1
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình ngiên cứu này em đã gặp khơng ít khó khăn, nhưng nhờ sự cố
gắng của bản thân và đặc biệt là sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cơ giáo cùng với sự
động viên cổ vũ của bạn bè, của người thân đã giúp em hồn thành được khóa luận này. .
Qua đây cho em gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô trong khoa Giáo dục
Tiểu học và Mầm non, các thầy cô thư viện đã tạo điều kiện cho em trong suốt q trình
nghiên cứu và hồn thành khóa luận của mình . Đặc biệt, cho em bày tỏ lịng cảm ơn sâu
sắc tới cô Nguyễn Thị Hồng Vân, người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo em trong quá
trình nghiên cứu và hồn thành khóa luận. Em xin gửi lời cảm ơn đến ban giám hiệu cùng
toàn thể giáo viên mẫu giáo trường mầm non Tiên Du, xã Tiên Du, huyện Phù Ninh, tỉnh
Phú Thọ đã nhiệt tình cộng tác tạo điều kiện cho em có thể hồn thành khóa luận này. Em
cũng xin cảm ơn tất cả bạn bè trong tập thể lớp K12 ĐHSP Mầm non và người thân đã
giúp đỡ, động viên, khuyến khích em nỗ lực hồn thành đề tài nghiên cứu của mình.
Em xin kính chúc các thầy cơ giáo ln mạnh khỏe, hạnh phúc để tiếp tục dìu dắt
chúng em trên con đường học tập và nghiên cứu khoa học.
Em rất mong nhận được sự góp ý chân thành của các thầy giáo cơ giáo và các bạn
sinh viên để khóa luận của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
Phú Thọ, Tháng 5 năm 2018
Sinh viên
Phạm Thị Thu Trang
2
MỤC LỤC
Trang phụ bìa ................................................................................................................ i
Lời cảm ơn .................................................................................................................... ii
Mục lục ......................................................................................................................... iii
Danh mục bảng, biểu .................................................................................................... iv
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lí luận của đề tài............................................................................................. 5
1.1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .................................................................................... 5
1.1.2. Đạo đức và giáo dục đạo đức cho trẻ 5-6 tuổi ...................................................... 9
1.1.3. Tác phẩm thơ của Phạm Hổ đối với việc giáo dục đạo đức cho trẻ 5-6 tuổi ...... 19
1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài ....................................................................................... 33
1.2.1. Mục đích điều tra ................................................................................................ 33
1.2.2. Nội dung điều tra ............................................................................................... 33
1.2.3. Đối tượng điều tra .............................................................................................. 33
1.2.4. Thời gian điều tra ............................................................................................... 33
1.2.5. Phương pháp điều tra ......................................................................................... 33
1.2.6. Kết quả điều tra thực trạng.................................................................................. 34
Tiểu kết chương 1 ......................................................................................................... 38
3
CHƯƠNG 2
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO TRẺ 5-6 TUỔI THÔNG QUA
THƠ CỦA PHẠM HỔ
2.1. Cơ sở đề xuất biện pháp giáo dục đạo đức cho trẻ 5-6 tuổi thông qua thơ của Phạm
Hổ .................................................................................................................................. 40
2.1.1. Dựa vào mục tiêu và nhiệm vụ giáo dục trẻ mầm non ....................................... 40
2.1.2. Dựa vào đặc điểm tâm lí và quá trình nhận thức của trẻ .................................... 40
2.1.3. Đảm bảo việc lựa chọn nội dung tác phẩm có ý nghĩa giáo dục đạo đức .......... 42
2.2. Các biện pháp giáo dục đạo đức cho trẻ 5-6 tuổi thông qua thơ Phạm Hổ .......... 42
2.2.1. Biện pháp 1: Xác định giá trị của thơ Phạm Hổ đối với việc giáo dục đạo đức cho
trẻ 5-6 tuổi ..................................................................................................................... 42
2.2.2. Biện pháp 2: Cho trẻ làm quen với thơ Phạm Hổ một cách thường xuyên ........ 44
2.2.3. Biện pháp 3: Có sử dụng thơ Phạm Hổ trong việc lập kế hoạch giáo dục đạo đức
theo chủ đề giáo dục ..................................................................................................... 47
2.2.4. Biện pháp 4: Sử dụng thơ Phạm Hổ trong hoạt động làm quen với tác phẩm văn
học và trong những hoạt động khác .............................................................................. 48
2.2.5. Biện pháp 5: Sử dụng các tình huống thực tiễn để giáo dục đạo đức cho trẻ thông
qua thơ của Phạm Hổ .................................................................................................... 52
2.3. Mối quan hệ giữa các biện pháp giáo dục đạo đức cho trẻ 5-6 tuổi thông qua thơ
Phạm Hổ........................................................................................................................ 55
Tiểu kết chương 2 ......................................................................................................... 55
CHƯƠNG 3
THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
3.1. Mục đích thực nghiệm ........................................................................................... 57
4
3.2. Nội dung thực nghiệm ........................................................................................... 57
3.3. Đối tượng, phạm vi, thời gian thực nghiệm ........................................................... 57
3.4. Tiêu chí đánh giá và cách giá thực nghiệm sư phạm ............................................. 58
3.5. Cách tiến hành thực nghiệm .................................................................................. 60
3.6. Kết quả thực nghiệm .............................................................................................. 61
3.6.1. Kết quả khảo sát trước thực nghiệm ................................................................... 61
3.6.2. Kết quả khảo sát sau thực nghiệm ..................................................................... 63
3.6.3. So sánh kết quả của nhóm đối chứng trước và sau thực nghiệm ........................ 66
3.6.4. So sánh kết quả của nhóm thực nghiệm trước và sau thực nghiệm .................... 68
Tiểu kết chương 3 ......................................................................................................... 71
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận ..................................................................................................................... 72
2. Kiến nghị ................................................................................................................... 73
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................ 75
PHỤ LỤC
5
DANH MỤC BẢNG BIỂU
1. Danh mục các bảng
1. Bảng 1.1 Mức độ sử dụng tác phẩm thơ Phạm Hổ ở trường mầm non.................... 36
2. Bảng 1.2: Phương pháp giáo dục đạo đức cho trẻ thông qua thơ Phạm Hổ............. 37
3. Bảng 3.1: Kết quả của nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm trước thực nghiệm. 61
4. Bảng 3.2: Kết quả nhóm thử nghiệm và đối chứng sau thử nghiệm ........................ 63
5. Bảng 3.3: Kết quả của nhóm đối chứng trước và sau thực nghiệm ......................... 66
6. Bảng 3.4 : Kết quả của nhóm thực nghiệm trước và sau thực nghiệm .................... 68
2. Danh mục biểu đồ
1. Biểu đồ 3.1: Kết quả việc giáo dục đạo đức cho trẻ thông qua thơ Phạm Hổ của trẻ
nhóm thực nghiệm và đối chứng trước thực nghiệm. .................................................. 62
2. Biểu đồ 3.2 : Kết quả của việc sử dụng thơ Phạm Hổ trong việc giáo dục đạo đức cho
trẻ ở nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm sau thực nghiệm .................................... 64
3. Biểu đồ 3.3: Kết quả của nhóm đối chứng trước và sau thực nghiệm ..................... 67
4. Biểu đồ 3.4: Kết quả biểu hiện việc sử dụng thơ Phạm Hổ để giáo dục đạo đức cho trẻ
ở nhóm thực nghiệm trước và sau thực nghiệm .......................................................... 68
6
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đạo đức là một trong những vấn đề mà từ lâu nhân loại từng quan tâm, suy nghĩ.
