Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học của ong không ngòi đốt tetragonula fuscobalteata và lepidotrigona ventralis tại gia lâm, hà nội năm 2021

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.03 MB, 78 trang )

HỌC VIỆN NƠNG NGHIỆP VIỆT NAM

KHOA NƠNG HỌC
-------  -------

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
“NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC
CỦA ONG KHƠNG NGỊI ĐỐT TETRAGONULA
FUSCOBALTEATA VÀ LEPIDOTRIGONA VENTRALIS
TẠI GIA LÂM, HÀ NỘI NĂM 2021”

Ngƣời thực hiện:

: HO NG HANH CA

MSV

: 620054

Lớp

: K62BVTVA

Ngƣời hƣớng dẫn

: PG

Bộ mơn

: CƠN



PHẠM H NG H I
NG

HÀ NỘI - 2021


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành khóa luận này, trƣớc hết tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp
đỡ và chỉ bảo tận tình của Bộ mơn Cơn trùng, khoa Nơng học, Học Viện Nông
nghiệp Việt Nam đã tạo điều kiện cho tơi hồn thành đề tài khóa luận tốt nghiệp
tốt nhất.
Trƣớc hết, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn chân thành, sâu sắc đến thầy
PGS.TS Phạm Hồng Thái, Bộ môn Côn Trùng, Khoa Nông Học, Học viện Nông
Nghiệp Việt Nam, kiêm Giám đốc Trung tâm nghiên cứu ong và nuôi ong nhiệt
đới đã trực tiếp tận tình hƣớng dẫn và tạo mọi điều kiện tốt cho tôi thực hiện đề
tài nghiên cứu và hồn chỉnh khóa luận.
Tơi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với sự quan tâm, giúp đỡ của
tồn thể thầy cơ thuộc Bộ mơn Côn trùng – Khoa Nông học đã tạo mọi điều kiện
cho tơi hồn thiện đề tài khóa luận.
Cuối cùng tơi xin đƣợc gửi lời cám ơn tới gia đình, bạn bè, ngƣời thân
đã ln động viên, kích lệ, giúp đỡ trong suốt q trình học tập và làm khố
luận tốt nghiệp.
Hà Nội, ngày tháng năm 2021
inh viên thực hiện

Hoàng Thanh Ca

i



MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................ i
MỤC LỤC ............................................................................................................. ii
DANH MỤC BẢNG ............................................................................................ iv
DANH MỤC HÌNH .............................................................................................. v
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT............................................................................ vi
TÓM TẮT KHÓA LUẬN .................................................................................. vii
PHẦN I: MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1.1 Đặt vấn đề........................................................................................................ 1
1.2 Mục đích và yêu cầu ....................................................................................... 2
1.2.1. Mục đích ...................................................................................................... 2
1.2.2. Yêu cầu ........................................................................................................ 2
PHẦN II: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ
NGO I NƢỚC .................................................................................................... 3
2.1. Tình hình nghiên cứu ngồi nƣớc .................................................................. 3
2.1.1. Phân loại và phân bố ong khơng ngịi đốt ................................................... 3
2.1.2. Một số đặc điểm sinh học của ong khơng ngịi đốt..................................... 5
2.2. Tình hình nghiên cứu trong nƣớc ................................................................. 21
PHẦN III: NỘI DUNG V PHƢƠNG PH P NGHIÊN CỨU .................... 28
3.1. Đối tƣợng và vật liệu nghiên cứu ................................................................. 28
3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu ................................................................ 28
3.3. Nội dung nghiên cứu .................................................................................... 28
3.3.1. Nghiên cứu một số đặc điểm của ong thợ ................................................. 28
3.3.2. Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học của ong chúa ................................ 29
3.4. Phƣơng pháp nghiên cứu .............................................................................. 29
3.4.1 Thiết kế thí nghiệm .................................................................................... 29
3.4.2 Một số đặc điểm của ong thợ ..................................................................... 29
3.4.3 Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học của ong chúa ................................. 32
ii



3.5 Phƣơng pháp xử lí số liệu.............................................................................. 34
PHẦN IV: KẾT QUẢ ĐẠ ĐƢỢC ................................................................. 35
4.1 Một số đặc điểm sinh học của ong thợ .......................................................... 35
4.1.1 Tập tính ong thợ bay ra ngồi cửa tổ ......................................................... 35
4.1.2 Tập tính ong thợ bay về cửa tổ................................................................... 37
4.1.3 Tỉ lệ ong thợ bay ra và tỷ lệ ong thợ bay về tổ .......................................... 40
4.1.4 Thời gian ong thợ xây hoàn thành một lỗ tổ .............................................. 41
4.1.5 Biến động số lƣợng lỗ tổ xây trong ngày ................................................... 43
4.1.6 Thời gian ong thợ vít nắp và số lƣợng ong thợ vít nắp một lỗ tổ .............. 45
4.1.7 Thời gian ong thợ đổ sữa một lỗ tổ ............................................................ 47
4.1.8 Thời gian 10 ong thợ đầu tiên đổ sữa một lỗ tổ ......................................... 49
4.1.9 Tổng số ong thợ đổ sữa một lỗ tổ............................................................... 50
4.1.10 Thể tích sữa .............................................................................................. 51
4.1.11 Kích thƣớc lỗ tổ ........................................................................................ 52
4.2 Một số đặc điểm của ong chúa ...................................................................... 53
4.2.1 Nhịp điệu đẻ trứng của ong chúa ............................................................... 53
4.2.2 Thời gian ong chúa đẻ một quả trứng ........................................................ 54
4.2.3 Tập tính ăn .................................................................................................. 55
4.2.4 Tập tính rung cánh...................................................................................... 56
PHẦN V: KẾT LUẬN V ĐỀ NGHỊ ............................................................. 59
5.1 Kết luận ......................................................................................................... 59
5.2 Đề nghị .......................................................................................................... 59
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 60
PHỤ LỤC ........................................................................................................... 65

iii



DANH MỤC BẢNG

Bảng 4.1

Tỉ lệ phần trăm số lƣợng ong thợ bay ra (%) .................................. 40

Bảng 4.2

Tỉ lệ phần trăm số lƣợng ong thợ bay về (%) ................................. 41

Bảng 4.3

Thời gian ong thợ xây hoàn thành một lỗ tổ................................... 42

Bảng 4.4

Thời gian và số lƣợng ong thợ vít nắp một lỗ tổ ............................ 46

Bảng 4.5

Thời gian ong thợ đổ sữa một lỗ tổ................................................ 48

Bảng 4.6

Thời gian 10 ong thợ đầu tiên đổ sữa ............................................. 49

Bảng 4.7

Tổng số ong thợ đổ sữa một lỗ tổ ................................................... 50


Bảng 4.8

Thể tích sữa (Đơn vị: µL) ............................................................... 51

Bảng 4.9

Kích thƣớc lỗ tổ .............................................................................. 52

Bảng 4.10 Thời gian ong chúa đẻ một quả trứng ............................................. 54
Bảng 4.11 Tập tính ăn của ong chúa trong 30 phút ......................................... 55
Bảng 4.12 Tần suất rung cánh của ong chúa trong một phút ........................... 56

iv


DANH MỤC HÌNH

Hình 2.1

Lỗ tổ ong thợ (worker cell) và lỗ tổ ong đực (male cell) của
loài T. fuscobalteata (Boongird, 2010) ........................................... 13

Hình 2.2

Ảnh hƣởng của nhiệt độ tới sự phát triển từ trứng tới trƣởng
thành của loài T. fuscobalteata (Boongird, 2010) .......................... 19

