BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP.HCM
VIỆN SINH HỌC – THỰC PHẨM
BÁO CÁO TIỂU LUẬN
Đề tài:
TÌM HIỂU BAO BÌ GIẤY
TP.HCM, tháng 02 năm 2014
Đề tài: Bao bì giấy GVHD: Th.s Lê Văn Nhất Hoài
i
LỜI NHẬN XÉT CỦA GIẢNG
VIÊN
ii
Đề tài: Bao bì giấy GVHD: Th.s Lê Văn Nhất Hoài
MỤC
LỤC
LỜI MỞ ĐẦU v
NỘI DUNG 1
PHẦN 1: TỔNG QUAN VỀ BAO BÌ
GIẤY:
1
1.1.Lịch sử phát triển của bao bì giấy: 1
1.2.Đặc tính chung của bao bì giấy 3
1.3.Chức năng của bao bì
giấy
4
1.4.Tổng quan về nguyên liệu chính dùng trong sản xuất bao bì giấy 5
1.4.1.Cấu tạo của nguyên liệu
gỗ:
6
PHẦN 2: SẢN XUẤT
GIẤY
7
2.1. Sản xuất bột giấy: 7
2.1.1. Phân loại bột
giấy
8
2.1.2. Phương pháp sản xuất bột giấy 9
2.2.Quy trình chung sản xuất giấy thành phẩm 13
2.2.1.Quy
trình
13
2.2.2.Thuyết minh quy t
rình
13
PHẦN 3: MỘT SỐ LOẠI BAO BÌ GIẤY 23
3.1. Bao bì mềm (paper) 23
3.1.1. Giấy Kraft 23
3.1.2.Giấy chống thấm mỡ (Greaseproof paper) 25
3.1.3.Giấy
da
27
3.1.4.Giấy sáp – Wax paper 28
3.1.5.Giấy gương 29
3.1.6.Một số loại giấy
khác
30
3.2.Bao bì cứng (paper board) 30
3.2.1.Giấy carton 30
3.2.2.Bao bì vận chuyển- giấy bìa gợn sóng 31
3.2.3.Bao bì tetra pak 35
PHỤ LỤC 39
KẾT
LUẬN
40
TÀI LIỆU THAM
KHẢO
41
iii
Đề tài: Bao bì giấy GVHD: Th.s Lê Văn Nhất Hoài
DANH MỤC
HÌNH
Hình 2. 1
: Sản x
u
ất b
ột giấy theo phươ n
g p
háp cơ h
ọc (Mech a
ni c
al
pulp)
.
9
Hình 2. 2: Dây chuyền hệ thống xeo giấy 17
Hình 2. 3: Giai đoạn ép giấy trên máy xeo 18
Hình 2. 4: Quá trình sấy
giấy
19
Hình 2. 5: Máy cán láng bề mặt giấy 21
Hình 2. 6: Máy cuộn giấy 22
Hình 3. 1: Giấy Kraft không tẩy trắng 24
Hình 3. 2: Giấy Kraft tẩy
trắng
24
Hình 3. 3: Bao bì giấy đã tẩy trắng dùng làm túi đựng 25
Hình 3. 4: Bao bì giấy chưa tẩy trắng dùng làm túi đựng 25
Hình 3. 5: Bao bì chống thấm dầu mỡ lót trong các thực phẩm chứa dầu
mỡ
26
Hình 3. 6: Bao bì chống thấm dầu mỡ sử dụng làm giấy dán tường nhà bếp 27
Hình 3. 7: Giấy
da
27
Hình 3. 8: Giấy da sử dụng làm thiệp chúc mừng 28
Hình 3. 9: Giấy sáp sử dụng đựng thực phẩm 29
Hình 3. 10: Giấy
carton
30
Hình 3. 11: Các loại gợn sóng A, B, C,
D
33
Hình 3. 12: Phương pháp tạo hình 1. 33
Hình 3. 13: Phương pháp tạo hình 2 33
Hình 3. 14: Phương pháp tạo hình 3 33
Hình 3. 15: Phương pháp tạo hình 4. 34
Hình 3. 16: Phương pháp tạo hình 5 34
Hình 3. 17: Phương pháp tạo hình 6 34
Hình 3. 18: Phương pháp tạo hình 7 34
Hình 3. 19: Cấu tạo bao bì tetra
pak
35
Hình 3. 20: Nguyên tắc đóng bao bì tetra pak 38
Hình 3. 21: Một số sản phẩm đựng trong bao bì tetra pak 38
Hình 3. 22: Bao bì giấy kiểu túi, giỏ xách 39
Hình 3. 23: Bao bì giấy ép
đúc
39
iv
Đề tài: Bao bì giấy GVHD: Th.s Lê Văn Nhất Hoài
DANH MỤC
BẢNG
Bảng 1. 1: Một số mốc lịch sử quan trọng trong công nghiệp sản xuất bao bì
giấy
2
Bảng 3. 1: Các thông số kỹ thuật giấy lượn
sóng
32
v
Đề tài: Bao bì giấy GVHD: Th.s Lê Văn Nhất Hoài
LỜI MỞ
ĐẦU
Với nền kinh tế cùng đời sống con người càng được nâng cao khiến cho nhiều vấn đề
nảy sinh xoay quanh vấn đề tiến bộ của xã hội. Công nghệ khoa học phát triển đẩy mạnh
sự gia tăng dân số kèm theo ô nhiễm môi trường càng ngày càng tăng với mức độ nghiêm
trọng. Con người đang phải gánh chịu những hậu quả ô nhiễm vô tình được gây ra bởi sự
vô ý thức của một phần tử nhỏ mọi người trong xã hội. Và bao bì cũng là một trong
những tác nhân gây ô nhiễm không nhỏ trong đời sống con người. Những bao nilon,
polyme tồn đọng trong đất, nước, bãi rác mà qua hàng năm không hề phân hủy. Biết bao
vi sinh vật và đặc biệt đời sống con người phải gánh chịu những hậu quả không phải do
mình gây ra.
Chúng ta không thể phủ nhận sự tiện lợi của bao bì nilon như giá thành thấp, tiện
dụng, kích thước đa dạng, bền bỉ với thời gian đã góp phần không nhỏ trong đời sống con
người. Nhưng cái gì cũng có giới hạn của nó. Nếu ta lạm dụng quá thì ngược lại chúng lại
gây trở ngại cho chúng ta. Và những ưu điểm của bao bì nilon lại chính là nhược điểm
của nó. Trước tình hình này thì bản thân chúng ta nói chung và các nhà sản xuất bao bì
nói riêng không ngừng suy nghĩ tìm ra loại bao bì thay thế cho bao bì nilon mà không
làm mất đi tính tiện dụng vốn có cho con người.
