THỰC TRẠNG
TƯ DUY PHẢN BIỆN
CỦA HỌC SINH THCS
Lĩnh vực: 2 - Khoa học xã hội và hành vi
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong hơn 15 năm qua, lĩnh vực công nghệ thông tin tại Việt Nam đã
đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Công nghệ thông tin dần trở thành kinh
tế mũi nhọn của đất nước, có tỉ lệ đóng góp cho tăng trưởng GDP đất nước
ngày càng cao. Do có ưu thế vượt trội trong việc cung cấp thông tin, chúng
thường bị lạm dụng trong việc đáp ứng nhu cầu giao tiếp, tư duy, sáng tạo
của con người.
Với những thành tựu nổi bậc của giáo dục nói chung và học sinh nói
riêng. Chúng ta đã xây dựng được nhiều hình ảnh đẹp trong mắt bạn bè quốc
tế. Nhiều học sinh đã đạt được những thành tích xuất sắc cả trong nghiên cứu
lẫn trong lĩnh vực khoa học ứng dụng. Song bên cạnh đó vẫn cịn những học
sinh thiếu sang tạo, luôn phụ thuộc vào quyết định của người khác, khơng có
quan điểm, chính kiến riêng. Điều đó sẽ đưa học sinh đến những nhận thức
lệch lạc, dấn thân vào con đường của những cám dỗ, khơng có lối tư duy độc
lập để giải quyết vấn đề cá nhân dẫn đến thất bại, những bế tắc trong cuộc
sống.
Ngày nay, có một bộ phận học sinh ln chấp nhận mọi thứ một cách
vô điều kiện, từ những việc nhỏ nhặt như chọn đồ để mặc, món ăn, thậm chí
là đến việc chọn trường để thi tuyển sinh lớp 10, hay học nghề đều do cha mẹ
quyết định. Chính lối tư duy theo lối mòn ấy đã tạo ra một thế hệ cơng dân
khơng có tiếng nói, ln theo tâm lí của đám đơng. Phải chăng thực trạng này
xảy ra là do một phần sự giáo dục của cha mẹ, thầy cô, các thành kiến của xã
1
hội? Hay là do học sinh khơng có khả năng suy nghĩ đa chiều, thiếu tư duy
phản biện?
Học sinh Trung học cơ sở đang trong giai đoạn hình thành nhân cách,
hình thành các kĩ năng khác nhau để đối mặt linh hoạt trước môi trường học
tập va làm việc không ngừng thay đổi. Một trong những kĩ năng ấy là Tư duy
phản biện. Tư duy ấy có ý nghĩa rất lớn trong việc vận dụng trí óc, phân tích
thơng tin, tích hợp các nguồn kiến thức đa dạng, đánh giá các ý tưởng sang
tạo vào giải quyết vấn đề thực tiễn. Khơng cịn q sớm để thức tỉnh các bạn
ấy nhưng sẽ là quá trể nếu cứ để hiện tượng này kéo dài.
Trước thực trạng đó, em đã quyết định chọn đề tài: “Thực trạng tư
duy phản biện của học sinh Trung học cơ sở” để góp một phần tiếng nói
của mình giúp các bạn nhìn nhận vấn đề một cách đúng đắn, từ đó có cách
rèn luyện hiệu quả.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Nghiên cứu về “Tư duy phản biện” đã có rất nhiều cơng trình nghiên
cứu. Các đề tài sau đây đã nêu khá rõ về thực trạng tư duy phản biện và một
số phương pháp để rèn luyện, hạn chế thói quen suy nghĩ theo lối mịn, tâm lí
đám đơng của sinh viên đại học hiện nay.
- Một số vấn đề về phát triển tư duy phản biện của sinh viên đại học
hiện nay – Tác giả: Bùi Anh Quân, trường Đại học Chính trị.
- Rèn luyện tư duy phản biện trong học sinh, sinh viên – Tác giả:
PGS.TS Nguyễn Thành Thi của trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí
Minh.
