Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Khóa luận tốt nghiệp một số biện pháp tổ chức tcvđ nhằm hình thành knht cho trẻ 5 6 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 111 trang )

1
Phần I. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kĩ năng hợp tác là một trong những kĩ năng sống quan trọng của con người,
chính con người, vì thế nó giúp con người có được thành cơng trong cuộc sống.
C.Mác cho rằng: “Sự hợp tác của con người trong mối quan hệ xã hội không phải
dấu cộng về số lượng mà chính nhờ sự hợp tác đã tạo nên một sức lao động, chiến
đấu có hiệu quả. Con người hợp tác với nhau trong cuộc sống để tồn tại và phát
triển”. Như vậy, sự hợp tác trong cuộc sống của con người là hết sức cần thiết.
Đối với trẻ mẫu giáo, KNHT có một vai trị hết sức quan trọng vì đây là một
trong những yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự hình thành và phát triền nhân cách
của trẻ. Chính nhờ sự hợp tác trong hoạt động ở trường mầm non mà trẻ có cơ hội
được phát hiện bản thân mình, chia sẻ kinh nghiệm, thiết lập các mối quan hệ thân
thiện với các bạn trong nhóm, lớp. Từ đó mà trẻ bước vào cuộc sống dễ dàng hơn.
Ở trẻ 5 - 6 tuổi đã bắt đầu chơi cùng nhau, các nhóm chơi của trẻ cũng tương đối
bền vững hơn trẻ 3 – 4 tuổi, nên đây là thời điểm thích hợp để hình thành KNHT
cho trẻ. Việc hình thành KNHT cho trẻ 5 - 6 tuổi có thể được thực hiện thông qua
nhiều hoạt động khác nhau như hoạt động học tập, lao động và đặc biệt là hoạt động
vui chơi, vì đặc điểm của trẻ giai đoạn này là “học mà chơi, chơi mà học” nên hoạt
động vui chơi chính là con đường ngắn nhất nhưng hiệu quả nhất để hình thành
KNHT cho trẻ 5 - 6 tuổi. Trong hoạt động vui chơi có rất nhiều loại trị chơi, mỗi
loại có một ưu thế riêng để hình thành KNHT cho trẻ, trong đó trị chơi vận động
cũng là phương tiện hữu hiệu để giúp hình thành KNHT. Bởi vì đây là loại trị chơi
có luật, chính sự tơn trọng luật chơi giúp trẻ hình thành KNHT, bên cạnh đó, khi
tham gia TCVĐ trẻ thường chơi theo nhóm và để duy trì sự hứng thú chơi của trẻ
thì TCVĐ thường có yếu tố thi đua giữa các nhóm, nên đây là một cơ hội thuận lợi
để các trẻ thể hiện sự hợp tác giữa các bạn cùng chơi.
Mặc dù TCVĐ cũng được xem là một phương tiện hữu hiệu để giúp hình
thành KNHT cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua TCVĐ chưa thật sự được giáo viên quan
tâm chú ý đến. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này như không gian
chơi quá hẹp, các trị chơi tổ chức cho trẻ ít yếu tố thi đua, trẻ không trao đổi bàn


bạc cùng nhau trước khi chơi, trong khi chơi trẻ khơng có thái độ thân thận với bạn


2
cùng chơi…nhưng chủ yếu là do phần lớn giáo viên chỉ chú trọng đến việc phát
triển tính tích cực vận động của các tố chất thể lực trong khi chơi TCVĐ hơn là hình
thành KNHT cho trẻ 5 - 6 tuổi, bên cạnh đó giáo viên sử dụng những biện pháp
chưa phù hợp khi tổ chức TCVĐ để hình thành KNHT của trẻ 5 - 6 tuổi thông qua
TCVĐ chưa cao.
Xuất phát từ cơ sở lí luận và tình hình thực tế trên, chúng tôi đã lực chọn:
“Một số biện pháp tổ chức TCVĐ nhằm hình thành KNHT cho trẻ 5 - 6 tuổi” làm
đề tài nghiên cứu của mình.
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
2.1. Về lí luận
Làm rõ cơ sở lí luận về hợp tác và vấn đề tổ chức trò chơi vận động, vai trò
của trò chơi vận động trong việc hình thành kĩ năng hợp tác cho trẻ 5 - 6 tuổi.
2.2. Về thực tiễn
- Đề xuất một số biện pháp tổ chức trò chơi vận động nhằm hình thành kĩ
năng hợp tác cho trẻ 5 - 6 tuổi.
- Đề tài là tài kiệu tham khảo cần thiết cho sinh viên nghành giáo dục mầm
non và giáo viên mầm non quan tâm đến vấn đề tổ chức trị chơi vận động nhằm
hình thành kĩ năng hợp tác cho trẻ 5 - 6 tuổi.
3. Mục tiêu của đề tài
Đề xuất một số biện pháp tổ chức TCVĐ nhằm hình thành KNHT cho trẻ
5 - 6 tuổi để năng cao hiệu quả của công tác giáo dục này ở trường mầm non.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Ngiên cứu những vấn đề lí luận về một số biện pháp tổ chức trị chơi vận
động nhằm hình thành kĩ năng hợp tác cho trẻ 5 - 6 tuổi.
- Nghiên cứu thực trạng về việc tổ chức TCVĐ nhằm hình thành KNHT cho
trẻ 5 - 6 tuổi.

- Đề xuất một số biện pháp tổ chức TCVĐ nhằm hình thành KNHT cho trẻ 5
- 6 tuổi.
- Thực nghiệm sư phạm nhằm kiểm tra tính khả thi của các biện pháp đã đề xuất.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Quá trình hình thành KNHT cho trẻ 5 - 6 tuổi ở trường mầm non.


3
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Do thời gian và điều kiện hạn hẹp nên chúng tôi chỉ nghiên cứu đề tài: “Một
số biện pháp tổ chức trò chơi vận động nhằm hình thành kĩ năng hợp tác cho trẻ 5 6 tuổi” trong hoạt động học trên 60 trẻ 5 - 6 tuổi tại trường mầm non Hùng Vương Thị Xã Phú Thọ - Tỉnh Phú Thọ.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
Tập hợp, đọc, nghiên cứu, phân tích, tổng hợp, hệ thống các nguồn tài liệu,
các đề tài nghiên cứu,…liên quan đến đề tài: Tìm hiểu về vấn đề hình thành khả
năng hợp tác cho trẻ mầm non, về trò chơi vận động và vai trị của trị chơi vận
động trong việc hình thành kĩ năng hợp tác cho trẻ mầm non, nghiên cứu các tài liệu
liên quan đến sự phát triển tâm lí, sinh lí, lứa tuổi mầm non nhằm phân tích tổng
hợp cơ sở lí luận của đề tài.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6.2.1. Phương pháp quan sát
- Quan sát cách tổ chức TCVĐ nhằm hình thành KNHT cho trẻ 5 - 6 tuổi.
- Quan sát hiệu quả hình thành KNHT của trẻ 5 - 6 tuổi trong TCVĐ.
6.2.2. Phương pháp điều tra
Bằng cách sử dụng phiếu điều tra (an két) với GVMN để tìm hiểu cách tổ
chức TCVĐ nhằm hình thành KNHT cho trẻ 5 - 6 tuổi.
6.2.3. Phương pháp đàm thoại
Bằng cách trao đổi, trò chuyện trực tiếp với GVMN và trẻ 5 - 6 tuổi để hộ trợ cho
phương pháp điều tra và quan sát.

6.2.4. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
Nhằm tìm hiểu kinh nghiệm của GVMN trong việc tổ chức TCVĐ nhằm hình
thành KNHT cho trẻ 5 - 6 tuổi.
6.2.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Nhằm tìm hiểu hiệu quả và tính khả thi của những biện pháp đã đề xuất khi tổ
chức TCVĐ nhằm hình thành KNHT cho trẻ 5 - 6 tuổi.
6.2.6. Phương pháp thống kê tốn học
Nhằm thu thập, xử lí và phân tích kết quả nghiên cứu.


4
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Những nghiên cứu ở nước ngoài
KNHT có vai trị rất quan trọng trong xã hội lồi người, nó giúp cho con
người hoạt động cùng nhau một cách dễ dàng và đạt dược hiệu quả công việc chung
một cách tốt nhất. Nhận thức được vai trò của KNHT nên từ lâu các nhà khoa học
trên thế giới và trong nước cũng đã nghiên cứ về vấn đề này nhằm phát triển toàn
diện nhân cách của con người nói chung và trẻ mầm non nói riêng.
KNHT khơng phải là một thuật ngữ mới mẻ, nó đã xuất hiện từ cuối thế
kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX ở các nước phương Tây, đó chính là việc dạy học hợp
tác. Các tác giả như linh mục A.Bel và các thầy giáo D.Lancasto, Giarard (năm
1789) đã đưa các hình thức dạy học tương trợ và đây có thể coi là hình thức
đầu tiên cơ bản nhất của KNHT. Với hình thức dạy học này, giáo viên tạo cơ
hội cho người học được chia thành từng nhóm hoạt động, trị chuyện cùng
nhau, chia sẻ, giúp đỡ nhau tìm hiểu, khám phá đối tượng nhận thức nhằm hình
thành và phát triển KNHT cho người học đồng thời nâng cao hiệu quả dạy
học.[19]
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, nổi lên trào lưu tư tưởng dân chủ và tiến

bộ. Tiêu biểu cho hệ tư tưởng này là nhà GD nổi tiếng Johns Dewey (người
Mỹ) và Arthur Dobrin (người Mỹ) - nhà luân lý học và chuyên gia nổi tiếng về
lĩnh vực GD đạo đức. Hai ông cho rằng muốn học cách để cùng chung sống dân
chủ là sự hợp tác giữa các thành viên trong nhóm. Sự hợp tác của người học
cần phải dựa trên hai nguyên tắc cơ bản. Đó là đảm bảo tính liên tục và động
tác qua lại. Xuất phát từ ý tưởng đó J.Dewey đã xây dựng “nhà trường tích
cực”. Ở đó ơng đã phát triển việc hợp tác của người học, tạo nên môi trường làm
việc chung để cho học sinh có cơ hội trao đổi kinh nghiệm thực hành, phát triển lí
luận và khả năng trừu tượng hóa. Cịn Arthur Dobrin cho rằng chúng ta đều mong
muốn trở thành một thành viên trong tập thể, bởi vì chỉ có thơng qua sự hợp tác và
nỗ lực chung giữa con người với nhau mới có thể khiến cho người ta chiến thắng
hoàn cảnh bên ngoài.