Hiện nay có rất nhiều loại bao bì ra đời thay thế cho bao bì nilon và đáp ứng gần như
đầy đủ những đặc tính mong muốn. Bao bì giấy là một trong những loại bao bì đó. Đến
với bài tiểu luận này nhóm chúng em xin trình bày về đặc điểm cũng như tính chất và
những vai trò của bao bì giấy trong đời sống cũng như trong công nghiệp sản xuất giấy
nói chung, các ngành công nghiệp khác nói riêng. Do thời gian có hạn cùng kiến thức hạn
hẹp nên bài tiểu luận dầu đã cố gắng hoàn thiện nhưng cũng không tránh khỏi thiếu sót.
Nhóm kính mong thầy cùng các bạn thông cảm và góp ý chân thành những sai sót để
nhóm rút kinh nghiệm cho những bài tiểu luận sau. Nhóm xin chân thành cảm ơn.
1
Đề tài: Bao bì giấy GVHD: Th.s Lê Văn Nhất Hoài
NỘI DUNG
PHẦN 1: TỔNG QUAN VỀ BAO BÌ GIẤY:
1.1. Lịch sử phát triển của bao bì giấy:
- Thực phẩm mà chúng ta sử dụng ngày nay đã trải qua nhiều biến đổi trong lịch sử. sự
biến đổi đó là kết quả của sự tiến bộ về kỹ thuật, sự văn minh ngày càng cao, sự thỏa
mãn nhiều hơn nhu cầu ăn uống trong xã hội.
- Bao bì thực phẩm có một trong các chức năng quan trọng là chứa đựng và bảo quản
thực phẩm, nên nó phát triển gắn liền với nhu cầu ăn uống của con người theo từng
thời kỳ.
- Vào thời xa xưa, thực phẩm tiêu thụ tại nơi người ta tìm thấy do hái lượm hay săn
bắn. Lúc đó người ta dùng những dụng cụ chứa thiên nhiên như thân cây rỗng, trái
bầu khô, đá rỗng, vỏ sò… Ở thời kỳ sau đó, người ta biết cách làm các dụng cụ chứa
tốt hơn từ các vật liệu tự nhiên như biết khoét rỗng gỗ, đá và dùng các bộ phận của
động vật như bọng đái, da, sừng, xương, gân, tóc. Vài lần đầu tiên được Ncolothic
làm được dụng cụ chứa bằng kim khí và đồ gốm. một số ly bằng kim loại đầu tiên
giống sừng…
- Hộp carton nổi lên vào cuối thế kỷ 19, một phát minh đơn giản nhưng mang tính cách
mạng. Một người Mỹ, Robert Gair, đã có ý tưởng sáng tạo và đã sản xuất với số
lượng lớn bảng điều khiển các tông cắt sẵn đó, một khi gấp lại, sẽ tạo thành một hộp.
Điều này làm cho việc vận chuyển hàng hóa dễ dàng hơn nhiều và hộp đã trở thành
phương pháp được sử dụng rộng rãi nhất của bao bì vào đầu thế kỷ do mức giá rất
thấp và dễ sử dụng. Ngày nay, các hộp được sử dụng để đựng các thiết bị mong manh
như máy quay video hay máy tính…
- Sự tiến bộ đồng bộ về khoa học, xã hội học khiến cho con người gia tăng các hiểu biết
về vệ sinh thực phẩm, thẩm mỹ, dinh dưỡng do đó xuất hiện các yêu cầu thực phẩm
cao hơn, cần các kỹ thuật cao hơn. Bao bì thực phẩm do đó cũng thay hình, đổi chất
để có thể đồng hành với kỹ thuật chế biến thực phẩm đang phát triển nhanh chóng.
- Ngày nay bao bì gắn liền với thực phẩm như một công cụ chứa, một phương tiện bảo
quản, một phương tiện vận chuyển, một tính hiệu minh định sản phẩm và một công cụ
gia tăng sự tiện nghi trong sử dụng.
2
Đề tài: Bao bì giấy GVHD: Th.s Lê Văn Nhất Hoài
- Bao bì thực phẩm rất đa dạng và sử dụng nhiều loại vật liệu như kim loại cứng, kim
loại mềm, thủy tinh, nhựa cứng, nhựa dẻo, giấy, gỗ, các màng kim loại, màng plastic,
màng phức hợp để đạt được các chức năng cần thiết của thực phẩm hiện đại.
- Bao bì thực phẩm thể hiện nhiều hình dạng, màu sắc, kích cỡ để tạo sự tiện lơi trong
hoạt động thương mai, giá cả và tiện nghi sử dụng.
Bảng 1. 1: Một số mốc lịch sử quan trọng trong công nghiệp sản xuất bao bì giấy
950 năm trước
công nguyên
Người Ai Cập cổ đã sản xuất nguyên liệu để viết đầu tiên bằng cách
đập mỏng những thân cây…
100 năm trước
công nguyên
Người Trung Quốc đã tạo ra giấy đầu tiên từ thớ cây tre và cây dâu
Năm 1400
Các nhà máy sản xuất giấy xuất hiện tại Tây Ban Nha, Đức, Ý và
Pháp
Năm 1690
Tại Bắc Mỹ nhà máy sản xuất giấy tấm đầu tiên đã được xây dựng
gần Philadelphia
Năm 1767
Nước Anh muốn lấy lại những thuộc địa của họ đã mất. Họ đã áp
luật đạo luật Stamp, nó bao gồm việc đánh thuế lên tất cả giấy được
sản xuất tại các thuộc địa
Năm 1803 Máy sản xuất giấy liên tục đầu tiên được cấp bằng sáng chế.
Năm 1854 Tại Anh lần đầu tiên bột giấy từ gỗ được sản xuất
Năm 1856
Lấn đầu tiên được biết nguyên liệu gấp nếp được cấp bằng sáng chế
cho lớp lót của chiếc mũ cao Victorian
Năm 1871
Giấy gấp nếp lần đầu tiên xuất hiện như vật liệu bao bì cho thủy tinh
và ống khói đèn dầu
Năm 1874
Một lớp giấy được thêm vào một mặt của lớp nếp gấp đễ ngăn các
sóng bị xẹp xuống
Năm 1894
Carton sóng được xẽ rảnh và cắt làm thành các thùng đầu tiên. Cty
Well Fargo bắt đầu sử dụng thùng carton sóng cho việc vận chuyển
các kiện hàng nhỏ bằng đường biển.