Từ phương Đông đến phương Tây, từ cổ đại đến hiện đại không bao giờ và không lúc
nào nhân loại lại không cần đến đạo đức bởi vì đạo đức là một trong những phương thức
để điều chỉnh hành vi của con người. Từ xưa đến nay vai trò của đạo đức đã được nhiều
nhà giáo dục, nhiều triết gia, nhiều học giả quan tâm và khẳng định: “ Đạo đức như gốc
của cây, ngọn nguồn của cuộc sống, sức mạnh của con người. Sức có mạnh mới gánh
được nặng và đi được xa” ( Hồ Chí Minh). K.Đ.U-SinxKi cũng khẳng định: “ Tất cả
những ai muốn trở thành cơng dân có ích, trước hết phải học cánh làm người”. Học cách
làm người ở đây chính là tu dưỡng phẩm chất đạo đức của mình. Những triết lí sâu sắc
trên đã khẳng định vai trị của đạo đức và giáo dục đạo đức đối với q trình hình thành
và hồn thiện nhân cách con người. Như chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói:
“ Hiền dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên”.
Người rất coi trọng về việc giáo dục đạo đức cho mọi thế hệ, con người không chỉ trau
dồi những kiến thức khoa học, xã hội mà còn phải không ngừng tu dưỡng đạo đức. Việc
giáo dục đạo đức phải mang tính thường xun và được hình thành ngay từ nhỏ. Ma-caren-cô một nhà sư phạm vĩ đại người Ukraina cho rằng: “Giáo dục đạo đức mà không
trở thành thói quen chẳng khác gì xây lâu đài trên cát”.
Việc giáo dục đạo đức cho trẻ được quan tâm ngay từ khi đứa trẻ chào đời, những
bài hát ru, những câu ca dao hay những bài thơ, câu chuyện cổ tích mà chúng ta thường
cho trẻ nghe đều chứa đựng đạo lí làm người sâu sắc. Gắn liền với những “đứa con tinh
thần” đó là những nhà thơ chuyên sáng tác các tác phẩm dành cho thiếu nhi như: Võ
Quảng, Đình Khải, Trần Đăng Khoa và Phạm Hổ. Trong đó các sáng tác Phạm Hổ được
các em nhỏ nhiệt tình đón nhận và yêu mến, bởi lẽ những tác phẩm thơ của ông thường
ngộ nghĩnh, vui tươi, dễ hiểu, dễ nhớ, giàu trí tưởng tượng, giàu tính nhân văn, phú hợp
với tâm lí trẻ thơ. Đặc biệt thơ ơng viết cho các em thường giản dị, trong sáng, hồn nhiên
7
đưa trẻ vào thế giới xung quanh đầy phong phú và thú vị. Mỗi bài thơ là một câu chyện
cổ tích hấp dẫn trẻ, mở ra những chân trời mới về cuộc sống.
Nhận thấy giá trị đạo đức sâu sắc trong từng vần thơ của Phạm Hổ ở các trường
mầm non đã chú trọng việc giáo dục đạo đức cho trẻ thông qua các tác phẩm thơ của ông.
Tuy nhiên việc giáo dục còn chưa đạt kết quả cao vẫn cịn khá thụ động, gị bó và áp đặt.
Bản thân tôi là một sinh viên chuyên ngành giáo dục mầm non, tôi rất quan tâm đến vấn
đề giáo dục đạo đức cho trẻ và mong muốn được đóng góp một phần cơng sức của mình
trong việc hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ.
Xuất phát từ những lí do trên chúng tôi đã chọn đề tài “Giáo dục đạo đức cho trẻ 5-6
tuổi thông qua thơ Phạm Hổ”.
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
2.1. Về lí luận
- Làm rõ cơ sở lí luận về đạo đức việc giáo dục đạo đức cho trẻ 5-6 tuổi.
- Vai trò của thơ Phạm Hổ đối với việc giáo dục đạo đức cho trẻ 5-6 tuổi.
- Giá trị đạo đức trong thơ Phạm Hổ.
2.2. Về thực tiễn
- Đề xuất một số biện pháp giáo dục đạo đức cho trẻ 5-6 tuổi thông qua các tác
phẩm thơ của Phạm Hổ.
- Đề tài là tài liệu tham khảo cần thiết của sinh viên và giáo viên chuyên ngành
giáo dục mầm non quan tâm đến vấn đề giáo dục đạo đức cho trẻ 5-6 tuổi thông qua thơ
Phạm Hổ.
3. Mục tiêu của đề tài
Đề xuất một số biện pháp giáo dục đạo đức cho trẻ 5-6 tuổi thông qua tác phẩm
thơ của Phạm Hổ.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lí luận có liên quan đến đề tài.
8
- Tìm hiểu thực trạng của việc giáo dục đạo đức thông qua các tác phẩm thơ của
Phạm Hổ.
- Đề xuất biện pháp giáo dục đạo đức cho trẻ 5-6 tuổi thông qua tác phẩm thơ của
Phạm Hổ.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm nhằm kiểm chứng hiệu quả của các biện pháp
đã đề ra.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp giáo dục đạo đức cho trẻ 5-6 tuổi thông qua tác phẩm thơ của
Phạm Hổ.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
- Một số biện pháp giáo dục đạo đức cho trẻ 5-6 tuổi thông qua tác phẩm thơ của
Phạm Hổ.
- Đề tài nghiên cứu tại một số trường mầm non trên địa bàn xã Tiên Du, huyện
Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Sưu tầm, đọc, nghiên cứu, phân tích, tổng hợp, hệ thống các nguồn tài liệu, các đề
tài nghiên cứu,…liên quan đến đề tài.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6.2.1. Phương pháp điều tra
Sử dụng phiếu thăm dò ý kiến giáo viên nhằm tìm hiểu nhận thức của giáo viên
về giáo dục đạo đức cho trẻ 5-6 tuổi thông qua thơ của Phạm Hổ.
6.2.2. Phương pháp quan sát sư phạm
Quan sát nhằm tìm hiểu những biện pháp tác động của giáo viên đến việc giáo
dục đạo đức cho trẻ 5-6 tuổi thông qua tác phẩm thơ của Phạm Hổ.
9
6.2.3. Phương pháp đàm thoại
Trao đổi, đàm thoại trực tiếp với giáo viên giảng dạy để bổ sung các số liệu nghiên
cứu bằng an-ket và thực nghiệm sư phạm.
6.2.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Áp dụng một số biện pháp giáo dục đạo đức cho trẻ 5-6 tuổi thông qua tác phẩm thơ
của Phạm Hổ nhằm chứng minh giả thuyết.
6.2.5. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng phương pháp thống kê tốn học để xử lý, phân tích kết quả khảo sát và
thực nghiệm sư phạm.
7. Cấu trúc khóa luận.
Ngồi phần mở đầu và kết luận, nội dung khóa luận gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài.
Chương 2: Đề xuất một số biện pháp giáo dục đạo đức cho trẻ 5-6 tuổi thông qua
thơ của Phạm Hổ
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.
10
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề trên thế giới
Giáo dục đạo đức luôn được coi là vấn đề rất được quan tâm và chú ý của toàn xã
hội, ở mọi quốc gia, mọi khu vực. Do vậy đến nay đã có rất nhiều cơng trình khoa học
nghiên cứu về vấn đề này. Có thể kể đến như Francois Jullien với Xác lập cơ sở cho đạo
đức đã tìm ra những nguyên liệu để tạo nền tảng, cơ sở cho sự hình thành đạo đức của
con người.
Trong cuốn Đạo đức học, G.Ban-đê-lát-de, đã chỉ ra những quan điểm, Luận điểm
khoa học về đạo đức, mối quan hệ giữa đạo đức với khoa học khác, sự hình thành phát
triển với vị trí khoa học nói chung.
Tác giả A.N.Leonchiép lại nói về tác động của giá trị đạo đức về hoạt động, ý thức
với sự hình thành và phát triển nhân cách con người trong cuốn Hoạt động, ý thức, nhân
cách.
Ngoài ra cịn có rất nhiều tác giả nghiên cứu về vấn đề này như: Những xúc cảm
của con người của K.Izard, Tâm lí học tình cảm của P.M.Iacovson. Trí tuệ xúc cảm của
Daniel Goleman … Mỗi tác giả tìm hiểu cụ thể từng khía cạnh, nội dung của giáo dục
đạo đức.
