Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Khóa luận tốt nghiệp thiết kế và sử dụng trò chơi học tập nhằm rèn luyện kĩ năng giữ an toàn thân thể cho trẻ 4 5 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 105 trang )

1

PHẦN I. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giáo dục là quốc sách hàng đầu và là chìa khóa mở cửa vào tương lai, đó là
cơ sở, là động lực để thúc đẩy phát triển xã hội. Nhiệm vụ của giáo dục là phải đào
tạo cho đất nước những con người năng động, sáng tạo, có tư duy sắc bén, có tri
thức, có kĩ năng và có khả năng giải quyết vấn đề để thích ứng với sự phát triển của
xã hội hiện nay. Trong hệ thống giáo dục quốc dân, bậc học mầm non là bậc học tạo
tiền đề cho giáo dục phổ thơng. Chính vì thể, Đảng và Nhà nước luôn coi trọng bậc
học giáo dục mầm non, xác định nhiệm vụ giáo dục mầm non là thực hiện việc ni
dưỡng, chăm sóc, giáo dục nhằm giúp trẻ phát triển cả về thể chất, tình cảm, trí tuệ,
thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào lớp
Một. Hiện nay, khi xã hội càng phát triển, nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh làm thay
đổi cuộc sống con người. Song song với những mặt tích cực thì cịn có những mặt
tiêu cực, gây nguy hại cho con người, đặc biệt là trẻ em. Trẻ 4-5 tuổi thường rất
hiếu động, thích khám phá thế giới xung quanh vì thế việc trẻ thường xuyên phải
đối mặt với những nguy hiểm là điều khơng thể tránh khỏi. Bên cạnh đó, mỗi khi
đứng trước nguy hiểm thay vì giải thích cho trẻ vì sao và hậu quả như thế nào thì
cha mẹ lại đứng ra ngăn cản, cấm đốn trẻ. Với tâm lý thích tìm hiểu, khám phá, vơ
tình sự ngăn cấm này lại khiến trẻ tị mị. Do đó nếu trẻ em khơng được trang bị kĩ
năng cần thiết để ứng phó và vượt qua những thách thức mà chỉ biết hành động theo
cảm tính thì rất dễ gặp trở ngại, rủi ro.
Từ trước đến nay, việc bảo vệ và chăm sóc trẻ luôn được Đảng và Nhà nước
ta quan tâm và đặt lên hàng đầu. Sự bảo vệ và chăm sóc này bao gồm việc trang bị
cho trẻ những kĩ năng cần thiết để giúp trẻ tồn tại và phát triển. Kĩ năng giữ an toàn
thân thể là một trong những kĩ năng quan trọng mà người lớn cần trang bị ngay cho
trẻ, giúp các em hiểu và biến những kiến thức về kĩ năng giữ an toàn thân thể thành
hành động cụ thể trong quá trình hành động thực tiễn với bản thân, với người khác,
với xã hội, ứng phó trước nhiều tình huống khác nhau trong cuộc sống để bản thân
có sự an tồn.


Ngày nay, tình trạng trẻ em bị tai nạn thương tích, bị lạm dụng sức lao động,
xâm hại tình dục, bắt cóc,…ngày càng gia tăng ở nhiều quốc gia, trong đó lứa tuổi


2

mầm non là lứa tuổi có thể gặp phải bất cứ các tình trạng đó nhất. Vì thế, ở các
trường mầm non hiện nay, việc giáo dục cho trẻ về bảo vệ sự an toàn của bản thân
trẻ được đặt lên hàng đầu. Trẻ được học, được giáo dục qua các hoạt động học, hoạt
động ngoại khóa và các trị chơi ở lớp, đặc biệt trò chơi học tập. Việc giáo dục trẻ
giữ an toàn thân thể qua việc cho trẻ tham gia trị chơi học tập góp phần giúp trẻ
hứng thú với bài học và biết được các kiến thức để bảo vệ và giữ an tồn cho chính
mình. Trò chơi học tập còn là phương tiện củng cố tri thức, rèn luyện kĩ năng kích
thích cho trẻ phát huy tính tích cực, tính sáng tạo trong hoạt động nhận thức và hiểu
biết nhờ các tình huống chơi hấp dẫn.
Hiện nay, ở các trường mầm non các giáo viên đã sử dụng trò chơi học tập
như một phương tiện giúp trẻ khám phá các sự vật, hiện tượng xung quanh trẻ một
cách hiệu quả. Các trò chơi được đưa vào trong nhiều thời điểm, đặc biệt là trong
tiết học và trong góc học tập. Một mặt giúp giáo viên củng cố kiến thức cho trẻ, mặt
khác mang lại cho trẻ nhiều kiến thức. Song trên thực tế số lượng trò chơi học tập
giúp trẻ biết kĩ năng giữ an tồn thân thể cho bản thân cịn chưa nhiều, trẻ còn chưa
hiểu biết về việc làm thế nào để giữ an toàn cho bản thân. Một số trường mầm non
ở miền núi trên các địa bàn cả nước nói chung và đại bản tỉnh Phú Thọ nói riêng, trẻ
chưa có cơ hội được tiếp xúc, giáo dục và hiểu biết về trị chơi học tập và giữ an
tồn thân thể.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tơi chọn đề tài “ Thiết kế và sử dụng
trò chơi học tập nhằm rèn luyện kĩ năng giữ an toàn thân thể cho trẻ 4-5 tuổi”
giúp giáo viên mầm non và sinh viên lựa chọn và sử dụng có hiệu quả một số trò
chơi học tập nhằm giúp trẻ rèn luyện kĩ năng giữ an tồn thân thể của mình.
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

2.1. Về lí luận
Làm rõ cơ sở lí luận về giữ an tồn thân thể và kĩ năng giữ an toàn thân thể
cho trẻ 4-5 tuổi; vai trò của trò chơi học tập đối với việc rèn luyện kĩ năng giữ an
toàn thân thể cho trẻ 4-5 tuổi.


3

Xác định cơ sở khoa học từ đó đề xuất về thiết kế trò chơi học tập nhằm rèn
luyện kĩ năng giữ an toàn thân thể cho trẻ 4-5 tuổi. Thiết kế hệ thống các trò chơi
học tập nhằm rèn luyện kĩ năng giữ an toàn thân thể cho trẻ 4- 5 tuổi.
2.2. Về thực tiễn
Xác định rõ mức độ biểu hiện về kĩ năng giữ an toàn thân thể của trẻ 4-5 tuổi
tại một số trường mầm non trên địa bàn Thị xã Phú Thọ.
Đề tài là tài liệu tham khảo cần thiết cho sinh viên ngành Giáo dục mầm non
và giáo viên mầm non quan tâm đến vấn đề tổ chức trò chơi học tập nhằm rèn luyện
kĩ năng giữ an toàn thân thể của trẻ 4-5 tuổi.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn về việc thiết kế trò chơi học tập nhằm
rèn luyện kĩ năng giữ an toàn thân thể cho trẻ 4-5 tuổi. Thiết kế trò chơi học tập
nhằm rèn luyện kĩ năng giữ an toàn thân thể cho trẻ 4-5, từ đó giúp trang bị cho trẻ
kiến thức và hình thành thái độ tích cực cho trẻ trong việc đảm bảo an toàn cho bản
thân.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về thiết kế trò chơi học tập nhằm rèn luyện kĩ
năng giữ an toàn thân thể cho trẻ 4-5 tuổi.
- Nghiên cứu thực trạng về thiết kế trò chơi học tập nhằm rèn luyện kĩ năng
giữ an toàn thân thể cho trẻ 4-5 tuổi.
- Thiết kế và sử dụng trò chơi học tập nhằm rèn luyện kĩ năng giữ an toàn
thân thể cho trẻ 4-5 tuổi.

- Thực nghiệm sư phạm hệ thống trò chơi học tập nhằm rèn luyện kĩ năng
giữ an toàn thân thể cho trẻ 4-5 tuổi.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Quá trình rèn luyện kĩ năng giữ an toàn thân thể cho trẻ 4-5 tuổi thơng qua
trị chơi học tập.