Tuy nhiên đối với đối tượng học sinh THCS thì cho đến thời điểm này,
chưa thấy đề tài nào đề cập đến, đặc biệt là học sinh trên địa bàn huyện Hồng
Ngự và đề ra một số biện pháp để rèn luyện.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
3.1. Ý nghĩa khoa học
- Làm tài liệu tham khảo, bổ sung them tư liệu cho hoạt động giáo dục
tư duy, giáo dục kĩ năng mềm trong các trường THCS.
2
- Tạo một hành trang vững chắc không chỉ về mặt trí tuệ mà cịn mang
theo sứ mạng triết lí giáo dục của thời đại, đưa Tư duy phản biện trở thành
một mơn học chính thức.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Cung cấp nguồn tư liệu cho nhà trường, phụ huynh, học sinh, xã hội
để tiến hành trao dồi lối tư duy phản biện cho mỗi học sinh.
- Cung cấp bức tranh toàn cảnh về sự thụ động, thiếu sang tạo, khơng
có chính kiến, khả năng tự chủ, quyết định vấn đề của học sinh. . Trên cơ sở
đó, định hướng và lấp đầy những thiếu sót của học sinh.
- Gợi ý một số chương trình dạy và học theo tư duy phản biện.
4. Mục đích nghiên cứu
-Giúp các bạn học sinh, phụ huynh tiếp cận và có cái nhìn đúng đắn,
sâu sắc về lối Tư duy phản biện
- Tìm hiển tầm ảnh hưởng, khả năng áp dụng Tư duy phản biện của các
bạn học sinh trong học tập ở trường và trong cuộc sống.
- Khảo sát những biến đổi về mặt nhận thức và hành vi của học sinh khi
chưa áp dụng tư duy phản biện. từ đó đánh giá những nguyên nhân ảnh
hưởng.
- Đề ra các biện pháp nhằm khẳng định danh tính và mở ra tương lai
cho Tư duy phản biện trong mơi trường học đường vì nhu cầu công nhận, áp
dụng và nhân rộng Tư duy phản biện để “cởi trói” cho giáo dục là vơ cùng
bức thiết.
- Đề xuất những kiến nghị nhằm tăng cường, cải thiện phương pháp
giáo dục, tránh những ý kiến trái chiều, tạo ra các mối xung đột giữa các đối
tượng trong quan hệ giáo dục đào tạo.
5. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng các phương pháp nghiên cứu khao học xã hội. Bao gồm:
- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia.
3
- Phương pháp điều tra xã hội học.
- Điều tra bằng phiếu khảo sát với hệ thống câu hỏi trắc nghiệm.
- Phương pháp thống kê, hệ thống hóa, so sánh, phân tích, tổng hợp,…
- Ngồi ra đề tài cịn sử dụng một số phương pháp như: phỏng vấn,
điền dã,…
6. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu về quá trình dạy và học tại các trường THCS khi chưa áp
dụng giáo dục Tư duy phản biện.
- Sự biến đổi về hành vi, thái độ và kĩ năng của học sinh mà giáo dục
Tư duy phản biện mang lại.
7. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu
7.1. Giới hạn về thời gian nghiên cứu
Đề tài thực hiện trong học kì I năm học 2020 – 2021.
7.2. Giới hạn về đối tượng nghiên cứu
Học sinh các trường THCS Thường Lạc, TH – THCS Thường Lạc,
THCS Thường Thới Hậu A và THCS Thường Thới Tiền.
7.3. Giới hạn về nội dung nghiên cứu
Đề tài chỉ nghiên cứu về Tư duy phản biện trong môi trường học đường
ở các trường THCS.
8. Những điểm mới của đề tài
- Thứ nhất, tập trung nghiên cứu lối Tư duy phản biện trong môi trường
học sinh THCS.
- Thứ hai, Việt Nam đang trong dịng chảy của q trình hội nhập và
tồn cầu hóa. Tư duy phản biện là một trong những nhân tố cần có ở mỗi học
sinh – chủ nhân tương lai của đất nước, đề tài đề cao tính “cấp bách” và bổ
sung thêm cái nhìn sâu sắc hơn cho các học sinh THCS về Tư duy phản biện.
4
- Thứ ba, Đưa ra những giải pháp gần gũi, thiết thực hướng các học
sinh đến lối tư duy độc lập, phù hợp với tiêu chí chung của quốc tế.