5
Những năm đầu thế kỉ XX, lĩnh vực hợp tác thu hút khá nhiều sự quan
tâm của các nhà nghiên cứu như là nhà giáo dục R.Cousinet, Dottren,
Eleskonler. Karl Roger… Vẫn dựa trên những quan điểm đầu tiên về hợp tác
của linh mục A.Bel và các thầy giáo D.Lancasto, Girard nhưng các ơng chú ý
nhiều hơn đến việc hình thành KNHT cho người học bằng các phương pháp,
biện pháp dạy học thích hợp và nêu lên một số đặc điểm về KNHT. Theo các
ông, người học được tự do chọn bạn để học nhóm. Học tập theo nhóm tránh
được sự lười biếng vì người học sẽ hổ thẹn với bạn khi bỏ dở công việc hay khi
không biết làm việc. Từ đó, giúp cho người học có những nhận định xã hội,
người học sẽ biết cách đánh giá, nhận xét bạn mình cũng như là bản thân mình
và sẽ tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm xã hội cho bản thân.
Vào những thập niên 30 – 40 của thế kỉ XX, việc học tập hợp tác theo
nhóm đã được áp dụng rộng rãi tại Mỹ và các nước phương Tây. Các nhà
nghiên cứu thời kì này khơng chỉ quan tâm đến hệ thống chương trình, bài
giảng trên lớp, hoạt động hướng dẫn nhóm mà cịn chú ý đến sự phụ thuộc của

hình thức học tập theo nhóm trong các điều kiện khác nhau. Các nhà giáo dục
như Eleskonler, Morton Deutsch, Karl Roger và Muzafer Sherif chú trọng đến
việc thiết lập một hồn cảnh sư phạm, trong đó có những hoạt động tự do địi
hỏi học sinh phải hợp tác nhóm với nhau và đề ra các tình huống hợp tác và
tranh đua. Khi xem xét khía cạnh xã hội hóa diễn ra trong nhóm, thì các ơng đã
tìm thấy tính chất độc đáo của hoạt động chung, đó là học sinh có nhiều cơ hội
lên ý tưởng, suy nghĩ của mình với người khác và ngược lại, chính điều này đã
làm cho các hoạt động trong nhóm diễn ra sơi nổi và đạt hiệu quả cao. Theo
Karl Roger, quá trình dạy học cần chú ý hình thành cho học sinh một số năng
lực nhận thức và KNHT giúp cho các em có khả năng xử lí và sử dụng thơng
tin trong q trình học. Cịn Muzafer Sherif đã tiến hành những nghiên cứu về
KNHT tại ba trại hè. Ở đó, ơng đã thiết kế những sự tranh đua theo nhóm hết
sức trôi nổi và nghiên cứu sự nỗ lực của tất cả các thành viên trong nhóm.[20]
Nhìn chung, nghiên cứu của các tác giả nêu trên đã cho thấy được vai trò
quan trọng của việc hợp tác trong học tập cũng như sinh hoạt, họ đề cao vai trò
của sự hợp tác khi hoạt động cùng nhau. Bên cạnh đó, các tác giả này cũng đề
ra một số cách thức để hợp tác và hoạt động cùng nhau trở nên tích cực, hiệu


6
quả như là hoạt động nhóm, thi đua…
KNHT của trẻ nói chung và trẻ 5 - 6 tuổi nói riêng được hình thành
thơng qua nhiều con đường khác nhau, nhưng các nhà tâm lí học, giáo dục học
đã chỉ ra rằng KNHT ở trẻ mẫu giáo được biểu hiện rõ rệt nhất thơng qua họa
động vui chơi, vì đây chính là hoạt động chủ đạo của trẻ mầm non. Trong hoạt
động vui chơi của trẻ mẫu giáo có rất nhiều loại trị chơi, mỗi loại có một ưu
thế riêng để hình thành KNHT cho trẻ. Chính vì nhận thức được tầm quan trọng
của hoạt động vui chơi đối với việc hình KNHT cho trẻ nên vấn đề lí luận về
hoạt động vui chơi, trò chơi của trẻ mầm non và việc tổ chức cho trẻ chơi nhằm
phát triển nhân cách trẻ em nói chung và hình thành KNHT cho trẻ mẫu giáo

nói riêng được các nhà sư phạm trên thế giới đặc biệt quan tâm.
L.X.Vưgotxki khi nói về trị chơi của trẻ, ông nhấn mạnh sự cần thiết của
việc thỏa thuận và hợp tác với bạn trong trị chơi. Ơng cho rằng chính sự hợp
tác đã thúc đẩy nhận thức của trẻ vượt qua ngoài phạm vi chức năng phát triển
bình thường của trẻ. Theo ơng, tất cả trị chơi đều có luật và việc chấp hành
đúng luật chơi là điều kiện để duy trì trị chơi, dựa vào luật chơi để đánh giá và
điều chỉnh hành vi của các vai chơi. Qua đó trẻ hiểu được các hành vi xã hội và
phát triển được năng lực thỏa thuận luật chơi trước khi chơi. Đó chính là điều
kiện để thúc đẩy trẻ hợp tác với nhau.
Các nhà giáo dục như K.Đ.Usinxki, A.P.Uxơva và E.U.Chikhiepva đã có
cùng quan điểm về vai trị của trị chơi đối với việc hình thành xã hội trẻ em và
hoạt động vui chơi chính là cơ hội thuận lợi cho trẻ thể hiện KNHT. Chính
trong quá trình chơi, nhân cách trẻ được hình thành và phát triển. Đặc biệt
những trò chơi tập thể đã tạo điều kiện hình thành và phát triển các mối quan
hệ xã hội đầu tiên của trẻ, đồng thời trẻ dễ dàng lĩnh hội được các kinh nghiệm
văn hóa xã hội. Trị chơi là hình thức tổ chức cuộc sống của trẻ, là phương tiện
hình thành “xã hội trẻ em”, trong quá trình chơi của trẻ hiện diện hai loại quan
hệ, đó là quan hệ chơi và quan hệ thực. Những mối quan hệ đi kèm với trò chơi
là cơ sở để hình thành xã hội trẻ em. Thơng qua trị chơi hình thành và phát
triển ở trẻ những phẩm chất mang tính xã hội, khả năng thiết lập các mối quan
hệ với trẻ khác. Các trò chơi tập thể giúp trẻ liên kết với nhau, làm nảy nở tình
cảm bạn bè. Khi chơi, trẻ biết kết hợp quyền lợi của cá nhân với lợi ích của


7
nhóm, đơi khi trẻ biết hy sinh ý muốn của mình vì lợi ích chung của cả nhóm,
đây cũng có thể coi là cơ sở ban đầu của sự hợp tác.
1.1.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam
Vì nhận thức được KNHT có ý nghĩa vơ cùng quan trọng đối với cuộc
sống của trẻ MN nên ở trong nước, bên cạnh những cơng trình nghiên cứu về

KNHT nói chung thì vấn đề KNHT của trẻ MG đã bắt đầu được một số nhà tâm
lý, GDMN chú ý đến. Họ đi theo các con đường khác nhau nhung nhìn chung
họ đều có mong muốn tìm ra con đường tốt nhất để giúp trẻ MG phát triển toàn
diện nhân cách.
Theo các nhà tâm lý học, giáo dục học thì con đường nhanh nhất và hiệu
quả nhất để hình thành KNHT cho trẻ là thông qua hoạt động vui chơi. Cho nên
từ những năm 70 trở lại đây các nhà khoa học GD Việt Nam đã có nhiều cơng
trình nghiên cứu về trị chơi trẻ em với việc hình thành, phát triển nhân cách
nói chung và hình thành KNHT cho trẻ MN nói riêng. Tiêu biểu như:
GS.TS Đặng Thành Hưng cho rằng khi có KNHT thì trẻ có thể hiểu sâu
sắc, tồn diện và biết cách đánh giá những ý tưởng của nhiều người. Từ đó trẻ
dễ dàng hịa nhập nhiều hoạt động, nhiều sự kiện khác nhau và trên cơ sở đó,
trẻ sẽ có cơ hội được trải nghiệm, tìm ra nhiều giải pháp dựa trên quá trình thu
thập kinh nghiệm của nhiều cá nhân. Từ đó trẻ có thể tự kiểm định, đánh giá
các năng lực và thành tựu của cá nhân.[10]
Trong các cơng trình nghiên cứu về kĩ năng sống của con người thì ơng
Nguyễn Thanh Bình đã nhấn mạnh đến sự cần thiết của KNHT trong học tập
cũng như trong sinh hoạt ở mọi lứa tuổi, trong đó có cả lứa tuổi MN. Vì vậy
trong quá trinh GD trẻ cần chú ý đến việc hình thành KNHT cho trẻ nhỏ và
nâng cao hiệu quả dạy học bằng cách áp dụng các biện pháp dạy học theo
nhóm.[2]
Chính vì hiểu được tầm quan trọng của KNHT đối với trẻ MN nên nhóm
các tác giả như Lê Xuân Hồng, Lê Thị Khang, Hồ Lai Châu,…đã đề cập đến
việc phát triển những kĩ năng cần thiết cho trẻ MN. Trong đó, phát triển KNHT
là một nhiệm vụ trọng tâm của ngành học MN với mục tiêu chung là thúc đẩy
sự phát triển KNHT của trẻ bằng cách giúp trẻ học cách hoà nhập với những trẻ
khác, và những mục tiêu cụ thể là tạo cơ hội cho trẻ chơi và làm việc với trẻ


