) và ba thời gian bảo quản (30, 60 và 90 ngày) trong phịng
thí nghiệm. Mật độ cơn trùng cuối cùng, phần trăm thiệt hại hạt, bột (bụi) được
tạo ra và giảm trọng lượng do P.truncatus cao hơn S.zeamais. Phần trăm thiệt
hại hạt tăng mạnh trong thời gian bảo quản 60 ngày đối với S.zeamais. Giảm
trọng lượng trung bình là 67,1 và 6,9% được ghi nhận ở mật độ quần thể ban
đầu gồm 50 côn trùng 200g hạt, sau 90 ngày đối với P.truncatus và S.zeamais.
Sản lượng bột của P.truncatus (52,8%) cao hơn S.zeamais (1,2%) sau 90 ngày.
Tóm lại, P.truncatus, gây ra thiệt hại và giảm trọng lượng hạt cao hơn so với
mọt ngô S.zeamais. Như vậy, tỷ lệ thiệt hại ở hạt tăng mạnh theo thời gian bảo
quản. Mật độ mọt ngô ảnh hưởng đến giảm khối lượng hạt đáng sau 90 ngày bảo
quản khoảng 6,9%. Thời gian lưu trữ càng dài thì sự giảm về khối lượng càng
tăng lên.

12


2.1.6. Nghiên cứu ảnh hưởng của xử lý nhiệt độ cao 500C đến mọt ngô
Golić M P & cs. (2011) đã cho mọt ngô (S.zeamais) được tiếp xúc ở nhiệt
độ 500C để xác định thời gian gây chết thông qua giá trị LT20, LT50 và LT99 và
thế hệ con cháu xuất hiện. Thời gian tiếp xúc nhiệt độ cao 500C là 6, 10, 14, 16,
18, 20, 22, 26 và 30 phút trong đĩa nhựa (V = 200 cm3) với 1,8 ± 0,2g lúa mì thơ
chưa qua xử lý. Trong lần xử lý thứ hai, trong các đĩa có 100g chưa xử lý hạt lúa
mì mà những con trưởng thành đã tiếp xúc trong 90, 100, 110, 120, 130, 140,

150, 165 và 180 phút. Sau thời gian tiếp xúc những con trưởng thành được cho
vào 100g hạt lúa mì chưa xử lý ở nhiệt 25 ± 10C và 60 ± 5% rh, để phục hồi.
Sau một, hai và bảy ngày phục hồi, những con mọt được tách ra bằng cách sàng
lúa mì, và tỷ lệ chết đã được xác định, và sau tổng thời gian tám tuần kể từ khi
bố mẹ tiếp xúc, ảnh hưởng đến tỷ lệ ở thế hệ F1 ghi nhận là mọt ngô S.zeamais
chịu đựng tốt nhất giá trị LT50 dao động từ 139,90 - 155,35 phút. Sau khi tiếp
xúc ở dạng lúa mì thơ, mức giảm thế hệ sau ở mức 100% là sau 22 phút. Tuy
nhiên, sau khi tiếp xúc với nhiệt độ cao của mọt ngơ trong hạt lúa mì, giảm tỷ lệ
F1 là 99,7% sau 180 phút. Kết quả thu được sẽ là cơ sở có khả năng sử dụng
nhiệt độ cao để hạn chế côn trùng hại kho trong kho lưu trữ và bảo quản.
2.2. Tình hình nghiên cứu trong nƣớc
2.2.1. Vị trí phân loại học, phân bố của mọt ngơ Sitophilus zeamais
Bùi Công Hiển (1995) cho biết mọt ngô tên khoa học là Sitophilus zeamais
Motschulsky. Ở Việt Nam, lồi mọt ngơ có thể gặp ở tất cả các địa phương.
2.2.2. Nghiên cứu về tình hình gây hại của mọt ngơ Sitophilus zeamais
Sitophilus zeamais là một loài sâu hai nghiêm trọng đối với hạt ngũ cốc
trong các kho bảo quản ( Bùi Cơng Hiển, 1995; Bùi Minh Hồng & cs. 2004).
Lồi mọt này đã được chứng minh hại hạt ngơ từ ngồi đơng ruộng, sau thu
hoạch, lồi này tiếp tục sinh sản và phát triển hại hạt ngô trong các kho bảo
quản. Ở Việt Nam, S.zeamais không chỉ là một loại gây hại nguy hiểm cho ngơ
hại mà lồi lại cịn gây hại cho lúa, gạo, đậu đỗ và các sản phẩm nông nghiệp
13