Vài thập kỉ trở lại đây vấn đề cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học nói chung,
các tác phẩm thơ truyện nói riêng được nhiều chuyên gia trong nước và nước ngoài
nghiên cứu. Người ta đã nghiên cứu cảm thụ thẩm mĩ thông qua cảm thụ văn học. Nghiên
cứu sự phát triển tư tưởng tình cảm thơng qua các tác phẩm thơ truyện. Trên thế giới đã
có rất nhiều những tác phẩm thơ truyện viết cho thiếu nhi và có sức ảnh hưởng rất lớn
đến sự phát triển tâm lí, nhân cách của trẻ. Với mỗi tác phẩm thơ, truyện mỗi dân tộc mỗi
quốc gia dành cho trẻ em đều có những nét riêng. Tuy nhiên, những tác phẩm hay đều
gặp nhau ở một điểm đó là hướng về mục đích nhân văn, hướng tới cái thiện, cái đẹp
trong cuộc sống.
11
Trên thế giới đã có một số nhà giáo dục kinh điển quan tâm đến vấn đề giáo dục đạo đức
cho trẻ mầm non thông qua tác phẩm văn học như: N.Krupxkcaia, Uxora (người Nga),
…cho rằng “ Trong số những phương pháp tạo ra ý niệm giáo dục đạo đức, văn học nghệ
thuật chiếm một vị trí đặc biệt. Cần đọc ho nghe những tác phẩm dễ hiểu, trong đó nổi
lên nội dung đạo đức - thái độ tốt đối với mọi người, khiêm tốn, lao động, hòa thuận,
dũng cảm”.
Các cơng trình nghiên cứu của nhà sư phạm Bungari như S.Avranov,
S.Hakedoskia, nhà tâm lí học S.S.Dimitrova, các nhà nghiên cứu văn học I.Kotova,
A.Vladimirova, L.Eordanova đã chứng minh rằng trẻ mầm non có những khả năng to lớn
trong việc hiểu được nội dung thẩm mĩ và đạo đức chứa đựng trong nội dung tác phẩm
văn học. Trẻ có khả năng tiếp thu và diễn đạt khi kể lại tư tưởng đạo đức chủ yếu của tác
phẩm đó và biết thể hiện thành hình tượng nghệ thuật.
Nhìn chung, các tác giả đều khẳng định rằng tác phẩm văn học giữu vai trò vô
cùng quan trọng trong việc giáo dục đạo đức cho trẻ. Tuy nhiên vai trò cụ thể đối với việc
giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo như thế nào và các nội dung cụ thể ra sao thì cần phải
được nghiên cứu tiếp.
1.1.1.2. Lịch sử nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam từ đầu thế kỉ XX bắt đầu xuất hiện các tác phẩm văn học viết cho
thiếu nhi, nhưng sau cách mạng tháng 8 năm 1945, nền văn học thiếu nhi mới chính thức
được hình thành. Và cũng với mục đích giáo dục đạo đức cho các em, văn học thiếu nhi
đã, đang phát triển hồn thiện mình trên sự chuyển mình của nền văn học nói chung. Vấn
đề giáo dục đạo đức cho trẻ mầm non nói chung và đặc biệt là giáo dục đạo đức cho trẻ
thơng qua tác phẩm văn học nói riêng đã được một số nhà giáo dục cũng như người cầm
bút sáng tác cho các em quan tâm nghiên cứu.
Nhấn mạnh đến nhiệm vụ giáo dục đạo đức cho trẻ thông qua thơ, truyện tác giả
Nguyễn Thu Thủy trong cuốn Giáo dục trẻ mẫu giáo thông qua truyện và thơ đã khẳng
định giá trị của một tác phẩm văn học đối với nhiệm vụ giáo dục đạo đức cho trẻ: “Thông
qua các nhân vật trong tác phẩm văn học, trẻ nhận thức được khái niệm đạo đức, trẻ bộc
lộ tình cảm đạo đức đúng mức đối với các nhân vật và lấy đó làm bài học cho việc cư xử
của mình” Trong giáo trình phương pháp cho trẻ làm quen tác phẩm văn học tác giả Hà
12
Nguyễn Kim Giang nhấn mạnh: “Có thể nói, những ấn tượng trẻ thu được trong những
năm tháng đầu tiên của cuộc đời qua tác phẩm văn học rất sâu sắc nhiều ấn tượng vẫn
được lưu giữ trong tình cảm, ý thức suốt đời người. Trẻ em rất nhạy cảm với nội dung
giáo dục đạo đức trong tác phẩm văn học(…). Giáo dục đạo đức là một trong những mặt
quan trọng của sự phát triển nhân cách” . Cũng đứng trên quan điểm này, nhà nghiên cứu
văn học thiếu nhi Lã Thị Bắc Lí trong chuyện luận văn học thiếu nhi với giáo dục trẻ
mầm non có viết: “Bằng cách này hay cách khác, văn học ln vì con người và hướng
con người tới những tình cảm tốt cảm. Văn học thiếu nhi cũng vậy các sáng tác cho các
em luôn phản ánh những cái tốt, cái đẹp, nhằm giáo dục lòng nhân ái cho các em (…).
Giáo dục lòng nhân ái là cơ sở hàng đầu giúp trẻ xác lập được các mối quan hệ tích cực
với mơi trường xung quanh và cuộc sống để từ đó trẻ có thể phát triển nhân cách một
cách toàn diện. Phạm Hổ là một trong số ít nhà văn chuyên tâm viết cho thiếu nhi. Trải
qua hơn 50 năm miệt mài sáng tác, Phạm Hổ đã để lại cho nền văn học thiếu nhi Việt
Nam khoảng 25 tập thơ, 10 kịch bản sân khấu, hoạt hình… với những đóng góp lớn lao
ấy, các sáng tác của ông đã thu hút được đông đảo sự quan tâm của giới phê bình và bạn
đọc. Nhiều nhà nghiên cứu đã thể hiện sự ưu ái, ngưỡng mộ, cảm phục trước một tấm
lịng vì tuổi thơ của Phạm Hổ trong những cơng trình nghiên cứu, bài báo, luận văn, luận
án… Các cơng trình trên báo và tạp chí: Trên báo Văn nghệ số 373 Võ Quảng đã
viết bài Một cái nhìn kì thú yêu thương khi đọc tập Chú bị tìm bạn. Ơng nhận định “Với
mùi thơm của hoa trái với tiếng “ậm ò” của chú bò tìm bạn, trong tiếng gà “chiếp chiếp”
tập thơ đưa các em về thế giới chính thức của mình. Và cũng đưa những người lớn về
những màu sắc, cảm xúc tươi mát từ lâu bị quên đi, nhưng mỗi lần nhớ lại trong lịng
khơng khỏi chút bâng khng nhớ tiếc.”
Trên Tạp chí văn học số 6 năm 1964, Trần Thanh Địch có bài “Những người bạn
nhỏ, Một tập thơ đáng yêu của các em” ông đã viết: “Những người bạn nhỏ cịn có nhiều
bài thơ nói về những con vật nhỏ, bạn hàng ngày của các em. Những người “bạn nhỏ” ấy
thường hay có sự chạm trán trái cựa gây ra từng chút kịch tính”. Khơng đơn thuần là
miêu tả, Phạm Hổ cịn tạo dựng tính kịch cho chính tác phẩm của mình để thêm phần độc
đáo và hấp dẫn. Cũng nhận định giống Vũ Duy Thơng nhưng có phần mở rộng hơn, nhà
thơ Trần Đăng Khoa có những khám phá rất thú vị: “Phạm Hổ đã hiến dâng trọn vẹn cái
phần tinh túy nhất của đời mình, của tâm hồn mình cho con trẻ. Đọc thơ ơng ta thấy
13
ơng u trẻ con. Mà khơng chỉ u, ơng cịn sùng bái chúng. Vì thế nói đến ơng ta
vẫn quen nghĩ đó là thi sĩ chuyên viết cho thiếu nhi, viết bằng nhiều thể loại: thơ, truyện,
kịch, thần thoại, rồi kịch bản hoạt hình…”
Trong bài viết Mười lăm năm viết cho thiếu nhi nhà thơ Đinh Hải đã viết: “Thơ
Phạm Hổ nặng về khai thác những khía cạnh tình cảm của nhi đồng, Thơ anh giàu nhạc
điệu, gần gũi với đồng dao. Bạn đọc thường nhắc những bài thơ hay của anh như Xe cứu
hỏa, Bắp cải xanh, Chú bò tìm bạn”.