8

khác, giúp trẻ học cách tham gia vào trò chơi, tạo ra sự cảm nhận giúp trẻ tôn
trọng những quyền lợi cùa trẻ khác qua việc chia sẻ với nhau. Các tác giả này
đã phân tích trị chơi ở khía cạnh phát triển các kĩ năng giao tiếp trong nhóm
chơi: Thơng qua hoạt động vui chơi trong nhóm, trẻ thể hiện được sự tích cực
chủ động hợp tác với nhau trong hoạt động vui chơi. Nhờ các mối quan hệ
trong trò chơi mà trẻ dễ dàng thể hiện tinh thần hợp tác và tương trợ lẫn nhau
tạo quan hệ tốt, các mối quan hệ thực và quan hệ chơi được thiết lập chuyển đổi
một cách dễ dàng.[8]
Hai tác giả Nguyễn Thị Tính và Hà Kim Linh đã khẳng định ưu thế của
hoạt động vui chơi đối với việc hình thành KNHT cho trẻ MG, đồng thời cho
thấy vai trò cùa hoạt động chơi theo nhóm đối với trẻ MG: “Hoạt động chơi
cùng nhóm bạn sẽ giúp trẻ hình thành KNHT, kĩ năng giao tiếp, giúp trẻ biết
đồng cảm, chia sẻ với nhau trong hoạt động. PGS.TS. Nguyễn Ánh Tuyết đã
phân tích vai trị chủ đạo cùa trị chơi và sự phát triển các phẩm chất nhân cách
của trẻ. Bà đã khẳng định trò chơi là con đường cơ bản để hình thành sự hợp
tác ở trẻ, đặc biệt là trị chơi đóng vai theo chủ đề một dạng hoạt động đòi hỏi
phải cỏ sự phối hợp giữa các thành viên trong trị chơi với nhau. Vì thế, để tiến
hành một trị chơi nhằm mơ phỏng lại đời sống xã hội buộc phải có nhiều trẻ
cùng tham gia, cùng hoạt động với nhau, nghĩa là phải có bạn bè cùng chơi.
Hợp tác là một nét phát triển mới trong hoạt động vui chơi của trẻ MG. [16,17]
Những năm gần đây, vấn đề kĩ năng sống, trong đó có cả KNHT được rất
nhiều người quan tâm. Chính vì vậy KNHT trở thành đề tài của nhiều cơng trình
nghiên cứu. Ví dụ như: Các tác giả Phạm Thị Thu Hương, Hồ Thị Ngọc Trân và Vũ
Thị Nhâm đã có cùng hướng nghiên cứu về sự hình thành và phát triển KNHT ở
những độ tuổi khác nhau thông qua việc tổ chức hoạt động vui chơi của trẻ MG.
Tác giả Phạm Thị Thu Hương đã nghiên cứu và đề xuất một số biện pháp hình
thành tính hợp tác qua trị chơi đóng vai theo chủ đề cho trẻ 3 - 4 tuổi như: Tạo tình
huống trong quá trình trẻ chơi, mở rộng các mối quan hệ giữa các vai chơi, chủ đề
chơi, và đưa trẻ vào các nhóm chơi khơng cùng độ tuổi...Tác giả Hồ Thị Ngọc Trân
đã nghiên cứu về khả năng hợp tác của trẻ 3 - 4 tuổi trong hoạt động vui chơi, đặc

biệt là trong trị chơi đóng vai theo chủ đề trò chơi trung tâm của trẻ MG. Nghiên
cứu này đã chỉ ra sự hợp tác của trẻ được bắt đầu hình thành thơng qua hoạt


9
động vui chơi và nhờ đó mà trẻ thiết lập được mối quan hệ đúng đắn trong xã
hội, còn tác giả Vũ Thị Nhâm đã nghiên cứu và đề xuất một số biện pháp phát
triển KNHT cho trẻ 5 - 6 tuổi qua trị chơi đóng vai theo chù đề như: Khuyến
khích trẻ 5 - 6 tuổi chia sẻ kinh nghiệm, ý tưởng chơi cùng nhau, tạo tình huống
chơi hấp dẫn, tạo khơng gian chơi và bố trí các ngun vật liệu thiên nhiên, phế
liệu trong các góc chơi để kích thích trẻ tích cực hợp tác với nhau...[12,15]
Qua lịch sử nghiên cứu vấn đề trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã cho
thấy việc hình thành KNHT cho trẻ MN là rất quan trọng nên được rất nhiều tác
giả nghiên cứu. Tuy nhiên cho đến nay thì vấn đề tổ chức TCVĐ nhằm hình
thành KNHT cho trẻ 5 - 6 tuổi vẫn chưa được quan tâm đúng mức và chưa ai
nghiên cứu về vấn đế này, nên đây chính là cơ sở để chúng tơi xác định
hướng nghiên cứu cùa mình.
1.2. KNHT của trẻ 5 - 6 tuổi
1.2.1. Khái niệm về KNHT của trẻ 5 - 6 tuổi
1.2.1.1. Khái niệm về hợp tác
Theo từ điển tiếng Việt: “Hợp tác là chung sức giúp đỡ nhau trong một
công việc, một lĩnh vực nào đó nhằm đạt mục đích chung”.
Theo C.Mác thì hợp tác là hình thức lao động của nhiều người làm việc
bên nhau và với nhau trong cùng một quy trình sản xuất hay trong các quy trình
sản xuất khác nhau, nhưng liền với nhau theo kế hoạch.
Các tác giả như Hồng Hịa Bình, Lê Minh Châu, Phan Thanh Trà thì
cho rằng hợp tác là cùng chung sức làm việc, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau trong
một công việc, một lĩnh vực nào đó vì mục đích chung.
Theo PGS Nguyễn Thanh Bình thì “Hợp tác đó là những hành vi giúp đỡ
người khác, tuân thủ cam kết hoặc cùng chung sức hồn thành một cơng việc,

cùng phối hợp hành động trong một lĩnh vực nào đó nhằm một mục đích
chung”.
Qua quan niệm của các tác giả trên, chúng ta có thể hiểu hợp tác là q
trình hoạt động cùng nhau của con người đê đạt được mục đích chung.
1.2.1.2. Khái niệm về kỹ năng
Trong bất kì một hoạt động nào, muốn đạt được hiệu quả thì khơng nhữn
cần có tri thức, có ý chí mà phải có những kĩ năng, kĩ xảo nhất định.


10
Trong từ điển tiếng Việt của NXB Khoa học xã hội thì cho rằng “kĩ năng
là khả năng ứng dụng tri thức khoa học vào thực tiễn”.
Trong tâm lý học tồn tại hai quan niệm khác nhau về kĩ năng:
Quan niệm thứ nhất: Coi kĩ năng là mặt kĩ thuật của thao tác, hành động
hay hoạt động.
Đại điện cho quan niệm này là các tác giả như: Ph.N.Gônôbôlin,
V.A.Krutrexki, V.X.Cudin, A.G.Kôvaliôv, Trần Trọng Thủy, Lê Văn Hồng... Các
tác giả này cho rằng, muốn thực hiện được một hành động, cá nhân phái có tri thức
về hành động đó, tức là phải hiểu được mục đích, phương thức và các điêu kiện để
thực hiện nó. Vì vậy, nếu ta nắm được các tri thức về hành động, thực hiện được nó
trong thực tiễn theo các yêu cầu khác nhau, tức là ta đã có kĩ năng hành động.
Quan điểm thứ hai: Coi kĩ năng không đơn thuần là mặt kĩ thuật của
hành động mà nó cỏn là một biểu hiện về năng lực của con người. Kĩ năng theo
quan niệm này vừa có tính ốn định, lại vừa có tính mềm dẻo, tính linh hoạt và
tính mục đích.
Đại diện cho quan điếm này là các tác giả: N.D.Lêvitôv, X.I.Kixegof,
K.K.Latônôv, A.V.Barabasicov, Nguyễn Ánh Tuyết, Ngơ Cơng Hồn, Nguyễn
Quang Uẩn .v.v...
Như vậy có thể hiểu: Kĩ năng là khả năng thực hiện một hành động,
cơng việc nào đó đã định sẵn.