- Thứ tư, không chỉ chọn học sinh để nghiên cứu mà đề tài nghiên cứu
có sự phỏng vấn, khảo sát các thầy cô giáo nhằm đánh giá khách quan nhất
các nguyên nhân và đưa ra biện pháp phù hợp cho những đối tượng giáo dục
khác nhau.
9. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, Nội dung chính của đề tài được
chia thành 3 chương:
Chương I. Cơ sở lí luận tư duy phản biện của học sinh THCS.
Chương II. Thực trạng, nguyên nhân và hệ quả tư duy phản biện của
học sinh THCS huyện Hồng Ngự.
Chương III. Một số biện pháp rèn luyện tư duy phản biện và hiệu quả
áp dụng
5
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÍ LUẬN TƯ DUY PHẢN BIỆN CỦA HỌC SINH TRUNG
HỌC CƠ SỞ
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1. Tư duy phản biện
Thuật ngữ “Tư duy phản biện” hay “Tư duy biện luận” được dịch thuật
từ thuật ngữ “critical thinking” trong tiếng Anh. Đây là khái niệm dung để
chỉ một quá trình tư duy biện chứng, bao gồm việc phân tích, đánh giá khách
quan, đa chiều về một vấn đề với mục đích làm sang tỏ và xác minh tính
chính xác của vấn đề đó. Tư duy phản biện cần sự logic, khách quan, lập luận
có dẫn chứng cụ thể, tỉ mỉ và thực tế. Michael Scriven cho rằng Tư duy phản
biện là “một năng lực học vấn cơ bản”, tương tự như đọc và viết.
Về nguồn gốc, tư duy phản biện tồn tại rất lâu trong các học thuyết ở
phương Tây như phương pháp tư duy theo lối Socrates của người Hy Lạp cổ
hay ở phương Đông như trong kinh Vệ Đà của nhà Phật với những triết lí sơ
khai nổi tiếng. Những tư tưởng này là những tư tưởng manh nha, khởi nguồn
cho những giá trị và phẩm chất của tư duy phản biện.
Trong cuộc sống hang ngày, Tư duy phản biện luôn thể hiện thơng qua
lời nói, năng lực, hành vi của bất kì ai khơng phân biệt tuổi tác, giới tính,
nghề nghiệp, trình độ,… trong bất kì hồn cảnh, khía cạnh, lĩnh vực nào.
Người có tư duy phản biện thường là người có tư duy độc lập, thích những
điều rõ ràng. Ngồi ra thơng thường họ là người khá bình tĩnh và sắc bén do
phản xạ tự nhiên khi gặp các vấn đề của họ là nhìn nhận một cách khách quan
và đa chiều để tìm ra hướng giải quyết.
Tư duy phản biện được phạm trù hóa 3 hoạt tính chủ yếu:
- Tư duy phản biện là loại tư duy dựa vào tiêu chuẩn: Có một mối
quan hệ logic giữa các khái niệm tư duy phản biện, tiêu chuẩn và phán đoán.
Tư duy phản biện được nhận định như một loại tư duy đáng tin cậy, thuần
thục về kĩ năng và khả năng đánh giá, do vậy, không thể hiểu tư duy phản
biện mà thiếu quan tâm tới tiêu chuẩn.
6
- Tư duy phản biện là loại tư duy tự điều chỉnh: Phần nhiều những
suy nghĩ của chúng ta là rất chủ quan, chúng ta thường không tự tranh luận
với mình xem điều mình nghĩ là đúng hay sai. Chúng ta thường suy nghĩ một
cách chung chung, từ việc này liên tưởng đến việc khác, nhưng không quan
tâm đầy đủ đến vấn đề chân lí hay giá trị, và thậm chí ít quan tâm đến khả
năng có thể mắc sai sót. Mặc dù chúng ta có thể tự phản ánh chính suy nghĩ
của mình, nhưng vẫn có thể làm điều đó một cách chủ quan. Vì thế, việc phát
hiện ra những mâu thuẫn, thiếu căn cứ, nhầm lẫn trong tiến trình tư duy của
mình và sữa chữa tất cả các lỗi là một mục tiêu của tư duy phản biện.