Hình 4.1

Số lƣợng ong bay ra ngồi cửa tổ qua các thời gian trong ngày .... 35


Hình 4.2

Số lƣợng ong thợ mang các rác thải ra bên ngồi cửa tổ qua
các thời gian trong ngày .................................................................. 37

Hình 4.3

Số lƣợng ong thợ mang phấn hoa vào cửa tổ qua các thời gian
trong ngày ....................................................................................... 38

Hình 4.4

Số lƣợng ong thợ bay về cửa tổ mà không thấy mang theo gì
qua các thời gian trong ngày ........................................................... 39

Hình 4.5

Số lƣợng ong thợ mang keo vào cửa tổ .......................................... 40

Hình 4.6

Biểu đồ diễn biến số lƣợng lỗ tổ xây trong ngày ............................ 44

Hình 4.7

Tỷ lệ phần trăm các giai đoạn lỗ tổ xây lúc 4h sáng ...................... 45

Hình 4.8


Nhịp điệu đẻ trứng của ong chúa .................................................... 53

Hình 4.9

Thời gian rung cánh của ong chúa trong một phút ......................... 57

Hình 4.10

Số lần rung cánh của ong chúa trong một phút .............................. 58

v


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

NXB

: Nhà xuất bản

vi


TĨM TẮT KHĨA LUẬN
Ong khơng ngịi đốt là một trong những loài ong lâu đời nhất đƣợc biết đến.
Trong sự tiến hóa của thực vật có hoa, thực vật hạt kín, bắt đầu cách đây khoảng
135 triệu năm trong kỳ Phấn trắng, ngƣời ta đã tìm thấy hóa thạch của lồi ong
có niên đại khoảng 70 triệu năm. Nghiên cứu này nhằm nghiên cứu một số đặc
điểm sinh học của ong thợ và ong chúa của hai lồi ong khơng ngịi đốt. Các tập
tính bay ra bay vào, tập tính xây lỗ tổ, bên cạnh đó các nghiên cứu hành vi đổ
sữa hay vít nắp một lỗ tổ của ong thợ cũng đƣợc ghi nhận. Kết quả nghiên cứu

chỉ ra rằng hoạt động xây lỗ tổ của hai loài ong khơng ngịi đốt có sự khác biệt,
tần suất xây dựng cao nhất là khoảng từ 8 giờ sáng đến 13 giờ chiều với 64 lỗ tổ
ở loài T.fuscobalteata và 28 lỗ tổ ở lồi L.ventralis. Sau đó tần suất giảm dần từ
14 giờ đến 3 giờ sáng hôm sau. Thời gian trung bình ong thợ đổ sữa một lỗ tổ
dao động từ 22.02 – 31.13 giây, thời gian vít nắp trung bình của hai lồi ong dao
động từ 5.39 - 8.94 phút để hồn thành vít nắp một lỗ tổ. Bên cạnh đó, một số
đặc điểm sinh học của ong chúa cũng đƣợc nghiên cứu ví dụ nhƣ thời gian ong
chúa đẻ một quả trứng, tập tính rung cánh và tập tính ăn của ong chúa. Ong chúa
của hai lồi ong khơng ngịi đốt chỉ mất trung bình từ 2.12 - 4.04 giây để đẻ một
quả trứng, thời gian đẻ trứng đƣợc ghi nhận bắt đầu từ 10 giờ sáng, giảm dần
vào buổi chiều nhƣng đến đêm thì lại có xu hƣơng tăng lên. Về tập tính rung
cánh, ong chúa thƣờng xuyên rung cánh ngay cả khi di chuyển và đúng yên, thời
gian trung bình ong chúa rung cánh của hai loài dao động từ 2.04 - 5.23 giây/lần.
Nghiên cứu này không quan sát thấy hành vi tự ăn của ong chúa mà chỉ quan sát
đƣợc hành vi ong chúa đƣợc ong thợ mớm ăn. Thời gian mớm ăn rất nhanh,
trung bình từ 1.93 - 2.1 giây, và số lần mớm ăn dao động từ 8.09 – 9.04 lần/30
phút.

vii


PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.1 Đặt vấn đề
Sự suy giảm các lồi cơn trùng thụ phấn có thể tác động sâu rộng đến an ninh
lƣơng thực. Theo tính tốn của một số nhà khoa học, với sự suy giảm các loài
thụ phấn hiện nay làm cho sản lƣợng trái cây, rau quả và các sản ph m thƣơng
mại (cà phê, chè, …) bị giảm sản lƣợng và không đáp ứng nhu cầu hiện tại
(Gallai & cs., 2009). Trong các lồi cơn trùng thụ phấn, ong mật là loài thụ phấn
quan trọng nhất – khơng chỉ đối với cây trồng mà cịn đối với các lồi thực vật
khác. Ong mật đóng vai trò quan trọng về cả số lƣợng cá thế cũng nhƣ số lƣợng

lồi, sự đa dạng đó thể hiện ở lồi ong khơng ngịi đốt. Ong khơng ngịi đốt có
khoảng 500 loài tồn tại ở hầu hết các châu lục, chia thành 2 chi : Melipona và
Trigona. Chi Melipona có số lƣợng lớn, thậm chí lớn hơn cả các lồi ong thơng
thƣờng. Đƣợc biết đến rộng rãi, ong khơng ngịi đốt sống theo đàn và tạo nên từ
một ong chúa duy nhất và các ong thợ. Chúng thu thập phấn hoa và mật hoa để
nuôi ấu trùng trong đàn ong và lƣu trữ mật ong trong tổ cũng vì mục đích này.
Ong khơng ngịi đốt giữ vai trị rất quan trọng trong sinh thái, kinh tế và nhân
nuôi. Sản ph m của chúng gồm có mật ong, phấn hoa, sáp ong đƣợc sử dụng
nhƣ là nguồn thu nhập qua các thế hệ. Thêm vào đó, ong khơng ngịi đốt cịn gắn
bó với văn hóa của một vùng nào đó, đặc biệt là ngƣời Maya, ở các vùng nông
thôn của Châu M ( Karger & Basel, 2017).
Tống Xuân Chinh (2005) đã nghiên cứu một số đặc điểm (số lƣợng lỗ tổ, tỷ lệ
ong đực trong tổ, số lƣợng lỗ ong chúa, số lƣợng ong trƣởng thành, kiến trúc tổ
và tập tính) của 3 lồi ong khơng ngịi đốt Lisotrigona carpenteri Engel, Trigona
(Tetragonula) laeviceps Smith và Trigona (Lepidotrigona) ventralis Smith tại
rừng quốc gia Cúc Phƣơng. Tác giả cũng đồng thời nghiên cứu về ong đực của
lồi ong khơng ngịi đốt Trung M (Melipona favosa) đƣợc sinh ra nhƣ thế nào
trong điều kiện tự nhiên, kết quả cho thấy ong đực của loài này nở tập trung vào