1.2.1.3. Khái niệm kĩ năng hợp tác
Dựa trên sự phân tích khái niệm “Kĩ năng” và “Hợp tác”, chúng tôi xác
định khái niệm “Kĩ năng hợp tác” như sau:
KNHT là khả năng hoạt động cùng nhau để thực hiện một nhiệm vụ hay
một công việc nào đó đã định sẵn.
1.2.1.4. Khái niệm KNHT của trẻ 5 - 6 tuổi
Từ việc xác định khái niệm “Kĩ năng hợp tác” chúng tôi đưa ra khái
niệm “kĩ năng hợp tác của trẻ 5 - 6 tuổi” như sau:
KNHT của trẻ 5 - 6 tuổi là khả năng hoạt động cùng nhau để thực hiện
nhiệm vụ nào đó đã định sẵn của trẻ 5 - 6 tuổi
1.2.2. Cơ chế sinh lý của việc hình thành KNHT
KNHT là khả năng hoạt động cùng nhau thực hiện một nhiệm vụ, một


11
cơng việc nào đó đã định sẵn, và KNHT được hình thành dựa trên cơ chế sinh
lý của việc hình thành các kĩ năng nói chung, đó là một hệ thống các đường
liên hệ thần kinh tạm thời đã được hình thành tương đối vững chắc trên vỏ não,
nhờ có hệ thống này, các thao tác đầu tiên của hành động được thực hiện sẽ “tự
kéo theo” một chuỗi các thao tác khác, hầu như khơng cần có “sự chỉ huy” của
ý thức, khơng cần có sự tham gia của hệ thống tín hiệu thứ hai, con người
khơng cần suy nghĩ về trình tự tiến hành từng thao tác. Ta cịn gọi hệ thống các
đường liên hệ thần kinh đó là động hình (định hình động lực). Tồn bộ hành
động nhờ đó sẽ được thực hiện trong một khâu liên tục, các động tác có liên hệ
chặt chẽ với nhau. Đó là hệ thống các phản xạ có điều kiện được lặp đi lặp lại
theo một trình tự nhất định và theo khoảng cách thời gian nhất định trong một
thời gian dài. Khi hệ thống này bền vững chỉ cần phản xạ đầu xảy ra là toàn bộ
phản xạ tiếp theo xảy ra theo lối “dây chuyền” (nghĩa là một kích thích có thể
đại diện cho tồn bộ các kích thích khác để gây phản xạ). Chính vì thế, động
hình là cơ sở của những hành động tự động hóa, thói quen, kỹ năng, kỹ xảo.

Định hình động lực đã được nghiên cứu kĩ trong phịng thí nghiệm của
Pavlov. Người ta cho rằng nếu một hệ thống các kích thích có điều kiện dương
tính và âm tính ln phiên nhau, cách nhau những khoảng thời gian nhất định,
được sắp xếp theo một trật tự cố định, tác động lâu dài trên cơ thể, thì não bộ sẽ
ghi nhận được hệ thống kích thích này.
Mỗi kích thích, tùy thuộc vào vị trí tương ứng, vào quy luật về lực và
mức độ bão hòa của con vật, sẽ gây ra một hiệu quả nhất định. Nhờ có khả
năng lưu thích ứng trong các tế bào thuộc vỏ bán cầu đại não, các định hình sẽ
được ghi nhận dưới dạng một hệ thống chức năng phức tạp. Trong hệ thống
chức năng này, tất cả các yếu tố thành phần tác động lên cơ thể sẽ liên kết với
nhau thành một tổ hợp thống nhất mang tính chất tổng hợp. Dựa vào đây, ta có
thể coi định hình là phản xạ có điều kiện đối với một nhóm các kích thích của
mơi trường. Chỉ cần một kích thích ban đầu là tồn bộ phản xạ sẽ xảy ra nối
tiếp nhau. Trong trường hợp này, não đã phản ứng với hệ thống các tín hiệu.
Nếu đem tách từng kích thích ra rồi cho chúng tác động riêng lẻ, thì phản xạ có
điều kiện sẽ khơng xuất hiện. Ngược lại, nếu ta đem thay thế một trong số các
kích thích bằng một kích thích khác có lực trung bình, thì định hình vẫn xuất hiện


12
Sự tồn tại các định hình động lực làm cho hoạt động của con người được
thuận lợi và dễ dàng hơn. Chính vì vậy, một việc dù khó đến đâu mà ta thao tác
lặp đi, lặp lại nhiều lần cũng trở thành dễ dàng thực hiện. Trong quá trình luyện
tập, những động tác thừa làm hao tổn năng lượng không cần thiết sẽ mất dần đi.
Do đó có thể coi định hình động lực là cơ sở của những thói quen, cùa kĩ năng,
kĩ xảo. Nó cũng là một hệ thống phối hợp chức năng tinh xảo của toàn bộ cơ
thể. Đó là phản ứng của vỏ não đối với hồn cảnh bên ngồi tương đối ổn định,
ít thay đổi. Muốn hình thành và duy trì sự ổn định về cơ cấu của một định hình
trong từng trường hợp cụ thể, phải cỏ điều kiện đặc biệt thoa mãn những yêu
cầu đã được nâng cao đối với hệ thần kinh trung ương.

1.2.3. Biểu hiện của KNHT
Hợp tác là quá trình hoạt động cùng nhau cùa con người để đạt được mục
đích chung và KNHT là khả năng hoạt động cùng nhau để thực hiện một nhiệm vụ
hay một công việc nào đó đã định sẵn. Từ 2 khái niệm này, có thể rút ra đuợc những
biểu hiện của người có KNHT :
- Tơn trọng mục đích, mục tiêu hoạt động chung của nhóm, tơn trọng những
quyết định chung, những điều đã cam kết
- Biết giao tiếp hiệu quả, tôn trọng, đồn kết và cảm thơng, chia sẻ với các
thành viên khác trong nhóm.
- Biết bày tỏ ý kiến, tham gia xây dựng kế hoạch hoạt động của nhóm.
Đồng thời biết lắng nghe, tôn trọng xem xét các ý kiến, quan điểm của mọi người
trong nhóm.
- Nỗ lực phát huy năng lực, sở trường của bản thân để hoàn thành tốt nhiệm
vụ đã được phân công. Đồng thời biết hỗ trợ, giúp đỡ các thành viên khác trong quá
trình hoạt động.
- Biết cùng cả nhóm đồng cam cộng khổ vượt qua những khó khăn, vướng
mắc để hồn thành mục đích, mục tiêu hoạt động chung.
- Có trách nhiệm về những thành cơng hay thất bại của nhóm, về những sản
phẩm do nhóm tạo ra.
1.2.4. Đặc điểm KNHT của trẻ 5 - 6 tuổi
Vào tuổi 5 - 6 tuổi, do đã có ít nhiều vốn sống nhờ việc tiếp xúc hàng
ngày với thế giới đồ vật, giao tiếp rộng rãi với những người xung quanh, nhận


13
thức của trẻ đã phát triển nên các trò chơi của trẻ cũng phát triển theo. Chính vì
thế mà làm nảy sinh nhu cầu hợp tác cùa trẻ với các bạn cùng chơi. Khơng có
sự hợp tác, phối hợp với nhau giữa các thành viên thi khơng thành trị chơi.
Việc hợp tác chơi với nhau trong nhóm đã trớ thành một nhu cầu bức thiết đối
với trẻ 5 - 6 tuổi.

Trong khi chơi, KNHT của trẻ 5 - 6 tuổi được thể hiện trước hết sự thỏa
thuận cùng nhau. Trẻ biết thỏa thuận về trò chơi vai chơi, hành động chơi để
hoàn thành nhiệm vụ chơi một cách tốt nhất. Trẻ biết trao đổi ý kiến của mình
với các bạn đồng thời cũng biết lắng nghe ý kiến của các bạn khi bàn bạc với
nhau để đưa ra cách thức thực hiện nhiệm vụ chơi.
Ở độ tuổi này, khi tham gia vào trị chơi, trẻ chấp nhận sự phân cơng của
người trưởng trị và của nhóm chơi một cách tích cực. Trong quá trình chơi trẻ
đã biết tuân thủ quy ước của trò chơi, trẻ biết chấp nhận sự “thắng”, “thua”, trẻ
nào vi phạm những quy ước đó thì bị coi là “ăn gian” và sẽ bị tập thể loại ra
khỏi cuộc chơi. Khi có mâu thuẫn xảy ra trẻ cũng biết tìm cách giải quyết để
trị chơi được tiếp tục diễn ra một cách suôn sẻ như: Nhờ sự can thiệp của
người khác hay chấp nhận sự thỏa hiệp.
Việc thiết lập mối quan hệ chơi của trẻ được dễ dàng hơn và sự phối hợp
hành động khi chơi khá ăn ý với nhau, trẻ bắt đầu biết chú ý đến ý kiến của các
bạn cùng chơi, và sẵn sàng hùa theo ý kiến của số đông. Ở độ tuổi này sự đánh
giá của nhóm bạn trở nên đặc biệt quan trọng, vì nó có tác động khá rõ nét tới
cả tập thể. Mỗi đứa trẻ đều cố gắng tự kiềm chế những việc làm không được
các bạn tán thành, và ngược lại, cố gắng làm nhiều việc tốt để được bạn bè yêu
quý và tín nhiệm. Mặc dù trong các hoạt động chung của trẻ vẫn thường xảy ra
xung đột, xong các mối quan hệ trong trò chơi cũng đã trở nên bền vững hơn.
Như vậy, trẻ đã nhận ra được sự cần thiết của nhóm chơi, tập thể bạn bè, những
biểu hiện của sự hợp tác ban đầu cũng dần được hình thành qua các vai chơi
trong trị chơi của trẻ. Với sự hướng dẫn của GV, trẻ đã biết liên kết hành động
chơi của mình với hành động của bạn, biết thỏa hiệp, nhường nhịn và hợp tác
với nhau trong các hoạt động chung.
Đối với trẻ 5 - 6 tuổi, ý thức về bản thân bắt đầu phát triển, trẻ có khả
năng tự khẳng định mình trong tập thể, có thái độ phù hợp trong mối quan hệ


