Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Khóa luận tốt nghiệp hình thành một số kĩ năng sống cho trẻ 5 6 tuổi qua tổ chức hoạt động lễ hội ở trường mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 109 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chúng ta đang sống trong một thế giới phẳng, một thế giới đề cao bản
sắc, năng động và hội nhập. Sống trong thế giới rộng mở, giao lưu mn màu
mn vẻ đó, giáo dục mầm non Việt Nam đang có những bước chuyển mình
khởi sắc góp phần đặt nền móng vững chắc cho sự hình thành và phát triển
nhân cách con người. Đặc biệt, đối với trẻ thơ khi bước vào cuộc sống xã hội,
mọi thứ trở nên mới mẻ và xa lạ từ những mối quan hệ xã hội đến các sự vật
hiện tượng. Vì vậy đồng hành với việc trang bị vốn tri thức và các biểu tượng
xã hội cho trẻ là việc giáo dục cho trẻ những kĩ năng sống (KNS) cần thiết
giúp trẻ dễ dàng hòa nhập với các mối quan hệ, mạnh dạn, tự tin trong các
hoạt động lĩnh hội tri thức xã hội.
Vấn đề giáo dục KNS cho trẻ mẫu giáo, đặc biệt là trẻ 5 - 6 tuổi khơng
chỉ là mục tiêu mà cịn như một nhiệm vụ giáo dục quan trọng đối với sự hình
thành và phát triển nhân cách của trẻ. Thực tiễn giáo dục mầm non hiện nay,
nội dung giáo dục KNS cho trẻ chưa được quan tâm đúng mức. Giáo dục
KNS chủ yếu được hiểu đơn thuần là rèn nề nếp, thói quen cho trẻ.
Ở gia đình cũng vậy, mặc dù xã hội hiện đại mỗi gia đình chỉ có từ 1 2 con, các bậc phụ huynh có thể đáp ứng cho trẻ những nhu cầu về vật chất và
tình cảm,…cùng với đó là sự kỳ vọng vào tương lai của trẻ. Tuy nhiên không
nhiều các bậc phụ huynh hiểu tầm quan trọng của giáo dục KNS đối với sự
phát triển nhân cách cũng như với tương lai của trẻ. Một số ít các bậc phụ
huynh quan tâm đến giáo dục kĩ năng sống cho con em mình thì lại gặp khó
khăn trong việc tìm hiểu nội dung và hình thức tổ chức. Tổ chức các hoạt
động lễ hội là nội dung quan trọng trong chương trình giáo dục mầm non. Lễ
hội là một trong những hoạt động được trẻ rất u thích và ln mong chờ.
Mỗi ngày lễ, ngày hội được tổ chức luôn để lại cho trẻ những ấn tượng rất sâu
sắc. Khi tham gia vào các hoạt động lễ hội, trẻ được tìm hiểu ý nghĩa của
ngày hội, được cùng nhau chơi những trò chơi hấp dẫn và tham gia biểu diễn



2

các tiết mục văn nghệ,…Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, trẻ được rèn các kĩ
năng sống cần thiết để hoàn thành các nhiệm vụ của lễ hội như kĩ năng hợp
tác, kĩ năng làm chủ cảm xúc, kĩ năng giao tiếp,…Vì vậy tổ chức các hoạt
động lễ hội ở trường mầm non có kế hoạch và hấp dẫn sẽ thu hút trẻ tham gia
tích cực vào hoạt động, qua đó hình thành kĩ năng sống và các giá trị sống cho
trẻ em.
Xuất phát từ những lí do, chúng tơi lựa chọn đề tài “Hình thành một số
kĩ năng sống cho trẻ 5 - 6 tuổi qua tổ chức hoạt động lễ hội ở trường mầm
non”.
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
2.1. Về mặt lí luận
- Xây dựng cơ sở lí luận về kĩ năng sống.
- Xác định nội dung hình thành một số KNS cho trẻ 5 - 6 tuổi.
2.2. Về mặt thực tiễn
- Tìm hiểu thực trạng giáo dục kĩ năng sống cho trẻ thông qua tổ chức
hoạt động lễ hội tại một số trường mầm non trên địa bàn thị xã Phú Thọ.
- Đề xuất một số biện pháp nhằm giáo dục KNS cho trẻ 5 - 6 tuổi
thông qua tổ chức hoạt động lễ hội.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn nhằm xây dựng một số biện pháp
tổ chức lế hội nhằm giáo dục kĩ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi. Từ đó
góp phần nâng cao hiệu quả hình thành các kĩ năng sống cần thiết cho trẻ
mầm non.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận của việc hình thành một số kĩ năng sống cho
trẻ 5 - 6 tuổi qua tổ chức hoạt động lễ hội ở trường mầm non.
- Nghiên cứu thực trạng của việc hình thành một số kĩ năng sống qua tổ

chức hoạt động lễ hội ở trường mầm non.


3

- Đề xuất một số biện pháp giúp hình thành một số kĩ năng sống cho trẻ
mẫu giao 5 - 6 tuổi qua tổ chức hoạt động lễ hội.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm một số biện pháp giúp hình thành
một số kĩ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi qua tổ chức hoạt động lễ
hội ở trường mầm non.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện nội dung và biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho trẻ 5 - 6
tuổi qua tổ chức hoạt động lễ hội ở trường mầm non.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Đề tài tập trung vào hình thành một số kĩ năng sống
cho trẻ 5 - 6 tuổi như: Kĩ năng hợp tác, kĩ năng làm chủ cảm xúc, kĩ năng
giao tiếp.
Đề tài tập trung nghiên cứu việc hình thành KNS cho trẻ trong các lễ
hội: Ngày hội đến trường của bé, Tết trung thu, Ngày nhà giáo Việt Nam,
ngày thành lập quân đội nhân dân Việt Nam, ngày 8 - 3, ngày sinh nhật Bác
Hồ, quốc tế thiếu nhi.
- Phạm vi địa bàn nghiên cứu: Qua quá trình điều tra khảo sát thực
trạng và tiến hành thực nghiệm được tiến hành ở một số trường mầm non trên
địa bàn thị xã Phú Thọ, cụ thể:
1. Trường mầm non Hà Lộc
2. Trường mầm non Phong Châu
3. Trường Mầm non Hùng Vương
4. Trường mầm non Lê Đồng
6. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài có sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
6.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
Sử dụng phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, khái qt hóa các
tài liệu liên quan đến đề tài.
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.