- Tư duy phản biện thể hiện sự nhạy cảm trước bối cảnh: Bối cảnh rất
quan trọng cho chiều hướng phãn biện trong suy nghĩ. Buộc chúng ta nhận
thức được các tình huống ngoại lệ hay khác thường; nhận thức các giới hạn
đặc biệt, các biến cố có rào cản của suy luận có lý (những thành kiến, định
kiến); nhận thức được tính tổng thể, các dấu hiệu khơng điển hình.
1.1.2. Tư duy phản biện trong môi trường giáo dục
Mục tiêu chung của tư duy phản biện trong môi trường giáo dục là khai
phóng người học (emancipate the learner) ở khía cạnh thay đổi nhận thức,
theo đuổi kiến thức, tự do học tập, sang tạo từ chính ao ước, nhu cầu, năng
lực và bối cảnh của từng người ở từng xã hội khác nhau.
Giáo dục phản biện giúp con người từ những gì đang diễn ra trong
nghịch cảnh giáo dục áp đặt tìm hiểu và nhận ra những việc cần làm để tự
7
cứu họ ra khỏi chính nghịch cảnh tồn tại lâu nay mà họ chưa nhận ra được
bằng cách suy nghĩ cẩn trọng về những gì phản làm, phải học, phải thi và
phải thay đổi, đưa ra lựa chọn tối ưu riêng trong điều kiện vì tương lai đối với
một con người, khai phóng cho một xã hội tiến bộ.
Giáo dục phản biện sử dụng các phương pháp để giúp người học rèn
luyện tư duy như đặt vấn đề mở không biết trước đáp án (prolem – posing
technique from Paulo Freire). Dù thế nào thì giáo viên cũng phải đảm bảo
cung cấp một đáp án chính xác.
Các phương pháp giáo dục phản biện không đánh giá các giao thức ban
phát, nhận cho. Do đó rất cần điều kiện để thực hiện đúng.
1.1.3. Kĩ năng rèn luyện
Tư duy phản biện là một trong những kĩ năng quan trọng nhất mà mỗi
học sinh cần phải có hiện nay. Đặc biệt là trong thời kì nở rộ của Internet, với
vơ số những luồng thơng tin trái chiều và khó kiểm chứng, việc rèn luyện kĩ
năng tư duy phản biện lại càng trở nên cần thiết.
Những kĩ năng này được hình thành từ trong lối suy nghĩ, lập luận, khả
năng đặt vấn đề của từng cá nhân… Và sự khơi gợi, tạo môi trường phản biện
trong quá trình giáo dục. Ngày nay, nhận thức được tầm quan trọng của nó
mà đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu trên thế giới có những bài tập nhầm rèn
luyện lối tư duy này. Trên cơ sở đó xây dựng và bổ sung them các kĩ năng
đặc biệt với học sinh THCS.
1.1.4. Học sinh Trung học Cơ sở
Là các bạn học sinh từ lớp 6 đến lớp 9, từ 11 tuổi đến 14 tuổi.
1.2. Tầm quan trọng của tư duy phản biện
Triết gia người Pháp I.J.Rousseau cho rằng: “Nếu chỉ nhào nặng con
người theo duy nhất một trạng thái thì anh ta sẽ trở nên vơ dụng trước mọi
tình huống khác” và nếu tính năng động và năng lực tư duy sáng tạo bị chui
chột, học sinh chỉ biết làm theo chỉ đạo, hướng dẫn sẳn có thì chúng ta sẽ có
những con người dễ phục tùng, làm theo, nói theo, nhìn sự việc bằng con mắt
của người khác, đánh mất tư duy độc lập, suy nghĩ và hành động bằng cái đầu
của người khác, xa lạ với yêu cầu của cuộc sống. Ngược lại tư duy phản biện
8
sẽ đem lại nhiều lợi ích trong học tập lẫn cuộc sống của học sinh nhờ khả
năng giải quyết vấn đề, suy nghĩ một cách thấu đáo, sáng tạo, giảm thiểu khả
năng sai lầm trong việc đưa ra quyết định.