14

với các bạn trong nhóm chơi. Vì vậy, ý thức tập thể của trẻ cũng đang được
hình thành, trẻ bắt đầu biết phối hợp hành động cùng với nhau, biết đưa ra ý
kiến nhận xét về hành động cũng như kết quả hoạt động cùa bản thân và các
bạn trong nhóm, lớp.
Qua đây có thể thấy trẻ MG nói chung và trẻ 5 - 6 tuổi nói riêng đã có
những biểu hiện ban đầu cùa KNHT. Sự hợp tác của trẻ được hình thành và
phát triển khơng chỉ phụ thuộc vào lứa tuổi mà còn phụ thuộc rất nhiều vào
cách thức tổ chức, hướng dẫn của người lớn. Người lớn cần quan tâm, tạo điều
kiện, cơ hội cho trẻ tham gia vào các hoạt động chung của tập thể, hay hoạt
động trong các nhóm chơi với những nội dung, cách thức, phương pháp hấp
dẫn vì sự hình thành và phát triển KNHT cho trẻ ở lứa tuổi này là hết sức quan
trọng. Có thể nói rằng đây là thời điểm thuận lợi nhất để hình thành KNHT cho
trẻ. Bỏ qua thời kì này, khơng quan tâm hình thành KNHT cho trẻ là một sai
lầm nghiêm trọng
1.2.5. Các yếu tổ ảnh hưởng đến sự hình thành KNHT của trẻ 5 - 6 tuổi
Sự hình thành KNHT của trẻ 5 - 6 tuổi phụ thuộc vào nhiều yếu tố, có
thể kể đến các yếu tố sau:
1.2.5.1. Đặc điểm lâm lý của trẻ 5 - 6 tuổi:
Cơ thể trẻ em là một cơ thể đang lớn và phát triển, quá trình này diễn ra
một cách liên tục cho phép trẻ giải quyết những tình huống phức tạp hơn. Việc
tiếp xúc với mơi trường xung quanh và sự thay đổi dần về chức năng sinh lí tạo
nên những bước tiến trong sự phát triển của cơ thể trẻ, hình thành ở trẻ khả
năng tự ý thức về bản thân. Các nhà tâm lí hoc cho rằng sự tự ý thức về bản
thân trẻ đóng vai trò rất quan trọng. Khi trẻ biết tự ý thức, trẻ sẽ có khả năng
đánh giá bản thân, đánh giá người khác nhận được cái đúng, cái sai, cái hay, cái
dở. Từ đó trẻ có nhiều cơ hội để trải nghiệm xã hội KNHT ngày càng bền vững.
1.2.5.2. Sự tích cực, chủ động, hưng thú của bản thân trẻ 5 – 6 tuổi đối với
cơng việc chung.
Sự tích cực chủ động là nhu cầu mang tính cảm xúc cao của trẻ và có được
trước khi có động cơ hoạt động. sự hợp tác phụ thuộc rất nhiều vào sự tích cực

chủ động của trẻ, nó sẽ tác động tới trẻ làm trẻ trở nên thân thiện gần gũi, dễ
đồng cảm chia sẻ với nhau, đồng thời nó cũng làm giảm căng thẳng, mệt mỏi


15
giúp trẻ tham gia hoạt động một cách thoải mái. Hứng thú với cơng việc cũng có
ảnh hưởng đến sự hợp tác của trẻ nó như là một sự thúc đẩy làm biến đổi dáng kể
mối quan hệ của trẻ, trở nên thân thiện, đễ hòa đồng, dễ đồng cảm sẵn sàng chia sẻ
với nhau giúp cho hoạt động hợp tác đạt hiệu quả cao hơn.
1.2.5.3. Hoạt động nhóm và quy mơ nhóm
Hoạt động nhóm ln được đánh giá cao. Vì đây là một trong những
phương pháp giáo dục phổ biến đem lại hiệu quả. Đối với trẻ MG, tham gia
chơi và sinh hoat cùng nhóm với bạn bè là yếu tố vơ cùng quan trọng nhằm đẩy
mạnh q trình xã hội hóa nhân cách của trẻ, giúp trẻ thiết lập các mối quan hệ
xã hội với tư cách là chủ thể ý thức. Hoạt động này góp phần tạo điều kiện
thuận lợi cho việc thúc đẩy quá trình hợp tác chơi với các trẻ, tạo ra môi trường
chơi thi đua cạnh tranh, giúp trẻ biết đồng cảm chia sẻ với nhau trong hoạt
động. Qua đó các quan hệ xã hội được thiết lập một cách bền vững.
1.2.5.4. Yếu tố thi đua
Việc thi đua với các bạn khác, với các nhóm khác để hồn thành một sản
phẩm hay một nhiệm vụ nào đó là yếu tố kích thích và hình thành KNHT. Việc
tổ chức thi đua không phải là để nhằm xem ai thắng, ai thua mà ở đây là để tìm
ra sự sáng tạo, nét độc đáo ở bản thân mỗi trẻ. Trong trò chơi nếu GV biết tổ
chức cho trẻ thi đua lành mạnh, công bằng, dân chủ với các bạn trong nhóm,
lớp thì sẽ kích thích ở trẻ hứng thú học tập bền vững và giúp trẻ hợp tác với
nhau chặt chẽ hơn.
1.2.5.5. Môi trường giáo dục
Môi trường giáo dục có vai trị hết sức quan trọng đối với q trình hình
thành và phát triển tồn diện nhân cách cho trẻ nói chung và KNHT nói riêng.
Yếu tố quan trọng nhất trong mơi trường giáo dục đó chính là vai trị của GV

trong việc tổ chức các hoạt động GD nhằm hình thành KNHT cho trẻ 5 - 6 tuổi.
Khi tổ chức các hoạt động cho trẻ, GV cần phải dựa trên lý thuyết về “vùng
phát triển gần nhất cho trẻ. GV cẩn làm mẫu cho trẻ học tập và noi theo, tạo
cho trẻ cảm giác được tơn trọng, được đối xử bình đẳng như đang ở gia đình
mình. Khơng gian lớp học cũng có ảnh hưởng rất lớn đến sự hợp tác của trẻ.
Cần chia nơi hoạt động của trẻ thành các diện tích nhỏ có độ cách biệt tương
đối để trẻ có thể hoạt động tập trung mà không bị ảnh hưởng và phân tán sự chú


16
ý, suy nghĩ bởi các nhóm khác. Các giá đựng đồ dùng phục vụ cho hoạt động
trẻ cần để vừa và ở trạng thái mở để có thể khuyến khích trẻ sử dụng phù hợp
với ý tưởng và cách làm của nhóm mình.
Gia đình cũng có một vai trị quan trọng trong việc giúp trẻ hình thành
KNHT. Sự hợp tác xuất phát từ gia đình, trong đó bố mẹ có ảnh hưởng rất lớn
đến trẻ. Nếu trong gia đình, người lớn biết quan tâm tạo điều kiện cho trẻ được
tham gia vào các hoạt động xã hội và luôn xem trẻ như một thành viên thực thụ
của gia đình.Từ đó trẻ tự tin, mạnh dạn và dễ dàng hòa nhập vào các môi quan
hệ xã hội.
1.2.6. Ý nghĩa của việc hình thành KNHT trong sự phát triển nhân cách của
trẻ 5 - 6 tuổi
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, GDMN giữ một vị trí hết sức quan
trọng, lứa tuổi MG là giai đoạn phát triển mạnh mẽ về thể chất và tâm lý, do đó
mọi tác động đến trẻ lúc này đều có những ảnh hưởng nhất định đến sự hình
thành và phát triển nhân cách về sau của trẻ. So với trẻ nhà trẻ thì trẻ MG rất
muốn được quan hệ, giao lưu với bạn bè. Chính trong nhóm bạn bè những mối
quan hệ xã hội của trẻ được thiết lập và trở nên bền vững, trong đó trẻ được
hoạt động với tư cách là một chủ thể độc lập, tự lực, tích cực và sáng tạo.
Tất cả các hoạt động hàng ngày của trẻ đều cần có sự hợp tác. Khi trẻ có
được ý thức và kĩ năng cùng hòa nhập vào cộng đồng xã hội và nhận ra chính

mình ở trong đó là cả một bước phát triển vô cùng quan trọng đối với trẻ. Đối
với trẻ em, KNHT là điều kiện quan trọng để hình thành và phát triển tồn diện
nhân cách: Trí tuệ, tình cảm, ý chí, ngơn ngữ... Đặc biệt khi tham gia vào các
hoạt động chung thì các hành vi xã hội của trẻ cũng được cải thiện và thử
thách. Cho nên việc phát triển KNHT cho trẻ cần được quan tâm thích đáng.
Phát triển KNHT cho trẻ là tạo cơ hội để trẻ chơi và làm việc với các trẻ
khác. Chơi là nhu cầu, là cuộc sống của trẻ. Khi chơi, trẻ trở nên cao hơn chính
mình và chúng có thể làm được nhiều việc mà trong thực tế không thể làm
được. Có thể thấy, trẻ chơi trong nhóm bạn bè là một hiện tượng rất thông
thường và ở đâu ta cũng có bắt gặp. Rõ ràng đây là một xã hội, nhưng là một xã
hội đặc biệt “xã hội trẻ em”. Phần lớn các nét tính cách của trẻ lại được nhen
nhóm trong nhóm bạn bè. Có thể coi nhóm bạn bè là một môi trường để trẻ lớn