1


các thời kì khác nhau. Các đàn cạnh nhau khơng tạo ong đực đồng thời. Khi các
đàn này đang tạo ong đực thì các đàn khác chỉ tạo tồn ong thợ.
Ong khơng ngịi đốt tìm thấy ở Việt Nam có kích thƣớc cơ thể ong thợ nhỏ
nhất đƣợc tìm thấy ở khu vực vùng núi miền trung, nhƣng lại có kích thƣớc lớn
hơn ong thợ đƣợc tìm thấy ở Malaysia và ong thợ của lồi Trigona
(Lepidotrigona) ventralis có kích thƣớc lớn nhất thì đƣợc tìm thấy ở miền Bắc
Thái Lan (Chinh, 2004). Trong nghiên cứu của Schwarz (1939) đã ghi nhận 20
lồi ong khơng ngịi đốt trong đó có lồi Tetragonula fuscobalteata – đƣợc tìm

thấy trong rừng tại Thái Lan, và đã đƣợc tác giả phân loại. Mặc dù trên thế giới
đã có rất nhiều nghiên cứu về đặc điểm sinh học của ong khơng ngịi đốt, tuy
nhiên nghiên cứu ở Việt Nam còn rất nhiều hạn chế.
Từ những vấn đề trên thấy rằng việc nghiên cứu đặc điểm sinh học của ong
khơng ngịi đốt là rất cần thiết hiện nay. Đƣợc sự phân công của Bộ môn Côn
trùng – Khoa Nông Học – Học Viện Nông Nghiệp Việt Nam và đƣợc sự hƣớng
dẫn của PGS.TS. Phạm Hồng Thái, chúng tôi xin thực hiện đề tài: “Nghiên cứu
ột s đặc điể

sinh học củ

ng h ng ng i đ t Tetragonula fuscobalteata

và Lepidotrigona ventralis t i Gi

H Nội n

2021 để phục vụ cơng

tác bảo tồn và sử dụng cho mục đích thụ phấn cây trồng.
1.2 Mục đích v yêu cầu
1.2.1. Mục đích
Dựa trên những cơ sở nghiên cứu một số đặc điểm sinh học của ong khơng
ngịi đốt Tetragonula fuscobalteata và Lepidotrigona ventralis để từ đó đề xuất
một số biện pháp bảo tồn và sử dụng ong khơng ngịi đốt trong việc thụ phấn
cây trồng.
1.2.2. Yêu cầu
- Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học của ong thợ của loài Tetragonula
fuscobalteata và Lepidotrigona ventralis.
- Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học của ong chúa của loài Tetragonula

fuscobalteata và Lepidotrigona ventralis.

2


PHẦN II: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
ONG V NGO I NƢỚC
2.1. Tình hình nghiên cứu ng i nƣớc
2.1.1. Phân lo i và phân b

ng h ng ng i đ t

Có rất nhiều bằng chứng khảo cổ chứng minh rằng trong suốt quá trình lịch
sử, con ngƣời đã biết vào rừng săn ong lấy mật từ 4500 năm trƣớc, con ngƣời đã
lợi dụng những đặc điểm sinh học để thuần hóa và bắt đầu ni ong sơ khai từ
những vật dụng thô sơ đến hiện đại nhƣ ngày nay. Những tổ ong mà ngƣời ta bắt
để lấy mật thuộc giống ong Apis hoặc những lồi ong khơng có ngịi đốt (Crane,
1990)
Nhìn chung có khoảng 20.000 lồi ong trên trái đất của chúng ta. Chúng khác
nhau về kích thƣớc, hình thái và cách chúng sống. Tuy nhiên, tất cả chúng đều
có chung đặc điểm là đến thăm các bông hoa để kiếm thức ăn: mật hoa (hoặc
dầu) cho nhu cầu năng lƣợng phấn hoa cung cấp protein. Phần lớn các loài ong
sống một cách đơn độc, trong khi các loài khác thể hiện các mức độ tổ chức xã
hội khác nhau: chúng sống theo bầy đàn. Trong các loài ong xã hội, ong
Meliponini hay cịn gọi là ong khơng ngịi đốt, tạo thành một nhóm quan trọng,
phong phú về lồi và tính biến đổi thể hiện tính xã hội của chúng (Venthuis &
Hayo, 1997)
Ong khơng ngịi đốt là một trong những loài ong lâu đời nhất đƣợc biết đến.
Trong sự tiến hóa của thực vật có hoa, thực vật hạt kín, bắt đầu cách đây khoảng
135 triệu năm trong kỳ Phấn trắng, ngƣời ta đã tìm thấy hóa thạch của lồi ong

có niên đại khoảng 70 triệu năm. Những con ong này đƣợc bảo quản c n thận
trong khổ phách (bản thân nó là hóa thạch của nhựa thực vật), và đƣợc biết đến
từ Baltic, Cộng hịa Dominica và Mexico. Hóa thạch lâu đời nhất đƣợc tìm thấy
ở New Jersey, Hoa Kỳ, trong hổ phách của kỷ phấn trắng khoảng 96-74 triệu
năm, và đây là ong thợ của lồi ong khơng ngòi đốt Trigona prica, rất giống với

3


Trigona hiện đại. Rõ ràng hành vi của những con ong cổ xƣa nhƣ chính những
con ong vậy (Venthuis & Hayo, 1997)
Ong khơng ngịi đốt (Hymenoptera, Apidae, Meliponini) cho đến nay là nhóm
ong lớn nhất trên trái đất về số lƣợng lồi với hơn 500 lồi đƣợc mơ tả, chúng
vƣợt trội so với ong mật có ngịi đốt với hệ số 50 (Apidae, Apini: 11 lồi) và
thậm chí chiếm gấp đơi số lƣợng lồi ong vị vẽ đã biết (Apidae, Bombini: chỉ
có 250 lồi). Ngày nay, phần lớn các lồi ong khơng ngịi đốt Neotropics, nơi
chúng đại diện cho sự đa dạng phân loại lớn (hơn 400 loài trong 32 chi hiện có)
và một loạt các lịch sử cuộc sống đa dạng (Hrncir & cs., 2016). Các lồi ong
khơng ngịi đốt đƣợc phân loại thành 2 chi chính là Trigona – nhóm lớn nhất và
Melipona. Hầu hết các lồi ong khơng ngịi đốt ở châu Á và châu Phi đều thuộc
chi Trigona (Michener, 2013). Crane đã liệt kê 14 loài của chi Melipona và 21
loài của Trigona đã đƣợc sử dụng trong nghề ni ong truyền thống. Các lồi
ong của Melipona đƣợc giới hạn ở Trung và Nam M , và có ý nghĩa lịch sử vì
nền văn hóa lâu đời của họ về sản ph m mật và sáp ong. Các lồi ong thuộc chi
Trigona đƣợc tìm thấy ở tất cả các khu vực lục địa nhiệt đới, và nghề nuôi ong
truyền thống với chúng đã xuất hiện ở Châu M , đôi khi ở Châu Á (Aman & cs.,
2000).
Sự đa dạng của ong khơng ngịi đốt khác nhau khi ở trong các hệ sinh thái
khác nhau. Sự đa dạng lớn nhất thƣờng đƣợc tìm thấy ở rừng tự nhiên và giảm
dần ở các rừng thứ sinh, rừng sản xuất và khu dân cƣ (Boontop & cs., 2008).

Nhìn chung, ở những vùng có hệ sinh thái đất trũng thì có sự đa dạng ong khơng
ngịi đốt cao hơn hệ sinh thái cao ngun (Sakagami & Inoue, 1989).
Ong khơng ngịi đốt là một nhóm đơn ngành chủ yếu đƣợc tìm thấy ở các khu
vực nhiệt đới và cận nhiệt đới của châu M , châu Phi, châu Úc và các vùng của
châu Á (Roubik, 1989).