Trên Tạp chí văn học số tháng 3 năm 1989, phó giáo sư Vân Thanh có bài viết
Phạm Hổ với tuổi thơ cũng có nhận định: “Khơng phải ngẫu nhiên, thơ Phạm Hổ tươi
mát và rất trẻ. Ông là một trong những nhà thơ thường xuyên có những buổi gặp gỡ, trị
chuyện trao đổi với các em – Ơng thường nói: người sáng tác cho thiếu nhi phải có tâm
hồn tươi trẻ, phải hiểu trẻ, biết cách thâm nhập vào cuộc sống trẻ thơ”.
Trong cuộc hội thảo về các tác giả viết cho thiếu nhi, nhà văn Nguyên Ngọc đã
phát biểu: “Bạn (Phạm Hổ) vừa mở thêm ra một cánh cửa nữa và theo chân anh, bước ra
cánh cửa ấy, ta bỗng gặp một chân trời hứa hẹn và mênh mông hơn, vừa gần gũi vừa mới
lạ, vừa quen thuộc vừa mỗi bước khiến ta lại ngạc nhiên”. Công trình nghiên cứu được
in thành sách: phó giáo sư Vân Thanh đã tập hợp được rất nhiều bài viết phê bình về văn
học thiếu nhi in thành tập Văn học thiếu nhi Việt Nam do nhà xuất bản Kim Đồng năm
2002. Nhà thơ Vũ Duy Thơng cũng có bài “Con đường đến với trẻ thơ” ông phát biểu:
“Đọc thơ Phạm Hổ viết cho các em, ấn tượng đầu tiên để lại: đây là con người yêu trẻ thơ
đến mức đắm đuối, không bao giờ no chán, một người luôn luôn khao khát tìm đến trẻ để
hiểu và yêu quý chúng hơn nữa, một người muốn – khơng phải là đóng vai một người
thầy giáo nghiêm nghị cất lời răn dạy phải trái mà là một người bạn chân thành của trẻ.
Phạm Hổ đã từng nhận được nhiều giải thưởng trong các cuộc thi sáng tác cho
thiếu nhi như: Tặng thưởng loại A trong những năm 1960 cho tác phẩm Chú vịt bông,
giải A do Hội đồng Văn học thiếu nhi - Hội văn học Việt Nam trao tặng cho tác phẩm
Những người bạn im lặng, giải thưởng Nhà nước về Văn học thiếu nhi đợt 1 năm 2001…
Với những đóng góp lớn lao ấy, nhiều nhà nghiên cứu đã dành tặng Phạm Hổ niềm ưu ái,
sự ngưỡng mộ, cảm phục trước một tấm lịng hết mình vì tuổi thơ.
14
1.1.2. Đạo đức và giáo dục đạo đức cho trẻ 5-6 tuổi
1.1.2.1. Khái niệm đạo đức
Đạo đức là một hiện tượng xã hội - là một hình thái ý thức đặc biệt phản ánh các
mối quan hệ thực bắt nguồn từ bản thân cuộc sống của con người của xã hội loài người.
Trong đời sống của mỗi con người, quy luật tất yếu đòi hỏi họ phải tự ý thức được mục
đích hành vi, hoạt động của mình trong q khứ, hiện tại và trong tương lai. Những hành
vi, hoạt động đó bao giờ cũng bị chi phối bởi các mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân,
cá nhân với cộng đồng, xã hội. Nhằm đảm bảo quyền lợi cho tất cả các thành viên vươn
lên một cách tích cực, tự giác, tạo thành động lực phát triển của xã hộ. Đó cũng chính là
những quy tắc, chuẩn mực trong hành vi đòi hỏi mỗi cá nhân phải tự giác thực hiện. Dựa
vào đó ta có thể đánh giá được hành vi của người nào đó có đạo đức hay khơng có đạo
đức.
Ngay từ xa xưa, từ phương Đơng sang phương Tây cũng đã có rất nhiều quan
niệm khác nhau về đạo đức, vậy đạo đức là gì?
Khổng Tử cho rằng: “Nơi đâu có lễ thì nơi đó có đạo đức, hành động theo lễ là
hành động có đạo đức, còn trái với lễ là trái với đạo đức”. Ông đã lí giải đạo đức bằng
những phạm trù “nhân”, “lễ”, “nghĩa”, đó là những chuẩn mực xã hội mà con người xưa
cần phải tuân theo. “Nhân” là tình yêu thương giữa con người với con người, tình cả của
con cái đối với cha mẹ, biết thông cảm sẻ chia với người khác khi gặp khó khăn. “Lễ”,
“nghĩa” là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của nhân.
Theo từ điển Tiếng việt NXB từ điển Bách Khoa, 2005: “Đạo đức là những phẩm
chất tốt đẹp của con người”.
Theo chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đạo đức là những chuẩn mực xã hội quy định thái
độ, hành vi của con người trong mối quan hệ với người khác và với mỗi cá nhân phải tu
dưỡng vad rèn luyện”. Quan điểm này là cơ sở nền tảng giúp chúng ta có thể hiểu một
cách đầy đủ về đạo đức.
Như vậy, nghiên cứu về đạo đức có nhiều cách khác nhau, trong đó các tác giả
chủ yếu đi theo hai xu hướng:
15
Một là: Coi đạo đức là tổng hợp các nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội mà
nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi, hoạt động của mình cho phù hợp với lợi ích,
hạnh phúc chung của xã hội, trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá
nhân với xã hội.
Hai là: Coi đạo đức là hệ thống những quy tắc, chuẩn mực biểu hiện sự tự giác
trong quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với cộng đồng xã hội tự
nhiên và với bản thân mình.
Tóm lại, phạm trù đạo đức rất rộng nhưng nhìn chung các tác giả đều cho rằng:
“Đạo đức là hệ thống chuẩn mực, hành vi, thái độ, tình cảm của con người (chuẩn mực
giá trị đạo đức) được quy định bởi những giới hạn mang tính quy luật tất yếu trong các
quan hệ với con người, với tự nhiên, với bản thân, nhằm đảm bảo cho sự tồn tại, phát
triển của cá nhân và cộng đồng.” Sự phát triển của đạo đức xã hội từ thấp đến cao như
những nấc thang giá trị về sự văn minh của con người trên cơ sở phát triển của sức sản
xuất vật chất và thông qua sự đấu tranh, gạn lọc, kế thừa mà nội dung đạo đức ngày càng
tiến bộ, phong phú và hoàn thiện hơn.
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội góp phần quan trọng xây dựng mối quan
hệ giữa người với người, giữa cá nhân và xã hội. Đạo đức cịn có vai trò lớn lao giúp con
người sáng tạo hạnh phúc và giữ gìn bảo vệ cuộc sống tốt đẹp của xã hội và phẩm giá của
con người. Với ý nghĩa đó đạo đức gồm các chức năng cơ bản sau:
- Chức năng giáo dục
Chức năng giáo dục của đạo đức được thể hiện ở chỗ nó hình thành cho con người
những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức, nhờ đó con người có khả năng lực chọn,
đánh giá đúng đắn các hiện tượng đạo đức xã hội cũng như tự đánh giá những suy nghĩ,
hành vi của bản thân. Vì thế, việc giáo dục đạo đức góp phần quan trọng vào việc hình
thàn, phát triển nhân các con người mới.
- Chức năng điều chỉnh hành vi
Chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức gắn bó mật thiết với chức năng quản lí
xã hội. Đặc biệt, đối với các quan hệ có liên quan đến lợi ích giữa cá nhân với cá nhân,
giữa cá nhân với xã hội. Bản chất của sự điều chỉnh hành vi tức là quá trình đấu tranh
16
giữa cái thiện - ác, tốt - xấu, giữa cái lương tâm - vô lương tâm… Như vậy, chức năng
giáo dục và chức năng tự điều chỉnh hành vi đạo đức gắn bó mật thiết với chức năng
nhận thức.