17
lên khiến cho KNHT của trẻ được hình thành và phát triển mạnh mẽ. Đây là
một điều vô cùng quan trọng đối với trẻ.
Các mối quan hệ xã hội mà trẻ tham gia càng phong phú, đa dạng càng
góp phần vào việc hoàn thiện nhân cách trẻ. Sự phối kết hợp các hoạt động
giữa các trẻ trong nhóm chơi đã tạo ra mối quan hệ xã hội hết sức độc đáo và
điển hình. Vì vậy, khi tham gia vào các hoạt động chung, mỗi trẻ bằng hoạt
động và giao tiếp của mình đã tích cực chiếm lĩnh các mối quan hệ xã hội đó.
về thực chất, đây là nền tảng của q trình phát triển nhân cách. Có thể nói
rằng, phát triển KNHT hàm chứa một tiềm năng to lớn cho nhà GD trong việc
hình thành ý thức tập thể, xây dựng tình bạn, phát triển động cơ chơi cho trẻ.
Hình thành KNHT cho trẻ là giúp trẻ bước vào một cuộc sống xã hội.
Thông qua việc thảo luận, hợp tác với các bạn trong nhóm chơi, trẻ tự tìm kiếm
hoàn thiện của những quan hệ giữa con người với con đây chính là cơ sở ban
đầu để các em xây dựng cách ứng xử của mình để bước vào cuộc sống tương
lai. Vì vậy, có thể nói, hình thành và phát triển KNHT cho trẻ là tạo cơ hội cho

trẻ lĩnh hội các kinh nghiệm về quan hệ đạo đức, có trách nhiệm và giúp đỡ lẫn
nhau, làm nảy sinh xúc cảm về nhau, gây ảnh hưởng tới việc hình thành động
cơ chung của tập thể. Tất cả đều đem lại sự thỏa mãn và nâng cao hứng thú
chơi cho trẻ.
Khi trẻ hợp tác với nhau trong các hoạt động, đặc biệt là trong hoạt động vui
chơi thì các trẻ sẽ phải cùng nhau bàn bạc, chia sẻ các ý kiến với nhau để đi đến
thỏa thuận cuối cùng, điều này khiến cho quá trình chơi của trẻ diễn ra thuận lợi hơn
vì các trẻ sẽ khơng tranh giành nhau do chúng đã thỏa thuận từ trước. Trong quá
trình chơi các trẻ dễ dàng phối hợp hành động với, nói lên ý kiến của mình điều này
làm cho kết quả mà nhóm đạt được tốt hơn là chỉ có một thành viên thực hiện hành
động chơi.
Có thể nói sự hợp tác của các trẻ trong nhóm làm cho trị chơi được diễn ra
một cách trọn vẹn. Trẻ có cơ hội được thể hiện và phát triển bản thân. Đó chính là
biểu hiện phát triển một cách tồn diện về mặt nhân cách của trẻ trong lứa tuổi MN.
Không chỉ có hoạt động vui chơi, các trị chơi của trẻ mới cần có sự hợp tác mà
trong tất cả mọi hoạt động hàng ngày cũng cần có sự hợp tác, làm cho con người
ngày càng phát triển hơn về mặt xã hội. Đối với trẻ thì sự hợp tác chính là tiền đề để


18
trẻ có thế tự tin bước vào cuộc sống xã hội trong tương lai.
1.3. TCVĐ đối với việc hình thành KNHT của trẻ 5 – 6 tuổi
1.3.1. Khái niệm về TCVĐ của trẻ 5 – 6 tuổi
1.3.1.1. Khái niệm TCVĐ
Trò chơi giữ một vai trị quan trọng trong sự hình thành và phát triển
nhân cách trẻ MG, do đó có rất nhiều tác giả quan tâm và nghiên cứu về các
loại trị chơi dành cho trẻ MG, trong đó có TCVĐ. Tiêu biểu như:
PGS.TS.Nguyễn Ánh Tuyết cho rằng TCVĐ là một trị chơi có luật. Luật
chơi quy định việc thực hiện các hành động chơi, nội dung chơi. Luật chơi ở
đây khơng gị đứa trẻ vào một khn phép cứng nhắc mà nó trở thành động cơ

thúc đẩy trẻ vận động tích cực.
TS. Đinh Văn Vang thì cho rằng: TCVĐ là loại trị chơi có luật, thường
do người lớn nghĩ ra cho trẻ chơi. Đó là loại trị chơi địi hỏi trẻ phải phối hợp
các thao tác vận động để giải quyết các nhiệm vụ vận động được đặt ra như là
nhiệm vụ chơi, qua đó thể chất trẻ được phát triển.
PGS.TS. Đặng Hồng Phương đã đưa ra khái niệm TCVĐ là những trị
chơi trong đó lượng vận động chiếm ưu thế.
Từ quan điểm của các tác giả nên trên chúng ta có thể hiểu khái niệm
TCVĐ như sau:
TCVĐ là loại trị chơi có luật, trong đó có sự phối hợp các thao tác vận
động và vận động cơ bản để giải quyết các nhiệm vụ vận động trong trò chơi.
1.3.1.2. Khái niệm về TCVĐ của trẻ 5 – 6 tuổi
Từ kh ái niệm TCVĐ, chúng ta có thể hiểu khái niệm về TCVĐ của trẻ 5 - 6
tuổi như sau:
TCVĐ của trè 5 – 6 tuổi là loại trò chơi có luật, trong khi chơi trẻ 5 - 6
tuổi phải phối hợp các thao tác vận động và vận động cơ bản để giải quyết các
nhiệm vụ vận động trong trò chơi.
1.3.2. Nguồn gốc và sự phát triển TCVĐ
Trong lịch sử xã hội lồi người, đã có một thời kì dài con người phải
sống bằng săn bắt và hái lượm rau quả. Không những thế, để tồn tại và phát
triển, con người cịn phải chống lại sự tấn cơng của muông thú và các hiện
tượng tự nhiên như mưa, nắng, giông, bão, lũ lụt, núi lửa, động đất và bệnh


19
tật.v.v...Trong cuộc sống đầy khó khăn và gian khổ, con người đã phải vất vả
lao động, đấu tranh để sinh tồn, đó cũng chính là những cuộc “đọ sức”, “thi
đấu” giữa con người với muông thú, với thiên nhiên và môi trường xung quanh
về sức mạnh, sức nhanh, sức bền, sự khéo léo, linh hoạt, tài trí và sự dũng
cảm...Chính trong cuộc sống sinh tồn ấy, nhiều khi con người phải trả những

giá rất đắt bằng chính sinh mạng của mình, nhưng cũng nhờ đó con người đã có
những bài học quý giá.Thông thường, sau một ngày lao động và đấu tranh vất
vả vì cuộc sống, mọi người thường tụ tập nhau để đón mừng những thành quả
lao động của mình. Trong những cuộc vui như vậy, những người tạo ra những
thành quả đó thường diễn tả lại những cơng việc chính đã làm bằng lời và bằng
những động tác quyết định mà nhờ đó con người đã thắng thiên nhiên, thắng
động vật để đem lại những thành quả. Ví dụ như những thao tác chạy rượt đuổi
các con vật rồi dùng đá và vũ khí thơ sơ đã chuẩn bị trước, hoặc mới tìm được
để ném vào con vật, hoặc những thao tác leo từ cành cây này sang cành cây
khác để hái quả, hoặc bơi, lội. lặn để bắt các động vật dưới nước.v.v...Những
thao tác đó được nhiều người vui mừng bắt chước, trong q trình đó, người
này thêm một chút, người kia bớt một chút, biến thành những trị chơi, những
điệu múa, đó chính là sự ra đời của TCVĐ. Sự ra đời này bắt nguồn từ lao động
một cách tự nhiên, con người cũng không biết rằng sự vui chơi đó chính là hình
thức tập luyện sơ khai nhất để chuẩn bị cho lao động. Như vậy có thể nói,
TCVĐ bắt nguồn từ lao động và sau đó lại phục vụ cho lao động. Khi khả năng
tư duy, khả năng trừu tượng và ngôn ngữ cũng như những kinh nghiệm tích lũy
trong cuộc sống và trong lao động phát triển đến mức nhất định, người ta thấy
rằng không nhất thiết phải tập luyện những động tác y như những thao tác lao
động mà chỉ cần tập luyện mang tính tượng trưng, đó chính là sự ra đời của
những TCVĐ mang tính mơ phỏng.
Ngay từ những ngày đầu, TCVĐ đã mang tính GD rõ rệt, người ta sử
dụng TCVĐ dạy cho con cháu, dạy lớp người trẻ để chuẩn bị cho họ tiếp bước
cha ông tham gia vào công cuộc lao động kiếm sống và đấu tranh để sinh tồn và
phát triển. Sau này, cùng với các giai đoạn phát triển của lịch sử xã hộị loài
người, trường học được hình thành và mở rộng. Và TCVĐ được đưa vào trường
học với tư cách là một trong những nội dung đồng thời cũng là một phương