4

5.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về nội dung nghiên cứu: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về thiết kế
trò chơi học tập nhằm rèn luyện kĩ năng trước đồ vật nguy hiểm; trước động, thực
vật nguy hiểm; trước những tình huống,nơi, địa điểm nguy hiểm để giữ an toàn thân
thể cho trẻ 4-5 tuổi.
Phạm vi về khách thể nghiên cứu: 50 trẻ 4-5 tuổi và 20 giáo viên đang giảng
dạy lớp 4-5 tuổi tại trường mầm non Hùng Vương, trường mầm non Phong Châu,
trường mầm non Lê Đồng - thị xã Phú Thọ - tỉnh Phú Thọ.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
Sưu tầm, đọc, phân tích những tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu để
xây dựng các khái niệm công cụ cho đề tài và các vấn đề lí luận có liên quan đến
việc thiết kế trị chơi học tập nhằm rèn luyện kĩ năng giữ an toàn thân thể cho trẻ 45 tuổi.
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6.2.1. Phương pháp quan sát
Quan sát và ghi chép quá trình thiết kế và trò chơi học tập của giáo viên mầm
non nhằm rèn luyện kĩ năng giữ an toàn thân thể cho trẻ 4-5 tuổi.
Quan sát và ghi chép các biểu hiện và mức độ rèn luyện kĩ năng giữ an tồn
thân thể của trẻ 4-5 tuổi thơng qua thiết kế trò chơi học tập.
6.2.2. Phương pháp đàm thoại

Trao đổi với giáo viên để có thêm thơng tin về vấn đề nghiên cứu. Trò
chuyện với trẻ 4-5 tuổi để biết được mức độ và biểu hiện rèn luyện kĩ năng giữu an
toàn thân thể cho trẻ.
6.2.3. Phương pháp điều tra Anket
Sử dụng phiếu Anket bằng hệ thống câu hỏi đóng và mở để điều tra giáo viên
mầm non. Từ đó xác định rõ nhận thức của giáo viên mầm non về việc thiết kế trò
chơi học tập nhằm rèn luyện kĩ năng giữ an toàn thân thể cho trẻ 4-5 tuổi.


5

6.2.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Kiểm nghiệm và đánh giá tính khả thi của việc thiết kế trị chơi học tập nhằm
rèn luyện kĩ năng giữ an toàn thân thể cho trẻ 4-5 tuổi.
6.2.5. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng cơng thức tốn học để xử lí số liệu kết quả thu được qua điều tra
thực trạng và kinh nghiệm.
7. Cấu trúc khóa luận
Kết cấu khóa luận gồm ba phần : Mở đầu, Nội dung, Kết luận và kiến nghị.
Phần nội dung bao gồm:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài
Chương 2: Thực trạng và thiết kế một số trò chơi học tập nhằm rèn luyện kĩ
năng giữ an toàn thân thể cho trẻ 4-5 tuổi
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm
Kết luận và kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Phụ lục.


6


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Những nghiên cứu ở nước ngoài
Kĩ năng giữ an toàn thân thể là một trong những kĩ năng sống quan trọng của
con người, đặc biệt là trẻ em. Dựa vào luận án của cô Mai Hiền Lê, chúng tơi có
được một số tài liệu được phân loại như sau [17]
Hướng thứ nhất: Triển khai giáo dục kĩ năng giữ an toàn thân thể trong
những chương trình cụ thể của các tổ chức chính phủ và phi chính phủ các nước
trên thế giới.
Cơng ước của Liên Hiệp Quốc về quyền trẻ em (1989) ở điều 19 đã khẳng
định " Vì chưa đạt đến sự trưởng thành về mặt thể chất và trí tuệ, trẻ em cần phải
được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, trước cũng như sau khi ra đời. Các bậc cha mẹ là
người chịu trách nhiệm chính trong việc ni nấng và giáo dục con cái mình". "
Khơng ai được phép làm tổn hại đến trẻ em. Các nước khi kí phê chuẩn công ước
này sẽ phải thực hiện các biện pháp nhằm bảo vệ trẻ em, đồng thời có các biện pháp
giáo dục phù hợp nhằm hình thành kĩ năng tự bảo vệ cho mình".
Trong giai đoạn 1990-1995, trong dự án về "Trẻ em và mơi trường gia đình"
của Unesco phối hợp cùng với Unicef và tổ chức Y tế thế giới tập trung cơng sức
vào những lĩnh vực có ý nghĩa sống cịn như dinh dưỡng, kích thích trẻ phát triển
tồn diện, cách ni dạy trẻ an tồn... Unesco tìm cách góp phần mình một cách lâu
dài và có hiệu quả để giúp trẻ phát triển và tự tin vào đời.
Hội nghị cộng đồng an toàn khu vực châu Á lần thứ sáu được tổ chức tại
Toshiba , Nhật Bản tháng 12/2012 với chủ đề "Hãy xây dựng năng lực của cộng
đồng để an tồn mỗi ngày và phịng chống thảm họa". Nội dung của Hội nghị nhằm
đánh giá chính sách và các chương trình can thiệp tại cộng đồng, ngơi nhà an tồn,
trường học an tồn và an tồn cho trẻ em...



7

Tại nhiều nước phương tây, thanh thiếu niên đã được học những kĩ năng về
tình huống sẽ xảy ra trong cuộc sống, cách đối diện và đương đầu với những khó
khăn, cách vượt qua những khó khăn đó cũng như cách tránh những mâu thuẫn,
xung đột, bạo lực giữa người với người. Đó là những kĩ năng sống quan trọng để
con người có thể ứng phó với những rủi ro trong cuộc sống.
Ở các nước trong khu vực Châu Á việc nghiên cứu và áp dụng thứ nghiệm
giáo dục các kĩ năng tự bảo vệ bản thân cũng rất được quan tâm. Tại Nhật, một
quốc gia thường xuyên xảy ra động đất và các thảm họa thiên nhiên, nên việc giáo
dục kĩ năng tự bảo vệ cho trẻ được tiến hành tự bậc học mầm non với những bài học
tình huống mô phỏng như thực tế giúp trẻ biết cách tự bảo vệ mình. Cịn tại Hàn
Quốc, học sinh tiểu học cũng được học cách đối phó thích ứng với các tai nạn như
cháy, động đất, thiên tai...
Như vậy, hầu hết các quốc gia đều có những chương trình nhằm hình thành
kĩ năng giữ an tồn cho người học. Những chương trình này nhằm mang đến cho
người học những kĩ năng cơ bản để họ nhận diện và ứng phó với những nguy hiểm
có thể gặp phải giúp con người được an toàn.
Hướng thứ 2 : Giáo dục kĩ năng giữ an tồn thân thể thơng qua những tác
phẩm cụ thể
Bên cạnh các chương trình về giáo dục kĩ năng giữ an tồn nói trên thì có rất
nhiều tác giả cũng dành sự quan tâm của mình với chủ đề này. Nhiều tác phẩm hữu
ích được ra đời nhằm hỗ trợ sự hoàn thiện các kĩ năng giữ an toàn của người học.
Trong đó có thể kể đến những tác phẩm sau:
Được biên soạn nhằm đóng góp vào Hội nghị thượng đỉnh về trẻ em do Liên
Hiệp quốc tổ chức ở Newyork tháng 9-1990, cuốn sách " Để con em vững bước vào
đời" - Pour un bon départ dans la vie" tác giả Robert G.Myers đã chỉ rõ nguyên tắc
để cứu trẻ em sinh tồn, phải đi đôi với cố gắng làm sao cho cuộc sống có ý nghĩa.
Những người đang cố gắng bảo vệ, giáo dục và giúp trẻ em trưởng thành càn lấy

định để nói trên làm kim chỉ nam
Trong cuốn sách " Chương trình giảng dạy kĩ năng sống" (Life Skill
Education and Curriculum) (2006) tác giả Gracious Thomas nhấn mạnh vai trò của