Năm 1903 Carton sóng lần đầu tiên được chấp thuận là vật liệu dùng vận
3
Đề tài: Bao bì giấy GVHD: Th.s Lê Văn Nhất Hoài
chuyển đường thủy hợp lệ và thường dùng để vận chuyển ngũ cốc.
Năm 1909 Việc phát triển bản in cao su cho phép việc tạo các mẫu in lớn
Năm 1914
Thuế nhập khẩu được đánh trên các thùng đựng hàng carton sóng
vận chuyển đường biển được xem là phán quyết phân biệt đối xử.
Năm 1957 In Flexo hầu như thay thế in Letterpress và mực in gốc dầu.
Những năm 60 Máy in Flexo có bộ phận gấp và dán keo được phát minh
Đầu những
năm
80
Việc in trước trên tấm carton được quan tâm.
Cuối những
năm
80
Mới phát triển lô anilox, bản in và chế bản đã dẫn tới công nghiệp in
số lượng ít với những sản phẩm chất lượng in cao
Năm 1991
điều khỏan 222 và quy tắc 41 được bổ sung việc kiểm tra lực chịu
của đỉnh sóng, nó thay thế cho việc kiểm tra độ bục và trọng lượng,
điều này cho phép sản xuất tấm carton nhẹ hơn.
1.2. Đặc tính chung của bao bì giấy
- Ngày nay giấy chiếm phân nửa tổng số nguyên liệu làm bao bì. Nhờ tiến bộ khoa học
kĩ thuật, giấy các loại được sản xuất đại trà với giá thành thấp. Hiện nay bao bì giấy
được sử dụng làm bao bì của nhiều loại thực phẩm:
+ Thực phẩm khô: ngũ cốc, biscuit, bánh mỳ, bánh nướng, trà, cà phê, đường, bột.
+ Thực phẩm lạnh đông, thực phẩm bảo quản lạnh, kem lạnh.
+ Thực phẩm lỏng, nước giải khát ( nước trái cấy, sữa và sản phẩm sữa).
+ Chocolate và kẹo.
+ Sản phẩm tươi (rau quả, thịt, cá).
+ Ngoài ra giấy còn được dùng để sản xuất bao bì vận chuyển.
- Giấy được sử dụng phổ biến bởi một số đặc trưng như:
+ Tính bền cơ học.
+ Nhẹ.
+ Dễ phân hủy, không gây ô nhiễm môi trường.
+ Tái sinh dễ dàng.
+ Rẻ tiền
4
Đề tài: Bao bì giấy GVHD: Th.s Lê Văn Nhất Hoài
- Nhưng bên cạnh đó giấy còn có những khuyết điểm như:
+ Dễ rách, thấm nước, thấm khí, tính dễ xé rách càng cao khi hàm ẩm càng cao.
+ Độ ẩm cho phép đảm bảo tính bền của giấy là 6-7%.
- Quy cách được quy định bởi trọng lượng trên một đơn vị diện tích: g/m
2
.
- Bên cạnh đó, để tăng độ bền cơ cho giấy, người ta thường ghép nhiều lớp giấy lại với
nhau. Các loại giấy có chất lượng khác nhau là do sự kết hợp với những loại nguyên
liệu khác nhau. Giấy là vật liệu bao bì lâu đời không gây hại môi trường, đã được xử
lí để có thể tăng cường tính kháng hơi ẩm, chống oxy hóa, kháng khuẩn, chống dính,
khó cháy, chống thấm nước, bề mặt có độ trượt cao, độ bóng cao, chống thấm chất
béo. Giấy hiện nay có thể có hàng loạt các tính chất quang học và độ xốp mong muốn,
và bằng cách sử dụng các lớp tráng kép trên một mặt; có thể tái tạo hình ảnh chính
xác khi in ống đồng. Ngoài ra, độ bền cơ học đã khiến cho giấy có khả năng chạy trên
máy căng dãn theo chiêu dọc của giáy mà không bị đứt hay xé rách.
1.3. Chức năng của bao bì giấy
- Chức năng bảo vệ: bao bì là để bảo vệ hàng hóa, hạn chế những tác động của các yếu
tố môi trường đến hàng hóa trong suốt quá trình từ khi hàng hóa được sản xuất ra cho
đến khi hàng hóa được tiêu thụ. Bao bì được sử dụng để bao gói và chứa đựng hàng
hóa, nó là yếu tố đầu tiên, trực tiếp tiếp xúc với hàng hóa, nhằm đảm bảo hàng hóa về
chất lượng và số lượng… và ngăn cách sản phẩm với môi trường.
+ Bảo vệ cho sản phẩm chống lại mọi tác động của môi trường bên ngoài như khí
hậu, vi sinh vât…
+ Đảm bảo cho người dùng biết rằng không có sự can thiệp hay bất cứ sự thay đổi
về chất lượng trong suốt dây chuyền.
- Củng cố, lưu trữ, vận chuyển: các sản phẩm, hàng hóa khi được chứa đựng trong bao
bì thì đều tính đến khả năng xếp dỡ, vận chuyển bằng những phương tiện vận chuyển,
xếp dỡ thủ công hoặc cơ giới nhất định dùng trong công tác vận chuyển hoặc xếp dỡ
các loại hàng đó, vì vậy bao bì được thiết kế phải phù hợp với loại hàng mà nó chứa
đựng.
+ Sản phẩm được bao gói sau đó được nhóm lại hình thành các đơn vị xử lý cơ học
lớn hơn.
5
Đề tài: Bao bì giấy GVHD: Th.s Lê Văn Nhất Hoài
+ Chức năng quan trọng nhất của bao bì giấy là chức năng vận chuyển.
- Phân phối, sử dụng,
+ Các đơn vị vận tải được “tách” để hình thành các đơn vị phân phối phù hợp
vớ
i
nhu cầu tiêu thụ của ngưoif dùng để tăng thời gian để mở, đóng, để cửa
hàng…
+ Có thể kéo dài tuổi thọ của các sản phẩm dễ hư hỏng, bảo đảm các vitamin và dinh
dưỡng.
+ Sự tiện dụng: dễ mở, dễ sử dụng…
- Chức năng thông tin: bao bì có thể được coi là một yếu tố môi giới giữa sản xuất và
tiêu dùng, trọng lượng hàng hóa được đóng gói trong bao bì đã được tính đến khả
năng tiêu dùng chúng cho phù hợp, tránh dư thừa. Đồng thời bao bì thể hiện hình ảnh
riêng về hàng hóa để có thể thông tin đến người tiêu dùng, giúp cho người tiêu dùng
dễ dàng nhận biết và lựa chọn đúng loại hàng hóa.