- Chức năng nhận thức
Các quan điểm, tư tưởng đạo đức là kết quả phản ánh đời sống xã hội nhưng lại là
đó được nhận thức, con người phân biệt được cái đúng, cái sai, cái tốt, cái xấu, cái thiện,
cái ác trong đời sống. Trên cơ sở đó mà định hướng một cách đúng đắn hành vi của mình
trong thực tiễn.
1.1.2.2. Khái niệm giáo dục đạo đức
Giáo dục đạo đức là q trình tác động có mục đích, có kế hoạch nhằm trang bị
cho trẻ những hiểu biết về các quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức, rèn cho trẻ những
tình cảm và hành vi đạo đức phù hợp với yêu cầu xã hội mà trẻ đang sống. Trên cơ sở đó
hình thành những phẩm chất đạo đức, những nét tính cách của con người Việt Nam mới.
Đạo đức thuộc về giá trị tinh thần của con người nên việc giáo dục đạo đức cho trẻ
là tiếp thu một giá trị tinh thần. Triết học Mác Lênin cho rằng giáo dục đạo đức cho trẻ
lứa tuổi mầm non là một trong những nhiệm vụ quan trọng góp phần giáo dục tồn diện
nhân cách trẻ. Các nhà giáo dục Xơ Viết khẳng định: “Giáo dục đạo đức cho trẻ là sự kết
hợp chặt chẽ giữa giáo dục gia đình và nhà trường. Với chương trình giáo dục ở vườn trẻ,
nhà giáo đóng vai trị chủ đạo”. Thơng qua các hoạt động ở trường mầm non, những
phẩm chất đạo đức tốt đẹp ở trẻ dần dần được hình thành, trẻ sẽ có một cách hiểu đúng
đắn và thái độ thích hợp khi ứng xử.
Như vậy, làm thế nào để những chuẩn mực giá trị đạo đức của xã hội trở thành
chuẩn mực giá trị đạo đức của trẻ, giúp trẻ có thể tiếp thu một cách chủ động sáng tạo.
Do đặc điểm lứa tuổi, vốn kinh nghiệm xã hội và khả năng tư duy của trẻ mầm non còn
hạn chế, cho nên việc tiếp thu những giá trị tinh thần của xã hội, nhà giáo dục cần tạo cơ
hội cho trẻ hòa nhập vào thực tiễn của cuộc sống thông qua các tác phẩm thơ, dưới sự
hướng dẫn của cô giáo, trẻ thấy được mối quan hệ đạo đức, chuẩn mực đạo đức và từng
bước chủ động tiếp thu làm giàu vốn sống của mình.
17
Ở trẻ mầm non, cấu trúc tâm lí bên trong, đặc biệt là hệ thống những xúc cảm tình
cảm của trẻ có nhiều biến động phức tạp, ý thức của trẻ đã xuất hiện nhưng chưa bền
vững và chịu tác động của người lớn. Ở trẻ nhỏ thể hiện rõ nét tính bắt chước, khi người
lớn cho là tốt thì chúng cũng cho là tốt, khi người lớn cho là xấu thì trẻ cũng cho là xấu.
Vì vậy, việc giáo dục những chuẩn mực đạo đức cho trẻ mầm non khơng chỉ thực hiện
thơng qua hoạt động dạy mà cịn phải thực hiện ở mọi lúc mọi nơi qua sự gương mẫu của
cô giáo và những người lớn xung quanh trẻ.
Như vậy giáo dục đạo đức cho trẻ lứa tuổi mầm non là q trình tổ chức hướng
dẫn, kích thích trẻ tích cực tham gia vào hoạt động để lĩnh hội những chuẩn giá trị đạo
đức, văn hóa, xây dựng cho trẻ những phẩm chất đạo đức bên trong bao gồm: lòng nhân
ái, ý thức đạo đức, đồng thời bồi dưỡng cho trẻ những quy tắc hành vi ứng xử bên ngồi
và bên trong thống nhất với nhau.
Q trình hướng dẫn, kích thích hoạt động tích cực của trẻ phải được tổ chức phối
kết hợp với các hoạt động hàng ngày (hoạt động tạo hình, hoạt động làm quen với môi
trường xung quanh và đặc biệt là hoạt động cho trẻ làm quen với tác phẩm thơ) và dựa
trên những truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, có như thế việc giáo dục đạo đức
cho trẻ mầm non mới đạt hiệu quả cao.
1.1.2.3. Đặc điểm của quá trình giáo dục đạo đức cho trẻ 5-6 tuổi
Trước hết giáo dục đạo đức có sự gắn kết chặt chẽ giữa q trình học trên giờ học
và ngồi giờ học. Thơng qua các bài thơ, câu chuyện mà cô dạy trên giờ học, cô giáo rút
ra ý nghĩa giáo dục đạo đức cho trẻ ở cuối mỗi bài thơ, câu chuyện nhưng nếu chỉ dừng
lại ở phạm vi cuối tiết học thì rất có thể trẻ sẽ qn nhanh, khơng đọng lại trong trí nhớ
của trẻ lâu dài được cho nên cô giáo phải giáo dục trẻ mọi lúc, mọi nơi một cách thường
xuyên, liên tục cả trên giờ học và ngoài giờ học bằng các phương tiện giáo dục khác
nhau. Tại các trường mầm non, các tiết văn học là hình thức cơ bản cho các em làm quen
với tác phẩm văn học. Trên những giờ học này trẻ được làm quen với những tác phẩm
được quy định trong chương trình cho từng độ tuổi. Thời gian của một tiết cho trẻ tiếp
xúc với văn học không nhiều, với thời gian tối đa dành cho lứa tuổi mẫu giáo lớn là 3035 phút thì giáo viên cần phải giúp trẻ hiểu nội dung bài thơ, câu chuyện, hiểu tính cách,
hành động, lời nói của nhân vật, cảm nhận những hình ảnh đẹp, nhịp điệu, vần, chủ đề, tư
18
tưởng của tác phẩm. Tùy theo từng nội dung của tác phẩm mà cơ giáo có thể tổ chức giờ
học từ những địa điểm thích hợp, nhằm tạo cho trẻ một tâm trạng thoải mái, gần gũi với
cuộc sống thực. Với trẻ mầm non, hoạt động học chiếm một thời gian rất ngắn so với thời
gian của các hoạt động khác, do đó giáo viên cần phải tận dụng những thời gian đón trẻ,
trả trẻ, vui chơi, lúc di dạo chơi, tham quan để cho trẻ tiếp xúc với văn học. Trong những
thời gian ngoài giờ học này, giáo viên có thể đọc, kể cho trẻ nghe về tác phẩm mới hoặc
ôn luyện, củng cố nội dung của bài học trước qua đó giáo dục đạo đức cho trẻ thơng qua
ý nghĩa giáo dục của bài.
Thứ hai, có sự định hướng thống nhất các yêu cầu, mục đích giáo dục giữa các tổ
chức giáo dục trong và ngoài nhà trường. Nếu muốn việc giáo dục trẻ đạt được hiệu quả
cao nhất thì rất cần có sự thống nhất, cần sự phối hợp nhịp nhàng giữa các tổ chức giáo
dục trong và ngoài nhà trường từ các khâu tổ chức, thực hiện… nhằm đạt được hiệu quả
giáo dục cao nhất cho trẻ.