khác trong các kho bảo quản, sự gây hại của loài này làm giảm đáng kể về số
lượng và chất lượng sản phẩm nông nghiệp sau thu hoạch. Đặc biệt đối với các
hạt giống được bảo quản trong kho, khi bị S.zeamais gây hại, khả năng nảy mầm
của hạt sẽ bị giảm đi đáng kể hoặc mất hoàn toàn.
Trần Văn Chương & cs. (2003) cho thấy ở quy mô hộ nơng dân, ngơ dự
trữ bị tổn thất trung bình là 15%, cá biệt có nơi đến 20%.

Kết quả điều tra tại Hà Giang cho thấy nếu không áp dụng các biện pháp
phịng trừ cơn trùng gây hại, tỷ lệ hạt ngơ bị cơn trùng gây hại cao nhất có thể
đạt tới 98% ( Nguyễn Thị Oanh & cs., 2003).
Nguyễn Kim Hoa & cs. (2008), Mọt ngơ S.zeamais là lồi gây hại nguyên
phát, xuất hiện và gây hại rất sớm. Ngay từ giai đoạn ngơ chín sáp ở ngồi đồng,
mật độ của lồi này trên giống ngơ địa phương và giống ngô lai tương ứng là
0,07 và 0,21 con/bắp. Sau 12 tháng bảo quản, mật độ của mọt ngô trên các giống
nêu trên đạt tương ứng là 34,13 và 44,2 con/bắp. Trong suốt thời gian bảo quản,
mọt ngô luôn chiếm ưu thế trong mật độ chung của các loài mọt, đặc biệt là
trong 6 tháng đầu.
2.2.3. Những nghiên cứu về đặc điểm sinh học, đặc tính sinh thái học của mọt
ngơ Sitophilus zeamais Motschulsky
Tuỳ theo điều kiện nhiệt độ, độ ẩm và thức ăn mà trưởng thành cái có thể
đẻ được 304 trứng/ngày, thời gian sâu non 18 - 32 ngày, nhộng 12 - 16 ngày.
Trong điều kiện bình thường vịng đời mọt ngô khoảng 40 ngày, nhưng khi gặp
điều kiện thuận lợi thì thời gian đó ngắn hơn, khoảng 28 - 30 ngày. Nhiệt độ
thích hợp nhất cho sự hoạt động, phá hoại của mọt ngô là 28 - 300C. Nếu nhiệt
độ thấp hơn 20ºC, thì mọt ít di chuyển. Ở nhiệt độ 0ºC có thể sống được 37
ngày, ở -50ºC mọt sống được 23 ngày. Ở 55ºC mọt chết sau 6 giờ, 60ºC chết sau
2 giờ. Trong điều kiện nhiệt độ 25ºC, mọt có thể sống mà khơng có thức ăn 18 26 ngày. Thức ăn có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của mọt. Trong cùng một
điều kiện về nhiệt độ và độ ẩm như nhau, nuôi mọt ngô bằng thức ăn khác nhau
14