8

giáo viên nhằm giáo dục kĩ năng giữ an toàn cho trẻ dựa vào hệ thống giá trị cho
công tác phịng, chống nhiễm HIV/AIDS. Ngồi việc phát triển một kế hoạch khả
thi của hành động, tác giả cũng đã phát triển một chương trình có thể điều chỉnh bởi
hệ thống giáo dục trong nước.
Còn trong cuốn " Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh - thưởng thức an
toàn" của nhà xuất bản Quảng Tây năm 2008 được Vũ Hoàng Minh và Minh Hào
dịch năm 2009 xuất bản bởi nhà xuất bản giáo dục giúp trẻ nắm được những
nguyên tắc cơ bản để thốt khỏi hồn cảnh nguy hiểm như : giữ bình tĩnh hoặc cách
tự bảo vệ mình và khơng ngừng phát tín hiệu cầu cứu, đồng thời tác giả cũng đưa ra
những lời khuyên để giúp trẻ có được sự an tồn khi tham gia giao thơng, an tồn
khi sử dụng điện, khí đốt, an tồn trong luyện tập thể dục thể thao, phòng chống bạo
lực...
Những câu hỏi như "vật này có an tồn khơng?", " các rủi ro có thể gặp phải
trong tình huống là gì?" là những câu hỏi thường gặp của các bậc cha mẹ khi con
cái của họ đối mặt với những tình huống hàng ngày hoặc sử dụng những vật dụng
trong gia đình. Cuốn sách độc đáo " An tồn là gì" (What is Safe) của tác giả David
R.Williams. Ơng đã giải thích nguyên nhân các nguy cơ mà trẻ phải đối mặt trong
cuộc sống hiện đại ngày nay. Thuật ngữ như "nguy cơ" và "an toàn" được xác định
rõ ràng, những rủi ro gặp phải trong khih tham gia giao thông, trong gia đình, chăm
sóc sức khỏe, chế độ ăn uống và nơi làm việc.
Còn tác giả Carrie Lynn trong tác phẩm "Giúp trẻ hòa nhập vố xã hội - How
parents can help their children from 4 to 6 years" (2008) đã giới thiệu nhiều trị
chơi vận động có tác dụng hỗ trợ phát triển một số kĩ năng sống của trẻ như kĩ năng

giữ an toàn bản thân, kĩ năng giao tiếp ứng xử xã hội, kĩ năng tự lập...
Tuyển tập gồm bảy cuốn " Những câu chuyện càng về khả năng tự bảo vệ
mình" (2010) của tác giả Bạch Băng là những câu chuyện về khả năng tự bảo vệ
bản thân. Đó là những câu chuyện diễn ra trong chính cuộc sống của trẻ nhỏ, thông
qua các câu chuyện mà các em nhỏ yêu thích để đề cập đến những vấn đề an toàn
của cuộc sống, giúp trẻ nhận thức tầm quan trọng trong việc tự bảo vệ bản thân.[2]
Tác giả Yoon Yeo Hong trong tác phẩm "45 cách dạy trẻ tự bảo vệ mình"
(2011) đã giúp phụ huynh, giáo viên và trẻ em nhận thấy rằng thể giới bên ngoài


9

ln ẩn chứa những cạm bẫy. Vì vậy, trẻ em cần chuẩn bị những kĩ năng cần thiết
để ứng phó với những tình huống nguy hiểm. Tác giả đã hướng dẫn trẻ cách nhận
biết các mối nguy hiểm, nâng cao cảnh giác và bảo vệ an tồn cho chính mình.
Cuốn sách cịn hướng dẫn trẻ cách đối phó hoặc thốt khỏi nguy hiểm trong các tình
huống như : khi ở những nơi hoang vắng mà chỉ có một mình, khi có người lạ dụ
dỗ...[11]
Trong cuốn sách " Giữ an tồn cho trẻ em và thanh thiếu niên" (Keeping
Children và Teenager Safe) tác giả Gavin De Becker đã chia sẻ cái nhìn sâu sắc,
những giải pháp thiết thực giúp phụ huynh hướng dẫn con cái của mình biết cách tự
bảo vệ trước nguy cơ bạo lực ngày càng tăng như: lam thế nào để nhận biết những
dấu hiệu nguy hiểm trong những hoạt động hàng ngày, cha mẹ sẽ làm gì nếu con
mình bị lạc nơi cơng cộng, làm thế nào để nhận diện một kẻ lạm dụng tình dục...
Như vậy, những tác phẩm viết về kĩ năng giữ an toàn đã được rất nhiều tác
giả quạn tâm. Trong những tác phẩm của mình, các tác giả hướng đến việc giúp
người học nhận ra những giá trị và vai trò của kĩ năng giữ an tồn với sự tồn tại và
thích ứng của con nguời với cuộc sống. Đồng thời các tác giả cũng định hướng cho
người học cần rèn luyện những kĩ năng cụ thể, phù hợp để bản thân có sự an tồn.
Hướng thứ 3: Những nghiên cứu cụ thể về kĩ năng giữ an toàn thân thể

Từ những thập niên 80 của thế kỷ XX khi những nghiên cứu về kĩ năng giữ
an toàn bắt đầu được quan tâm, mà người đầu tiên phải kể đến là Gilbert J.Botvin là
giáo sư về sức khỏe cộng đồng, chuyên gia cao cấp về Tâm lý học, trưởng khoa
phát triển kĩ năng sống thuộc trường Đại học Cornell, Hoa Kỳ. từ năm 1979 ông và
cộng sự dã lập nên một chương trình giáo dục kĩ năng sống cho giới trẻ. Một
chương trình được lập ra nhằm giúp người học có khả năng từ chối những lời rủ rê
sử dụng chất gây nghiện giúp bản thân có được sự an tồn và nâng cao giá trị của
bản thân.
Tiếp theo đó, trong đề tài " Đánh giá hiệu qủa của chương trình giảng dạy
tại trại hè về an toàn với nýớc ở cộng đồng đô thị" ( Teaching Safety at Summer
Camp Evalucation of a Water Safety Curriculum in an Urban Community Setting)
của nhóm tác giả Karla A. Lawson, Sarah V. Duzinski... thuộc trung tâm y tế trẻ em
miền Trung Texas, Hoa Kỳ. Mục đích của nghiên cứu này là để đánh giá hiệu quả


10

của một chương trình đào tạo về kĩ năng an tồn cho nhóm 166 thiếu niên thành thị
thuộc nhóm gia đình có thu nhập thấp. Nghiên cứu cho thấy rằng, trẻ em đã có
nhiều kiến thức về an tồn với nước sau khi nhận được chương trình đào tạo này
thơng qua các bài tập là các tình huống thực tế. Chương trình cũng đánh giá vai trị
của phụ huynh trog việc thiết lập thái độ và hành vi cho trẻ trước những nguy cơ
thiếu an tồn.
Năm 1994 nhóm tác giả Lizette Peterson, Krista K. Oliver... Đại học
Misouri-Columbia đã nghiên cứu về đề tài " Nghiên cứu triển vọng về việc ngăn
chặn tai nạn thương tích do va chạm xe đạp" ( A Development Exploration of
Expectations for and Beliefs About Preventing Bicycle Collision Injuries) để tìm
ảnh hưởng của giới tính và độ tuổi với tai nạn thương tích ở trẻ. Kết quả cho thấy
khơng có mối tương quan giữa yếu tố giới tính hay tuổi tác với nguy cơ xảy ra tai
nạn thương tích ở trẻ. Kết quả cho thấy khơng có mối tương quan giữa yếu tố giới

tính hay tuổi tác với nguy cơ xảy ra tai nạn thương tích ở trẻ. Trẻ em cho rằng
chúng sẽ có được sự an tồn nếu có các thiết bị an tồn hỗ trợ nhằm phịng tránh
những tai nạn thương tích đó.
Vào năm 1999 trong đề tài : "Hành vi sử dụng an tồn thiết bị trong gia đình
của trẻ nhỏ" (Behavior using safety equipment family of young children) của tác
giả David DfiLillo và George Trenblay Đại học Missouri-Columbia đã hướng dẫn
151 bà mẹ có con độ tuổi 3-7 cách đối mặt với những tình huống giả định thiếu an
tồn trong ngơi nhà của mình và hướng dẫn cách nhận biết cũng như ứng phó với
những tình huống đó. Sau đó chính phụ huynh sẽ hướng dẫn cho con mình thực
hiện các thao tác an tồn với những đồ dùng trong gia đình trước sự giám sát của
mình. Sau này các em sẽ tự thao tác khơng có sự giám sát của họ. Kết quả cho thấy,
những trẻ tham gia đề tài nghiên cứu đã nhận diện được những nguy cơ rủi ro, biết
cách phịng ngừa những nguy cơ đó để bản thân có được sự an tồn.
Nhóm tác giả gồm Risk David C.Schwebel, Carl M.Brezasek, Sharon
L.Ramey và Craig T. Ramey Đại họi Alabama ở Birmingham trong nghiên cứu "
Tương tác giữa các mẫu hành vi của cha mẹ và con cái với tai nạn thương tích ở trẻ
em" (Interactions Between Child Behavior Patterns and Patening Implications for
Children's Unintentional Injury) năm 2003 đã nghiên cứu ảnh hưởng hành bi mẫu