4

6.2.1. Phương pháp quan sát sư phạm
Tham dự các hoạt động lễ hội ở trường mầm non, dự giờ hoạt động vui
chơi của trẻ và các hoạt động khác của trẻ. Từ đó đánh giá thực trạng sử dụng
các biện pháp tổ chức giáo dục KNS cho trẻ và thực trạng biểu hiện KNS của
trẻmẫu giáo 5 - 6 trong quá trình tham gia các hoạt động lễ hội ở trường mầm
non.
6.2.2. Phương pháp điều tra
Điều tra bằng phiếu (anket) với giáo viên mầm non nhằm tìm hiểu về
nhận thức, thái độ của giáo viên về thực trạng sử dụng các biện pháp giáo dục
KNS cho trẻ 5 - 6 tuổi qua tổ chức các hoạt động lễ hội ở một số trường mầm
non trên địa bàn thị xã Phú Thọ.
6.2.3. Phương pháp đàm thoại
Trao đổi, trò chuyện trực tiếp với giáo viên mầm non về việc tổ chức
các hoạt động lễ hội trường mầm non nhằm thu thập thông tin có liên quan
đến đề tài, phát hiện thực trạng và làm sáng tỏ các thông tin thu nhận được từ
phiếu anket.
6.2.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Thực nghiệm tác động một số nội dung và biện pháp tổ chức lễ hội
nhằm phát triển KNS cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi.
6.2.5. Phương pháp xử lí số liệu
Sử dụng các cơng thức tốn thống kê, cơng thức tính tổng, cơng thức

tính %, điểm trung bình để xử lí số liệu và kết quả nghiên cứu.


5

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC HÌNH THÀNH MỘT SỐ KĨ NĂNG
SỐNG CHO TRẺ 5 - 6 TUỔI QUA TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG LỄ HỘI Ở TRƯỜNG
MẦM NON

1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1.1.Các cơng trình nghiên cứu trên thế giới
Vấn đề giáo dục kĩ năng sống là một vấn đề mới ở Việt Nam, tuy nhiên
đây là vấn đề được rất nhiều nhà khoa học trên thế giới quan tâm nghiên cứu.
Khái qt các cơng trình nghiên cứu như sau:
Theo UNESCO: các nghiên cứu đã xác định mục tiêu, chương trình và
hình thức của giáo dục kĩ năng sống.Trong đó thuật ngữ “giáo dục kĩ năng
sống” xuất hiện trước tiên trong chương trình “giáo dục những giá trị sống”
với 12 giá trị cơ bản cần giáo dục cho thế hệ trẻ. Những nghiên cứu trong giai
đoạn này mong muốn thống nhất được một quan niệm về KNS cũng như đưa
ra được một bảng danh mục các KNS cơ bản mà thế hệ trẻ cần có. Phần lớn
các cơng trình nghiên cứu về KNS ở giai đoạn này quan niệm về KNS theo
nghĩa hẹp, đồng nhất nó với các kỹ năng xã hội.[2]
Mặc dù cũng xuất phất từ quan niệm chung về KNS của tổ chức y tế
thế giới hoặc của UNESCO nhưng quan niệm và nội dung giáo dục KNS ở
các nước không giống nhau và nội hàm của giáo dục KNS được mở rộng hơn
nội hàm chỉ khả năng tâm lí, xã hội.
Tại Hội thảo Bali: các nhà giáo dục đã xác định mục tiêu của giáo dục

KNS trong giáo dục khơng chính quy của các nước Châu Á thái Bình Duơng
là nhằm nâng cao tiềm lực của con người để có hành vi tích cực đáp ứng nhu
cầu sự thay đổi các tình huống của cuộc sống hàng ngày, đồng thời nâng cao
chất lượng của cuộc sống.[13]


6

Tổ chức WHO: cũng đưa ra một số chương trình về giáo dục kĩ năng và
kèm theo các bài viết như “Life skills for children and adolescents in schools”
(giáo dục KNS cho trẻ em và thanh thiếu niên ở trường học) Các cơng trình
nghiên cứu đã đưa ra lý luận khái quát về KNS và hướng dẫn thực hiện chương
trình, cùng với đó là các khái niệm về GDKNS cách phân loại KNS.[13]
1.1.1.2. Các cơng trình nghiên cứu ở Việt Nam
a. Hướng nghiên cứu về kĩ năng sống
Chương trình “Giáo dục KNS để bảo vệ sức khoẻ và phòng chống HIV
- AIDS cho thanh thiếu niên trong và ngoài nhà trường” của UNICEF(1996)
đã đưa ra thuật ngữ KNS ở Việt Nam.
Một trong những người đẩu tiên và là người nghiên cứu mang tính hệ
thống về KNS và giáo dục KNS ở Việt Nam là Nguyễn Thanh Bình. Với một
loạt các bài báo, các đề tài nghiên cứư khoa học cấp Bộ và giáo trình, tài liệu
tham khảo, tác giả Nguyễn Thanh Bình đã góp phần đáng kể vào việc tạo ra
những hướng nghiên cứu về KNS và giáo dục KNS ở Việt Nam cụ thể là: Xác
định những vấn đề lí luận cốt lõi về KNS và giáo dục KNS. Trong cuốn
“Chuyên đề giáo dục KNS” theo tác giả Nguyễn Thanh Bình thì giáo dục học
Việt Nam đã hình thành, phát triển và đạt được kết quả nhất định trong đó đã
đề cập đến tầm quan trọng của giáo dục KNS, đồng thời cũng định hướng
mục tiêu phải tổ chức GDKNS cho các em theo tinh thần xã hội hoá.[2]
Bên cạnh đó đã có một số cơng trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề
KNS trong nhà trường nói riêng như đề tài: “KNS cho tuổi vị thành niên” của

tác giả Nguyễn Thị Oanh.[14]. Lí luận về KNS được nhiều tác giả đề cập đến
trong các cơng trình nghiên cứu của mình ở từng chun ngành, bên cạnh đó
các cơng trình nghiên cứu cũng nhấn mạnh vai trị của hoạt động vui chơi và
hoạt động nghệ thuật đối với sự hình thành và phát triển nhân cách trẻ 5 - 6
tuổi.
Tác giả Nguyễn Thị Hịa trong cuốn “giáo trình giáo dục học mầm
non” đã nghiên cứu các hoạt động giáo dục được tổ chức ở trường mầm non,
trong đó chỉ ra vai trò quan trọng của hoạt động vui chơi với việc phát triển