- Mỗi gói là một phương tiện thông tin pháp luật.
+ Yếu tố thẩm mỹ của sản phẩm.
+ Thông tin trên bao bì: tên nhãn hiệu, nhà sản xuất, thành phần, hạn sử dụng…
+ Sự tiện dụng : dễ mở, dễ sử dụng, dễ cất giữ…
- Chức năng giao tiếp: Chất lượng của giấy và carton đóng vai trò quan trọng trong việc
xác định và hấp dẫn thị giác của thương hiệu của một sản phẩm.
- Chức năng môi trường: Bao bì giấy có khả năng tái chế rất hữu hiệu.
1.4. Tổng quan về nguyên liệu chính dùng trong sản xuất bao bì giấy
- Giấy là vật liệu dạng tấm được tạo thành từ mạng lưới vắt chéo của các sợi cellulose.
Giấy có thể làm từ nguyên liệu rơm rạ, gỗ vụn, vỏ cây, bột gỗ, giấy thải, gỗ thân
mềm, gỗ thân cứng…
- Độ bền của tấm giấy phụ thuộc:
+ Nguồn gốc và loại sợi.
+ Kỹ thuật sản xuất.
+ Tỷ trọng.
+ Độ dày.
- Trong quá trình chế tạo giấy, các sợi cellulose được sắp xếp lại vị trí, bởi áp lực rất
lớn ép lên bề mặt để tạo dạng tấm, có thể dùng phụ gia như casein và protein đậu
6
Đề tài: Bao bì giấy GVHD: Th.s Lê Văn Nhất Hoài
nành hoặc tinh bột để tạo lớp áo bên ngoài tấm giấy. Chất màu vô cơ thường chiếm
70-90% chất khô của lớp áo giấy để tạo bề mặt khác biệt cho giấy bên trong, giúp lớp
áo nâng cao tính phẳng, dễ in ấn, chất lượng in cao, tạo những tính chất đặc biệt theo
yêu cầu, các chất tráng để áo giấy được dùng như kaolin, CaCO
3
, được dùng kết hợp
với các khoáng chất khác để tạo nên độ bóng bề mặt giấy.
- Bên cạnh đó, nhờ khoa học kỹ thuật mà vật liệu giấy được xử lý để tăng cường tính
kháng ẩm, khó cháy, độ trượt cao, độ bóng cao và các lớp tráng chống thấm dầu. giấy
hiện nay có thể có hàng loạt các tính chất quang học và độ xốp mong muốn và bằng
cách sử dụng các lớp tráng thích hợp, có khả năng in ấn cao, ngoài ra độ bền cơ học
cao và khả năng chịu lực kéo khi chạy trên máy khiên giấy không bị đứt và rách (nhựa
thông, phèn chua KAl(SO
4
)
2
.12H
2
O giúp giấy chống thấm tốt, cao lanh Al
2
O
3
.2H
2
O
phủ bề mặt tạo cho giấy có bề mặt in ấn tốt hơn, mịn và đục hơn).
1.4.1. Cấu tạo của nguyên liệu gỗ:
- Thành phần chính của các tế bào gỗ là cellulose, hemicellulose, lignin.
+ Cellulose: là một hợp chất cao phân tử được cấu tạo từ các liên kết các mắt xích
được cấu tạo từ các l
iên
k
ết
m ắt xích β-D-Glucose, có cô n
g
th ứ
c
cấu
t ạ
o là
(C
6
H
10
O
5
)
n
hay [C
6
H
7
O
2
(OH)
3
]
n
trong đó n có thể nằm trong khoảng 5000-14000,
là thành phần chủ yếu cấu tạo nên vách
t
ế
bào
th ự
c
vật. Trong gỗ
lá
k i
m , cellulose
chiếm khoảng 41-49%, trong gỗ
lá
r
ộng nó chiếm 43-52% t h
ể
tích. Tính chất của
sợi cellulose phụ thuộc vào độ dài mạch polymer, mức độ thẳng, sự sắp xếp song
song bởi các mạch polymer. Nó không bị hòa tan bởi kiềm, clorin, do đó giấy tẩy
trắng chỉ có thể loại được lượng lignin mà không tổn thất cellulose, nhưng gây
giảm đặc tính bền chắc của sợi cellulose.
+ Hemicellulose: thuộc nhóm polysaccharide phi cellulose, bao gồm các
polysaccharide khi thủy phân tạo thành monosaccharide và dẫn xuất. Phân tử
lượng thấp gồm 100-200 gốc monosaccharide của xylose, mannose, arabinose,
galactose và acid uronic. Hemicellulose tan trong dung dịch kiềm, có khả năng
thủy phân và có thể liên kết với các hóa chất phụ gia.
+ Lignin: là polymer nhiệt dẻo, có nhánh, nhân thơm alkyl, có kích thước cũng như
khối lượng phân tử không ổn định, gồm các monomer là phenyl propane tan trong
7
Đề tài: Bao bì giấy GVHD: Th.s Lê Văn Nhất Hoài
kiềm và dung dịch nước clor cho dẫn xuất màu nâu đen và trở nên mềm dẻo ở
160
0
C, pH=4.
- Gỗ thân mềm: loại gỗ này gồm 40-50% cellulose, 15-25% hemicellulose, 26-30%
lignin. Thân gỗ mềm có sợi cellulose dài gấp 2.5 lần so với thân gỗ cứng, thân gỗ
cứng dùng để sản xuất ván, tấm phẳng mịn hơn nhưng kém bền cơ học so với gỗ
mềm. Như vậy phải cắt đi để có thể thu được sợi cellulose và giúp chúng sắp xếp song
song khi làm giấy. Sợi cellulose có thể bị gãy nát tùy các công đoạn chế biến giấy.
Các loại sợi
gỗ
- Sợi gỗ có trong phần gỗ của cây, là những tế bào hình thoi, vách dày, hóa gỗ. Các sợi
gỗ dài và hẹp nhưng ngắn hơn sợi libe. Trong sản xuất giấy, sợi gỗ được phân loại
thành 2 loại:
+ Sợi gỗ dài và hẹp: có độ bền tương ứng với chiều dài sợi ( độ bền xé, độ bền gấp,
độ bền thùng, bề mặt nhám hơn), không đều về tỷ trọng, do khả năng định hình
kém, có thể dẫn đến hấp phụ mực không đều trong quá trình in, độ chặt không đều
trên mối dán.
+ Sợi gỗ ngắn và tròn: bề mặt mịn trơn, các tính năng cơ lý giảm đáng kể so với sợi
dài.