thì thời gian thực hiện vịng đời của mọt có khác nhau. Ni mọt bằng ngơ hạt
thì thời gian thực hiện vòng đời là 34 ngày, bằng gạo là 47 ngày và bằng thóc là
53 ngày. Mọt ngơ S.zeamais là một đối tượng nguy hiểm, có khả năng sinh sản
nhanh, 1 mọt cái đẻ trung bình 376,82 trứng (Nguyễn Kim Hoa & cs., 2008).
Nguyễn Văn Dương & cs. (2019) đã thực hiện thí nghiệm theo dõi thời
gian sống và sức đẻ trứng của mọt ngô S.zeamais với thức ăn là gạo Thái Lan

dạng hạt dài, sau khi vũ hóa, trong điều kiện được thay thức ăn thường xuyên,
thời gian sống của mọt dài từ 80 ngày đến 150 ngày, trung bình là 123,5 ngày.
Sau khi vũ hóa, mọt trưởng thành đã được ghép đôi ngay, tuy nhiên, chỉ sau 10
ngày tại thời điểm ghép cặp và giao phối, mọt cái mới bắt đầu đẻ trứng, quá
trình đẻ trứng kéo dài tới ngày cuối cùng trước khi chết. Trong quá trình thực
hiện theo dõi thí nghiệm, mọt đực thường chết trước mọt cái, thời gian sống của
mọt đực dao động khoảng từ 80 - 145 ngày, trung bình 119,44 ngày, trong khi
đó mọt cái thường sống lâu hơn từ 80 - 150 ngày, trung bình là 125,89 ngày.
Trưởng thành cái đẻ trứng khá rải rác và kéo dài suốt thời gian sống. Số lượng
trứng đẻ ln có xu hướng đạt cao nhất vào giữa thời gian sống khi mọt cái có
tuổi sinh lí tốt nhất. Trong thời gian đẻ trứng, mỗi con mọt cái trung bình đẻ
được là 38,67 trứng, trong đó có tới 62,81% số trứng được đẻ vào thời gian đầu
(7 - 8 tuần), chỉ 37,19% số trứng còn lại đẻ vào thời gian cịn lại. Có tới 55,07%
trứng được đẻ trong thời gian sau 55 - 95 ngày. Trưởng thành mọt ngơ là lồi
cơn trùng có thời gian sống dài, sức đẻ trứng khơng cao nên chúng có tập tính đẻ
rải rác suốt trong q trình sống của nó. Vì vậy, trong kho bảo quản ngơ ở Sơn
La, có thể bắt gặp tất cả các giai đoạn từ trứng, sâu non, nhộng đến trưởng thành
của S.zeamais. Chúng có thời gian sống và đẻ trứng kéo dài tới 150 ngày.
Sự xâm nhập của côn trùng thể hiện trong việc lựa chọn thức ăn luôn là
một vấn đề được quan tâm đối với các nhà cơn trùng học và đó là một trong
những nguyên tắc cơ bản làm cơ sở cho việc áp dụng côn trùng học cho nông

15


nghiệp, làm vườn và lâm nghiệp. Thức ăn riêng biệt là một yếu tố quan trọng
đặc trưng của côn trùng giúp chúng tồn tại trong thời kỳ không đủ thức ăn.
Trong nghiên cứu của Nguyễn Văn Dương & cs. (2020) ba loại hạt được
đưa vào trong thí nghiệm là ngơ hạt, gạo hạt dài và hạt đậu tương nhằm đánh giá
loại thức ăn thích hợp của mọt ngơ Sitophilus zeamais. Các hạt được giữ trong