11

của cha mẹ có thể ảnh hưởng đến việc hình thành những thói quen và hành vi rủi ro
dẫn đến tai nạn thương tích ở trẻ 5 tuổi. Nghiên cứu cho thấy, nguy cơ bị chấn
thương ở trẻ cao hơn trong những mơi trường giáo dục gia đình thiếu tích cực.
Nghiên cứu cũng cho thấy vai trò giám sát của phụ huynh sẽ hạn chế những mối
nguy hiểm xảy đến với trẻ. Bên cạnh đó, tinh khí bốc đồng và hành vi hung hăng
của trẻ khi phản ứng trước tình huống nguy hiểm sẽ khiến trẻ gặp nhiều nguy hiểm
hơn.
Cũng trong những năm 2005, Barry L.Boyd trong đề tài " Phát triển kĩ năng

sống cho giới trẻ" (Developing life skills in youth). Tác giả cho rẳng giwois trẻ hiện
nay cần được hình thành và phát triển kĩ năng sống và tác giả nhấn mạnh đến những
kĩ năng cơ bản như: kĩ năng tự ứng phó, kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng tự tìm kiếm
sự giúp đỡ.
Năm 2006 trong nghiên cứu " Đào tạo kĩ năng sống đơn giản nhằm tăng
cường hành vi đi bộ an toàn cho trẻ em" (Increasing Children's Safe Pedestrian
Behaviors through Simple Skill Trainning) của nhóm tác giả Benjamin K. Barton,
Barbara A. Morronggiello thuộc đại học Alabama và Guelph ở Birmingham cho
thấy : trước thực trạng nguy cơ thiếu an tồn khi tham gia giao thơng đường bộ đã
khiến hàng trăm trẻ em bị thiệt mạng mà nguyên nhân là do các en chưa có những
hành vi tham gia giao thơng an tồn. Bằng những can thiệp đơn giản và hiệu quả
làm thay đổi hành vi tham gia giao thơng thiếu an tồn ở trẻ em. Nghiên cứu đã thử
nghiệm một phương pháp đào tạo các kĩ năng đơn giản để hình thành hành vi cho
người đi bộ an tồn.
Cịn đề tài " Đào tạo tồn diện kĩ năng giữ an tồn tại gia đình cho trẻ nhỏ"
(The Safe at Home Game Traning Comprehensive Prevetion Skills in Latchkey
Children) của tác giả Lizette Peterson thuộc Đại học Missouri-Columbia đã thực
nghiệm những biện pháp tác động nhằm tăng cường khả năng tự bảo vệ bản thân,
Các em đã được hướng dẫn cách làm thế nào để phản ứng với các tình huống khẩn
cấp của một đám cháy, thiên tai, cách để đối phó với người lạ đến yêu cầu mở cửa
hoặc gọi qua điện thoại, lựa chọn dinh dưỡng an toàn và những hoạt động an toàn
sau giờ học, những trị chơi an tồn tại gia đình. Đề tài cho thấy thực trạng kĩ năng


12

ứng phó của trẻ với những tình huống thiếu an tồn và nhận diện nguy cơ rủi ro
cũng như có ý thức phòng tránh những nguy cơ này.
Trong đề tài "Dạy trẻ em kĩ năng giữ an toàn cá nhân" (Teaching personal
safety skills to young children) của các tác giả Sandy K Wurtele, Julie Sarno Owens

Khoa Tâm lý, Đại học Colorado, Hoa Kỳ, đã nghiên cứu trên 406 trẻ mẫu giáo xác
định mức độ kĩ năng an toàn cá nhân, phịng chống lạm dụng tình dục của trẻ, đồng
thời 24 trẻ ở nhóm thực nghiệm đã tham gia vào chương trình thực nghiệm nhằm
nâng cao kĩ năng an tồn cho bản thân.
Trong đề tài " Dạy trẻ em kĩ năng giữ an tồn" (Teaching safety skills for
children) của nhóm tác giả Raymond F. Miltenberger, Brian J. Gatheridge, Melisa
Satterlund, Kristin R. Egemo-Helm, Brigitte M. Johnson, Cadice Jostad, pamela
Kelso, Christopher A. Fressner năm 2013 đã cho thấy những hiệu quả từ việc cho
trẻ em trải nghiệm những tình huống giả định trong đời sống hàng ngày và hướng
dẫn các em cách ứng xử trước những tình huống này từ đó các em đã nhận diện
được những nguy cơ thiếu an toàn cũng như cách ứng phó với những tình huống đó.
Như vậy, có thể nhận thấy, các nghiên cứu về kĩ năng giữ an toàn cho trẻ
được thể hiện trong rất nhiều lĩnh vực từ: an tồn khi tham gia giao thơng, an tồn
khi sử dụng các vật dụng trong gia đình, an toan khi giao tiếp với người khác, an
toàn trước những nguy cơ của các tệ nạn xã hội...ở mỗi lĩnh vực khác nhau, trẻ em
cần có những cách nhận diện và ứng phó linh hoạt để có sự an toàn cho bản thân.
Đồng thời các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng người lớn, ch mẹ, thầy cơ có vai trị quan
trọng trong việc hướng dẫn để hình thành kĩ năng giữ an toàn cho trẻ.
1.1.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam
Tại Việt Nam, các chương trình giáo dục kĩ năng giữ an toàn thân thể cũng
do các tổ chức Chính phủ và phi Chính phủ triển khai. Cho đến những năm gần đây,
kĩ năng giữ an toàn thân thể đã là thuật ngữ được nhắc nhiều tới trong những câu
chuyện về giáo dục. Nhiều chương trình, dự án giáo dục kĩ năng giữ an toàn được
tiến hành theo các hướng sau:
Hướng thứ nhất: Các chương trình giáo dục kĩ năng giữ an tồn thân thể do
các tổ chức Chính phủ và phi Chính phủ.


13


Cho đến những năm gần đây, kĩ năng giữ an toàn thân thể trở thành thuật
ngữ được nhắc tới nhiều trong những câu chuyện về giáo dục và từ đó, giáo dục kĩ
năng giữ an tồn cho trẻ em nói riêng, thế hệ trẻ nói chung trở thành vấn đề không
chỉ được ngành giáo dục mà được cả xã hội quan tâm. Nhiều chương trình, dự án
giáo dục kĩ năng giữ an toàn được thực hiện như:
Bộ giáo dục phối hợp với ngành cơng an, Ủy ban an tồn giao thơng Quốc
gia đưa " Chương trình giảng dạy thí điểm tìm hiểu luật an tồn giao thơng" cho trẻ
em các trường từ mẫu giáo đến phổ thông trung học để trang bị những kiến thức ban
đầu về luật an toàn giao thơng. Tuy nhiên, trong chương trình này chủ yếu mới đưa
ra được các thơng điệp về an tồn, mà chưa chú trọng các phương pháp giáo dục
làm thay đổi hành vi người học.
Dự án " Giáo dục phòng tránh tai nạn bom mìn cho học sinh tiểu học" được
tiến hành với sự phối hợp giữa Sở giáo dục và Đào tạo tỉnh Quảng trị cùng với tổ
chức Cứu trợ và Phát triển Mĩ Cathilic Relief Services. Dự án bắt đầu từ tháng
8/2000 với mục đích giúp các trường tiểu học trong khu vực bị ảnh hưởng bom mìn
của hai huyện Triệu Phong và Gio Linh tiếp nhận kĩ năng để thực hành và tuyên
truyền các thông điệp giáo dục phịng tránh bom mìn và thơng điệp đối xử thân ái
với người khuyết tật đến cộng đồng. Đối tượng hưởng lợi là 5500 học sinh và 300
giáo viên được tập huấn về tiếp cận kĩ năng phòng tránh tai nạn bom mìn.
Chương trình thực nghiệm giáo dục " Sống khỏe mạnh và kĩ năng sống" do
UNICEF hỗ trợ được triển khai trên 20 trường thuộc Lạng Sơn, Hà Nội, Hải Phịng,
Thành phố Hồ Chí Minh, An Giang, Kiên Giang. Nội dung cụ thể của chương trình
: Phổ biến về quyền trẻ em; phòng tránh thuốc lá, rượu bia; phòng tránh xâm hại
tình dục trẻ em; phịng tránh và ứng phó với các tình huống căng thẳng. Những chủ
đề trên được tổ chức cho học sinh từ lớp 6 đến lớp 9 định kì mỗi tháng một buổi.
Trong chương trình " Giáo dục sống khỏe mạnh và kĩ năng sống" thì quan
niệm về kĩ năng giữ an toàn thân thể cơ bản đối với từng nhóm đối tượng được thể
hiện khá đa dạng. Đó là những kĩ năng cần cho lĩnh vực bảo vệ sức khỏe, phòng
tránh các tệ nạn xã hội dành cho nhóm đối tượng có nguy cơ cao để đượng đầu với
những thách thức của xã hội, vận dụng để giải quyết các vấn đề xã hội khác nhau

trong tình huống khác nhau của từng loại đối tượng để bản thân có sự an tồn.