7

các kĩ năng cho trẻ khi tham gia vào trò chơi như kĩ năng giao tiếp, kĩ năng
vận động, kĩ năng nhận thức,…Tác giả cũng đưa ra lý luận chung về hoạt
động lễ hội được tổ chức ở trường mầm non.[6]
Tác giả Nguyễn Thanh Thúy trong luận văn Thạc sĩ giáo dục học
“giáo dục kĩ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi qua hoạt động vui chơi”
(Luận văn Thạc sĩ năm 2010) cũng đã nêu được một số nội dung giáo dục kĩ
năng sống cho trẻ qua hoạt động vui chơi nhưng mới chỉ dừng lại ở việc đề
ra được một số trò chơi để phát triển kĩ năng sống, mặt khác về lí luận, tác
giả cũng chưa nêu bật được ý nghĩa của giáo dục KNS cho lứa tuổi mẫu giáo
5 – 6 tuổi.[21]
b. Hướng nghiên cứu về hoạt động lễ hội cho trẻ em
Về nội dung hoạt động lễ hội: hầu như chưa có nhiều cơng trình nghiên
cứu chun sâu nào đề cập đến vấn đề tổ chức hoạt động lễ hội cho trẻ ở trường
mầm non.
Tác giả Hồng Văn Yến với cơng trình nghiên cứu “Kịch bản lễ hội ở
trường mầm non” đã khái quát mục đích yêu cầu của việc tổ chức hoạt động
lễ hội và liệt kê 7 ngày lễ ngày hội trong chương trình giáo dục mầm non.
Cùng với cơng trình nghiên cứu của mình tác giả cũng đã đưa ra kịch bản lễ

hội ở trường Mầm Non, tuy nhiên nội dung của các kịch bản chưa phong phú,
chủ yếu mới chỉ dừng lại ở một số tiết mục múa và hát cho trẻ. Tác giả cũng
chưa nêu bật được vai trò giáo dục nhân cách của việc cho trẻ tham gia vào
quá trình tổ chức các hoạt động lễ hội.[31]
Như vậy, qua tổng hợp, phân tích tổng quan các cơng trình nghiên cứu
về giáo dục KNS ở trong nước có thể đưa ra nhận định:
Đã có rất nhiều các cơng trình trên thế giới và ở Việt Nam nghiên cứu
về giáo dục kĩ năng sống. Chủ yếu các đề tài mới chỉ tập trung phân tích làm
rõ thực trạng và tính cấp bách của vấn đề KNS, chưa giải quyết được nhiệm
vụ nghiên cứu lí luận một cách có hệ thống và phương pháp, hình thức giáo
dục KNS cho học sinh nói chung và trẻ mầm non nói riêng. Các đề tài đã đề
cập đến những hình thức giáo dục KNS cụ thể và chưa có kết quả thử nghiệm


8

rõ ràng, nên tính thuyết phục chưa cao. Các cơng trình nghiên cứu đã phân
tích tương đối đầy đủ các nhiệm vụ: nghiên cứu lí luận, đánh giá thực trạng và
đề xuất các biện pháp giáo dục KNS, nhưng đối tượng chủ yếu của các nghiên
cứu là sinh viên và học sinh ở các cấp học. Vì vậy, chúng tơi lựa chọn nghiên
cứu vấn đề giáo dục kĩ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi thông qua hoạt
động lễ hội ở trường mầm non làm hướng nghiên cứu của mình.
1.1.2. Cơ sở lí luận về kĩ năng sống
1.1.2.1. Khái niệm “Giáo dục kĩ năng sống”
a. Khái niệm “kĩ năng”
Kĩ năng là một vấn đề phức tạp. Vì vậy, cho đến nay trong tâm lý học và
lí luận dạy học, các tác giả nghiên cứu trong và ngoài nước đều đã đưa ra các
quan điểm khác nhau về kĩ năng. Tổng kết lại, có thể thấy có hai quan điểm về kĩ
năng như sau:
Quan điểm thứ nhất: Xem xét kĩ năng nghiêng về mặt kỹ thuật của

thao tác hay hành động hoạt động. Đại diện cho quan điểm này có các tác
giả: V.A.Kruchetxki, V.X.Cudin, A.G.Cơvaliơp, Trần Trọng Thuỷ, Hà
Nhật Thăng...
Quan điểm thứ hai: xem xét kĩ năng nghiêng về mặt năng lực của chủ
thể hoạt động. Theo quan niệm này, kĩ năng vừa có tính ổn định, vừa có tính
mềm dẻo, tính linh hoạt, tính sáng tạo và tính mục đích. Đại diện cho quan
điểm này có các tác giả: K.K.Platônôp, G.G.Golubev, Paul Hersey, Ken Blanc
Hard, P.A.Ruđich, Ngô Cơng Hồn, Nguyễn Thị Ánh Tuyết, Nguyễn Quang
Uẩn, Nguyễn Thạc...
Hai quan điểm trên, về hình thức diễn đạt tuy có vẻ khác nhau nhưng
thực chất chúng không mâu thuẫn hay loại trừ lẫn nhau. Sự khác nhau là ở
chỗ mở rộng hay thu hẹp phạm vi triển khai của một kỹ năng hành động trong
các tình huống khác nhau. Dù theo quan điểm nào thì khi nói đến kỹ năng, hầu
hết các tác giả đều xác định như sau:
Mọi kĩ năng đều phải dựa trên cơ sở của tri thức: muốn thao tác trước
hết phải có hiểu biết về nó. Khi nói tới kĩ năng của con người là nói tới hành


9

động có mục đích, tức là khi hành động, thao tác con người ln hình dung
kết quả đạt tới. Con người để có được kĩ năng thì cần phải biết cách thực hiện
hành động trong những điều kiện cụ thể và hành động theo quy trình với sự tập
luyện nhất định. Kỹ năng liên quan mật thiết đến năng lực của con người, nó được
xem là biểu hiện cụ thể của năng lực.
Như vậy có thể hiểu: kĩ năng là khả năng của con người thực hiện một
cách có hiệu quả một hành động, cơng việc nào đó để đạt được mục đích đã
xác định trên cơ sở nắm vững phương thức thực hiện và vận dụng những tri
thức, kinh nghiệm đã có phù hợp với những điều kiện nhất định, kĩ năng được
hình thành trong suốt cuộc đời.