các hộp được đặt ở các bẫy khác nhau ở Sơn La trong 90 ngày. Kết quả cho thấy
mọt ngơ Sitophilus zeamais, ưa thích bẫy bằng hạt ngô (71,4%) hơn đáng kể so
với loại gạo hạt dài (14,3%) và hạt đậu tương (14,3%). Trong khi đó, loài
Carpophilus dimidiatus, chủ yếu được quan sát thấy trong hạt ngô (98,5%) và ở
mức độ thấp hơn ở hạt đậu tương (1,5%) và Carpophilus hemipterus rất nhiều
quan sát thấy ở hạt ngơ (93,1%) và ít hơn ở hạt đậu tương (6,9%),
Triboliumcastaneum cũng có xu hướng chọn cả ba loại hạt tức là hạt ngô 53,5%,
hạt gạo dài 35,2% và hạt đậu tương 11,3%.
So sánh các loài thu được trên ba loại hạt cho thấy mọt ngơ Sitophilus
zeamais là lồi phong phú nhất. Tỷ lệ được quan sát thấy ở ngô, hạt đậu tương
và hạt gạo dài tương ứng là 57,0%, 84,9% và 27,6%.
2.2.4. Nghiên cứu các biện pháp phòng trừ mọt ngô trong kho bảo quản
Ở Việt Nam một số biện pháp phịng chống mọt ngơ Sitophilus zeamais
có thể tìm thấy trong các cơng trình của Vũ Quốc Trung (1990) khi xử lý ở 60ºC
đối với trưởng thành 5 loài là mọt gạo, mọt đục hạt, mọt khuẩn đen, mọt bột đỏ
và mọt râu dài, chúng chỉ sống trung bình từ 17 - 46 phút. Bụi trơ được làm từ
các vật liệu khác nhau, từ thực vật như tro trấu, tro gỗ hay từ khoáng vật như bột
đất, cao lanh.
Nguyễn Thị Oanh & cs. (2016) cho biết về hiệu lực phòng trừ của một số
chế phẩm bột từ cây tinh dầu đối với mọt thóc đỏ (T.castaneum Herbst) và mọt
ngơ (S.zeamais) gây hại trong kho bảo quản nông sản ở điều kiện phịng thí
nghiệm. Đối với mọt ngơ (S.zeamais), chế phẩm bột cây dầu giun cho hiệu lực
diệt mọt ngô cao nhất, đạt tối đa (100%) sau 3 ngày xử lý ở liều lượng 2,5g. Khi
16


xử lý với 3,0g và 3,5g chế phẩm bột từ vỏ cây quế, tỷ lệ mọt ngô hết đạt trên
50%, tương ứng là 50,02% và 56,54% sau 24 ngày. Nhưng chỉ sau 21 ngày xử
lý với liều lượng 4,0g và 4,5g thì hiệu lực diệt mọt tương ứng đạt 51,79% và
56,09%. Tuy nhiên hiệu lực của chế phẩm bột từ vỏ cây quế tác động lên mọt

ngô thấp hơn nhiều so với chế phẩm từ cây dầu giun. Chế phẩm dạng bột từ cây
xoan cho hiệu quả diệt mọt ngô (S.zeamais) đạt 80,85-91,83% sau 27-30 ngày
xử lý ở liều lượng 4,0g.
Theo Nguyễn Văn Dương & cs. (2020) đã nghiên cứu về việc sử dụng
phương pháp khử oxy để làm giảm lượng mọt ngô trong kho bảo quản nhỏ.
Nghiên cứu trong các môi trường bảo quản ngô nhỏ (MEs) với nồng độ oxykhác
nhau, từ 0%, 5%, 10%, 15% và 21%. Trong ME ở nồng độ oxy 5%, sau 80 ngày
thử nghiệm có 90 con mọt xuất hiện; nhưng trong ME ở 21% oxy có 576 con
mọt xuất hiện. Trong ME tại CO2=0% khơng có mọt xuất hiện. Kết quả là
khơng tìm thấy con mọt nào chết khi ở nồng độ oxy 21%. Người ta thấy rằng,
trong khung thử nghiệm ở khoảng nồng độ oxy từ 5-21%, nồng độ oxy trong
ME càng thấp thì số lượng mọt xuất hiện càng ít và số lượng mọt chết càng lớn.
Tuy nhiên ME với CO2=0%, khơng có mọt ngơ xuất hiện, được coi là một trong
những phương pháp thích hợp nhất để bảo quản ngơ hạt mà khơng sử dụng bất
kỳ loại hóa chất nào.

.

17


×