- Trong sản xuất giấy, người ta còn để ý tới sợi tái chế với những đặc tính như thừa
hưởng từ loại gốc ban đầu, nhưng quá trình tạo bột giấy sẽ giảm chiều dài sợi, do đó
giảm đáng kể tính năng cơ lý với sợi dài và chịu ảnh hưởng bởi các chất nhiễm vào từ
bên ngoài như các keo không tan trong nước, vụn mực và mực in không rửa được.
PHẦN 2: SẢN XUẤT GIẤY
2.1. Sản xuất bột giấy:
- Nguyên liệu sản xuất bột giấy có thể được sản xuất từ sợi bông (dính hột), giấy tái
sinh, vải và rơm, rạ, cỏ, lanh, gai, đay, bã mía…, có thể được sản xuất bằng phương
pháp cơ học, phương pháp hóa học và phương pháp nửa hóa học.
- Nếu sử dụng bột giấy từ gỗ thì phải xử lý gỗ trước: gỗ được bóc vỏ, rửa, chặt thành
từng mảnh trong m á
y
b ă
m , lọc qua m á
y
sà n
g rồi phân loại mảnh
d ă
m theo kích cỡ
đồng đều. Dăm gỗ sau đó có thể được xử lý mài, nghiền, nấu (phương pháp cơ học)
hoặc bằng hóa
chất (p hương pháp hóa học) tạo thành bột giấy thô (chưa tẩy). Sau đó
8
Đề tài: Bao bì giấy GVHD: Th.s Lê Văn Nhất Hoài
bột này mời được đưa đi tẩy trắng với m ứ
c
đ
ộ t ùy theo yêu cầu, rồi pha loãng để đưa
qua m á
y x e
o cán thành giấy cuộn.
2.1.1. Phân loại bột giấy
- Theo nguyên liệu: Bột giấy từ gỗ và bột giấy phi gỗ.
- Theo phương pháp chế biến: cơ học, hóa học, bán cơ học.
- Theo bước thực hiện: đã tẩy trắng và chưa tẩy trắng:
+ Bột
gi ấ
y
t ẩ
y
t r
ắ
ng (bl eached pulp): Bột giấy được tẩy trắng trong quá trình sản
xuất để có đ
ộ trắng ở mức cao.
+ Bột
gi ấ
y
khô n
g
t
ẩ
y
tr ắ
ng (unblea ched pulp): Bột giấy không được tẩy trắng trong
quá trình sản xuất.
- Bột
gi ấ
y bán t ẩ
y t r
ắng (s emi-bleached pulp): Bột giấy chỉ được tẩy trắng nhẹ và có độ
trắng ở mức thấp.
- Bột gi ấ
y g
ỗ m ề
m : gỗ của các c â
y lá k i
m như t
ùng, bách, t
hông…
- Bột gi ấ
y g
ỗ c ứ
n g
: gỗ của các c â
y lá b
ản.
- Bột giấy từ gỗ, sản xuất bằng phương pháp cơ học.
- Bột giấy từ gỗ, sản xuất bằng phương pháp nửa hóa học.
- Bột giấy phi gỗ (nonwood pulp): Bột giấy được sản xuất từ các loại nguyên liệu
không phải thân
g
ỗ. Ví dụ: các loại tr e
, n ứ
a; các phụ phẩm của cây l ư
ơng
th ự
c ( r ơ
m , rạ ); bã m í
a; các loại cỏ (la u
, s ậ
y , cỏ
bàng ); các loại nguyên liệu của
ngành dệt (
bôn g
, l a
nh, gai ); các loại vỏ
c â
y (dó, đ a
y , d â
u
). Các loại gi ấ
y
m a
nila l àm f
ile f
older c
hính là được sản xuất từ các ng u
y ên li ệ
u n à
y .
- Bột
gi ấ
y
k h
ông
hòa
t an
, anpha-xenluylô (alpha cellulose): Phần bột giấy không hòa
tan trong dung dịch NaOH 17,5% ở nhiệt độ 20°C.
- Bột
gi ấ
y
hòa
tan (dis solving pulp): Bột giấy hóa học đã được tẩy trắng có hàm
lượng anpha- x
enl u
y lô cao. Loại bột giấy này được sử dụng để hòa tan trong các dung
môi thích hợp, chế biến ra dạng sản phẩm như xenlôphan, s
ợi
nhân t
ạo hoặc kết hợp
với các loạihóa c h
ất k hác để tạo ra các dẫn xuất của xenluylô như a x
etat, nitrat
- Bột giấy từ gỗ, sản xuất bằng phương pháp hóa học, loại không hòa tan.
- Bột giấy tái chế, từ bìa giấy, gi ấ
y
phế
th ả
i h oặc phế
liệu và các chất liệu sợi cellulose
khác bột giấy và do đó, giấy thường được đánh giá chất lượng qua thành phần xơ sợi.
9
Đề tài: Bao bì giấy GVHD: Th.s Lê Văn Nhất Hoài
Sợi càng dài thì chất lượng giấy càng bền, dai. Ngoài ra, người ta còn phân biệt bột
giấy theo tỷ lệ phần trăm thành phần bột tái chế.
2.1.2. Phương pháp sản xuất bột giấy
- Các phương pháp sản xuất bột giấy là các phương pháp xử lý nguyên liệu (gỗ hoặc
phi gỗ) để phá vỡ các liên kết trong nội bộ cây thành dạng các xơ sợi riêng lẻ gọi là
bột giấy. Về cơ bản, để phá vỡ liên kết cấu trúc cây có thể sử dụng năng lượng cơ học,
nhiệt, hóa học hoặc là sự kết hợp của các loại năng lượng này với nhau.
- Ứng với các loại năng lượng được sử dụng để phân tách cấu trúc xơ sợi sẽ cho ra
những loại bột như: Bột cơ học, bột hóa học hoặc bột bán hóa học (loại bột sản xuất
dựa vào sự kết hợp giữa hóa học và cơ học). Tùy theo yêu cầu cụ thể, bột giấy có thể
không tẩy trắng hoặc tẩy trắng ở các mức độ khác nhau.