b. Khái niệm “kĩ năng sống”
Cho đến nay đã có nhiều khái niệm về KNS được đưa ra: Theo như
định nghĩa của tổ chức y tế thế giới WHO (trong đề tài nghiên cứu về kĩ năng
sống cho thiếu nhi và thanh thiếu niên trong trường học. 1997) “Kĩ năng sống
là những khả năng thích nghi và ứng xử tích cực giúp các cá nhân giải quyết
những yêu cầu và thách thức trong cuộc sống hàng ngày”. Theo quỹ hỗ trợ
Nhi đồng LHQ (UNICEF): “KNS là cách tiếp nhận giúp thay đổi hoặc hình
thành hành vi mới. Tiếp cận này lưu ý đến sự cân bằng về tiếp thu kiến thức,
hình thành thái độ và kĩ năng” [2, 6].Theo Tổ chức Giáo dục, khoa học và
văn hoá LHQ (UNESCO): “KNS gắn với 4 trụ cột của giáo dục thế kỷ XXI:
Học để biết - Học để làm - Học để chung sống - Học để làm người. Theo đó
KNS được định nghĩa là những năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các
chức năng và tham gia vào cuộc sống hàng ngày”.
Từ các nhận định nêu trên có thể đưa ra khái niệm: “KNS là năng lực
cá nhân mà con người có được thơng qua giáo dục hoặc kinh nghiệm trực
tiếp, nó giúp con người có cách ứng xử tích cực và hiệu quả đáp ứng mọi biến
đổi của đời sống xã hội, sống khoẻ mạnh, an toàn hơn”.
c. Khái niệm “giáo dục kĩ năng sống”
Giáo dục KNS là giáo dục cách sống tích cực trong xã hội hiện đại do
yêu cầu của xã hội đặt ra, có liên quan đến việc làm, sức khoẻ, các vấn đề


10

xung đột, bạo lực cá nhân, của cộng đồng và xã hội.
Có thể quan niệm GDKNS cho học sinh là quá trình hình thành, rèn
luyện hoặc thay đổi các hành vi theo hướng tích cực, phù hợp với mục đích
phát triển tồn diện nhân cách con người. con người có tri thức, giá trị, thái
độ, kĩ năng phù hợp đáp ứng với yêu cầu cuộc sống hiện đại.
Như vậy, giáo dục KNS khơng phải là nói cho trẻ biết thế nào là đúng,

thế nào là sai, mà là giúp trẻ nâng cao năng lực để tự lựa chọn giữa những giải
pháp khác nhau ứng phó với các tình huống trong thực tế cuộc sống. Vì vậy
giáo dục KNS phải hết sức gần gũi với cuộc sống và ngay trong cuộc sống
hàng ngày. Tất cả các phưong pháp cổ diển như giảng bài, đọc chép sẽ thất
bại hồn tồn vì chúng chỉ có vai trị cung cấp thơng tin, mà từ thơng tin và
nhận thức đến thay đổi hành vi cịn khoảng cách rất lớn. Giáo dục kĩ năng
sống nhấn mạnh việc trẻ phải ý thức về giá trị bản thân, biết q trọng bản
thân. Đó chính là nền tảng cho sự phát triển của một nhân cách lành mạnh và
tự tin.Việc học trong giáo dục KNS là tự học, là sự tự phát huy nội lực, học
vui bằng hoạt động, bằng sáng tạo trong một tinh thần thoải mái. Giáo dục
KNS là một bộ phận gắn liền với các chính sách phát triển mới liên quan đến
trẻ em như: Công ước về quyền trẻ em, các dịch vụ giáo dục, y tế, xã hội phục
vụ trẻ em…
1.1.2.2. Phân loại kĩ năng sống
Khi đề cập đến KNS đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu của các tổ
chức và cá nhân đưa ra cách phân loại khác nhau:
a. Phân loại KNS theo WHO (tổ chức y tế thế giới)
Theo tổ chức y tế thế giới WHO kĩ năng sống bao gồm ba nhóm khác
nhau:
Nhóm kĩ năng nhận thức: bao gồm tư duy phê phán, tư duy phân tích,
khả năng sáng tạo, giải quyết vấn đề, nhận thức hậu quả, ra quyết định, tự
nhận thức, đặt mục tiêu, xác định giá trị…
Nhóm kĩ năng đương đầu với xúc cảm: ý thức trách nhiệm, cam kết,
kiềm chế căng thẳng, kiểm soát được xúc cảm, tự quản lý, tự giám sát và tự


11

điều chỉnh.
Nhóm kĩ năng xã hội hay kĩ năng tương tác: bao gồm giao tiếp, tính

quyết đốn, thương thuyết, từ chối, hợp tác, sự thông cảm chia sẻ, khả năng
nhận thấy sự thiện cảm của người khác.
b. Cách phân loại của UNESCO
Theo cách phân loại của UNESCO thì KNS là sự thể hiện những vấn đề
cụ thể khác nhau trong đời sống xã hội. Mỗi vấn đề lại hàm chứa bên trong nó
những kĩ năng để giải quyết giúp con người ln tự tin và chủ động trong xã
hội. Đó là các vấn đề được xã hội rất quan tâm như: Vệ sinh, vệ sinh thực
phẩm, sức khỏe, dinh dưỡng, các vấn đề giới tính, sức khỏe, gia đình và cộng
đồng….
c. Cách phân loại của tổ chức quỹ nhi đồng liên hợp quốc(UNICEF)
Với mục đích là giúp cho người học có những kĩ năng ứng phó với các
vấn đề của cuộc sống và tự hồn thiện mình, UNICEF đưa ra cách phân loại
KNS theo các mối quan hệ như sau:
Kĩ năng nhận biết và sống với chính mình gồm có: Kĩ năng tự nhận
thức, lòng tự trọng, sự kiên định, đương đầu với cảm xúc, đương đầu với
những căng thẳng trong cuộc sống.
Những kĩ năng nhận biết và sống với người khác bao gồm: Kĩ năng
quan hệ tương tác liên nhân cách, sự cảm thông, đứng vững trước áp lực tiêu
cực của bạn bè hoặc của người khác. Kĩ năng thương lượng và giao tiếp có
hiệu quả….
Những kĩ năng ra quyết định một cách hiệu quả bao gồm: các kĩ năng
tư duy phê phán, tư duy sáng tạo và đưa ra cách giải quyết vấn đề trong xã
hội.
Như vậy, việc phân loại các nhóm KNS mà các tổ chức trên thế giới
đưa ra chỉ mang tính tương đối. Tùy thuộc vào những khía cạnh xem xét,
hoặc những góc độ nhìn nhận mà một KNS có thể được xếp vào các nhóm
KNS mang tên gọi khác nhau. Có nhiều cách phân loại như vậy, nhưng dù
phân loại theo hình thức nào thì một số kĩ năng vẫn được coi là những kĩ năng