Nhìn ra thế giới, chúng ta dễ dàng nhận thấy hầu hết các quốc gia có
nền giáo dục phát triển mạnh, cụ thể là các nước phương tây, đều coi Tư duy
phản biện là phương tiện không thể thiếu trong truyền đạt và thụ đắt kiến
thức. Nó là “từ khóa đầu tiên” được nhắc đến tron sứ mệnh và triết lí giáo dục
của họ. Tại các trường học Hoa Kì, từ cấp vỡ long đến trung học, ngồi
những hình thức triển khai Tư duy phản biện lồng ghép có tính chất bắt buộc
bất thành văn vào trong những chương trình mơn học, người Mỹ đẩy mạnh
Tư duy phản biện vào mô hình “giáo dục khai phóng”. Chưa có một hệ thống
cuối cùng, nhưng có thể có đến hang trăm dự án của học sinh trung học
nghiên cứu Tư duy phản biện gián tiếp hoặc trực tiếp mỗi năm, như một đối
tượng khoa học chính danh và chính thống. Tuy nhiên, cơ quan nghiên cứu
nổi bật nhất là Hiệp hội Tư duy phản biện (Foundation of Critical Thinking),
là một tổ chức nghiên cứu giáo dục phi lợi nhận được Người Mỹ thành lập
chuyên nghiên cứu và phổ biến những thành tựu về Tư duy phản biện trong
giáo dục cho cả nước và thế giới. Cịn ở các nước Đơng Nam Á, cụ thể là
Singapore, một đất nước có nền giáo dục khá tiên tiến trên thế giới. Họ luôn
đặt trọng tâm phát triển Tư duy phản biện cho người học để nâng cao khả
năng thích ứng dưới sự thay thay đổi nhanh chóng của q trình tồn cầu hóa.
Cụ thể năm 1997, Bộ giáo dục Singapore đã chính thức thành lập một trung
tâm nghiên cứu có tên là “Cục tư duy phản biện”.
Tư duy phản biện tốt là nền tảng của khoa học và dân chủ. Khoa học
đòi hỏi việc sử dụng lập luận trong thực nghiệm và xác nhận các lí thuyết.
Điều đó địi hỏi học sinh – chủ nhân tương lai của đất nước phải có cách suy
nghĩ lí trí về các vấn đề xã hội để lan tỏa những giá trị đúng đắn và vượt qua
những khuynh hướng và định kiến sai lầm.
Trong hơn 20 năm qua, trong bối cảnh phát triển chung của giáo dục
Việt Nam; số lượng chương trình, nội dung đào tạo đã có những đổi mới theo
hướng hiện đại, hình thức đào tạo ngày càng đa dạng. Đã có những chuyển
biến tích cực trong tiến trình phát triển năng lực Tư duy phản biện cho học
sinh.
9
Mặc dù Tư duy phản biện là một thuật ngữ không hề mới trong các nền
giáo dục tiên tiến trên thế giới, nhưng ở Việt Nam nó được xem là một cụm
từ khá mới mẻ. Điều đó lí giải tại sao có một nghịch lí vẫn tồn tại trong nền
giáo dục nước ta, đó là học sinh Trung học Cơ sở - những người được cho là
một bộ phận của nguồn nhân lực lại ít có khả năng phản biện khoa học.
Một giáo sư đến từ Arizona, Mỹ, từng có bài báo phân tích về tình
trạng này ở Việt Nam. Trong đó ơng cho rằng điểm yếu lớn nhất của học sinh
Việt là khơng biết thể hiện chính kiến. Nếu khơng phạm đến lợi ích của mình,
họ sẽ khơng phát biểu. Trong những cơng việc mang tính thử thách, học sinh
thường nương theo tập thể, khơng có ý định tự vấn xem ý kiến chung đó là
đúng hay sai.
Việt Nam đang trong dòng chảy của sự phát triển và hội nhập. Vì vậy,
để tiến hành thành cơng q trình hội nhập quốc tế, nền giáo dục Việt nam
cần phải xây dựng những tiêu chí phù hợp với tiêu chí chung của thế giới.