Sản xuất bột giấy theo phương pháp cơ học (Mechanical pulp)
- Hai phương pháp cơ bản để sản xuất bột cơ là phương pháp mài và nghiền. Tuy nhiên,
cả 2 phương pháp đều có 1 số giai đoạn cơ bản tương tự nhau như sau:
Hình 2. 1: Sản xuất bột giấy theo phương pháp cơ học (Mechanical pulp)
Mô tả quá trình:
- Nguyên liệu sử dụng là những đoạn gỗ dài từ 1-1.5m, đã được bóc vỏ, rửa sạch, sẽ
được ép song song với trục quay của lô đá sần sùi. Nhiệt sinh ra do ma sát giữa gỗ và
lô đá sẽ làm nóng các lớp xơ sợi của gỗ và làm mềm lignin có trong lớp trung gian
(M), làm cho quá trình tách xơ sợi được dễ dàng hơn. Các viên đá lồi trên lô đá có tác
10
Đề tài: Bao bì giấy GVHD: Th.s Lê Văn Nhất Hoài
động cắn xé để tách các xơ sợi ra khỏi khối gỗ. Sợi tách ra được giữ lại ở những lỗ
trũng trên mặt lô đá . Lô đá sẽ được làm ẩm, nước sẽ hấp phụ nhiệt làm cho gỗ không
bị cháy và đồng thời rửa lô đá kéo bột ra ngoài.
Nguyên lý quá trình tách sợi từ gỗ bằng phương pháp mài:
- Nguyên lý chính của quá trình mài hay mọi quá trình tách cơ học là đưa gỗ vào trong
môi trường chịu tác động tuần hoàn của một ứng suất, ở đó năng lượng cơ học được
hấp phụ để phá vỡ cấu trúc ban đầu của nguyên liệu. Sợi được tách ra và vấn đề cần
thiết là kiểm tra được hiện tượng sợi bị cắt và tính mềm mại của sợi, điều này phụ
thuộc vào nhiệt độ và hàm ẩm của gỗ.
Cơ chế của quá trình mài có thể được giải thích như sau:
- Sự phá vỡ cấu trúc xơ sợi bằng sự “mỏi” gỗ: Trong quá trình mài, các xơ sợi trong
cấu trúc gỗ chịu tác động tuần hoàn của tác động cắt, nén và duỗi sợi. Vì gỗ có cấu
trúc xơ sợi phức tạp và là 1 polymer đàn hồi nhớt, một số điều kiện cần được quan
tâm là:
- Sự chảy mềm của gỗ trước khi có sự tách sợi là yếu tố chủ yếu để có được xơ sợi
không bị cắt. Ở một nhiệt độ nhất định, càng có nhiều nước được hấp phụ bởi gỗ thì
tác động hóa dẻo càng lớn. Trong điều kiện khô, lignin và hemixenluloz hóa dẻo ở
nhiệt độ khoảng 180-220
o
C. Polymer càng ưa nước như hemixenluloz và xenluloz vô
định hình hấp phụ nước nhiều hơn 4-5 lần so với lignin và có nhiệt độ chuyển pha
thủy tinh-đàn hồi dẻo tại điều kiện bão hòa nước tương đối thấp (khoảng 20
o
C). Điểm
chảy mềm của lignin bảo hòa nước ở 80-90
o
C. Nhưng ở điều kiện đặc trưng của quá
trình sản xuất bột cơ nhiệt độ chảy mềm của lignin trong trạng thái “động” có cao
hơn, ở khoảng 100-130
o
C. Do vậy lignin là thành phần cứng nhất trong gỗ dưới điều
kiện sản xuất.
Các loại bột cơ học:
- Bột gỗ mài trắng: được mài từ gỗ đã được bóc vỏ trong các máy mài gỗ.
- Bột gỗ mài nâu: hình thành khi các cuống cây được thấm ướt trong các nồi nấu trước
khi được mài.
- Bột nhiệt cơ: được sản xuất từ phế liệu gỗ được băm nhỏ và vỏ bào của các xưởng
cưa. Theo phương thức TMP (thermo-mechanical pulp), hay "bột nhiệt cơ", chúng
11
Đề tài: Bao bì giấy GVHD: Th.s Lê Văn Nhất Hoài
được làm thấm ướt ở 130°C. Các liên kết lignin nhờ vậy bị yếu đi. Sau đó nước được
thêm vào và các miếng gỗ này được nghiền trong các máy nghiền (refiner). Nếu hóa
chất được sử dụng thêm vào trong lúc thấm ướt phương pháp này được gọi là phương
pháp CTMP
(chemo-thermo-mechanical
pulp), hay "bột hóa nhiệt cơ".
- Tóm lại, đây là quy trình có hiệu quả thu hồi cellulose cao nhưng tiêu tốn nhiều năng
lượng và không loại bỏ hết lignin, khiến chất lượng giấy không cao. Vì vậy quy trình
này được áp dụng chủ yếu để sản xuất giấy in báo, khăn giấy, giấy gói hoặc các loại
giấy chất lượng thấp khác.
- Dư lượng lignin trong bột giấy làm cho giấy có màu nâu, vì vậy muốn sản xuất giấy
trắng vàng chất lượng cao thì phải loại bỏ hết lignin. Thường người ta oxy hóa lignin
bằng clo hoặc ClO
2
nhưng các phương pháp này đều gây ô nhiễm môi trường ở mức
độ khá cao. Vì vậy các nhà hóa học đã tích cực nghiên cứu các quy trình thân môi
trường để áp dụng cho việc tẩy trắng giấy, kể cả các quy trình sử dụng ozon. Cuối
thập niên 1980, ở Phần Lan người ta đã áp dụng các quy trình tẩy trắng giấy với xúc
tác enzym.
- Nếu chỉ dùng các phương thức cơ để sản xuất, thành phần của bột gỗ không phải là
các sợi cellulose mà là các liên kết sợi đã được mài và nghiềm nhỏ ra. Để có thể lấy
được sợi nguyên thủy phải dùng đến các biện pháp xử lý gỗ bằng hóa học.
Sản xuất bột giấy theo phương pháp hóa học
- Trong sản xuất giấy ngày nay, sản xuất gỗ theo phương thức xử lý hóa học được áp
dụng phổ biến nhất. Tuy hiệu suất thu hồi cellulose ở quy trình hóa học không cao
bằng quy trình nghiền cơ học, nhưng quy trình hóa học này cho phép loại bỏ lignin
khá triệt để, nên sản phẩm giấy có độ bền tương đối cao.
- Các mảnh gỗ
đ ược xử lý hóa
học
bằng cách nấu. Sau khi nấu 12 đến 15 tiếng các sợi
sẽ được tách ra khỏi các thành phần cứng đi cùng với cellulose. Nhìn theo phương
diện hóa học, gỗ bao gồm:
+ 40% - 50% cellulose
+ 10% - 55% h e
m ice l
lu l
ose
+ 20% - 30% lignin
+ 6% - 12% các hợp chất h ữ
u cơ khác
12
Đề tài: Bao bì giấy GVHD: Th.s Lê Văn Nhất Hoài
+ 0,3% - 0,8% hợp chất v
ô cơ
- Tùy theo hóa chất được dùng để nấu, người ta phân biệt ra các phương pháp k
i ề
m ,
sulfit và sulfat. Phần lignin còn sót lại sau khi nấu sẽ làm cho bột giấy có màu vàng
hay nâu vì thế mà phải rửa sạch và tẩy bột giấy.