12

cốt lõi như:
- Kĩ năng tự nhận thức
- Kĩ năng giao tiếp
- Kĩ năng xác định giá trị
- Kĩ năng ra quyết định
- Kĩ năng đặt mục tiêu…
Tùy thuộc vào đặc điểm tâm lý, điều kiện hoàn cảnh sống mà chúng ta lựa
chọn các nội dung giáo dục KNS phù hợp để áp dụng có hiệu quả nhất cho
người học.
1.1.2.3. Vai trò của việc giáo dục kĩ năng sống đối với sự phát triển
của trẻ mầm non.
Cùng với quá trình giao lưu hội nhập của nền kinh tế thị trường. Nhịp
sống thay đổi đã làm nảy sinh những vấn đề mà trước đây con người chưa gặp
phải hoặc chưa kịp thích ứng. Do đó những phản xạ để đáp ứng lại những
biến động từ xã hội của con người trở nên chậm chạp và chứa đựng nhiều rủi
ro. Chính vì vậy con người cần được trang bị những KNS cơ bản để luôn tự
tin trước mọi áp lực trong cuộc sống, vượt qua được những thử thách mới và
vượt qua chính bản thân mình trước những áp lực ấy.
Kĩ năng sống là một phần quan trọng của nhân cách con người trong xã
hội hiện nay. “Một nhân cách tốt sẽ nảy nở trong một mơi trường thân thiện”
đó là khẩu hiệu hiện nay được nhắc đến rất nhiều ở các trường học. Trẻ được
đặt trong những mơi trường chăm sóc và giáo dục thân thiện để phát triển
nhân cách của mình. Lewis L. Dunnington đã từng nói “Ý nghĩa của cuộc
sống khơng phải ở chỗ nó đem đến cho ta điều gì, mà ở chỗ ta có thái độ với
nó ra sao: Khơng phải ở chỗ điều gì xảy ra với ta, mà ở chỗ ta phản ứng với
những điều đó như thế nào”
Nếu con người có kiến thức, có thái độ tích cực mới đảm bảo 50% sự
thành cơng, 50% còn lại là những kĩ năng cần cho cuộc sống mà ta thường gọi

là KNS. KNS giúp trẻ có thể biến những tri thức mà trẻ học được thành hành
động cụ thể và những thói quen lành mạnh. Trẻ sẽ hiểu được giá trị của cuộc
sống, giá trị của niềm vui, giá trị của hịa bình và giá trị của hạnh phúc. Từ đó


13

trẻ sẽ có niềm tin và ln biết cách làm cho cuộc sống của mình và người
khác cùng hạnh phúc.
Đặc biệt đối với sức khỏe, giáo dục các kĩ năng cá nhân và kĩ năng xã
hội của mỗi người là một phần quan trọng của chương trình can thiệp nâng
cao sức khỏe cho chính mình và cho cộng đồng. KNS góp phần thúc đẩy sự
phát triển cá nhân và xã hội, ngăn ngừa các vấn đề xã hội, sức khỏe và bảo vệ
quyền con người. Con người thiếu KNS là một trong những nguyên nhân làm
nảy sinh nhiều vấn đề xã hội. Người có KNS sẽ thực hiện những hành vi
mang tính xã hội tích cực, góp phần xây dựng các mối quan hệ xã hội tốt đẹp
và do vậy sẽ giảm bớt các tệ nạn xã hội, làm cho xã hội lành mạnh.
1.1.2.4. Giáo dục kĩ năng sống cho trẻ 5 - 6 tuổi ở trường mầm non
a. Khái niệm giáo dục KNS cho trẻ 5 – 6 tuổi ở trường mầm non
Khái niệm “Giáo dục kĩ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi ở trường
mầm non” được xây dựng trên cơ sở khái niệm “kĩ năng”, “kĩ năng sống” và
“giáo dục kĩ năng sống”. Do vậy có thể hiểu:
“Giáo dục KNS cho trẻ 5 – 6 tuổi ở trường mầm non là quá trình giáo
viên tổ chức các hoạt động có mục đích, nội dung, kế hoạch và biện pháp cụ
thể nhằm tạo cho trẻ mơi trường hoạt động tích cực và chủ động, qua đó hình
thành ở trẻ những kĩ năng cơ bản trong cuộc sống, giúp trẻ tự tin bước vào
trường phổ thông”.
b. Mục đích giáo dục kĩ năng sống cho trẻ 5 – 6 tuổi.
Trẻ 5 – 6 tuổi là giai đoạn cuối của tuổi mẫu giáo. Giai đoạn này là
bước đệm quan trọng cho trẻ trước khi đến trường phổ thông, với sự phát

triển tồn diện về thể chất, trí tuệ, tư duy cũng như ngôn ngữ. Cuối tuổi mẫu
giáo trẻ cũng bắt đầu hình thành và phát triển các kĩ năng sống cơ bản như kĩ
năng tự phục vụ, kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng hợp tác cùng
bạn bè khi chơi,… Tuy nhiên tất cả các kĩ năng của trẻ chỉ dừng lại ở điểm
khởi đầu và mới xuất hiện. Với sự phát triển tâm lý còn non nớt ở tuổi mẫu
giáo, những kĩ năng đó trở nên thiếu ổn định và dễ mất đi nếu không được rèn
giũa thường xuyên để trở thành một định hình động lực của chính bản thân