Thứ ba là tính biện chứng, phức tạp trong quá trình phát triển, biến đổi về nhân
cách của trẻ. Quá trình biến đổi về nhân cách của trẻ là quá trình biến đổi lâu dài và cần
phải có sự khéo léo trong cách giáo dục trẻ, ở từng độ tuổi, từng cá nhân trẻ lại có những
nét tâm lí nổi bật khác nhau nên khi giáo dục cô cần lựa chọn cách thức giáo dục sao cho
phù hợp với từng độ tuổi, từng giai đoạn phát triển. Trẻ mầm non rất dễ hình thành những
nét tính cách tâm lí nổi bật, trẻ có thể bộc lộ rõ cảm xúc của mình lúc vui, khi buồn, trẻ
có thể tỏ thái độ rất rõ ràng, dứt khoát đối với những nhân vật trong bài thơ, câu chuyện
như yêu – ghét, tốt – xấu, dũng cảm – nhút nhát… vì thế cơ giáo cần có sự am hiểu về
trẻ, khéo léo lồng ghép những nội dung cụ thể để giáo dục trẻ một cách sâu sắc và đạt
hiệu quả hơn.
Đặc điểm thứ tư là tính lâu dài của q trình hình thành, phát triển các phẩm chất
đạo đức. Tiếp theo, quá trình giáo dục đạo đức cho trẻ phát triển thông qua các hoạt động
tập thể nghĩa là khi cho trẻ tham gia vào các hoạt động tập thể, trẻ dễ hịa mình vào các
hoạt động chung từ đó có thái độ tích cực trong giao tiếp, trong cách ứng xử với bạn bè,
thầy cơ, biết đồn kết và giúp đỡ lẫn nhau trong các hoạt động tập thể. Đặc điểm cuối
cùng, có sự tương tác lâu dài giữa nhà trường và đối tượng giáo dục, tính chất khó khăn
trong việc đánh giá kết quả của sự phát triển đạo đức cá nhân.
19
1.1.2.4. Ý nghĩa của việc giáo dục đạo đức cho trẻ 5-6 tuổi
Phẩm chất đạo đức của con người được hình thành dưới ảnh hưởng của hệ thống
tác động có mục đích của giáo dục và điều kiện sống của trẻ ở trường mầm non và gia
đình. Giáo dục mầm non là khâu đầu tiên đào tạo nên nhân cách con người, có nhiệm vụ
hình thành cơ sở ban đầu của nhân cách. Do đó giáo dục đạo đức có vai trị quan trọng
trong tồn bộ sự nghiệp giáo dục con người mới .
Đạo đức là một giá trị được coi như là một nội dung quan trọng giáo dục ở nhà
trường, gia đình và xã hội. Giáo dục đạo đức góp phần hình thành và phát triển nhân cách
con người ngay từ thuở ấu thơ. Nhiệm vụ này cần được tiến hành từ gia đình đến nhà
trường và xã hội nhưng trong một sự thống nhất với nhau. Đó là một trong những mục
tiêu quan trọng của chương trình chăm sóc giáo dục trẻ mầm non hiện nay, góp phần hình
thành phát triển tồn diện nhân cách trẻ. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất quan tâm
đến việc giáo dục đạo đức cho trẻ. Người cho rằng: “Vì lợi ích mười năm trồng cây. Vì
lợi ích trăm năm trồng người”. Bác đã dạy thiếu niên nhi đồng “Yêu Tổ quốc, yêu đồng
bào …khiêm tốn, thật thà, dũng cảm”. Đây chính là nền tảng đạo đức chân chính của con
người ở mỗi thời đại, nó địi hỏi sự nghiệp trồng người của chúng ta phải hướng tới. Theo
V. A. Xukhomoki “Giáo dục lòng nhân ái cần được bắt đầu ngya từ thuở ấu thơ … Đó là
một mặt quan trọng nhất của việc hình thành đạo đức cho trẻ”. Dạy trẻ yêu tổ quốc, yêu
đồng bào, gắn bó tha thiết với quê hương, đất nước, sống thật thà, dũng cảm, không
khoan nhượng với điều ác và sự lừa dối là điều hết sức cần thiết. Tất cả những nội dung
giáo này đều chứa đựng trong tác phẩm văn học thiếu nhi rất sâu sắc.
Nhờ có giáo dục, đạo đức ở trẻ được hình thành và phát triển ở mức độ ngày càng
cao, phạm vi càng rộng. Những hiểu biết, nhu cầu về đạo đức, tình cảm đạo đức, đặc biệt
là hành vi thói quen đạo đức ngày càng phong phú và hoàn thiện. Kết quả là trẻ dần hình
thành và phát triển những cách ứng xử trong xã hội như: quan hệ với người thân trong gia
đình, với bạn bè, thầy cô, mọi người, với thiên nhiên… Những câu ca dao, tục ngữ: “Bầu
ơi thương lấy bí cùng. Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”, “Công cha như núi
Thái Sơn. Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra …” dạy trẻ biết ơn công sinh thành
dưỡng dục của cha mẹ, biết hi sinh chia sẻ với mọi người …
20
`
Dưới sự hướng dẫn của giáo viên trong các hoạt động ở trưởng mầm non, đặc biệt
là hoạt động cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học, trẻ hình thành những tình cảm bạn
bè, tình yêu thương cha mẹ, ơng bà, tình đồn kết gắn bó trong tập thể, biết chia sẻ, giúp
đỡ nhau trong cuộc sống. Giáo dục đạo đức cho trẻ ngay từ lứa tuổi mầm non có vai trị
quan trọng, tuy nhiên nhiệm vụ này cần phải được tiến hành một cách tự nhiên, thoải
mái, không làm mất đi sự hồn nhiên, ngây thơ của trẻ.
Như vậy, để xây dựng một nhân cách bền vững cho con người theo định hướng xã
hội chủ nghĩa phải lấy cái đức làm gốc thì ngay ở lứa tuổi mầm non đã rất cần sự quan
tâm giáo dục nhân cách tồn diện nói chung và giáo dục đạo đức nói riêng. Trong QĐ
55/1990/BGD quy định mục tiêu giáo dục mầm non đã chỉ rõ: “Hình thành những cơ sở
ban đầu của nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam : Giàu lòng yêu
thương, biết quan tâm, nhường nhịn, giúp đỡ những người gần gũi…”.
Các cơng trình nghiên cứu về tâm lí, giáo dục mầm non đều khẳng định: Cơ cấu
và cơ chế quan trọng của con người hình thành trong những năm đầu tiên của cuộc đời
trong đó 80% trẻ có tư cách đạo đức hình thành từ lứa tuổi mầm non. Do đó việc giáo dục
đạo đức cho trẻ ngay từ lứa tuổi mầm non là rất quan trọng và cực kì cần thiết. Đây chính
là phần “Người” nhất của mỗi con người, cho nên cần phải được quan tâm đúng mức.
1.1.2.5. Nội dung giáo dục đạo đức cho trẻ 5-6 tuổi
* Giáo dục lòng nhân ái
Lịng nhân ái là tình thương u con người chính là nhân lõi của đạo đức mỗi
người vì thế cần phải coi trọng giáo dục đạo đức cho trẻ em bắt đầu từ tuổi thơ với một số
nội dung cơ bản sau đây:
Giáo dục tình yêu gia đình : Gia đình là tế bào của xã hội là mơi trường giáo dục
đầu tiên của mỗi con người, là môi trường gắn bó đầu tiên của mỗi con người với người
khác. Ở gia đình có tình u và trách nhiệm đầu tiên của mỗi con người (giữa ông bà cha
mẹ, anh chị em …) Nếu khơng có được tình u và trách nhiệm trong gia đình sẽ khơng
thể có được lịng nhân ái và tinh thần trách nhiệm của người công dân sau này. Trẻ mẫu
giáo cần hiểu rằng, trong gia đình mọi người cần gắn bó thường xun trên tình ruột thịt
cần sơng hịa thuận và quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Trong gia đình mọi người đều được
bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, đó là mối quan hệ hết sức nghiêm túc, cần thiết cho
21
mỗi gia đìng và tồn thể xã hội mà mọi người phải tơn trọng (ví dụ tơn trọng q mến
cha mẹ, anh chị là trẻ em không nên quấy rầy cha mẹ đang bận làm hoặc anh chị đang
học bài…)
Giáo dục tình yêu và sự quan tâm đối với mọi người từ trong gia đình đến nhóm
bạn bè trường lớp mẫu giáo. Yêu cầu trẻ biết sẵn sàng giúp đỡ cơ giáo và bạn bè; kính
trọng quan tâm giúp đỡ mọi người nhất là em bé, người già, người yếu, yêu quý, chăm
sóc , nhường nhịn các em nhỏ, niềm nở chan hịa với mọi người.