- Sản lượng sản xuất bột giấy theo phương pháp hóa học ít hơn là sản xuất bột gỗ. Các
sợi cellulose có ưu điểm là dài hơn, bền và mềm mại hơn. Các sợi cellulose từ các c â
y
lá k i
m th ường dài khoảng 2.5 - 4 mm, sợi từ các c â
y lá r
ộ n
g dài khoảng 1 mm.
- Bột giấy sulfat so với bột giấy sulfit thì dài hơn và bền hơn vì thế chủ yếu được sử
dụng để làm gi ấ
y in
và gi ấ
y viết
có độ trắng cao. Bột giấy sulfit đa số được dùng để
sản xuất các loại gi ấ
y v
ệ sinh m ềm.
13
Đề tài: Bao bì giấy GVHD: Th.s Lê Văn Nhất Hoài
2.2. Quy trình chung sản xuất giấy thành phẩm
2.2.1. Quy trình
Bột giấy t
hô
Phân tán
Nghiền bột
Phụ
gia
Phối trộn
Xeo giấy, ép
Gia keo bề mặt
Cán láng
Giấy thành
phẩm
Hình 2. 2: Quy trình sản xuất giấy
2.2.2. Thuyết minh quy trình
2.2.2.1. Chuẩn bị huyền phù bột cho máy xeo
- Đây là giai đoạn chuyển tiếp giữa khâu sản xuất bột giấy và xeo giấy.
Mục đích:
- Xử lý sợi và phối trộn bột với những hóa chất nhằm đạt được những tính năng kỹ
thuật phù hợp với quá trình vận hành và yêu cầu sử dụng.
Tiến hành:
- Việc chuẩn bị huyền phù bột cho máy xeo bắt đầu bằng sự pha loãng huyền phù bột
nồng độ cao được bơm đến từ các bể chứa bột và kết thúc là việc phối trộn để có được
huyền phù của bột giấy với các phụ gia cần thiết.
- Quá trình chuẩn bị bột gồm hai phần:
+ Xử lý cơ học: tác động cơ học sẽ làm phát triển một số tính năng quan trọng cho
sợi.
+ Xử lý hóa học: sự phát triển tính năng sợi được thực hiện nhờ một số hóa chất đặc
trưng.
- Quá trình chuẩn bị bột bao gồm những công đoạn sau:
+ Phân tán bột: bột giấy (dạng ướt hoặc khô) được phân tán trong nước. Giai đoạn
này có thể là gián đoạn hay liên tục kết hợp với tác động cơ học (khuấy đảo).
+ Nghiền bột: là giai đoạn cho sợi chịu tác động cơ học để làm phát triển một số tính
năng vật lý cho sản phẩm giấy. Thường giai đoạn này được thực hiện trong thiết bị
vận hành liên tục, nhưng với một số loại bột đặc biệt quá trình là gián đoạn.
+ Phối trộn phụ gia cho phần ướt: nhiều hóa chất như bột độn vô cơ, một số hóa
chất,… được thêm vào huyền phù bột vừa để đáp ứng yêu cầu kỹ thuật cho sản
phẩm giấy sau này vừa giảm giá thành sản xuất giấy.
2.2.2.2. Giai đoạn phân tán bột (nghiền thủy lực)
Mục đích:
- Đây là quá trình dùng tác động cơ học để tạo hệ phân tán bột giấy trong nước từ
nguyên liệu là bột giấy có độ khô và độ nén cao (độ ẩm < 10%).
- Bằng cách làm lỏng lẻo các liên kết trong cấu trúc bột giấy khô, quá trình phân tán
làm giảm kích thước mảnh bột và làm xơ sợi tách rời nhau, huyền phù bột được hình
thành và có thể bơm được trong hệ thống vận chuyển của nhà máy.
Cách tiến hành:
- Giai đoạn phân tán bột trải qua 3 công đoạn:
+ Công đoạn phân tán:
Với thiết bị gián đoạn, quá trình phân tán bột được hoàn tất trong từng mẻ. Còn
trong các thiết bị liên tục, sẽ có bổ sung một số chất xử lý để bảo đảm sự phân
tán hoàn toàn như quá trình đánh tơi.
Mỗi loại bột giấy sẽ có mức tiêu tốn năng lượng khác nhau và loại bột khó
phân tán nhất là bột sulfat không tẩy trắng, đặc biệt là loại đã qua sấy và được
tồn trữ trong thời gian khá lâu.
Bột loại gỗ mềm dễ phân tán hơn bột loại gỗ cứng, bột giấy đứt thì phân tán dễ
dàng nếu như không có sử dụng chất gia cường ướt.
Để làm giảm tiêu tốn năng lượng, quá trình phân tán thường được thực hiện ở
nhiệt độ > 50
0
C và nồng độ bột > 18%.
+ Công đoạn tồn trữ ướt
Sự ngâm bột sau công đoạn phân tán trong nước sẽ thuận lợi cho quá trình
phân tán bột hơn vì sợi được hấp phụ nước nhiều hơn, các liên kết giữa chúng
sẽ lỏng lẻo hơn.
Việc tăng nhiệt độ ngâm bột cũng làm cải thiện quá trình.
Các bể ngâm bột có khuấy tốt nhưng xáo trộn kém có thể gây ra những ảnh
hưởng bất lợi.
+ Công đoạn đánh tơi sợi
Đó là quá trình tác động lên những mảnh giấy nhỏ chưa được phân tán hoàn
toàn trong thiết bị nghiền thủy lực (những đám sợi có thể đã được phân tán một
phần nhưng vẫn còn khô và cứng) để chuyển chúng thành dạng các sợi được
thấm ướt và phân tán hoàn toàn trong nước.
Tác động này nhằm hoàn tất quá trình phân tán bột.
2.2.2.3. Giai đoạn nghiền bột
Mục đích:
- Quá trình nghiền có một vai trò rất quan trọng đối với bột hóa:
+ Nó cải thiện tính chất cơ lý của sợi nhằm đạt được những tính năng phù hợp cho
quá trình chế biến và sử dụng (ví dụ cải thiện độ bền kéo sẽ làm giảm hiện tượng
đứt giấy ở các trục máy in).