10
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ HỆ QUẢ TƯ DUY PHẢN
BIỆN CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ Ở HUYỆN HỒNG NGỰ
2.1. Thực trạng tư duy phản biện của học sinh Trung học Cơ sở
thuộc huyện Hồng Ngự
Để tìm hiểu thực trạng về lối sống thụ động của học sinh THCS em tiến
hành chọn ngẫu nhiên và phát phiếu điều tra 1848 học sinh của 44 lớp thuộc
4 khối lớp 6, 7, 8, 9 của trường THCS Thường Lạc, TH – THCS Thường
Lạc, THCS Thường thới Hậu A và THCS Thường Thới Tiền
ST
T
TRƯỜNG
Khối 6
Khối 7
THCS Thường Lạc
6A1,2,3,
4
2
TH – THCS Thường Lạc
6A1,2
3
1
4
Khối 8
Khối 9
7A1,2,
3
8A1,2,3
9A1,2,3
7A1,2
8A1,2
9A1,2
THCS Thường thới Hậu 6A1,2,3
A
7A1,2,
3
8A1,2,3
9A1,2
THCS Thường Thới Tiền 6A1,2,3
7A1,2,
3
8A1,2,3
9A1,2,3
2.1.1. Tổng hợp kết quả điều tra và xử lí số liệu
Nhóm 1: Nhận thức của học sinh về Tư duy phản biện
Câu hỏi: Bạn biết gì về Tư duy phản biện khơng?
Câu trả lời
Số lượng
Tỉ lệ (%)
Có
658
35,57
Khơng
296
15,97
894
48,46
1848
100
Có nhưng
nhiều
khơng
Tổng số
Bảng 2.1
11
36.49%
Có
47.09%
Khơng
16.42%
Có nhưng khơng
nhiều
Hình 2.1. Nhận thức của học sinh về tư duy phản biện
Nhóm 2: Các kĩ năng của học sinh nhằm phát triển Tư duy phản
biện
Câu hỏi: Trong học tập, bạn chú trọng đến mục đích nào nhất?
Số
lượng
Tỉ lệ
(%)
Điểm số
457
24,7
Kiến thức đa chiều và khả năng áp
dụng
1022
55,3
Vừa lòng cha mẹ
369
20
Câu trả lời
Bảng 2.2
12
19.97%
24.73%
Điểm số
Kiến thức đa chiều và
áp dụng
Vừa lịng cha mẹ
55.30%
Hình 2.2. Các kĩ năng của học sinh nhằm phát triển tư buy phản
biện
Câu hỏi: Bạn đã từng dám đứng lên trước đám đơng đưa ra ý kiến
của mình (trái chiều so với mọi người)
Câu trả lời
Số lượng Tỉ lệ (%)
Có
314
17
Khơng
723
39,14
81127
43,9
Chưa bao giờ suy nghĩ đến vấn đề đó.
13
Có
Khơng
Chưa bao giờ suy nghĩ đến vấn đề đó
Hình 2.3. Khả năng phát biểu trước đám đơng của học sinh
Nhóm 3: Phương pháp và thái độ hướng đến xây dựng tư duy
phản biện
Câu hỏi: Giáo viên và các bạn có thái độ như thế nào khi bạn đưa ra
ý kiến trái chiều với một vấn đề nào đó trong giờ học
Câu trả lời
Số lượng
Tỉ lệ (%)
Hào hứng đón nhận và thảo luận
314
17
Tỏ vẻ khơng đồng tình
723
39,1
Đồng tình nhưng vẫn hướng bạn vào ý kiến
đã đưa ra của giáo viên
811
43,9
14
Hào hứng đón nhận và thảo luận
Tỏ vẻ khơng đồng tình
Đồng tình nhưng vẫn hướng bạn vào ý kiến đã đưa ra của giáo viên
Hình 2.4. Thái độ của học sinh khi có ý kiến trái chiều
Câu hỏi: Trong việc chọn trường để thi tuyển sinh lớp 10 bạn nghe
theo lời của ai?