4


2.1.2. Một s đặc điểm sinh học củ

ng h ng ng i đ t

Phần lớn các lồi ong khơng ngịi đốt có tổ đƣợc làm ở những hốc cây có sẵn,
nhƣ thân cây rỗng hoặc những khoảng trống trong đất nhƣ hang bị bỏ hoang,
ngay cả trong tổ trên cây của một số loài mối. Những loài khác nhau xây tổ theo
cách riêng của chúng, trên cây, trong thân cây hay ngay cả trên những cành cây
khỏe, vết nứt trên đá, các tịa nhà…Mỗi lồi xây dựng một lối vào tổ bằng sáp,
bên ngoài thƣờng đƣợc xây với cấu trúc đặc biệt, trong đó có nhiều vật liệu khác
nhau. Lối vào tổ thƣờng đƣợc xây dựng theo kiến trúc đặc trƣng, cho phép nhận
diện đƣợc các loài. Bên trong tổ, các vật liệu dùng để xây tổ cũng khác nhau.
Lớp vỏ, một liệu cứng thƣờng đƣợc bao quanh tổ, giúp bảo vệ tổ khỏi kẻ thù và
có thể dùng để ngăn nƣớc, đƣợc làm bằng nhựa cây, có thể so sánh với keo ong
của ong mật. Các phần khác bên trong tổ, nhƣ lớp màng trong tổ (bảo vệ khu
vực lỗ tổ), các lỗ tổ chứa mật bên ngoài lớp màng, và các lỗ tổ, một phần đƣợc
cấu thành từ sáp, với số lƣợng khác nhau từ vật liệu khác nhau, chẳng hạn nhƣ
cát, bùn, lông, tàn dƣ thực vật. Các vật liệu này đƣợc gọi là keo ong (Venthuis &
Hayo, 1997)
Các lỗ tổ hầu hết đƣợc sắp xếp thành các lớp ngang tạo thành bánh tầng,
nhƣng ở một số loài lỗ tổ xếp thành từng cụm. Các cụm đƣợc coi là trạng thái

nguyên thủy hơn, mặc dù một số nhóm ong khơng ngịi đốt xây tổ thành từng
cụm nhƣ một sự thích nghi với các hốc hẹp và có tình trạng bất thƣờng. Kích
thƣớc đàn rất khác nhau; nhiều lồi Melipona có các đàn chứa từ 100 đến 500 cá
thể, trong khi các đàn của Trigona có thể chứa hơn 10.000 qn. Một số lồi
thƣờng có hai hay nhiều ong chúa đẻ, chia sẻ việc đẻ trứng (Venthuis & Hayo,
1997)
Giữa ong mật và ong khơng ngịi đốt, bao gồm 3 cấp ong: ong chúa, ong
đực và ong thợ, thành viên của mỗi một cấp trong 3 cấp ong khác nhau về
nhiều khía cạnh, bao gồm số lƣợng quân trong đàn ong, vai trò của chúng, và
vòng đời của chúng. Chỉ có một ong chúa có khả năng giao phối trong đàn
5


ong nhƣng ở những đàn ong khơng ngịi đốt, ong chúa tơ mới đƣợc tạo ra
thƣờng xuyên, hoặc gần nhƣ vậy, và các ong chúa tơ mới này thƣờng tồn tại
cùng ong chúa cũ. (Tim Heard, 2016)
2 1 2 1 Đặc điểm sinh học ong thợ
Ong thợ là những con ong cái ở trong đàn ngoài ong chúa, và phát triển từ ấu
trùng nở ra từ trứng đã đƣợc thụ tinh. Ấu trùng ban đầu đƣợc cho ăn với sữa ong
chúa trong một vài ngày cho đến khi chuyển sang giai đoạn nhộng khi các lỗ tổ
đã đƣợc vít nắp. Sau khi nở chúng sẽ trở thành những ong thợ và thực hiện hầu
hết các hoạt động trong tổ nhƣ kiếm ăn, dọn dẹp tổ, bảo vệ tổ và nuôi ấu trùng
(Kwapong & cs., 2010)
Ong khơng ngịi đốt, cùng với ong mật, đạt đến mức độ tiến hóa xã hội cao
nhất trong liên họ Apoidea, hoặc lồi ong nói chung. Chúng sống thành từng
đàn và sinh sôi nảy nở. Trong các lồi ong có liên quan, với mức độ tiến hóa xã
hội thấp hơn, một đàn đƣợc tạo nên bởi một ong chúa. Điều đó có ý nghĩa rằng,
ở ong vò vẽ ong chúa nên đƣợc trang bị để thực hiện tất cả các nhiệm vụ của
ong thợ. Ở ong mật và ong khơng ngịi đốt, ong chúa đa dạng hơn về hình thái
và chun mơn hóa hơn trong nhiệm vụ của ong thợ. Ong khơng ngịi đốt là

một trong những loài ong lâu đời nhất đƣợc biết đến. Điều đáng quan tâm là sự
phân công công việc của ong khơng ngịi đốt gần tƣơng tự ong mật: các con
ong bắt đầu làm việc với sáp và vỏ tổ, rời khỏi tổ cũ, sau đó một phần chúng
chuyển sang xây dựng và cung cấp thức ăn cho các lỗ tổ, trong thời kì đó,
trứng có thể đƣợc đẻ. Từ việc chăm sóc cho ong chúa, chúng đi kiếm ăn: đầu
tiên chúng kiếm mật hoa và khử nƣớc trƣớc khi chúng trở thành những con ong
thợ kiếm ăn thực thụ (Venthuis & Hayo, 1997)
Tetragonula fuscobalteata có chiều dài cơ thể từ 3,47-3,54 mm, làm cho nó
trở thành một trong những lồi ong có kích thƣớc nhỏ nhất trong nhóm ong của
nó (Sakagami, 1978) màu sắc cơ thể từ hơi đen đến nâu, mảnh lƣng với 6 dải
lông kẻ theo chiều dọc, mỗi dải cách nhau bởi 5 vùng khơng có lơng (Nelky
6


Suriawanto & cs., 2017). Lồi ong khơng ngịi đốt lớn nhất là Melipona
flavipennis, với ong thợ lớn hơn cả ong mật. Tuy nhiên, hầu hết các lồi ong
khơng ngịi đốt đều nhỏ hơn nhiều, lồi nhỏ nhất chỉ có chiều dài khoảng vài
milimet. Hình thái của các lồi ong cũng khác nhau, ong Melipona có hình dáng
khỏe khoắn giống với Apis, trong khi nhiều loài thuộc Trigonini, chẳng hạn nhƣ
Tetragonisca angustula là những con ong mảnh khảnh, nhanh nhẹn. Ong thợ
của các lồi ong có các đặc điểm hình thái khác nhau. Ngƣợc lại với ong mật,
nơi ong chúa sử dụng pheromone và điều khiển hành vi đối với việc sinh sản của
ong thợ, ở hầu hết các loài ong khơng ngịi đốt ong thợ đẻ trứng dinh dƣỡng
phục vụ nhƣ một thành phần trong chế độ ăn của ong chúa. Gần đây, một số bài
báo đã tập trung vào sự đóng góp của của ong thợ trong việc tạo ra ong đực bằng
cách đẻ trứng ong thợ (Sommeijer & cs., 2003b)
Số lƣợng ong trƣởng thành trong một đàn ong Tetragonula fuscobalteata
trung bình khoảng 1631,2 con (khoảng 1503-1710 con ong). Ở trong cùng một
đàn, số lƣợng ong đực trƣởng thành trung bình khoảng 200,2 con (khoảng 189220 con ong). Tỉ lệ giữa lỗ tổ ong thợ và ong đực là 8:1 (Boongird, 2011)
Việc sản sinh ra một cá thể mới bắt đầu bằng việc xây dựng lỗ tổ. Các lỗ tổ