+ Sợi sẽ được trương nở trong môi trường nước và liên kết giữa các sợi sẽ tăng lên.
Trong thiết bị nghiền, lực ma sát giữa sợi– sợi, giữa sợi– nước và giữa sợi– thành
thiết bị sẽ làm cấu trúc sợi bớt chặt chẽ để nước dễ thấm vào.
Biến đổi xảy ra
- Hyđrat hóa.
- Tạo những sợi con trên trục sợi chính.
- Do đó quá trình nghiền này thực chất là quá trình thủy hóa và chổi hóa sợi. Nghiền
nhằm cải thiện tính năng cơ lý của giấy, nhưng tiêu tốn nhiều năng lượng.
- Hơn thế nữa, nếu quá trình nghiền quá mức có thể làm giảm một vài tính năng khác
của giấy như giảm độ kháng xé. Vì vậy cần có một sự kiểm tra chặt chẽ để có thể đạt
được một kết quả tối ưu.
Các yếu tố ảnh hưởng quá trình nghiền
- Về nguyên liệu
+ Tính chất sợi.
+ Phương pháp sản xuất bột giấy.
+ Quá trình tẩy trắng bột giấy.
+ Các xử lý trước khi nghiền.
+ Phân bố chiều dài sợi.
+ Độ thô ráp của sợi.
+ Tỉ lệ gỗ đầu mùa/gỗ cuối mùa.
+ Thành phần hóa học (lignin, xenlulose, hemixenlulose).
- Về thiết bị
+ Kích thước và hình dạng dao nghiền.
+ Diện tích dao và rãnh nghiền.
+ Chiều sâu rãnh nghiền.
+ Khoảng cách giữa hai đĩa nghiền.
+ Vật liệu chế tạo đĩa nghiền.
+ Tốc độ quay của đĩa nghiền.
+ Góc vát dao nghiền.
- Thông số vận hành
+ Nhiệt độ.
+ PH.
+ Nồng độ bột.
+ Phụ gia.
+ Các giai đoạn tiền xử lý.
+ Năng suất.
+ Năng lượng sử dụng.
2.2.2.4. Giai đoạn xeo giấy
Hình 2. 3: Dây chuyền hệ thống xeo
giấy
- Xeo giấy là công đoạn tạo hình tờ giấy. Công việc này được thực hiện trên một thiết
bị đặc trưng gọi là máy xeo.
- Bìa có thể có cấu trúc một lớp hoặc nhiều lớp được tạo hình trên máy xeo dài nhiều
lưới, xeo tròn, hoặc máy xeo dài nhiều thùng phun bột.
- Vào năm 1930, một vài nhà máy ở châu Âu sản xuất bìa carton với sự bố trí nhiều
máy xeo lưới dài, các băng giấy trên từng lưới có thể được kết hợp với nhau ngay khi
còn ướt. Dù đầu tư có tương đối cao nhưng phương pháp này cho phép sản xuất bìa
carton nhiều lớp chất lượng cao và có tốc độ tăng đáng kể. Từ những năm 1980 trở đi,
máy xeo dài nhiều lưới được lắp đặt phổ biến.
2.2.2.5. Giai đoạn ép
Mục đích:
Hình 2. 4: Giai đoạn ép giấy trên máy xeo
- Tách nước và làm tăng độ bền cho băng giấy ướt. Ngoài ra, còn có những mục đích
khác như tăng độ nhẵn, giảm độ khối hay tăng độ chặt.
- Việc tăng độ bền cho băng giấy ướt bảo đảm được sự vận hành của buồng sấy.
- Tăng độ vững chắc cho băng giấy là một yếu tố rất quan trọng, sau ép sự tiếp xúc giữa
các sợi sẽ được gia tăng và như vậy liên kết sợi sẽ được phát triển trong quá trình sấy.
Tiến hành:
- Băng giấy được đi vào khe ép giữa hai trục, nó được đỡ trong quá trình ép nhờ một
chăn ép.
Giai đoạn ép gồm bốn giai đoạn:
- Giai đoạn 1: bắt đầu quá trình nén của băng giấy và chăn. Không khí được đẩy ra khỏi
băng giấy và chăn, không có sự phát triển của áp suất thủy lực và do vậy không có
động lực cho sự thoát nước.
- Giai đoạn 2: băng giấy bão hòa và áp suất thủy lực bên trong cấu trúc băng giấy làm
cho nước di chuyển từ giấy sang chăn. Giai đoạn này tiếp tục cho đến giữa khe ép, khi
mà áp suất tổng gần như đạt cực đại.
- Giai đoạn 3: khe ép tiếp tục nới rộng cho đến khi lực ép thủy lực trong băng giấy bằng
không, tương ứng với độ khô cực đại của băng giấy.
- Giai đoạn 4: cả băng giấy và chăn đều được “nới rộng” ra và băng giấy trở nên không
bão hòa. Mặc dầu lúc này có hình thành một “áp suất âm” (tạo chân không) trong cả
hai cấu trúc, một số yếu tố làm cho nước quay ngược từ chăn về băng giấy. Sự hấp
phụ nước này là một hạn chế cơ bản của quá trình ép và tách nước.
Yếu tố giới hạn quá trình ép
+ Tốc độ tách nước (gọi là giới hạn về dòng chảy).
+ Mức độ chịu nén có thể của băng giấy (gọi là giới hạn về lực nén).
- Như vậy nếu muốn băng giấy tách nước càng dễ, áp lực mà ta có thể tác động lên lớp
đệm sợi sẽ càng cao.
- Nếu như tác động một áp lực khá dư trong trường hợp có giới hạn về dòng chảy, băng
giấy sẽ bị đè nát hay trầm trọng hơn, băng giấy có thể bị rách.
Một số kiểu ép
+ Ép phẳng.
+ Ép chân không.
+ Ép với trục khắc rãnh.
+ Ép có lưới.
- Với loại bìa carton nhiều lớp, đặc biệt là loại định lượng cao, quá trình ép cần được
thực hiện từ từ, êm dịu để tránh hiện tượng nén giấy (ép nát) hay tạo túi khí giữa các
lớp giấy. Đồng thời cũng bảo vệ được độ khối và lực liên kết giữa các lớp giấy.
- Yêu cầu cơ bản là tác động của ứng suất kéo trên băng giấy cần được giảm thiểu và
mỗi khe ép có thiết kế đặc biệt tương ứng với lượng nước được tách ra ở mỗi khe ép.
2.2.2.6. Giai đoạn sấy
Hình 2. 5: Quá trình sấy
giấy