14

trẻ. Do vậy giáo dục kĩ năng sống cho trẻ lứa tuổi mẫu giáo sẽ tạo nên nền
tảng vững chắc cho các em trong việc tiếp cận các tri thức ở bậc học phổ
thông. Bước vào trường phổ thông, những mối quan hệ của trẻ được mở rộng,
trẻ chuyển từ hoạt động vui chơi sang hoạt động học tập với hình thức tiết
bài,… do vậy trẻ cần được trang bị những kĩ năng xã hội cần thiết đặc biệt là
các kĩ năng tự phục vụ, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng hợp tác hay làm chủ cảm
xúc của mình để nhanh chóng thích nghi với mơi trường mới.
c. Đặc điểm biểu hiện kĩ năng sống ở trẻ 5 – 6 tuổi.
Cuối tuổi mẫu giáo, nhân cách của trẻ đã dần được định hình, mỗi trẻ
mang trong mình những đặc điểm, nét tính cách riêng biệt. Các kĩ năng sống
cũng chính là những yếu tố không thể tách rời trong sự tổng hịa nhân cách
của trẻ.
Trong q trình vui chơi, trẻ đã biết lập thành từng nhóm chơi và cùng
nhau chơi những trị chơi mang tính tập thể cao như các trị chơi dân gian, trị
chơi đóng vai theo chủ đề, trị chơi đóng kịch,… Để thực hiện nhiệm vụ của
trị chơi, trẻ đã bắt đầu tự phân công các vai chơi cho nhau, vạch ra những kế
hoạch đơn giản để cả nhóm cùng thực hiện. Chia sẻ hợp tác và có mối liên hệ
tương tác liên nhân cách với nhau trong các hoạt động.
Cùng với sự lớn lên về tầm vóc, kích thước của cơ thể, trẻ dần phải

tham gia vào các nhiệm vụ trong lớp, trong trường và ở gia đình. Những mối
quan hệ xã hội được mở rộng, để thích ứng với sự phát triển đó, những kĩ
năng xã hội của trẻ cũng dần được hình thành từ lời nói, cử chỉ, điệu bộ đến
những sự biểu hiện xúc cảm tình cảm của bản thân,… để phù hợp với các
chuẩn mực của xã hội. Có những tình huống mà trẻ chưa đáp ứng được do
thiếu các kĩ năng, trẻ sẽ phải học hỏi và thích nghi để trang bị cho mình
những kĩ năng giải quyết tương ứng.
Như vậy kĩ năng sống ở trẻ 5 – 6 tuổi được biểu hiện ngay trong các
hoạt động thường ngày của trẻ, nó là một trong những yếu tố cấu thành nên
nhân cách con người. Tuy nhiên, cũng như sự non nớt của tâm lý, các kĩ năng
sống của trẻ ở lứa tuổi này biểu hiện không bền vững, trẻ luôn bị động và gặp


15

khó khăn trong khi thực hiện các nhiệm vui chơi. Vì vậy, giáo dục kĩ năng
sống cho trẻ cần đưa ra những nội dung và biện pháp có tính hệ thống và tác
động đến trẻ thường xuyên, liên tục mọi lúc, mọi nơi. Tạo ra các tình huống
có vấn đề để trẻ giải quyết, từ đó hình thành ở trẻ những kĩ năng bền vững
trong cuộc sống.
1.1.2.5. Nội dung giáo dục KNS cho trẻ 5 - 6 tuổi qua tổ chức hoạt
động lễ hội ở trường mầm non.
Có nhiều kĩ năng sống khác nhau giúp cho mỗi chúng ta có thể tồn tại,
phát triển và khẳng định bản thân. Trong cách phân loại về KNS cũng đã liệt
kê một số KNS cơ bản. Song trong khuôn khổ của đề tài này, chúng tôi xin
được đi sâu nghiên cứu về ba kĩ năng cơ bản và cần thiết nhất đối với trẻ mẫu
giáo 5-6 tuổi, đó là: Kĩ năng giao tiếp; Kĩ năng hợp tác; Kĩ năng làm chủ cảm
xúc. Cụ thể:
a. Kĩ năng giao tiếp
Hoàn thiện kĩ năng giao tiếp là chìa khóa cho sự thành cơng của trẻ

trong tương lai. Một điều vô cùng quan trọng đối với trẻ trong những năm
tháng đầu đời là việc phát triển kỹ năng giao tiếp, ứng xử tích cực với những
người xung quanh. Điều này có ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống và các mối
quan hệ của trẻ. Trẻ 5 – 6 tuổi vốn từ đã được trang bị khoảng 1500 từ và có
thể sử dụng ngơn ngữ để diễn đạt theo ý muốn của mình. Ở giai đoạn này, các
mối quan hệ của trẻ cũng bắt đầu được mở rộng, trẻ giao tiếp nhiều hơn với
những người xung quanh. Vì vậy ngôn ngữ trở thành phương tiện rất quan
trọng giúp trẻ tham gia vào các hoạt động vui chơi, học tập, lao động hàng
ngày. Nếu như ở các giai đoạn lứa tuổi trước, trẻ sử dụng ngôn ngữ một cách
máy móc và bị động, thì đến cuối tuổi mẫu giáo, trẻ đã bắt đầu hiểu ý nghĩa của
từ, của câu được biểu đạt. Đồng thời trẻ nắm được cấu trúc ngữ pháp đơn giản
của câu khi giao tiếp. Sự giao tiếp của trẻ dần thuần thục và trở thành kĩ năng
sống quan trọng giúp trẻ tự tin trong các mối quan hệ xã hội và chiếm lĩnh tri
thức
Kĩ năng lắng nghe: Trong giao tiếp, kĩ năng lắng nghe của trẻ là một


16

yếu tố quan trọng của quá trình giao tiếp. Do tâm lý của trẻ phát triển chưa
bền vững, sự tập trung chú ý của trẻ không đạt được mức độ cao nhất nên trẻ
thường khơng có được kĩ năng lắng nghe cần thiết. Bên cạnh đó, do chưa hiểu
được những nguyên tắc và chuẩn mực trong giao tiếp nên trẻ chưa có được
những thái độ ứng xử phù hợp với đối tượng giao tiếp khi nghe. Bên cạnh đó
cần giáo dục để trẻ hiểu được ý nghĩa của việc lắng nghe người khác nói sẽ
giúp trẻ nắm được thơng tin cần thiết nhất mà người lớn hay bạn bè truyền
đạt. Việc tập trung sự chú ý của mình hướng vào người nói cần được thực hiện
như khi trẻ lắng nghe một câu truyện cổ tích hấp dẫn mà trẻ yêu thích. Từ đó sẽ
tạo cho trẻ thói quen tốt hay nói cách khác là kĩ năng lắng nghe khi giao tiếp.
Giáo viên cần dạy trẻ hiểu nguyên tắc của quá trình giao tiếp “người