14

Năm 2005, chương trình " Phịng tránh tai nạn thương tích" do Ủy ban bảo
vệ và chăm sóc trẻ em phối hợp với UNICEF triển khai. Chương trình nhằm giảm
thiểu tỉ lệ trẻ em bị chết và tàn tật do tai nạn thương tích ở Việt nam. Do hướng đến
đối tượng là trẻ em nên chương trình đã chú trọng phịng ngừa thụ động với mục
đích thay đổi mơi trường hay phượng tiện của người sử dụng, chưa coi trọng phịng
ngừa chủ động với mục đích là thay đổi hành vi của trẻ.
Chương trình " Bạn hữu trẻ em" được thực hiện trên khn khổ hợp tác giữa
Chính phủ Việt Nam và UNICEF giai đoạn 2010-2016. Chương trình được thực
hiện tại Đồng Tháp, Kom Tum, Ninh Thuận, Điện Biên, An Giang và Thành phố
Hồ Chí Minh, giáo dục kĩ năng sống cho trẻ ngoài trường học với các nội dung như:
phổ biến Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em, Công ước quốc tế về quyền trẻ
em, kĩ năng phòng chống xâm hại trẻ em , phòng chống tai nạn thương tích cho
trẻ...
Dự án " Giáo dục kĩ năng sống trong giáo dục sức khỏe cho học sinh" ở tiểu
học do Vụ thể chất - Bộ giáo dục và đào tạo hợp tác với UNICEF triển khai, hỗ trợ
xây dựng tài liệu giáo dục kĩ năng sống cho học sinh tiểu học miền núi bao gồm
những nội dung bổ trợ như: Giáo dục kĩ năng an toàn: giúp các em biết tránh hoặc
xử lý những tai nạn về sông nước, điện giật, sét đánh, động vật cắn, bom mìn; Giáo
dục kĩ năng ăn uống vệ sinh, an tồn...
Bắt đầu từ năm học 2010-2011, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa nội dung
giáo dục kĩ năng sống vào chương trình học chính khóa trong các nhà trường phổ
thơng, từ bậc tiểu học đến trung học phổ thông. Các trường lồng ghép một cách linh
hoạt những nội dung giáo dục hành vi ứng xử, kĩ năng phòng tránh tai nạn thương
tính... Những nội dung này được lồng ghép vào một số môn học phù hợp và chuyển
tải trong các hoạt động ngoài giờ lên lớp.

Từ năm 2001, UNICEF đã làm việc với Chính phủ Việt Nam thực hiện
chương trình "Phịng chống tai nạn thương tích trẻ em" là một trong các chương
trình đầu tiên về phịng chống tai nạn thương tích của các nước phát triển, giúp can
thiệp tồn diện và liên ngành để giải quyết vấn đề tai nạn thương tích trẻ em và đã
tạo ra các tiến bộ rất quan trọng ở các cấp quốc gia và địa phương.


15

Năm 2001 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt " Chính sách Quốc gia phịng,
chống tan nạn, thương tích giai đoạn 2002-2010", trong đó nhiệm vụ của Bộ Giáo
dục và Đào tạo là chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan thực hiện chương
trình sức khỏe học đường, trong đó có nội dung phịng chống tai nạn, thương tích,
xây dựng nhà trường an tồn, biên soạn tài liệu giáo dục về phịng, chống tai nạn
thương tích trong nhà trường.
Năm 2010 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành "Quy định về xây dựng
trường học an tồn, phịng, chống tai nạn thương tích trong cơ sở giáo dục mầm
non". Đây là công cụ để cơ sở giáo dục mầm non tự đánh giá, nhằm thực hiện tốt
nhiệm vụ đàm bảo an tồn, phịng, chống tai nạn thương tích cho trẻ, để đảm bảo an
toàn cho trẻ, khi trẻ được chăm sóc, ni, dạy tại cơ sở giáo dục mầm non.
Như vậy, từ năm 1990 đến nay, tại Việt Nam đã triển khai nhiều dự án,
chương trình hướng đến nhiều đối tượng từ trẻ mầm non, học sinh tiểu học đến
trung học phổ thông, từ trẻ em trong trường học đến những trẻ em đường phố và các
đối tượng khác. Những chương trình nhằm giáo dục kĩ năng giữ an toàn cho trẻ em
ở Việt Nam, giúp các em nhận thức về sự cần thiết của kĩ năng giữ an toàn thân thể
đối với bản thân, đồng thời nâng cao nhận thức của gia đình, cộng đồng, xã hội
trong việc thực hiện quyền trẻ em. Tuy nhiên các chương trình này được triển khai
cịn mang tính cục bộ, thời gian thực hiện chưa dài. Mặt khác, chưa có nhiều dự án
dành cho đối tượng là trẻ mẫu giáo. Nhiều dự án mới chỉ dừng lại ở việc xây dựng
tài liệu tham khảo.

Hướng thứ hai: Giáo dục kĩ năng giữ an tồn thân thể thơng qua những tác
phẩm cụ thể.
Có thể tại Việt Nam hiện nay những cuốn sách về giáo dục kĩ năng giữ an
toàn thân thể cho trẻ được biên sọan dưới dạng cẩm nang khá phong phú. Có thể kể
đến như:
Năm 2009, tác giả Thái Hà đã xuất bản cuốn sách " Hướng dẫn bé tự bảo
vệ". Cuốn sách này được biên soạn dưới hình thức các tình huống cụ thể. Ở mỗi tình
huống, tác giả cũng đã đề xuất những lời khuyên cụ thể giúp trẻ biết tự bảo vệ bản
thân.


16

Cũng trong năm nay, bộ sách " Tủ sách an tồn" của nhóm tác giả Nam
Hồng, Dương Phong, Ngọc Lan được xuất bản. Bộ sách gồm 4 cuốn: Ngôi nhà an
toàn cho trẻ, An toàn cho trẻ trên đường phố và nơi thiên nhiên, An toàn cho trẻ
trong cộng đồng xã hội, Sơ cấp cứu các loại tổn thương do tai nạn ở trẻ em. Trong
bộ sách này, tác giả đã hướng dẫn bé cách đối mặt hiệu quả với những nguy hiểm
có thể xảy ra khi trẻ tự mình tiếp xúc với mơi trường thiên nhiên và bên ngồi xã
hội mỗi lúc một phức tạp hơn[21]
Bên cạnh đó, hai tác giả Ngơ Thị Hợp và Nguyễn Thị Bích Hạnh trong cuốn
sách " Những kiến thức ban đầu hình thành kĩ năng sống cho trẻ mầm non" cũng đã
cung cấp những kiến thức nhằm giúp trẻ tìm hiểu về giới tính, cách giải quyết và
ứng phó với những vấn đề khó khăn giúp trẻ được an tồn và đặc biệt hướng đến
việc hình thành nhân cách sống cho trẻ mầm non.[8]
Ngoài ra, trong cuốn " Bài tập thực hành kĩ năng sống" của nhóm tác giả Lưu
Thu Thủy, Trần Thị Thái Hà, Đào Vân Vi đã thiết kế những hoạt động thích hợp
nhằm hình thành những kĩ năng phịng tránh tai nạn thương tích và một số kĩ năng
sống khác của trẻ.[28]
Năm 2011, tác giả Lâm Trinh trong tác phẩm " Cẩm nang tự vệ cho con bạn"

và " Cẩm nang an toàn cho con bạn" do nhà xuất bản Văn Hóa Thơng Tin phát hành
đã đưa ra những hướng dẫn cụ thể nhằm giúp trẻ có được kĩ năng giữ an tồn và kĩ
năng tự vệ. Với những tình huống đa dạng và gần gũi với cuộc sống của trẻ nhỏ, tài
liệu đã giúp trẻ biết cách ứng phó trong những tình huống nguy hiểm, những hồn
cảnh thiếu an toàn[22],[23]
Cuốn " Sổ tay an toàn trẻ em" của tác giả Trần Thái Hùng đã khẳng định trẻ
em là tương lai của tổ quốc, là báu vật của các bậc làm cha mẹ. Vì vậy cha mẹ cần
hướng dẫn và tìm cách giới hạn những tổn thương bất ngờ làm ảnh hưởng tương lai
của các cháu. Cuốn sách đã hướng dẫn cách trẻ em nhận biết và ứng phó với những
tình huống thiếu an tồn mà hàng ngày các em gặp phải từ gia đình đến ngồi xã
hội.
Năm 2011, cách trình bày tương tự như hai tài liệu trên, tác gủa Huyền Linh
trong cuốn " Cẩm nang tự vệ an toàn trong nhà" và " Cẩm nang tự vệ an toàn ra