20

pháp GD lớp trẻ nhanh, dễ tiếp thu và hiệu quả nhất. Ngày nay, hầu hết các
nước trên thế giới đều rất coi trọng TCVĐ và TCVĐ được khai thác và sử dụng
một cách triệt để trong GD nói chung, đặc biệt là trong giáo dục thể chất ở
trường MN.
1.3.3. Phân loại TCVĐ của trẻ MG
Có nhiều cách phân loại TCVĐ dựa theo các tiêu chí khác nhau:
1.3.3.1. Dựa vào nguồn gốc của TCVĐ, người ta chia TCVĐ thành hai nhóm cơ bản:
- Nhóm TCVĐ dân gian: Đó là những TCVĐ có từ lâu đời, được lưu
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ vùng này sang vùng khác và được
xem như là thể loại văn hóa dân gian khó mà tìm được tác giả. Ví dụ, trị chơi
“Kéo co”, “Bịt mắt bẳt dê”, “Mèo đuổi chuột”...luôn sống mãi với thời gian và
được trẻ em đón nhận một cách tích cực.
- Nhóm trị chơi mới: Đó là những trò chơi được các nhà giáo dục học
thiết kế - xây dựng. Những trị chơi mới có thể biết tác giả, ngày, tháng, năm ra
đời. Ví dụ, trị chơi “Quạ và Gà con”, “Chó sói xẩu tính”, “Chạy tiếp cờ”…
1.3.3.2. Dựa vào tính chất của TCVĐ, người ta chia TCVĐ thành hai nhóm:
- Nhóm TCVĐ theo chủ đề: Đó là những trò chơi được xây dựng trên cơ
sở những kinh nghiệm, ấn tượng và hiểu biết của trẻ về cuộc sống xung quanh.
Nội dung chơi, hành động chơi, luật chơi trong trị chơi này được diễn ra theo
chủ đề. Ví dụ, trong chủ đề “Thế giới động vật”" có các trị chơi như “Quạ và
Gà con”, “Chó sói xấu tính”, “Mèo đuổi Chuột
- Nhóm TCVĐ khơng theo chủ đề: Đó là những trò chơi được xây dựng
chủ yếu từ những vận động cơ bản của trẻ. Những vận động này không diễn ra
dưới dạng mô phỏng lại các hành động, thao tác theo vai mà do nhiệm vụ chơi,
luật chơi quy định. TCVĐ khơng theo chủ đề có nhiều loại:
+ TCVĐ không theo chủ đề loại “đuổi bắt mô phỏng. Được xây dựng chủ
yếu từ những vận động đơn giản, thường là vận động “chạy” kết hợp với vận động
“bắt” hoặc “tránh né” Hành động trong trò chơi của trẻ chỉ liên quan đến việc thực
hiện một số vận động nào đó như: “Hãy đuổi theo cơ”, “Tìm cơ“...
+ TCVĐ khơng theo chủ đề loại “thi đua, tranh giải”. Đó là những loại trò

chơi mà động cơ để trẻ giải quyết nhiệm vụ chơi tích cực, tự lực, sáng tạo là yểu tố
thi đua trong trò chơi (thi đua cá nhân hoặc thi đua tập thể).


21
Hình thức thi đua cá nhân thường gặp ở những trò chơi dành cho trẻ 3 - 4
tuổi, 5 - 6 tuổi như trò chơi “Hãy đổi đồ chơi”, “Ai chạy nhanh đến cờ”...
Hình thức thi đua tập thể, nhóm thường gặp những trò chơi dành cho trẻ 5 - 6
tuổi. Trong khi chơi, mỗi trẻ phải cố gắng thực hiện nhiệm vụ vì tập thể vì nhóm. Ví
dụ: trị chơi “Tổ nào nhanh nhất”, “Chuyền bóng tiếp sức”, “Cướp cờ”...
+ TCVĐ khơng theo chủ đề có sử dụng dụng cụ. Đó là loại trị chơi mà
khi tham gia chơi mỗi trẻ phải thực hiện hành động chơi không phụ thuộc vào
trẻ khác, cố gắng đạt kết quả cao hơn. Ví dụ, trị chơi “Ném bóng vào rổ”,
“Ném vịng cổ chai”...
1.3.3.3. Dựa vào quy mô tô chức TCVĐ, người ta chia TCVĐ thành hai nhóm:
- Nhóm TCVĐ theo nhóm: Đó là những TCVĐ mà trẻ giải quyết nhiệm vụ
chơi theo từng nhóm nhỏ. Ví dụ, trị chơi “Tìm nhà bạn thân'’, “Thuyền và biển”...
- Nhóm TCVĐ có tính chất tập thể (cả lớp). Đó là những TCVĐ mà
mọi trẻ đều thực hiện nội dung, nhiệm vụ chơi tương tự nhau. Ví dụ, trị chơi
“Đồn tàu hỏa”, “Quạ và Gà con”...
1.3.3.4. Dựa vào hình thức vận động của trẻ, người ta chia TCVĐ thành những
TCVĐ chạy, nhảy, bị, ném, bắt...
TCVĐ có nhiều cách phân loại nhưng để phù hợp với đề tài nghiên cứu của
mình, chúng tơi chọn cách phân loại dựa vào tính chất của TCVĐ, đó là:
- Nhóm TCVĐ theo chủ đề
- Nhóm TCVĐ khơng theo chủ đề
Vì nhóm TCVĐ này là những trị chơi tập thể, GV có thể tổ chức cho trẻ
chơi theo nhóm hay tập thể, đây chính là cơ hội để trẻ được hợp tác và thể hiện
kĩ năng hợp tác với các bạn cùng nhóm chơi.
1.3.4. Cấu trúc TCVĐ của trẻ MG

TCVĐ cũng là một phương tiện giáo dục thể lực, nhưng khác với các giờ
học thể dục hay các buổi rèn luyện thể thao, TCVĐ giúp trẻ thực hiện các vận
động dưới dạng các trị chơi, nhờ đó mà trẻ được rèn luyện thân thể một cách
hào hứng, tích cực, vui vè, thoải mái.
Mỗi TCVĐ của trẻ MG bao gồm:
Nội dung chơi là nhiệm vụ vận động mà trẻ phải thực hiện, đó là
những vận động cơ bản phù hợp với từng độ tuổi. Trong nhiều TCVĐ, các em


22
có thể hóa thân vào các nhân vật để thực hiện nhiệm vụ vận động, đó có thể là
những loại người khác nhau, cũng có thể là những con vật hay những phương
tiện, đồ dùng trong cuộc sống của con người. Nội dung của TCVĐ nhiều khi lại
được mô phỏng theo nội đung của một câu chuyện nào đó. thường là truyện cổ
tích. Sở dĩ nội dung vận động được hình tượng hóa và nhân cách hóa như vậy
là để lơi cuốn sự ham thích và tính tích cực vận động của trẻ em khi tham gia
vào trị chơi.
Ví dụ: Trong TCVĐ “Chèo thuyền” của trẻ 5 - 6 tuổi thì nội dung chơi
chính là các trẻ đóng vai các vận động viên đua thuyền, phối hợp với các bạn
trone đội chèo thuyền về đích.
Hành động chơi là hệ thống những thao tác vận động mà trẻ phải thực
hiện trong q trình chơi, có thể là hành vi của các nhân vật trong cuộc sống
hay trong truyện cổ tích. Trong khi trẻ thực hiện các thao tác vận động đỏ,
thường kèm theo nhừng câu nói, những lời ca tiếng hát hay những bài đồng dao
cỏ vần có điệu để tạo khơng khí vui tươi phù hợp với từng trị chơi.
Ví dụ: Cũng trong trị chơi “Chèo thuyền” thì hành động chơi là trẻ ngồi
thành 2 hàng, trẻ sau ngoéo chân lên trẻ trước, hai tay chống sang hai bên và
đây vê phía trước.
Luật chơi là những quy định mà trẻ phải tuân theo khi chơi. Ở mỗi trò
chơi, tùy theo nội dung của nó mà có những luật chơi tương ứng. Tuy vậy, luật

chơi không phải là luật lệ quá chặt chẽ, cứng nhắc buộc trẻ phải tuân theo một
cách nghiêm ngặt, nhất là đối với trẻ bé. Luật chơi ở đây chỉ là những điều quy
định cốt để hướng trẻ hành động sao cho thực hiện được nhiệm vụ vận động mà
nội dung trò chơi đã định ra, luật chơi thường trở thành động cơ thúc đẩy trẻ
tích cực vận động và rèn luyện những phẩm chất và khả năng cần thiết.
Ví dụ: Luật chơi trong trị chơi “Chèo thuyền” là không được làm dứl
thuyền và đuôi thuyền đội nào chạm đích trước thì chiến thẳng. Chính luật chơi
đã thúc đẩy tất cả các trẻ trong đội phải hợp tác với nhau để hoàn thành nhiệm
vụ chơi một cách tốt nhất.
1.3.5. Cách tổ chức TCVĐ cho trẻ MG
Khi tổ chức TCVĐ cho trẻ phải căn cứ vào các đặc điểm phát triển của
lứa tuổi để xác định nội dung chơi, nhiệm vụ chơi, thời gian chơi, hình thức