mới đƣợc thêm vào rìa của tầng bánh tổ hoặc trong trƣờng hợp có các cụm lỗ tổ,
ở phía rìa của tổ. Chúng đƣợc xây dựng bởi các ong thợ trẻ, làm việc độc lập.
Một lỗ đã hồn thành nhơ lên phía trên của tổ ong (miệng lỗ). Một vài ong thợ ở
xung quanh lỗ tổ sẵn sàng đổ sữa, điều này duy trì trong vài giờ, cho đến khi
ong chúa xuất hiện trên tổ. Khi tìm thấy lỗ trống, ong chúa bắt đầu quá trình
đƣợc gọi là “định vị và đẻ trứng”, hay POP, bằng cách chiếm lấy vị trí tại lỗ tổ,
ong chúa có thể tạo ra một loại pheromone để thu hút ong thợ. Chúng vây quanh
ong chúa và lỗ tổ, thỉnh thoảng lại đƣa đầu của chúng vào trong lỗ tổ. Khi ong
chúa kích thích ong thợ đổ sữa từ diều của mình vào trong lỗ tổ. Khi có một ong
thợ làm nhƣ vậy những con ong thợ khác cũng sẽ làm theo. Ong thợ đã đổ sữa
nhanh chóng di chuyển đến lỗ tổ khác, nơi chúng xin thức ăn từ những con ong
7


thợ khác, thƣờng thì chúng sẽ quay lại đúng lúc để tham gia vào một POP tƣơng
tự với lần cung cấp thứ hai (Venthuis & Hayo, 1997). Sau khi tích lũy đủ thức
ăn trong lỗ tổ, ong thợ có thể đẻ trứng vào trong lỗ tổ, những quả trứng này luôn
luôn bị ăn bởi ong chúa. Ong chúa cũng lấy thức ăn từ quá trình cung cấp thức
ăn cho lỗ tổ, trƣớc khi chính nó đẻ một quả trứng lên trên thức ăn. Sau đó, ong
chúa rời khỏi nơi vừa đẻ trứng, và một ong thợ chiếm lấy vị trí ở trên đỉnh lỗ tổ
để vít nắp của lỗ tổ bằng cách xoay vòng, cho đến khi tạo thành một cái nắp kín
lỗ tổ. Ong khơng ngịi đốt có tổ chức xã hội cao, hầu hết ở tất cả các lồi ong,
trong đàn có rất nhiều ong thợ và chỉ duy trì một ong chúa chuyên đẻ trứng.
Điều này cấu thành các cấp bậc trong đàn ong (Michener, 1974). Vì sự phát triển
từ trứng cho đến trƣởng thành diễn ra trong lỗ tổ vít nắp, quyết định đƣợc đƣa ra
trong POP ảnh hƣởng tới giới tính, cấp ong của cá thể mới (Sakagami, 1982 &
Zucchi, 1993)
Theo nghiên cứu của Sakagami & Zucchi (1974), Thời gian xây dựng một lỗ
tổ của lồi Hypotrigona (Leurotrigona) muelleri trung bình 49,3 phút. Việc xây
dựng tƣơng đối nhanh chóng khơng chỉ xây lỗ tổ mà các hũ lƣu trữ mật, phấn

cũng đƣợc xây dựng nhanh chóng (Sakagami and Zucchi, 1974).
Những con ong khơng ngịi đốt có một cách đặc biệt để sinh ra đàn con của
chúng. Hệ thống này bao gồm một chuỗi quá trình xây lỗ tổ, cung cấp thức ăn,
đẻ trứng và vít nắp, tƣơng tự có thể thấy ở những lồi cơn trùng xã hội khác.
Tuy nhiên, ở ong khơng ngịi đốt, quá trình này đƣợc đặc trƣng bởi sự tƣơng tác
xã hội cao của các thành viên trong đàn. Trong lỗ tổ, trứng phát triển thành ấu
trùng, sau khi đã ăn hết thức ăn, chúng sẽ hóa nhộng. Q trình này đƣợc gọi là
quá trình cung cấp hàng loạt, khác với việc cung cấp dần dần nhƣ ong mật và
ong vò vẽ, khi những lỗ tổ luôn mở và ong thợ thƣờng xun bổ sung thức ăn. Ở
ong khơng ngịi đốt khơng có bất kì mối liên hệ hay tiếp xúc nào giữa quần thể
ong trƣởng thành với ấu trùng đang phát triển (Venthuis & Hayo, 1997)

8


Những con ong khơng ngịi đốt khơng ngừng ni dƣỡng những con non của
chúng. Một lỗ tổ đƣợc đổ thức ăn bởi các chất tiết ra từ miệng của các con ong
thợ khoảng 2/3 dung lƣợng lỗ tổ, đủ để ni ấu trùng trong q trình phát triển
thành nhộng. Thức ăn này là một hỗn hợp bán lỏng của phấn hoa, mật ong và
các chất của tuyến nƣớc bọt. Chất dinh dƣỡng do tuyến nƣớc bọt tiết ra đƣợc gọi
là sữa ong tƣơng đƣơng với sữa ong chúa của ong mật, nhƣng ở tất cả các loài
ong, bao gồm ong thợ và ong đực đều nhận thức ăn này (Tim Heard, 2016)
Trong khi tất cả các lồi ong khơng ngịi đốt đƣợc đặc trƣng bởi cùng một
chuỗi POP, có một sự khác biệt lớn về hầu hết các khía cạnh nếu ta so sánh các
lồi. Đó là nhờ nhà nghiên cứu S. F. Sakagami, ngƣời đã nghiên cứu về ong
không ngòi đốt, đặc biệt là ở Brazil, mà chúng ta có thể tiếp cận với nhũng mơ tả
kì diệu cho nhiều chi. Tùy thuộc vào loài mà sự thay đổi liên quan đến:
◦ Số lƣợng lỗ tổ đƣợc xây tại một thời điểm nhất định, ở một số loài lỗ tổ xây
theo cấu trúc từng cái một, ở loài khác, nhiều lỗ tổ đƣợc xây đồng bộ; trong
trƣờng hợp đó, POP của các o riêng lẻ trở thành quá trình liên quan đến tất cả

các ô.
◦ Số lƣơng thức ăn cung cấp cho một lỗ tổ có thể khác nhau từ 3-16, phụ
thc vào lồi.
◦ Số lƣơng lỗ tổ đƣợc xây mỗi ngày khác nhau tùy thuộc vào kích thƣớc đàn
từ 10 ở những đàn Melipona và hàng trăm ở lồi Trigona.
◦ Trứng của ong thợ có 2 loại: Trứng không đƣợc thụ tinh phục vụ nhƣ thức
ăn, và trứng đƣợc thụ tinh đẻ ra bởi ong thợ, đƣợc đẻ trong lỗ tổ và chứa cả
trứng của ong chúa. Những quả trứng này đƣợc đẻ ra bởi ong thợ tạo ra nhũng
con ong đực. Sự khác nhau giữa trứng dinh dƣỡng và trứng có khả năng nở là
khơng chỉ ở thời gian mà chúng đƣợc đẻ, mà còn về cấu trúc. Trứng dinh dƣỡng
khơng thể duy trì vị trí thẳng đứng ở trên đỉnh của thức ăn, bởi vì chúng thiếu
một cấu trúc thích nghi đặc biệt ở bề mặt ngoài cùng của quả trứng.