17

ngoài" do nhà xuất bản Thanh niên ấn hành, cũng hướng dẫn trẻ rất chi tiết cách xử
lý với những tình huống thiếu an tồn với bản thân[15],[16]
Như vậy, có thể nhận thấy hầu hết các tác phẩm viết về kĩ năng giữ an toàn
hiện nay chủ yếu được biên soạn dưới dạng cẩm nang. các tác giả đưa ra những lời
khuyên cụ thể để trẻ em nhận diện và phòng tránh những nguy hiểm đến với bản
thân. Tuy nhiên, trong các tác phẩm này chưa hệ thống được những vấn đề lý luận
cơ bản như khái niệm kĩ năng giữ an toàn, xác định các biểu hiện và tiêu chí đánh
giá kĩ năng giữ an tồn thân thể.
Hướng thứ 3: Những nghiên cứu cụ thể về kĩ năng giữ an tồn thân thể
Có thể nói tại Việt Nam hiện nay chưa có một nghiên cứu cụ thể nào về rèn
luyện kĩ năng giữ an toàn thân thể cho trẻ 4-5 tuổi được thực hiện. Thực trạng một
số biểu hiện cụ thể của kĩ năng này được thể hiện rất mờ nhạt trong những nghiên
cứu về rèn luyện kĩ năng sống cho trẻ 4-5 tuổi. Chẳng hạn:

Trong đề tài nghiên cứu về " Giáo dục kĩ năng sống ở Việt Nam" của nhóm
tác giả Nguyễn Thanh Bình, Lưu Thu Thủy, Nguyễn Kim Dung, Vũ Thị Sơn đã chỉ
ra kĩ năng giữ an tồn thân thể thơng qua những kĩ năng phịng tránh tai nạn thương
tích là một trong những kĩ năng quan trọng của trẻ mẫu giáo. Đề tài đã khám phá
được những nội dung giáo dục kĩ năng phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ em,
các kĩ năng để thực hiện quyền trẻ em... Tuy nhiên, chưa có những đánh giá cụ thể
biểu hiện thực trạng kĩ năng này của trẻ mầm non.[3]
Năm 2007, với đề tài khoa học và công nghệ cấp Bộ " Giáo dục một số kĩ
năng sống cho học sinh trung học phổ thông" do tác giả Nguyễn Thanh Bình làm
chủ nhiệm, kết quả nghiên cứu cho thấy kĩ năng tìm kiếm sự giúp đỡ của các em
cịn hạn chế. Trên cơ sở tìm hiểu thực trạng, xác định nhu cầu giáo dục kĩ năng, đề
tài đã xây dựng chương trình giáo dục kĩ năng cho học sinh thơng qua hoạt động
ngồi giờ lên lớp.[4]
Kết quả trong các nghiên cứu " Một số tai nạn thương tích thường gặp ở trẻ
em trong trường mầm non nguyên nhân và giải pháp" của tác giả Vũ Yến Khánh
cùng cộng sự năm 2009 và đề tài " Điều tra quốc gia về tai nạn thương tích năm
2010" cảu Trần Thị Ngọc Lan cùng cộng sự thuộc Cục Quản lý môi trường y tế cho


18

thấy tai nạn thương tích được ghi nhận là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở trẻ
em. Nguyên nhân là do thiếu sự giám sát, chăm nom của cha mẹ, cơ giáo hoặc
người trơng trẻ nên trẻ có thể tiếp xúc với các yếu tố nguy cực; do người lớn chăm
sóc khơng được hướng dẫn cách sơ cứu an tồn và khơng có tủ thuốc cấp
cứu.[13],[14]
Tóm lại, thiết kế trò chơi học tập nhằm rèn luyện kĩ năng giữ an toàn thân thể
cho trẻ 4-5 tuổi là một trong những kĩ năng sống quan trọng của con người, đặc
biệt là trẻ em. Trên thế giới cũng như Việt Nam đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề về kĩ
năng sống, kĩ năng phòng tránh tai nạn cho trẻ nhỏ . Tại Việt Nam nhiều tài liệu đã

được biên soạn dưới dạng cẩm nang về kĩ năng giữ an toàn và kĩ năng tự vệ. Tuy
vẫn chưa có cơng trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu về vấn đề thiết kế mộ số trò
chơi học tập nhằm rèn luyện kĩ năng giữ an toàn thân thể cho trẻ 4-5 tuổi.
1.2. Cơ sở lí luận của thiết kế trị chơi học tập nhằm rèn luyện kĩ năng giữ an
toàn thân thể cho trẻ 4-5 tuổi
1.2.1. Kĩ năng giữ an toàn thân thể của trẻ 4-5 tuổi
1.2.1.1. Kĩ năng
a. Khái niệm kĩ năng
Vấn đề kĩ năng được nhiều nhà tâm lý học trên thế giới và Việt Nam quan
tâm nghiên cứu. Có thể khái quát thành các hướng sau đây:
Hướng thứ nhất: Kĩ năng được xem xét nghiêng về mặt kĩ thuật của thao
tác, hành động hay hoạt động.
Trên Thế giới cũng như Việt Nam có nhiều quan niệm khác nhau của các tác
giả về kĩ năng như :
Đại diện cho quan điểm này là các tác giả : Ph.N.Gonobolin, V.X.Cudin,
V.A.Krutreski, A.G.Kovaliov, Trần Trọng Thủy...cho rằng, muốn thực hiện được
hành động, cá nhân phải có tri thức về hành động đó, tức là phải hiểu được mục
đích, phương thức và các điều kiện để thực hiện nó. Vì vậy, nếu ta nắm được các tri
thức về hành động, thực hiện được nó trong thực tiễn theo các yêu cầu khác nhau,
tức là ta đã có kĩ năng hành động.


19

Khi bàn về kĩ năng, tác giả Trần Trọng Thủy cho rằng: "Kĩ năng là mặt kĩ
thuật của hành động. Con người nắm được cách thức hành động tức là có kĩ năng"
Theo từ điển Tâm lý học của Liên Xơ thì " Kĩ năng là giai đoạn giữa việc
nắm vững một phương thức hành động mới và quá trình giải quyết một loạt các
nhiệm vụ tương ứng với tri thức đó, nhưng cịn chưa đạt đến mức độ kĩ xảo".
Như vậy, theo quan niệm này, các tác giả nhấn mạnh đến mặt kĩ thuật của kĩ

năng, coi trọng cách thức thực hiện hành động hơn kết quả của hành động đó.
Hướng thứ hai: Kĩ năng được xem xét nghiêng về mặt năng lực của con
người
Theo quan điểm này, kĩ năng vừa có tính ổn định, vừa có tính mềm dẻo, tính
linh hoạt và sáng tạo và vuwag có tính mục đích. Đại diện cho quan điểm này có
các tác giả : N.D.Levitov, V.V.Bogoxloxki, K.K.Platonov, G.G.Golubev,
A.V.Barabasicoov (1963), Nguyễn Quang Uẩn, Ngơ Cơng Hồn, Hồng Anh,
Nguyễn Thạc, Trần Quốc Thành...
Nhà Tâm lý học người Nga A.V.Barabasicoov (1963) cho rằng: " Kĩ năng là
khả năng sử dụng tri thức và các kĩ xảo của mình một cách có mục đích và sáng tạo
trong quá trình của hoạt động thực tiễn. Khả năng này là khả năng tự tạo của con
người"
Quan niệm của các nhà giáo dục Việt Nam như : Nguyễn Ánh Tuyết, Ngơ
Cơng Hồn, Lê Văn Hồng, Nguyễn Quang Uẩn cũng tương tự như các quan điểm
nói trên.
Như vậy, theo hướng này các tác giả cho rằng, kĩ năng không chỉ đơn thuần
là mặt kĩ thuật của hành động mà nó còn là kết quả của hành động trong mối tương
quan với mục đích, điều kiện, phương tiện thực hiện hành động. Kĩ năng khơng chỉ
là thao tác mà cịn là biểu hiện của năng lực.
Hướng thứ ba : Coi kĩ năng là hành vi ứng xử của con người.
Theo hướng nghiên cứu này, khi xem xét kĩ năng các tác giả khơng chỉ xem
xét đến tính chính xác, khả năng linh hoạt mà còn xem xét các yếu tố thái độ, động
cơ của cá nhân trong thực hiện hành động có kĩ năng đó. Cách tiếp cận này xem xét


20

kĩ năng dưới góc độ rộng hơn khi nó kết nối các yếu tố kiến thức, kĩ thuật và giá trị
trong hành vi của một hành động nhất định. Hai tác giả S.A.Morales và W.Sheafor
(1978) đã nhấn mạnh ảnh hưởng của thái độ, niềm tin của cá nhân trong kĩ năng.