Giáo dục tình u thiên nhiên, yêu cuộc sống, yêu vật nuôi cây trồng, …giáo dục
trẻ ý thức bảo vệ thiên nhiên, chăm sóc động thực vật bảo vệ mơi trường, góp phần làm
cho mơi trường thêm xanh sạch đẹp.
Cùng với việc giáo dục lòng nhân ái, cần giáo dục cho trẻ những mầm sống ban
đầu về lòng yêu nước, tự hào dân tộc, lòng biết ơn các danh nhân, các anh hùng dân tộc.
Thông qua việc làm quen với nền văn hóa dân tộc, tên tuổi các danh nhân (nhất là Bác
Hồ rất gần gũi và cùng kính yêu đối với các cháu mẫu giáo) các danh lam thắng cảnh, các
ngày lễ lớn, những sự kiện và di tích lịch sử của dân tộc Việt Nam… Tất nhiên sự hiểu
biết của trẻ mẫu giáo về nội dung này cịn hạn chế, song nó là tiền đề cần thiết mang tính
chất tiềm tàng để sau này phát triển tình cảm đạo đức đối với đất nước và dân tộc ở trẻ
em.
* Giáo dục quan hệ bạn bè xây dựng tình bạn bè trong nhóm chơi và tình bạn
trong lớp học
Logic phát triển hoạt động chơi ở trẻ là từ chơi một mình đến cạnh nhau rồi cùng
nhau. Đến tuổi mẫu giáo trẻ đã chơi cùng nhau - một quan hệ mới được hình thành trong
mối quan hệ xã hội của trẻ. Điều này có ảnh hưởng sâu sắc đến việc hình thành bộ mặt
đạo đức của trẻ: đó là nhóm bạn bè.
Đối với trẻ 5-6 tuổi, trẻ đã biết tổ chức nhóm chơi, phân vai chơi và có thái độ cần
thiết với các hành vi không đúng quy tắc sống của quan hệ bạn bè, chơi với bạn đã trở
thành nhu cầu không thể thiếu của trẻ (vì thế trẻ trốn ơng bà để ra chơi với bạn bè cùng
tuổi bên hàng xóm và đã có ảnh hưởng lẫn nhau về tính cách hành vi đạo đức. Giáo dục
quan hệ bạn bè của trẻ em lúc này cần được đặc biệt quan tâm để qua đó cho trẻ có được
22
khái niệm về tốt, xấu, hư, ngoan và cách cư xử thế nào cho đúng (đoàn kết , thân ái, quan
tâm đến nhau, giúp đỡ và học tập lẫn nhau…)
Từ quan hệ bạn bè mà nảy sinh quan hệ cộng đồng trẻ .Mối quan hệ cá nhân trẻ
với cả lớp có ý nghĩa lớn đến việc hình thành nhân cách trẻ.Trẻ rất thích tham gia vào
hoạt động chung, một lời khen của tập thể có ý nghĩa lớn khích lệ và củng cố nét tính
cách đẹp của trẻ, song trẻ cũng bắt chước những việc làm tự phát không hay của số đơng.
Vì vậy nhiệm vụ của cơ giáo mầm non lúc này là phải xây dựng tập thể lớp thành
lớp thân ái, có xu hướng đạo đức tốt đẹp, lớp có mối quan tâm lẫn nhau… để quan một
tập thể lớp mà cô gây ảnh hưởng tốt đẹp đến việc hình thành nhân cách trẻ theo nguyên
tắc “giáo dục trong tập thể” và bằng phương pháp giáo dục tác động song song của nhà
giáo dục Xô Viết vĩ đại A. X. Macarenco.
* Giáo dục các quy tắc lễ phép và các hành vi văn hóa
Trẻ mẫu giáo cần được giáo dục những quy tắc lễ phép như : Chào hỏi khi gặp
người lớn tuổi quen biết ; biết cám ơn khi nhận sự giúp đỡ; biết xin lỗi khi làm phiền
người khác. Những quy tắc hành vi văn hóa ở những nơi công cộng (sạch sẽ, vệ sinh,
không vứt hoa, làm hỏng cây, không vẽ bẩn, không làm ồn…). Có cách cứ xử có văn hóa
với mọi người (giúp đỡ không trêu trọc người tàn tật , nâng đỡ và dỗ dành em bé ngã…)
Những hành vi văn hóa trên là cơ sở để hình thành tính tốt của trẻ. Người lớn cần giúp trẻ
khẳng định những tính tốt và loại tính xấu, tìm ra ngun nhân dẫn đến thói xấu để giúp
trẻ khắc phục tình trạng này. Một số tính tốt cần được xây dựng và khẳng định ở trẻ đó
là:
Tính tự lập: Phù hợp với trẻ mẫu giáo cái gì cũng “cháu làm được” nên động viên
tạo điều kiện cho cháu làm lấy những việc phù hợp với sức, nhất là lao động tự phục vụ
để trẻ khơng cịn nhõng nhẽo, khơng ỷ lại vào người lớn
Tính mạnh dạn: Trong giao tiếp với mọi người, hồn nhiên thẳng thắn bày tỏ ý
nghĩa và tình cảm thái độ của mình; sẵn sàng uống thuốc, tiêm chủng khi cần thiết; sẵn
sàng hát múa khi người khác yêu cầu, không nhút nhát e dè, không sợ nước khi tắm rửa,
không sợ ma, khơng sợ bóng đêm…
Tính kỉ luật: Biết nghe lời, biết tôn trọng những quy tắc chung, biết tự kiềm chế…
23
Cần chú ý là việc giáo dục những nét tính các và các quy tắc hành vi cho trẻ mẫu
giáo phải phù hợp với đặc điểm lứa tuổi và cả đặc điểm tâm lý cá nhân, khơng vì mục
đích giáo dục mà làm trẻ già trước tuổi, mất tính ngây thơ hồn nhiên của trẻ.
1.1.2.6. Nhiệm vụ của giáo dục đạo đức cho trẻ 5-6 tuổi
Trong mục tiêu giáo dục mầm non, phần nói về đạo đức cho trẻ em có viết:
“Hình thành ở trẻ những cơ sở đầu tiên của nhân cách con người mới xã hội chủ
nghĩa Việt Nam: giàu lòng thương, biết quan tâm nhường nhịn giúp đỡ những người gần
gũi (Bố mẹ, bạn bè, cô giáo…) thật thà, lễ phép, mạnh dạn, hồn nhiên.”
Đây chính là nhiệm vụ giáo dục đạo đức cho trẻ em tuổi mầm non, nhiệm vụ này
nhằm hình thành cho trẻ những biểu tượng ban đầu về đạo đức và rèn luyện những thói
quen tốt biểu hiện hành vi đạo đức của trẻ. Khi rèn luyện các thói quen hành vi đạo đức
cho trẻ mầm non, cơ giáo cần giải thích để trẻ hiểu rõ các biểu tượng đạo đức, tại sao
phải thế, như thế là tốt, xấu, ngoan, hư, đúng, sai, nên, không nên, đẹp và không đẹp
trong hành vi đối xử và trong việc làm hằng ngày. Từ việc làm cho trẻ có những biểu
tượng đúng đắn về đạo đức, cần kích thích để trẻ có nhu cầu hình thành các động cơ hành
vi. Bằng thực tiễn, các sự việc cụ thể trong đời sống trẻ em, cô giáo giải thích và định
hướng cho nên hành động như thế nào? Ví dụ: Yêu lao động, yêu mến con người là biết
giữ gìn đồ chơi, biết thân thiện với bạn bè, giúp đỡ bạn bè, chăn sóc vật ni, cây trồng,
giúp đỡ người khác nhất là kính trọng người già, tàn tật ốm yếu. Người bạn tốt là biết
nhường nhịn đồ chơi, khơng làm mất lịng bạn, thỏa mãn việc chơi cùng nhau, quan tâm
giúp đỡ bạn vượt qua khó khăn…
Cơ giáo cần giúp trẻ hiểu biết về đạo đức một cách cụ thể gắn với cuộc sống thực
của trẻ, giúp trẻ định hướng đến các giá trị ấy bằng sự ủng hộ cái hay, đẹp, đúng trong
đạo đức mong muốn làm điều tốt và thực hành rèn luyện các thói quen hành vi đạo đức.