nói phải có người nghe” và đó là chuẩn mực đạo đức trong giao tiếp, là biểu
hiện của một em bé ngoan biết tôn trọng người khác. Trẻ biết chăm chú lắng
nghe khi người khác nói, khơng cười đùa hoặc nói chen ngang khi người khác
đang nói. Trong hoạt động lễ hội, khi người dẫn chương trình nói hoặc các đại
biểu phát biểu trẻ sẽ biết lắng nghe (dù các bài phát biểu gần như vô nghĩa với
trẻ nhưng quan trọng hơn cả là rèn được ở trẻ kĩ năng lắng nghe trong giao
tiếp).
Kĩ năng bày tỏ ý kiến: Khi trẻ được giáo dục kĩ năng lắng nghe cũng là
lúc chúng ta dạy cho trẻ kĩ năng diễn đạt, bày tỏ ý kiến của mình. Trước hết,
chúng ta dạy cho trẻ hiểu ý nghĩa của việc diễn đạt mạch lạc trong giao tiếp.
Trẻ phải biết rằng khi người khác nói thì mình phải chú ý lắng nghe và ngược
lại, khi trẻ nói cũng là lúc có nhiều người đang chăm chú nghe, đang tôn trọng
và chờ thông tin mà trẻ cung cấp. Vì vậy, trẻ càng phải có trách nhiệm và chỉn
chu lời nói của mình hơn. Kĩ năng bày tỏ ý kiến của trẻ đã được hình thành
cùng với q trình phát triển ngơn ngữ của trẻ, tuy nhiên trẻ thường nói mà
khơng suy xét kĩ trước khi nói. Lời nói của trẻ ở lứa tuổi này thường mang
tính bộc phát nên kĩ năng diễn đạt khơng bền vững. Trẻ có thể nói được câu
dài, đầy đủ ý nghĩa và cấu trúc ngữ pháp tuy nhiên khơng phải lúc nào trẻ
cũng nói được như vậy. Vì vậy, khi cho trẻ tham gia vào các nhiệm vụ nhằm
phát triển kĩ năng diễn đạt của mình cần cho trẻ tập nói, tập kể những câu có ý


17

nghĩa và có đủ thành phần ngữ pháp. Giáo viên có thể đặt những câu hỏi ngắn
cho trẻ khi trẻ nói thiếu thành phần nào đó của câu (ai đã dẫn con đi chơi? Bố
mẹ đã dẫn con đi chơi ở đâu?...) những câu hỏi như vậy sẽ giúp trẻ hiểu được
mình đã diễn đạt thiếu câu như thế nào. Cứ như vậy, dần dần trẻ sẽ luyện
được kĩ năng diễn đạt mạch lạc và tự tin với những người xung quanh. Đặc
biệt trong quá trình trẻ tham gia vào các hoạt động lễ hội, trong khơng khí vui

tươi cởi mở trẻ càng có cơ hội giao tiếp nhiều hơn. Trẻ nói chuyện với nhau
trong nhóm chơi, kể cho nhau nghe những điều thú vị mà trẻ cảm nhận được
từ các trò chơi và các nhiệm vụ mà trẻ thực hiện.
Kĩ năng giao tiếp thân thiện thân thiện: Giao tiếp thân thiện là hình
thức giao tiếp của những người đã quen biết nhau và hiểu nhau. Giao tiếp thân
thiện thể hiện sự văn minh, chân thành cởi mở, tôn trọng nhau khơng cịn
khách sáo e lệ. Giao tiếp thân thiện là kết quả của cả quá trình hình thành và
phát triển ngơn ngữ, tình cảm, xúc cảm. Biểu hiện của kĩ năng giao tiếp thân
thiện ở trẻ là khi trẻ thể hiện các kĩ năng giao tiếp tự tin, mạch lạc và ln
chủ động trong các tình huống khác nhau. Rõ nét nhất là khi trẻ tham gia vào
các trò chơi đóng vai theo chủ đề và trị chơi đóng kịch. Giáo viên cần thường
xuyên bên trẻ và dạy trẻ ý nghĩa và cách biểu hiện của từng câu nói sẽ giúp
cho cuộc giao tiếp thành công. “nếu con muốn mượn đồ chơi của bạn, thì con
quát thật to liệu bạn có cho con mượn khơng?con phải nói nhẹ nhàng và chân
thành thì bạn mới cho con mượn chứ,….”, “chú Dê đen là một nhân vật dũng
cảm, thông minh và gan dạ. Vậy giọng của chú Dê đen phải thế nào?”…
“con đang là bác sĩ, vậy con phải nói với bệnh nhân đang ốm thế nào?con có
qt bệnh nhân khơng?...”.
Hình thành kĩ năng giao tiếp thân thiện góp phần giúp trẻ duy trì được
quá trình giao tiếp với bạn cùng chơi trong các hoạt động vui chơi và cùng
nhau thực hiện nhiệm vụ của lễ hội.
b. Kĩ năng hợp tác
Hợp tác là một đặc trưng cơ bản trong hoạt động của con người.
Từ thủa sơ khai, con người đã có nhu cầu được hợp tác. Cùng với sự
phát triển của xã hội, con người càng ý thức một cách đầy đủ giá trị của hợp


18

tác trong hoạt động giữa con nguời với nhau trong xã hội. Con người không

thể sống và hoạt động để thỏa mãn nhu cầu vật chất, tinh thần của mình nếu
khơng có sự hợp tác trong mối quan hệ với mọi người xung quanh. Sức mạnh
của con người chính là xã hội mà ở đó con người hợp tác với nhau để cùng
tồn tại và phát triển. Như vậy, sự hợp tác là cơ chế của sự tham gia của mỗi cá
nhân vào mối quan hệ xã hội. Đúng như C.Mác đã từng nói: Bản chất của con
người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội.
Như chúng ta đã biết, kĩ năng hợp tác có vai trị hết sức quan trọng đối
với sự phát triển của con người nói chung và trẻ em nói riêng. Nó chỉ được
hình thành khi trẻ được trực tiếp, chủ động tham gia vào các hoạt động. Theo
GS.TS Đặng Thành Hưng, khi có kĩ năng hợp tác trẻ có thể hiểu sâu sắc, tồn
diện và biết đánh giá những ý tưởng của nhiều người, dễ dàng hoà nhập nhiều
hoạt động, nhiều sự kiện khác nhau và trên cơ sở đó, trẻ sẽ có cơ hội được trải
nghiệm, tìm ra nhiều giải pháp dựa trên q trình gom góp kinh nghiệm của
nhiều cá nhân, được đánh giá từ cá nhân và nhóm hay có sự tự đánh giá đa
phương, thông tin phong phú và nhiều chiều, có thể tự kiểm định, đánh giá
các năng lực và thành tựu của cá nhân.
Sự phát triển của mỗi cá nhân phụ thuộc rất nhiều vào khả năng hoà
nhập cuộc sống xã hội của cá nhân đó. Kỹ năng cộng tác, hợp tác giúp cho
người học lĩnh hội những giá trị xã hội trong quá trình tham gia vào các hoạt
động chung. Nó là điều kiện quan trọng để hình thành và phát triển tồn diện
nhân cách như: trí tuệ, tình cảm, ý chí, ngơn ngữ, chú ý, ghi nhớ... khi tham
gia vào các hoạt động chung thì các hành vi xã hội của trẻ cũng được cải thiện
và thử thách.
Mục tiêu giáo dục mầm non (MN) trong chương trình đổi mới hiện nay
là giúp cho trẻ phát triển tốt về thể chất, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những
yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1. Hướng đến phát
triển ở trẻ những tiềm năng và năng lực tối đa. Nhấn mạnh vào việc hình
thành những giá trị, kĩ năng sống cần thiết cho bản thân, gia đình và cộng
đồng như: tự tin, mạnh dạn, tự lực. linh hoạt, sáng tạo chia sẽ, hợp tác, nhân