Còn J.N.Richard (2003) coi kĩ năng là hành vi thể hiện ra hành động bên ngoài và
chịu sự chi phối của cách cảm nhận và suy nghĩ của cá nhân. Kĩ năng được thể hiện
một cách chuyên nghiệp và tuân thủ các quy tắc ứng xử. Tuy nhiên, khi xem kĩ
năng là hành vi, các tác giả chưa quan tâm nhiều đến mặt kĩ thuật của nó, chính vì
vậy nó sẽ gây khó khăn trong việc đào tạo kĩ năng thiết kế công cụ đo lường, đánh
giá chung.
Tổng hợp các quan điểm trên chúng tôi quan niệm: Kĩ năng là khả năng vận
dụng tri thức, kinh nghiệm đã có để thực hiện có kết quả, đạt được mục đích của
hành động hay hoạt động nào đó trong những điều kiện phù hợp.
b. Các đặc điểm của kĩ năng
Kĩ năng phải gắn liền với hành động hay hoạt động cụ thể. Theo
K.K.Platonov thì kĩ năng ln được nhận thức. Cơ sở tâm lý của nó là sự hiểu biết
về mối quan hệ qua lại giữa mục đích và hành động, các điều kiện và phương thức
thực hiện hoạt động. Như vậy, hành động hay hoạt động chưa thể gọi là kĩ năng nếu
còn mắc sai lầm, vụng về. Còn theo P.B.Gurvitr thì dấu hiệu đặc trưng của kĩ năng
là khả năng thay đổi hành động theo những điều kiện luôn biến đổi. Có thể nói, kĩ
năng được hình thành trên cơ sở của tri thức và kĩ xảo, nên người có kĩ năng thì
khơng chỉ hành động có kết quả trong một hồn cảnh cụ thể mà cịn phải đạt kết quả
trong những điều kiện khác nhau.
Như vậy, khi xem xét kĩ năng, có thể nhận thấy kĩ năng bao gồm bốn đặc
điểm sau:
- Tính đúng đắn (đúng - sai): Là sự tuân theo và thực hiện đúng những yêu
cầu khách quan của kĩ năng về tất cả các mặt: tri thức, tốc độ, thao tác, kĩ thuật hành
động.
- Tính thành thục: là sự vận dụng thích hợp các thao tác của kĩ năng với mục
đích và điều kiện của hoạt động. Tính thành thục được thể hiện ở sự thành thạo, tốc
độ của từng thao tác và sự kết hợp hợp lý của các thao tác về số lượng cũng như


21


trình tự. Trong quá trình thực hiện các thao tác khơng có những thao tác thừa. Tác
giả Nguyễn Đức Hưởng đã đưa ra các chỉ báo đánh giá mức độ thuần thục, thành
thạo của kĩ năng như sau:
+ Mức độ hiểu biết về hành động và các thao tác cấu thành hành động
+ Tốc độ thực hiện hành động, thực hiện các thao tác cấu thành hành động
+ Tính nhịp nhàng trong phối hợp các thao tác hành động
Khi đánh giá kĩ năng cần phải sử dụng tông hợp các chỉ báo trên. Nếu chỉ sử
dụng một chỉ báo đơn lẻ thì có thể dẫn đến nhầm lẫn (chẳng hạn như coi người có
tri thức, hoặc người có hành động nhanh, người làm việc có hiệu quả là người có kĩ
năng)
- Tính linh hoạt : Là sự thể hiện ổn định, bền vững và sáng tạo của kĩ năng
trong các điều kiện khác nhau của hoạt động. Tính linh hoạt còn được thể hiện ở
chỗ chủ thể biết bỏ đi những thao tác khơng cần thiết trong những tình huống nhất
định hoặc thêm vào những thao tác phù hợp để thực hiện có hiệu quả hành động.
- Tính hiệu quả : Là việc đạt được mục đích của hoạt động ở những mức độ
khác nhau. Tri thức, kinh nghiệm đã có và các thao tác phù hợp sẽ khơng có ý nghĩa
nếu cá nhân không đạt hiệu quả của hành động. Vì vậy, có thể nói, tính hiệu quả của
kĩ năng là biểu hiện cao nhất của kĩ năng hành động.
Tính hiệu quả của kĩ năng được tạo ra từ sự kết hợp một cách thống nhất 3
đặc điểm: đúng đắn, thành thục, linh hoạt và bộc lộ cũng trên cơ sở tổng hợp với
các tính chất này.
Những đặc điểm của kĩ năng nêu trên sẽ là cơ sở để xây dựng các tiêu chí
đánh giá kĩ năng giữ an tồn thân thể trong khóa luận này.
c. Các giai đoạn hình thành và các mức độ của kĩ năng
Khi nghiên cứu về các giai đoạn hình thành và các mức độ biểu hiện cụ thể
của kĩ năng cũng có nhiều quan điểm khác nhau. Chẳng hạn:
Với quan niệm kĩ năng hình thành qua 5 giai đoạn, tác giả K.K.Platonov chỉ
rõ:



22

Giai đoạn 1: Kĩ năng ban đầu.
Giai đoạn 2: Hành động cịn thiếu sự sáng tạo.
Giai đoạn 3: Có những kĩ năng chung
Giai đoạn 4: Có kĩ năng phát triển ở mức độ cao.
Giai đoạn 5: Sự thành thạo của kĩ năng.
Theo tác giả Nguyễn Quang Uẩn, sự hình thành kĩ năng chia thành 2 giai
đoạn:
Giai đoạn 1: Nắm vững các tri thức về hành động hay hoạt động
Giai đoạn 2: Thực hiện hành động theo các tri thức đó.
Khác quan niệm của tác giả trên, theo tác giả Hoàng Thị Oanh thì kĩ năng
hình thành gồm 4 giai đoạn:
- Giai đoạn nhận thức
- Giai đoạn làm thử
- Giai đoạn bắt đầu hình thành kĩ năng
- Giai đoạn kĩ năng được hồn thiện
Vì vậy, theo chúng tơi các giai đoạn hình thành và mức độ biểu hiện của kĩ
năng của trẻ mẫu giáo được thể hiện như sau:
- Giai đoạn nhận thức
- Giai đoạn quan sát và làm thử theo mẫu
- Giai đoạn luyện tập
Các giai đoạn hình thành và mức độ biểu hiện trên đây của kĩ năng sẽ là cơ
sở để rèn luyện kĩ năng giữ an toàn thân thể của trẻ 4-5 tuổi.
1.2.1.2. Khái niệm của an tồn
Theo từ điển tiếng Việt, "an tồn" là sự bình n, khơng nguy hiểm. Ngồi ra
tính từ "an tồn" được xuất hiện trong nhiều lĩnh vực, chẳng hạn:



23

- Trong lĩnh vực vệ sinh dinh dưỡng :" An tồn thực phẩm được hiểu là khả
năng khơng gây ngộ độc của thực phẩm đối với con người"
- Còn trong lĩnh vực giao thơng : " An tồn giao thơng là sự bình an trong
q trình giao thơng khơng xảy ra tai nạn"
Trong cuốn sách " Ngơi nhà an tồn cho trẻ" Tác giả Nam Hồng định nghĩa:
" An toàn" là sự đảm bảo không bị tác động xấu gây tổn thương cả về thể chất lẫn
tinh thần cho bản thân hoặc cho một ai đó hoặc một cái gì đó.
Như vậy, có thể thấy rằng an tồn khơng có những nguy hiểm xảy đến đối
với bản thân. Để có sự an tồn con người cần có sự chuẩn bị, đề phịng để những
nguy hiểm khơng xảy ra. Muốn vậy, con người cần nắm được các nguyên lý của sự
an tồn trong các lĩnh vực trong cuộc sống.
Khi nói đến an toàn và cũng nhằm đem lại sự an toàn cho con người thì một
khái niệm ln đi song song với khái niệm này đó là khái niệm "tự vệ". Thơng
thường khi nói đến "tự vệ" người ta chỉ nghĩ đến việc dùng võ thuật để đánh trả khi
bị tấn công nhưng ở đây ta dùng "tự vệ" với nghĩa gốc và đầy đủ nhất của nó, đó là:
Tự che chở, tự bảo vệ mình, tự mình giữ lấy mình, chống lại sự xâm phạm của kẻ
khác. Có thể nói khái niệm "an toàn" là một khái niệm rộng hơn. Khác với an toàn,
khi con người tự vệ là khi đã có những nguy hiểm xảy đến với bản thân và tự vệ
cũng với mục đích để con người được an tồn.
Như vậy, an tồn là sự bình n, khơng có những nguy hiểm hoặc khơng có
tác dụng xấu gây tổn thương về thể chất và tinh thần của con người.
c. Khái niệm kĩ năng giữ an toàn thân thể
Từ các khái niệm "kĩ năng", "an toàn" đi đến xây dựng khái niệm kĩ năng giữ an
toàn thân thể như sau:
Kĩ năng giữ an toàn thân thể là khả năng của con người vận dụng tri thức,
vốn kinh nghiệm đã có để nhận diện và ứng phó với những nguy hiểm đồng thời biết
cách tìm kiếm sự giúp đỡ khi cơ thể gặp nguy hiểm nhằm tránh những mối đe dọa,
những tác động xấu gây tổn thương về cấu tạo giải phẫu và hoạt động sinh lý của

con người.


24

1.2.2. Một số đặc điểm tâm sinh lý của trẻ 4-5 tuổi có liên quan đến rèn luyện kĩ
năng giữ an toàn thân thể
1.2.2.1. Đặc điểm sinh lý
Đặc điểm sinh lý nổi bật ở trẻ 4-5 tuổi là hệ thần kinh phát triển tương đối
nhanh về hình thái cũng như cấu trúc. Trọng lượng của não tăng từ khoảng 1.100
gram đến 1.300 gram. Một số vùng trên vỏ não tiếp tục được meilin hóa. Các vùng
chức năng của não tiếp tục chun mơn hóa, nhờ đó trẻ đã có khả năng hoạt động trí
tuệ phức tạp và điều khiển hoạt động đòi hỏi sự tinh tế của cơ bắp. Bộ não của trẻ
không khác người trưởng thành bao nhiêu với trên 1,5 tỷ tế bào thần kinh.
Hệ xương và cơ của trẻ tiếp tục phát triển. Xương tiếp tục được cốt hóa, các
cơ to ra. Cơ quan hơ hấp và tuần hoàn phát triển. Sự phát triển của các cơ để thực
hiện các chức năng vận động phát triển mạnh. Trẻ có thể kiểm sốt và phối hợp vận
động các nhóm cơ lớn vì vậy trẻ có thể thực hiện các vận động mạnh như: Bật xa,
nhảy từ độ cao 40cm xuống đất, bắt và ném bóng bằng hai tay từ khoảng cách 4m,
trèo lên, xuống thang ở độ cao 1,5m so với mặt đất. Đồng thời trẻ có thể kiểm sốt
và phối hợp vận động các nhóm cơ nhỏ. Vì vậy, trẻ có thể thực hiện được những
thao tác địi hỏi sự khéo léo.
Trẻ có thể phối hợp các giác quan và giữ thăng bằng khi vận động vì vậy trẻ
có thể thực hiện được những hành động như nhảy lị cị, đi thăng bằng trên ghế.
Khơng chỉ phối hợp khéo léo và hệ vận động của trẻ cũng phát triển khá tốt thể hiện
được sự nhanh nhẹn và dẻo dai của cơ thể.
Như vậy, trong giai đoạn này, trẻ rất hiếu động, hay tị mị, thích khám phá
thế giới xung quanh do đó thường hay xảy ra những tai nạn thương tích đáng tiếc.
Tuy nhiên, sự trưởng thành của hệ thần kinh và hoàn thiện của các giác quan trong
cơ thể về cả lượng và chất là điều kiện thuận lợi cho giáo viên tổ chức các hoạt

động nhằm rèn luyện kĩ năng giữ an toàn thân thể cho trẻ 4-5 tuổi.
1.2.2.2. Đặc điểm tâm lý của trẻ 4-5 tuổi
a. Đặc điểm phát triển nhận thức của trẻ 4-5 tuổi
* Đặc điểm phát triển trí nhớ của trẻ 4-5 tuổi.


25

Các hình thức ghi nhớ và nhớ lại có chủ định bắt đầu xuất hiện ở trẻ mẫu
giáo nhỡ do hoạt động của trẻ ngày càng phức tạp và do yêu cầu của người lớn đối
với trẻ ngày càng cao.
Những hoạt động mà giáo viên tổ chức nhằm rèn luyện kĩ năng giữ an toàn
thân thể cho trẻ cần phải kết hợp giữa sự giải thích cặn kẽ bằng lời về mục đích,
cách thức thực hiện kĩ năng cho trẻ hiểu. Đồng thời trẻ phải được quan sát các thao
tác mẫu và giáo viên cần sử dụng nhiều hình ảnh trực quan sinh động minh họa
trong khi hướng dẫn trẻ. Bên cạnh đó, trẻ cần được tự mình tham gia thực hiện các
hành động, hoạt động hình thành kĩ năng. Một điều quan trọng, liên quan đến trí
nhớ cảm xúc của trẻ, là trẻ dễ nhớ những điều gây cho trẻ cảm xúc tích cực, vì vậy
các hoạt động được tổ chức phải phù hợp với nhu cầu, hứng thú và sở thích của trẻ.
* Đặc điểm phát triển tư duy
Ở trẻ lứa tuổi 4-5, loại tư duy chủ yếu là tư duy trực quan hình ảnh. Khi giải
quyết vấn đề đặt ra, trẻ hay suy nghĩ dựa vào tư duy trực quan hình ảnh. Trẻ giải
quyết vấn đề dựa vào các hình ảnh cụ thể vẫn dễ dàng hơn khi bài tốn đó được
giao dưới hình thức các con số trừu tượng.
Trẻ 4-5 tuổi với đặc điểm tư duy nổi trội là tư duy trực quan hành động. Do
vậy, khi giáo viện thiết kế các hoạt động nhằm giúp trẻ nhận diện và ứng phó trong
những tình huống thiếu an toàn về điện, nước, các vật sắc nhọn, hành vi ăn uống
khơng an tồn... giáo viên cần đưa ra nhiều hình ảnh minh họa trực quan sẽ giúp trẻ
dễ dàng nhận diện và từ đó trẻ sẽ dễ dàng tư duy để thực hiện các nhiệm vụ học tập.
1.2.3. Đặc điểm quá trình rèn luyện kĩ năng giữ an toàn thân thể cho trẻ 4-5 tuổi.

Ở lứa tuổi mẫu giáo, đặc biệt là đối với trẻ 4-5 tuổi thì sự nhận thức và q
trình lĩnh hội, tích lũy kinh nghiệm, biểu tượng, vốn sống so với các lứa tuổi trước
đã khá phong phú hơn. Điều đó giúp trẻ có những nhận biết cơ bản về một số đồ vật
không an tồn, những nơi nguy hiểm, một số tình huống khó khăn… và có những
cách ứng phó và giữ an tồn thân thể. Nói cách khác, trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi đã có
những hiểu biết nền tảng và có kĩ năng giữ an toàn thân thể cho bản thân trẻ. Tuy
nhiên, kĩ năng giữ an toàn thân thể của trẻ còn nhiều hạn chế. Thực tế chúng ta thấy
rằng, do đặc trưng tâm lí lứa tuổi mẫu giáo, trẻ 4-5 tuổi thường hay bắt chước các


×