9


◦ Ở một số loài trứng dinh dƣỡng đƣợc đẻ lên trên lỗ tổ, một số loài khác
trứng đƣợc đẻ ở miệng lỗ tổ. Cịn có một số lồi ong thợ khơng đẻ bất kỳ quả
trứng nào, thậm chí ngay cả trong điều kiện khơng có chúa.
Số lƣợng ong thợ trong đàn ong khơng ngịi đốt dao động từ và trăm đến vài
nghìn tùy thuộc vào lồi và các yếu tổ khác. Will & Michener đã trình bày một
danh sách về số lƣợng cá thể: Từ Trigona corvia 7200 cho đến T. buyssoni 136,
bao gồm các lồi Meliponi đƣợc ni chính. T. schrottkyii 300, T. mosquito
1175, T. mirandula 2281-4076, T. cupira 2900, T. clavipes 5000-8000, M.
marginata 243, M. fasciata 200. Màu sắc ong thợ có màu đen, nâu, đỏ vàng, tùy
thuộc vào loài. Một đàn ong T. carbonaria trƣởng thành bao gồm khoảng
10.000 cá thể (Amano & cs., 2000)
Việc nuôi dƣỡng ong tạo ra một lƣợng rác thải từ kén và phân thải ra của ấu
trùng. Trong khi các con ong mật trƣởng thành rời tổ để bài tiết thì ong khơng
ngịi đốt lại bài tiết ngay ở trong tổ. Tất cả rác thải này von tròn lại và vận

chuyển ra ngồi tổ dƣới dạng viên. Có thể thƣờng xun quan sát thấy các ong
thợ mang rác ra khỏi tổ của chúng. Những con ong thợ chuyên làm công việc
dọn rác ra khỏi tổ có tần suất hoạt động cao, mang theo một viên rác màu cam
hoặc nâu kẹp ở hàm dƣới để mang ra ngoài tổ (Tim Heard, 2016)
Nhân tố ảnh hƣởng tới hoạt động bay của loài Trigona carbonaria là yếu tố
khí hậu. Đàn ong là hoạt động cả năm nhƣng tần suất hoạt động cao hơn hàng
ngày ở những tháng có nhiệt độ ấm hơn. Nhiệt độ và bức xạ là hai yếu tố ảnh
hƣởng nhất tới hoạt động bay của ong. Hoạt động bay chỉ diễn ra với nhiệt độ
lớn hơn 18

và bức xạ lớn hơn 15Wm-2. Độ m, áp suất, lƣợng mƣa che phủ và

tốc độ gió ảnh hƣởng khơng đáng kể (Heard & cs., 1993).
Ong khơng ngịi đốt có mối liên hệ với các khu rừng nhiệt đới và cận nhiệt
đới. Ở đây việc xác định phƣơng hƣớng bằng ánh sáng của mặt trời, giống nhƣ
ong mật hay sử dụng, không dễ dàng trong một môi trƣờng sống mở. Những con

10


ong khơng ngịi đốt sử dụng những cách khác nhau để truyền đạt thông tin cho
nhau về con đƣờng đến nguồn thức ăn. Có 3 cách chính, tùy thuộc vào các loài
khác nhau. Phƣơng pháp thứ nhất là ong trinh sát quay trở lại đàn và tạo ra một
âm thanh đặc biệt trong tổ khiến những con ong khác bay ra ngồi và tìm kiếm
những bơng hoa một cách ngẫu nhiên. Một phƣơng pháp khác là ong trinh sát sẽ
đánh dấu lên các hòn đá hay cây cối trên đƣờng đến nguồn hoa bằng một mùi
hƣơng đặc biệt. Bên trong đàn, nó tạo ra âm thanh và một điệu nhảy ngoằn ngèo.
Khi rời tổ một lần nữa, ong trinh sát dẫn theo một nhóm ong thợ đến nguồn thức
ăn bằng cách lần theo vết đã đánh dấu. Phƣơng pháp thứ ba giống nhƣ phƣơng
pháp thứ hai nhƣng thay vì lần theo các vết đã đánh dấu, ong trinh sát sẽ chỉ dẫn

một nhóm ong thợ bằng một pheromone tỏa ra trong lần bay trở lại của nó đến
các bơng hoa (Nicola Bradbear, 2009)
2 1 2 2 Đặc điểm sinh học ng đực
Giống nhƣ ong mật, ong đực có nguồn gốc từ trứng chƣa đƣợc thụ tinh.
Chúng có thể đƣợc đẻ bởi ong chúa nhƣng cũng có thể bởi ong thợ. Trong
trƣờng hợp thứ hai, ong thợ đẻ trứng vào một lỗ tổ mà lỗ tổ đó ong chúa đã đẻ
trứng vào. Từ lúc trứng ong đực phát triển thành ấu trùng nhanh hơn sự phát
triển của ấu trùng ong thợ từ trứng của ong chúa, ấu trùng ong đực đƣợc đẻ ở vị
trí có thể đâm thủng trứng của ong chúa trƣớc khi nó nở. Bằng cách này, ấu
trùng đực có thể chiếm lấy phần thức ăn trong lỗ tổ. Các con đực vẫn ở trong
đàn bố mẹ cho đến khi chúng đạt khoảng 10-15 ngày tuổi. Ong đực không có
nhiệm vụ đặc biệt ở trong tổ. Bên ngồi, chúng tập hợp trƣớc một đàn ong khác,
chúng thụ tinh cho các ong chúa tơ - những con ong thay thế ong chúa mẹ trong
tổ. Rõ ràng, những đàn ong đó phát ra mùi thu hút những con đực từ xa. Các con
ong đực không bao giờ quay trở lại đàn mẹ của chúng sau khi rời khỏi đó, mỗi
buổi tối phân tán để kiếm ăn và trở lại vào buổi sáng ở tổ của chúng để tụ họp lại
(Venthuis & Hayo, 1997). Ở các đàn ong Melipona favosa đang phát triển mạnh,
việc tạo ra ong đực chủ yếu dựa vào việc các ong thợ đẻ trứng (Sommeijer &
11


cs., 1999, 2003b, Chinh & cs., 2003). Ở các loài khác, một số lƣợng đáng kể con
đực là con của ong chúa (Paxton & cs., 2001). Ong đực đƣợc tạo ra thƣờng
xuyên trong năm. Ở M. favosa các con ong đực đƣợc tạo ra ở cấp độ đàn theo
từng đọt riêng biệt (Sommeijer & cs., 2003b, Chinh & cs., 2003). Những thời kì
tạo ra ong đực này có thể kéo dài tới vài tuần và xen kẽ với khoảng thời gian
nghỉ. Trong các quan sát về hành vi của ong đực Melipona favosa, ngƣời ta thấy
rằng chúng rời tổ ở độ tuổi trung bình là 18,6 ngày (Van Veen & cs., 1997) và
khơng quay trở lại. Bởi vì chúng độc lập với tổ, chúng có thể phân tán và phát
tán gen của chúng ở một khoảng cách rất xa. Các cơ hội sinh sản với các cá thể

ong đực bị hạn chế bởi thực tế ong chúa của Melipona giao phối với chỉ một ong
đực (các ong chúa của Apis giao phối với 10-20 ong đực).
Hoạt động giao phối ở lồi T. fuscobalteata đã đƣợc mơ tả bởi Boongird và
Michener (2010). Họ thấy rằng những con đực khi bay thƣờng mang theo phấn
hoa và keo ong ở đốt chày sau. Michener (1961) đã báo cáo rằng những con đực
khi bay của lồi T. carbonaria (Smith) có một lƣợng nhỏ sáp ong và keo ong
đƣợc dính vào bên ngồi của đốt chày sau. Ông cũng chỉ ra rằng những con ong
chúa tơ của loài T. wybenica Friese đến từ tổ cũ sẽ không giao phối. Đối với T.
fuscobalteata, những con đực từ các đàn gần đó sẽ khơng đƣợc phép bay vào
trong tổ bởi những con ong lính mà phải tụ tập ở trƣớc lối vào của tổ, thƣờng
mang một lƣợng nhỏ phấn hoa hoặc keo ong ở đốt chày sau. Những con ong đực
mới nở hoặc là ở trong tổ của chúng hoặc là bay ra ngoài chờ cho ong chúa tơ
của đàn khác, sau đó vào buổi tối chúng quay trở lại tổ của chúng. Những con
ong chúa tơ của loài T. fuscobalteata giao phối với ong đực sau khi chúng đến
nơi ở mới. Trong trƣờng hợp một đàn ong nhân tạo, những con ong đực mới nở
sẽ trƣởng thành để giao phối khoảng 5-10 ngày sau nở và một ong chúa trƣởng
thành giao phối sau 3-5 ngày. Vì vậy, con đực 44-50 ngày tuổi (39-40 ngày cho
sự phát triển từ trứng cho đến lúc trƣởng thành + 5-10 ngày để thành thục về
giới tính) sẽ giao phối với ong chúa 39-42 ngày tuổi (36-37 ngày cho thời gian
12