23
chơi và luật chơi. Những vận động cần luyện tập cho trẻ trong trò chơi phải vừa
sức và trẻ đã được học trong các giờ giáo dục thể chất. Đồng thời khi lựa chọn
trị chơi cho trẻ, cơ cần dựa vào điều kiện cùa địa phương, của trường lớp, dựa
vào sự hứng thú, khả năng của trẻ, và dựa vào mục đích phát triển kĩ năng, kĩ xảo
vận động nào ở trẻ, vào thời gian, thời điểm trong ngày...(buổi sáng nên tổ chức cho
trẻ những TCVĐ tích cực. buổi chiều nên tổ chức cho trẻ những TCVĐ nhẹ nhàng
để đảm bảo cho trẻ nghỉ ngơi, những ngày trời lạnh, trẻ mặc nhiều quần áo, khơng
nên chọn những trị chơi có nhiều vận động khó, ngày trời nóng nên chọn những trị
chơi có vận động nhẹ nhàng, tránh chạy nhảy q nhiều).
Tổ chức TCVĐ cho trẻ MG gồm 3 bước:
- Bước 1: Xác định mục đích
+ Tổ chức TCVĐ nhằm mục đích phát triển thể chất cho trẻ, rèn luyện cho trẻ các
vận động cơ bản: Đứng, đi, chạy thăng bằng, khả năng ném …
+ Rèn luyện ở trẻ sức nhanh, bền, khéo léo, linh hoạt…
+ Giáo dục cho trẻ tinh thần tập thể, khĩ năng hợp tác trong khi chơi với nhóm,

giúp dỡ bạn trong khi chơi.
- Bước 2: Chuẩn bị
Chuẩn bị đầy đủ cơ sở vật chất để tổ chức TCVĐ: Địa điểm chơi, đồ
dùng, đồ chơi...Địa điểm chơi có thể ớ trong nhà, hay ngồi trời, phù hợp với
nội dung chơi và thời tiết. Để tổ chức TCVĐ cho trẻ, khi xác định được địa
điểm chơi, cô cần chuẩn bị dụng cụ đầy đủ và phù hợp: Quét dọn, thu nhặt
những vật nguy hiểm, kẽ vẽ hoặc đánh dấu các quy ước cần thiết, sắp đặt các
dụng cụ, trang thiết bị tạo nên môi trường chơi thuận lợi, an toàn cho trẻ.
- Bước 3: Cách tiến hành
a, Hướng dẫn trị chơi:
+ Trước khi cho trẻ chơi, cơ nên cho trẻ làm quen với những đồ vật. đồ chơi sẽ
sử dụng khi chơi. Trẻ biết cách thao tác với các đồ vật, đồ chơi này.
+ Giới thiệu trò chơi, nội dung chơi, luật chơi. GV có thể giới thiệu nội dung
chơi, luật chơi bang nhiều cách khác nhau tùy thuộc vào hoàn cảnh thực tế hay
sự hiêu biết của trẻ...Nếu là trò chơi mới, khi giới thiệu và giải thích trị chơi,
cơ cần làm mẫu, lời giải thích phải ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu kèm theo các
thao tác, hành động minh họa. Đối với các trò chơi trẻ đã hiểu luật chơi, sau khi


24
nêu tên trị chơi, cơ chỉ cần giải thích sơ lược luật chơi, cách chơi và có thể đưa
thêm một số yêu cẩu cao hơn, đòi hỏi trẻ phải cố gắng hoàn thành được nhằm
tránh sự nhàm chán, phát huy tính tích cưc, sáng tao cùa trẻ.
+ Sau khi giới thiệu nội dung chơi, luật chơi, cách chơi, cô tổ chức giao nhiệm
vụ cho trẻ (phân vai đổi với những TCVĐ theo chủ đề). Trẻ nhỏ cô trực tiếp
phân vai, thường là cơ cùng chơi với trẻ và đóng vai chính. Đối với những trẻ
lớn, cơ để trẻ tự thỏa thuận về vai. Những trị chơi mang tính thi đua, cô cần
chọn những trẻ tương đươne về thể lực, về kĩ năng chơi, về số lượng của trong
nhóm chơi.
b, Điều khiển trị chơi:

Khi trẻ tham gia vào trị chơi, cơ cần lưu ý mấy điểm sau khi điều khiển
trò chơi của trẻ:
+ Cơ cần chọn vị trí đứng sao cho tất cả các trẻ đều nhìn rõ cỏ làm gì và nói gì.
Cơ quan sát được tồn bộ hoạt động chơi của trẻ. Vị trí đứng của cơ khơng
được gây cản ưở đến cuộc chơi của trẻ. Theo dõi xem trẻ có thực hiện được nội
dung chơi, hành động chơi khơng, cự li đúng luật chơi khơng. Động viên,
khuyến khích trẻ tích cực vận động, giúp đỡ kịp thời những trẻ “phạm luật”. Cơ
cần tạo khơng khí ganh đua giữa trẻ vợi trẻ, giữa nhóm này với nhóm khác để
trẻ tích cực vận động.
+ Theo dõi mối quan hệ của trẻ trong khi chơi, giúp trẻ có tinh thần đồn kết,
đồng đội trong khi chơi, không tranh giành, xô đẩy nhau trong khi chơi.
+ Theo dõi lượng vận động và tình hình sức khỏe của trẻ để diều chỉnh lượng
vận động kịp thời. Nếu trẻ vận động hào hứng, tích cực (chưa có biểu hiện mệt
mỏi) thì có thể kéo dài thêm thời gian chơi, tăng nhịp độ của trò chơi (reo hị,
cổ vũ...), nếu thấy trẻ có biểu hiện mệt mỏi, khơng hửng thú nữa thì có thể rút
ngắn thời gian chơi, thay đổi phạm vi, mức độ hoạt động hoặc cho nghỉ giải
lao...và dân dân chuyển trẻ sang hoạt động khác.
c, Kết thúc chơi:
+ Tổ chức cho trẻ những vận động nhẹ nhàng để giảm dần vận động và tim
mạch trở về mức độ hoạt động bình thường.
+ Nhận xét, đánh giá kết quả chơi của trẻ, khen ngợi những trẻ tích cực, động
viên những trẻ khác cổ gắng hơn trong lần chơi sau.


25
+ Tổ chức cho trẻ cất đồ chơi, thu dọn chỗ chơi, vệ sinh thân thể...để chuyển
sang hoạt động khác.
1.3.6. Đặc điểm TCVĐ của trẻ 5 - 6 tuổi
Bước vào thời kì 5 - 6 tuổi, trẻ đã có sự phát triển khá tốt về thể lực, sức
khỏe, cơ thể trẻ lớn lên, khỏe mạnh hơn so với trẻ 3 - 4 tuổi, hệ thần kinh trung

ương phát triển và mơi trường có thêm những thử thách mới giúp trẻ phát triển
tốt các kĩ năng vận động. Chính vì vậy, các TCVĐ dành cho trẻ 5 - 6 tuổi đòi
hỏi phải phổi hợp các kĩ năng vận động một cách nhịp nhàng, do đó, cấu trúc
của TCVĐ dành cho trẻ ở lứa tuổi này cũng tương đổi phức tạp hơn cấu trúc
TCVĐ dành cho trẻ 3 - 4 tuồi.
Sự phát triển về vận động cơ bản, ngoài việc trẻ 5 - 6 tuổi đi, đứng,
chạy, nhảy tương đối vững vàng, nhanh nhẹn thì sự phối hợp vận động cơ thể
và chân tay nhịp nhàng hơn, khả năng giữ thăng bằng cơ thể tốt hơn, trẻ 5 - 6
tuổi có thể tham gia chơi các trị chơi như ném, bắt bóng chính xác, trẻ có thể
chơi được trị chơi “Đi trên cầu” hay chơi nhảy lị cị...khơng bị ngã.
Ở lứa tuổi 5 - 6 tuổi, trẻ đã có kĩ năng vận động, thể lực phát triển tốt,
nên trẻ thích tham gia vào những TCVĐ đòi hỏi lượng vận động nhiều, nhanh
và sự khéo léo như “Mèo đuổi Chuột”, “Chèo thuyền”, “Cướp cờ”...
Phạm vi tiếp xúc của trẻ 5 - 6 tuổi với môi trường xung quanh được mở
rộng hơn so với các lứa tuổi trước, nhận thức của trẻ về thế giới xung quanh
cũng nhiêu hơn, do đó vốn sống, kinh nghiệm đã khá phong phú, trí tuệ cũng
phát triển hơn nên những TCVĐ dành cho trẻ 5 - 6 tuổi có nội dung phong phú, đa
dạng hơn, hành động chơi và luật chơi phức tạp hơn so với các TCVĐ dành cho trẻ
nhà trẻ và 3 - 4 tuổi. Cũng chính vì vốn kinh nghiệm đã tương đối phong phú nên
trẻ 5 - 6 tuổi dễ dàng tiếp thu nội dung chơi, luật chơi hơn trẻ 3 - 4 tuổi. Do vậy việc
giới thiệu nội dung chơi, luật chơi, cách chơi TCVĐ cho trẻ 5 - 6 tuổi khơng địi hỏi
phải tỉ mỉ, cụ thể như cho trẻ 3 - 4 tuổi.
Ở trẻ 5 - 6 tuổi, các nhóm chơi của trẻ tương đối bền vững hơn ở trẻ 3 - 4
tuổi, nên đa số các TCVĐ dành cho trẻ 5 - 6 tuổi được tổ chức thi đua theo nhóm,
lớp, để thơng qua các TCVĐ này phát triển các tố chất thể lực (nhanh, mạnh, bền,
khéo), hình thành cho trẻ một số kĩ năng vận động cũng như các kĩ năng xã hôi
cần thiết đối với trẻ.



×