Số
lượng
Tỉ lệ (%)
Bố mẹ và thầy cô
167
37,2
Theo trào lưu, xu thế của bạn
bè
64
14,3
Bản thân quyết định
219
48,5
Câu trả lời
Bảng 2.3
15
Bố mẹ và thầy cô
Bản thân quyết định
Theo trào lưu, xu thế của bạn bè
Hình 2.5. Quan điểm của học sinh về việc chọn trường
Nhóm 4: Ý thức rèn luyện tư duy phản biện
Câu hỏi: Khi bạn đứng trước tình huống: Có người dịch “South
China Sea” là “biển Nam Trung Hoa”. Bạn sẽ như thế nào?
Câu trả lời
Số lượng
Tỉ lệ (%)
Đồng tình
748
40,5
Khơng đồng
tình
253
13,7
Chưa hài lịng
847
45,8
Bảng 2.4
16
Đồng tình
Khơng đồng tình
Chưa hài lịng
Hình 2.6. Mức độ hài lịng của học sinh
Câu hỏi: Bạn có thường xun sử dụng phương pháp “5W1H” để
phân tích các vấn đề?
Câu trả lời
Số lượng
Tỉ lệ (%)
Có
495
26
Khơng
262
14,2
Khơng biết
1101
59,8
17
Có
Khơng
Khơng biết
Hình 2.7. Sử dụng phương pháp “5W1H” để giải quyết vấn đề
2.1.2. Phân tích số liệu và đánh giá thực trạng
Hiện nay, học sinh đã có sự hiểu biết cơ bản về Tư duy phản biện.
Nhưng chưa có nhiều kĩ năng rèn luyện cũng như phương pháp hiệu quả để
áp dụng chúng vào thực tiễn. Với nền văn hóa lâu đời của Việt Nam, học sinh
đang còn quá phụ thuộc vào sự quyết định của cha mẹ, ở trường với truyền
thống “Tôn sư trọng đạo”, học sinh coi mỗi lời nói của giáo viên là chân lí và
khơng bao giờ dám bước qua rào cản đó để nói lên ý kiến của riêng mình.
Khi bước chân ra ngồi xã hội, học sinh thường “an phận thủ thường”, ngại
va chạm, chọn cách im lặng hay hùa theo đám đông.
Bảng số liệu đã phần nào thống kê thực trạng tư duy phản biện của học
sinh Trung học Cơ sở tại các trường trên địa bàn huyện Hồng Ngự.
- Bảng 2.1 cho ta thấy đa số học sinh đã có khái niệm về Tư duy phản
biện, nhưng con số “Có nhưng khơng nhiều” đã phản ánh rõ rệt vị trí của tư
duy phản biện trong đời sống của học sinh THCS, con số ấy lên đến 48,46%
chiếm gần một nữa biểu đồ. Hầu như học sinh chưa thật sự đơn giản hóa
được cụm từ này để có thể áp dụng vào thực tiễn.
18
- Bảng 2.2 lại cho thấy mục đích học tập của các bạn, đa số chiếm
55,3% là “Kiến thức đa chiều và khả năng áp dụng” cho thấy được những
mong muốn mà học sinh muốn đạt đượctrong học tập. Tuy học sinh đã nhận
thấy được mục tiêu và tầm quan trọng của nó nhưng ở bảng 2.2 họ vẫn chưa
thể mạnh dạn áp dụng và phát triển kĩ năng này, có 55,3% đã thú nhận điều
này. Và có đến 24,8% khơng có ý định tiến xa hơn để xây dựng và phát triển
Tư duy phản biện cho bản thân.
- Trong quá trình dạy và học tại trường, hầu như cũng chưa thật sự chú
tâm trong việc phát triển kĩ năng này. Khi câu hỏi được đặt ra “Giáo viên
thường có thái độ như thế nào khi bạn đưa ra ý kiến trái chiều với một
vấn đề nào đó?” và có 43,9% là “Đồng tình nhưng vẫn hướng bạn vào ý
kiến đã đưa ra của giáo viên”. Điều này chứng tỏ rằng Tư duy phản biện
chỉ là một lí thuyết chứ chưa hề được đẩy mạnh và nâng cao tại các trường
học. Song tại bảng 2.3 với những định hướng chọn trường thi kết quả đưa ra
là có 48,5% là theo quyết định của bản thân. Theo sát đó là 37,2% là nghe
theo lời bố mẹ. Thử hỏi Tư duy phản biện vẫn chưa được áp dụng thực tiễn
thì quyền quyết định của con người học sinh có chao đảo, có thực sự sẽ
khơng bao giờ chạy theo kì vọng của người khác?