phát triển từ trứng đến trƣởng thành + 3-5 ngày cho sự phát triển cơ quan sinh
sản) (Boongird, 2010)
Tính đến xác suất mà một ong đực sẽ giao phối, giao phối sẽ không xuất hiện
trong qu thời gian hoạt động của ong đực. Trên thực tế, việc giao phối hiếm khi
đƣợc nhìn thấy. Ong đực ở trong đàn cho đến khi đƣợc khoảng 2-3 tuần tuổi
(Van Veen & cs., 1997). Trong thời gian đó, chúng đƣợc báo cáo rằng đã tham
gia vào các hoạt động xây dựng, sinh nhiệt, khử nƣớc mật hoa (ImperatrizFonseca, 1973), ấp trứng và bảo vệ tổ (Kerr, 1990). Theo Nogueira-Neto (1997),
một số hoạt động này (xây dựng, bảo vệ tổ) chỉ là ngẫu nhiên, mặc dù con đực

đã đƣợc quan sát tiết ra sáp. Van Veen & cs. (1997) đã nhận thấy rằng những
con đƣc của M. beechei dành hơn 90% thời gian để đi, đứng, tự chải chuốt và
cựa quậy. Một khi những con đực đã rời khỏi đàn, sau đó thì khơng có nhiều
thông tin về chúng, chúng không quay trở lại bên trong đàn, vì vậy ngƣời ta cho
rằng chúng sống nhƣ một con ong đơn độc. Tuổi của chúng vẫn chƣa biết rõ,
nhƣng dựa trên khả năng sống sót trong điều kiện phịng thí nghiệm, chúng có
thể đạt độ tuổi từ 4-6 tuần (Velthuis & cs., 2005)

Hình 2 1 ỗ tổ ng thợ (worker cell) v lỗ tổ ng đực (male cell) củ l i T.
fuscobalteata (Boongird, 2010)
Theo nghiên cứu của Boongird (2010), chiều cao trung bình của lỗ tổ ong đực
của loài T. fuscobalteata là 4,48 mm (dao động từ 4,45-4,50 mm). Chiều rộng
13


trung bình là 3,14 mm (dao động từ 3,10-3,15 mm) và đƣờng kính của lỗ tổ ong
đực là 1,8-1,85 mm. Đối với lỗ tổ ong thợ, chiều cao trung bình là 4,37 mm (dao
động từ 4,32-4,41 mm) và chiều rộng trung bình là 3,23 mm (2,8-3,58 mm).
Đƣờng kính lỗ tổ ong thợ là 1,90-1,95 mm. Nhìn chung, tất cả các vách của lỗ tổ
ong thợ đối xứng, lồi lõm giống nhau, không giống lỗ tổ ong đực – không đối
xứng, một bên cong hơn bên cịn lại. Có hai lồi hình dạng khác nhau của lỗ tổ
ong đực đƣợc tìm thấy, một là có hình oval với cổ ngắn và miệng rộng, một hình
dạng khác khơng đối xứng khơng có cổ ngắn. Cả 2 lỗ tổ mở có đƣờng kính bằng
nhau và thƣờng nhỏ hơn lỗ tổ của ong thợ. Đây cũng có thể là một trong những
lí do tại sao bụng ong chúa khi đƣa vào trong lỗ tổ ong đực ít sâu hơn so với lỗ
tổ ong thợ. Do đó, mức thức ăn ở trong lỗ tổ ong đực cao hơn ở lỗ tổ ong thợ.
Thức ăn thƣờng đƣợc nạp vào trong lỗ tổ ong đực khoảng 7-8 lần (hầu hết ở các
lần, chúng thƣờng quan sát đƣợc là 7). Trong điều kiện thức ăn dồi dào, những
con ong y tá sẽ nạp thức ăn 8 lần (hiếm gặp, nhƣng có thể quan sát đƣợc). Có 2
loại lỗ tổ đƣợc phân loại là lỗ tổ ong chúa, đầu tiên là một lỗ tổ không theo quy

luật chiếm khoảng 2/3 để cho ong chúa thay thế tồn tại trong đó. Các phép đo có
chiều rộng 4-5 mm, chiều dài là 5 mm với một quả trứng đƣợc để ở trên phần
chóp của thức ăn. Loại thứ 2 thì nhỏ hơn, kích thƣớc rộng 3-3,5 mm và dài 3,54,5 mm. Nó thƣờng chứa một quả trứng đƣợc đẻ bởi ong chúa cùng với thức ăn
đƣợc nạp vào ngày khi đẻ trứng. Đối với quá trình cung cấp thức ăn co lỗ tổ ong
đực hay ong thợ, ong chúa mẹ sẽ chờ ở một lỗ tổ trống trong khi các con ong y
tá sẽ nạp thức ăn vào trong đó (Boongird, 2010).
2 1 2 3 Đặc điểm sinh học ong chúa
Các lồi ong của chi Melipona khác với lồi ong khơng ngòi đốt đặc biệt ở hệ
thống sản xuất ong chúa của chúng: ong chúa Melipona đƣợc nuôi trong lỗ tổ
ong chúa tiêu chu n và đƣợc sản xuất liên tục với sô lƣợng lớn. Ở Melipona
favosa, 5,1% trong tổng số ong cái là ong chúa tơ và ở M. triniatis tỷ lệ này là
4,8% (Sommeijer & cs., 2003b). Khơng có sự thay đổi đáng kể theo mùa trong
14


quá trình sản xuất ong chúa tơ và điều này dẫn đến sự xuất hiện hàng ngày của
chúng. Cho đến nay, tất cả các công bố về sản xuất ong chúa tơ và hành vi của
chúng ở Melipona đều khẳng định rằng tất cả ong chúa tơ không hoạt động sẽ bị
ong thợ giết trong vài ngày.
Ong chúa là mẹ của tất cả các thành viên trong đàn và điều khiển mọi hoạt
động hàng ngày trong tổ. Điều này đƣợc thực hiện bằng cách giải phóng các
chất hóa học đƣợc gọi là pheromone. Bằng cách giải phóng các pheromone khác
nhau từ cơ thể của mình, những thành viên trong đàn sẽ hiểu và hành động theo
đó. Một ví dụ là một pheromone ngăn chặn khả năng đẻ trứng của tất cả ong thợ
trong đàn (Kwapong & cs., 2010)
Không giống nhƣ việc tạo một lỗ tổ ong chúa nhƣ ở ong mật, ở lồi ong
khơng ngịi đốt T. fuscobalteata tần suất ong thợ xây dựng một lỗ chúa bị ảnh
hƣởng bởi quần thể trong tổ. Sau khi tạo ra các lỗ tổ ong thợ và ong đực đạt đến
một lƣợng nhất định, ong thợ sẽ xây các lỗ tổ ong chúa. Trong nghiên cứu của
Boogird, khi quần thể tổ ong đạt đến 1500 cá thể ở ngày thứ 15. Các con ong thợ