Nhiệm vụ giáo dục đạo đức đặt ra phải phù hợp với độ tuổi. Ở trẻ 5-6 tuổi các biểu tượng
đạo đức được làm rõ hơn và hình thành ở trẻ động cơ hành vi (muốn ngoan thì phải làm
gì? Vâng lời cha mẹ, cơ, thân ái với bạn bè, nhường nhịn đồ chơi cho bạn… để qua việc
làm tốt mà đạt được bé ngoan, được khen được mọi người yêu mến).
24
Như vậy thì việc hình thành các động cơ hành vi đạo đức được thực hiện thông
qua việc tổ chức các hoạt động khác của trẻ, tổ chức việc tiếp xúc giữa trẻ với nhau và
với người lớn.
Do tính chất tổng hợp của chương trình giáo dục mầm non và xuất phát từ lơgic
của q trình hình thành và phát triển nhân cách nên việc hình thành niềm tin, thái độ và
hành vi đạo đức của trẻ mầm non đều được thực hiện đồng thời một lúc trong một quá
trình gọi là quá trình giáo dục. Sẽ là sai lầm nếu tách biệt các nhiệm vụ trên thành các
khâu riêng biệt. Điều này dễ dàng được chấp nhận chính trong việc giáo dục đạo đức cho
trẻ em ở gia đình và tiếp nối ở trường mầm non.
1.1.3. Tác phẩm thơ của Phạm Hổ đối với việc giáo dục đạo đức cho trẻ 5-6 tuổi
1.1.3.1. Vài nét về nhà thơ Phạm Hổ
Những ai quan tâm tới nền văn học Việt Nam hiện đại hẳn đều biết đến tên tuổi
nhà văn Phạm Hổ. Ông là một nhà văn chuyên viết cho thiếu nhi. Hơn nửa thế kỉ cầm
bút, Phạm Hổ đã tạo được một sự nghiệp văn chương phong phú gồm thơ chuyện và
kịch.
Phạm Hổ có bút danh là Hồ Huy. Phạm Hổ sinh ngày 28 tháng 11 năm 1926 tại xã
Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định trong một gia đình nhà Nho có truyền thống
văn học. Ơng có anh trai là nhà thơ Phạm Văn Ký và em trai là Phạm Thế Mỹ. Được sinh
ra trong một gia đình có truyền thống thơ ca như vậy nên Phạm Hổ chịu ảnh hưởng rất
nhiều từ những người thân khi sáng tác. Đây chính là tiền đề để Phạm Hổ trở thành một
trong những cây đại thụ của nền văn học nước nhà Quy Nhơn là nơi có nhiều danh lam
thắng cảnh. Những cảnh đẹp của quê nhà đã tạo nguồn cảm hứng cho Phạm Hổ trong rất
nhiều trang viết của ông. Mỗi khi có dịp viết về miền đất và con người Bình Định, Phạm
Hổ ln tỏ ra say sưa với những tình cảm quê hương ngọt ngào, nhất là khi nó gắn liền
với những ký ức tuổi thơ trong trẻo, mộc mạc mà thấm sâu trong lịng ơng. Đây cũng là
mảnh đất giàu truyền thống yêu nước, là nơi nuôi dưỡng nhiều nhà thơ, nhà văn nổi tiếng
như: Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử… Ông đỗ bằng thành chung năm 1943 tuy
nhiên do gặp tai nạn nên ông không thể ra Huế học bán trú tại trường quốc học Huế. Ơng
làm thư kí cơng nhật cho tịa sứ Quy Nhơn để đỡ mẹ nuôi các em và tự học để thi tú tài.
Cái duyên với văn học nghệ thuật thực sự bắt đầu nơi ông khi cách mạng tháng 8
thành công, dẫu rằng ông vốn say mê văn học từ nhỏ . Làm thư kí thường trực ở chi hội
25
văn hóa Cứu Quốc do nhà thơ Trần Mai Ninh phụ trách rồi dự học lớp hội họa kháng
chiến liên khu 5 do họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung chủ nhiệm rồi đi thực tế sáng tác ở miền tây
Bình Định . Phạm Hổ vừa vẽ vừa làm thơ như ông thừa nhận có khi mơ làm thơ hơn vẽ.
Đến đầu năm 1950 Phạm Hổ được cử đi dự hội văn học toàn quốc ở Việt Bắc với tư cách
là nhà thơ trẻ liên khu 5
Trong khoảng thời gian 1952 - 1953, Phạm Hổ có “hai năm vàng” ở q ơng vừa
làm cơng tác văn hóa thơng tin vừa thâm nhập sâu vào thực tế đời sống để có thể hiểu thế
nào là nông dân, thế nào là chân lấm tay bùn, thế nào là đầu tắt mặt tối. Phạm Hổ xem đó
là một tư liệu cần thiết để một nhà văn sáng tác phục vụ nhân dân.
Tháng 1 năm 1954 Phạm Hổ có mặt ở Hà Nội và làm cơng tác đối ngoại ở Hội
Văn nghệ Trung Ương. Sau Hiệp định Genevơ năm 1954, ông ra Bắc tham gia sáng lập
Hội nhà văn miền Bắc (1957) và cũng là một trong những người đầu tiên hình thành nhà
xuất bản Kim Đồng - nơi chuyên xuất bản văn hóa phẩm dành cho trẻ em. Trong những
năm chống Mĩ, Phạm Hổ làm việc trong nhiều cương vị ở nhà xuất bản Kim Đồng, nhà
xuất bản Hội làm việc trong nhiều cương vị ở nhà xuất bản Kim Đồng, nhà xuất bản Hội
Bình, Vĩnh Linh để lấy tài liệu sáng tác. Đất nước thống nhất, Phạm Hổ vẫn tiếp tục đi
nhiều nơi và sáng tác, nhất là sáng tác cho thiếu nhi Việt Nam.Với lòng yêu trẻ, yêu con
người và cuộc sống thật đôn hậu nhà thơ Phạm Hổ đã đến với ngôi nhà tuổi thơ - Cung
Thiếu Nhi Hà Nội ngay từ ngày đất nước được hồn tồn giải phóng. Trong suốt 30 năm
vun trồng những mầm non, mặc dù tuổi cao nhưng nhà thơ Phạm Hổ không quản ngại vất
vả bất chấp thời tiết nắng mưa, bằng chiếc xe đạp mini cũ kĩ ông miệt mài đi từ nhà đến
Cung Thiếu Nhi vào những ngày thứ 7, chủ nhật, để gặp gỡ tìm hiểu đời sống tâm hồn
các em, dạy các em biết yêu cái đẹp, yêu thiên nhiên và gợi cho trẻ có cuộc sống phong
phú về vật chất và về tinh thần. Từ tình u thương con trẻ, ơng đã truyền đạt những tình
cảm, tình yêu đến cho tuổi thơ. Các thế hệ học sinh được ơng chăm sóc đã lần lượt
trưởng thành và nhiều người đã trở thành những tài năng thật sự, họ mãi biết ơn sự dạy
dỗ của ơng. ừ năm 1983, ơng là Phó trưởng ban đối ngoại của Hội Nhà văn Việt Nam và
là Chủ tịch Hội đồng văn học thiếu nhi của hội. Ngày 4 tháng 5 năm 2007, Phạm Hổ qua
đời ở tuổi 81. Song với thiếu nhi Việt Nam, ông già tóc bạc ấy vẫn mãi là người bạn thân
thiết của tuổi nhỏ.
Phạm Hổ sáng tác nhiều thể loại thơ, truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết và phê
bình văm học… cho cả người lớn và trẻ em, nhưng nói đến Phạm Hổ trước hết phải nói