- Tại nhóm 4, ở bảng 2.4 khi có tình huống được đưa ra thì các bạn đã
biết thắc mắc, số lượng lên đến 45,8% nhưng cũng có đến 40,5% đồng tình.
Và khi được hỏi đến phương pháp dừng để tư duy phổ biến nhất trên thế giới
thì hầu như các bạn chưa hề biết đến nó.
Như vậy, những con số mà chúng tôi thu thập được là những con số
biết nói. Nó thể hiện được thực trạng Tư duy phản biện của học sinh THCS
ngày nay nói riêng và trong mơi trường giáo dục nói chung vẫn đang là một
vấn đề đáng báo động. Dù cho các bạn đã có được những kiến thức cơ bản về
Tư duy phản biện nhưng hầu hết vẫn chưa thể áp dụng vào thực tiễn. Hiện
tượng đó nếu khơng sớm được giải quyết, chắc chắn các bạn sẽ gặp một số
trỡ ngại trên bước đường chơng gai phía trước.
2.3. Ngun nhân của thực trạng trên
19
Hiện tượng thiếu hụt vê tư duy phản biện xuất hiện ngày càng nhiều
trong giới học sinh, theo nghiên cứu của đề tài, có thể xuất phát từ những
nguyên nhân sau.
2.3.1. Nguyên nhân khách quan
2.3.1.1. Công nghệ thông tin
Chất lượng cuộc sống ngày càng được nâng cao, công nghệ thông tin
phát triển như vũ bảo. Hầu như học sinh nào cũng có cho mình một chiếc
điện thoại hay máy tính có kết nối Internet. Và với sự lên ngơi của mạng xã
hội, thông tin được chia sẽ rộng rãi trong thế giới phẳng đang thay đổi con
người một cách sâu sắc. Có lẽ khơng ở đâu những câu ngụy biện dày đặc như
trên mạng xã hơi. Khi ai đó thân quen phạm lỗi, thay vì giúp sửa đổi, chúng
ta viết “Nó mới làm điều đó lần đầu!”. Hay gần đây, khi nhà chức trách tiến
hành hoạt động bắt giữa chó cơ chủ gây nguy hiểm cho người dân, trên mạng
có nhiều ý kiến phẩn nộ “Sao khơng dành kinh phí bắt chó để … bắt cướp?”.
Bao biện, quy chụp, thành kiến, đánh tráo khái niệm, sử dụng tiêu chuẩn kép
là những lối ngụy biện phổ biến trong giới trẻ. Ngoài đời, chúng không tốt
cho một cá nhân. Nhưng với khả năng lang truyền của mạng, thái độ ngụy
biện gây hại cho cả một thế hệ, một cộng đồng.
2.3.1.2. Tâm lí đám đơng
Tâm lí học đám đơng là một bộ mơn của khoa học tâm lí nghiên cứu về
hành vi của một người bình thường trong các hoạt động mang tính chất tập
thể (Bách khoa toàn thư mở Wikipedia).
Theo nhận xét của nhà tâm lí Gustave Lebon: “Một cá nhân ở trong
đám đơng ln bị vơ thức tác động, họ có thể sẽ hành xử như người nguyên
thuần, họ mất đi khả năng suy luận, tự kiểm soát mà hành động dựa vào sự
liên kết của đám đông”, Đặc biệt, tâm lí đám đơng là cú hít đối với những
người chưa trưởng thành, bồng bột, thiếu chính chắn, chính kiến, cụ thể là
học sinh Trung học Cơ sở. Tâm lí đám đông không xuất phát từ cá nhân mà
bị tác động từ yếu tố ngoài xã hội. Và nạn nhân thường cho rằng suy nghĩ của
đám đơng là chính xác và đúng đắn. Chính vì khơng có chính kiến sự hiểu
biết và một thái độ thiếu tự tin, có những người đã bị tâm lí đám đơng thay
đổi hồn tồn và mất hẳn lập trường của, mình.
20