thỉnh thoảng sẽ xây dựng một lỗ tổ ong chúa. Một lỗ tổ ong chúa mới đƣợc quan
sát thấy vào các ngày 15, 19, 20, 29, 41, 72. Ngoài ra khi điều kiện thời tiết
thuận lợi, lỗ tổ ong thợ đƣợc xây nhiều hơn so với lỗ tổ ong đực (Boongird,
2011).
Có 2 loại lỗ tổ đƣợc phân loại là lỗ tổ ong chúa. Đầu tiên là lỗ tổ bất thƣờng
chứa khoảng 2/3 thức ăn dành cho ong chúa thay thế. Các kích thƣớc của nó
rộng 4-5 mm và dài 5mm với một quả trứng đƣợc đẻ lên trên thức ăn. Loại lỗ
thứ 2 thì nhỏ hơn, kích thƣớc rộng 3-3,5 mm và dài 3,5-4,5mm. Nó thƣờng
chứa một quả trứng do ong chúa đẻ cùng với thức ăn đƣợc nạp vào bởi các con
ong thợ. Thời gian ong chúa đẻ một quả trứng ong đực là 1,73 giây (khoảng
1,65-2 giây). Lỗ tổ ngay lập tức đƣợc vít nắp bơi những con ong thợ. Thời gian
vít nắp các lỗ tổ ong đực sẽ ngắn hơn so với lỗ tổ ong thợ. Trong trƣờng hợp

15


thiếu thức ăn, ong thợ sẽ chui đầu vào thƣờng xuyên hơn và ít sâu hơn để đánh
lừa ong chúa (Boongird, 2011)
Ong chúa có thể đƣợc ni bằng nhiêu cách khác nhau. Hầu hết các chi của
nhóm Meliponini đơi khi tạo ra một lỗ tổ lớn hơn, chứa nhiều thức ăn hơn các lỗ
tổ thông thƣờng. Yếu tố định lƣợng này điều chỉnh sự biệt hóa của ấu trùng
trong lỗ tổ: nó sẽ trở thành ong chúa. Các lỗ tổ nhỏ hơn và các lỗ tổ thông
thƣờng chứa ong thợ và ong đực. Do đó, giống nhƣ ong mật, ong chúa của các
chi này chỉ đƣợc tạo ra từ các lỗ tổ đặc biệt. Các cơ chế khác nhau đƣợc nhìn
thấy ở các chi cịn lại. Ví dụ, ở Frieseomelitta, kén ong chúa lớn xuất hiện,
nhƣng là kết quả của việc ấu trùng đục thủng thành của lỗ tổ bên cạnh. Những
ấu trùng này sẽ lấy đƣợc phần thức ăn của lỗ tổ đó, cho phép sự biến đổi của
chúng thành một con chúa (Terada, 1974; Faustino & cs., 2002). Tất cả các lỗ
ong chúa trong chi Melipona đều có kích thƣớc gần giống nhau. Trong chi này,
sự khác biệt về số lƣợng và chất lƣợng của thức ăn góp phần vào sự khác nhau

sâu sắc giữa ong thợ và ong chúa.
Ong khơng ngịi đốt tạo ra bầy đàn, nhƣng q trình sinh sơi nảy nở rất khác
với ong mật. Bên trong đàn các con ong chúa tơ đƣợc tạo ra thƣờng xuyên và
hầu hết không đƣợc sử dụng. Thay vào đó sớm hay muộn chúng cũng sẽ bị
giết, nhƣng trong một số trƣờng hợp chúng có thể đƣợc giữ lại ở trong tổ. Bằng
cách này đàn ong luôn tồn tại và con ong chúa tơ. Sự thay thế ong chúa mẹ
thƣờng không đƣợc thay thế bởi các con của nó vì ong chúa ở Melipona sống
rất lâu, việc thay thế xảy ra ít nhất 1 lần/năm, và ở một số lồi ong chúa có thể
sống từ 3-7 năm, nhƣng rất hiếm gặp. Cho đến nay vẫn chƣa có thơng tin chắc
chắn về phạm vi bay của ong chúa tơ trong suốt các chuyến bay, nhƣng các
nhà khoa học cho rằng phạm vi đó là hạn chế (Sommeijer & cs., 2003). Chia
đàn hiếm gặp ở hầu hết các loài, điều này còn liên quan đến việc xác định địa
điểm làm tổ phù hợp, sau đó ong thợ bắt đầu vận chuyển vật liệu đến địa điểm
mới. Việc vân chuyển này có thể mất vài ngày đến vài tuần, và chỉ sau khi ong
16


chúa tơ đã di cƣ đến nơi làm tổ mới. Do đó, mối quan hệ giữa ong chúa mẹ và
đàn ong chúa tơ giảm dần (Venthuis & Hayo, 1997).
Khi một ong chúa tơ giao phối trong chuyến bay giao phối, nó sẽ lƣu trữ tinh
trùng trong một túi đặc biệt trong cơ thể. Sau đó, khi bắt đầu đẻ trứng, ong chúa
tơ có thể chọn thụ tinh hoặc khơng thụ tinh cho mỗi quả trứng với một vài tinh
trùng của nó. Nếu trứng đƣợc thụ tinh chúng sẽ phát triển thành ong thợ hoặc
ong chúa. Nếu không thụ tinh trứng sẽ nở ra ong đực. Ong thợ cũng có thể đẻ
trứng nhƣng chúng khơng bao giờ giao phối. Bởi vì chúng khơng có túi chứa
tinh trong cơ thể nên khơng thể thụ tinh cho trứng và bất kỳ quả trứng nào ong
thợ đẻ ra sẽ phát triển thành ong đực. Các nghiên cứu toán học về các mối quan
hệ di truyền trong tổ dự đoán rằng nếu ong chúa giao phối nhiều lần ong thợ sẽ
khơng có xu hƣớng đẻ trứng, nhƣng nếu ong chúa chỉ giao phối một lần, ong thợ
sẽ có xu hƣớng tự đẻ trứng. Ở ong mật, Apis mellifera, ong chúa giao phối nhiều

lần và nó thƣờng đẻ tất cả trứng trong tổ. Hàng trăm con ong thợ cống hiến cuộc
đời mình để kiếm ăn và chăm sóc ong chúa, hy sinh khả năng đẻ trứng của bản
thân. Ngƣợc lại một số lồi ong khơng ngịi đốt ở Nam M , ong chúa chỉ giao
phối một lần và ong thợ đẻ hầu hết các trứng ong đực vào lỗ tổ của chúng (Anne
Dollin, 2002)
Có 2 cách sinh sản ở côn trùng xã hội nhƣ sau: Một là phát triển thành đàn,
hoặc tăng số lƣợng cá thể, điều này chủ yếu phụ thuộc vào khả năng đẻ trứng
của ong chúa. Số lƣợng trứng đẻ mỗi ngày khác nhau giữa các lồi và khơng
thay đổi đáng kể theo mùa nhƣ trƣờng hợp của các loài ong mật châu Âu; Hai là
sự sinh sản của đàn ong hoặc tăng số lƣợng của đàn trƣớc đó ở ong khơng ngịi
đốt, giống nhƣ ong mật, tất cả các tổ mới là kết quả của việc chia đàn. Các đàn
mới đƣợc hình thành bằng cách sinh sản bầy đàn với ong chúa và ong thợ,
nhƣng quy trình này khac hồn tồn với ong mật. Ở ong mật, ong chúa già rời
khỏi tổ khi quá trình sinh sản xảy ra, nhƣng ở ong khơng ngịi đốt, ong chúa tơ
rời khỏi tổ, và sự kết nối giữa ong chúa tơ và ong chúa mẹ có thể kéo dài hàng
17


×