19

ái, hội nhập... Như vậy, việc hình thành kĩ năng hợp cho trẻ là một trong
những nhiệm vụ mà ngành giáo dục mầm non hiện nay đang hướng đến.
Hình thành kĩ năng hợp tác cho trẻ 5 – 6 tuổi qua tổ chức các hoạt động
lễ hội ở trường mầm non bao gồm các nội dung:
Dễ dàng kết bạn: Mối quan hệ của trẻ vào cuối tuổi mẫu giáo ngày
càng mở rộng theo sự lớn khôn của trẻ. Trẻ được tiếp xúc nhiều hơn với các
mối quan hệ đặc biệt là trong trò chơi, trẻ được tiếp xúc với nhiều bạn hơn.
Tuy nhiên, giai đoạn 5 – 6 tuổi khi mà nhân cách của trẻ đã dần được định
hình, trẻ chơi với nhau không chỉ đơn thuần là chơi chung đồ chơi hay chơi
cạnh nhau như ở các lứa tuổi trước đó. Mà ở giai đoạn này trẻ đã bắt đầu có
mối quan hệ bạn bè thân thiết và chơi với nhau vì sự quý mến và chia sẻ với
bạn cùng chơi. Ở lớp mẫu giáo lớn, chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp những đơi
bạn thân, những nhóm bạn thường xuyên chơi với nhau, điều đó chứng tỏ,
việc kết bạn với trẻ dựa trên sự chia sẻ và biết hợp tác cùng nhau trong trò
chơi. Trẻ cần hiểu được vai trị của mình và bạn trong khi chơi, biết cư xử nhẹ
nhàng, nhường nhịn các bạn sẽ giúp trẻ trở nên thân thiện hơn và được nhiều
bạn trong lớp q mến. Từ đó trẻ thấy được mình có nhiều bạn thân và hiểu
được ý nghĩa của việc chơi cùng nhau.
Thân ái chơi chung: Khi trẻ đã kết được thành những nhóm bạn để vui
chơi học tập cùng nhau thì thân ái chơi chung với nhau là điều cần thiết để
duy trì tình bạn và mối quan hệ chơi. Trong nhóm chơi trẻ cần hiểu vai trị
của mình và các bạn ở từng nhiệm vụ chơi, không tranh giành đồ chơi của
bạn, có đồ chơi đẹp thì phải biết cùng nhau chơi chung. Từ đó xóa đi ở trẻ sự
ích kỉ, ln cho mình là trung tâm của các mối quan hệ (một đặc điểm tâm lý
của trẻ ở giai đoạn này).
Cùng hoàn thành một việc đơn giản theo nhóm: Kĩ năng hợp tác được
biểu hiện rõ nét nhất là q trình trẻ cùng các bạn trong nhóm cùng nhau thực

hiện một nhiệm vụ được giao. Trẻ phải phân công nhau mỗi người phụ trách
một phần công việc và hiểu được rằng, khi có sự phối hợp nhịp nhàng cùng
nhau nhiệm vụ sẽ sớm được hoàn thành. Bên cạnh đó trong khi cùng nhau


20

thực hiện nhiệm vụ, trẻ biết hỗ trợ lẫn nhau trong các hoạt động và tìm kiếm
sự giúp đỡ khi cần thiết.
Lập kế hoạch đơn giản trong nhóm chơi: Một trong những yếu tố cơ
bản để nhóm trẻ cùng hồn thành được nhiệm vụ là trẻ phải bàn bạc với nhau
để đưa ra một kế hoạch hoạt động chung cho cả nhóm. Trẻ có thể tự đề ra kế
hoạch trong trò chơi: phân vai chơi, nhiệm vụ của từng người, thời gian cho
mỗi lượt chơi,… hoặc kế hoạch cho công việc phải chuẩn bị.
Ví dụ: trong trị chơi “chuyền bóng”, khi đội bạn đã giành được 10
quả bóng, vậy kế hoạch của đội mình sẽ phải giành được nhiều hơn 10 quả
bóng. Để làm được điều đó bạn A có nhiệm vụ tung bóng phải tung vừa phải
và đợi khi nào bạn B chạy đến vạch thì mới tung bóng, bạn B bắt được bóng
phải chạy thật nhanh đến đặt vào lưng giữa 2 bạn C - D để tiếp tục vận
chuyển bóng)…
Những kế hoạch đơn giản của trẻ được lập nên xuất phát từ nhiệm vụ
của công việc hay trò chơi. Trước khi bắt đầu một hoạt động, giáo viên tạo
cho trẻ khoảng thời gian để trẻ bàn bạc, thỏa thuận với nhau và lập kế hoạch.
Giáo viên có thể dẫn dắt và hướng dẫn trẻ cách lập kế hoạch, trẻ chỉ cần hiểu
luật chơi và những nhiệm vụ được giao, sau đó trẻ sẽ tự phân cơng cho nhau
thực hiện từng nhiệm vụ đơn lẻ. Việc lập kế hoạch trước khi thực hiện bất cứ
một nhiệm vụ nào được đặt ra sẽ giúp trẻ, chủ động trong các hoạt động của
mình và của nhóm chơi. Từ đó hình thành và phát triển ở trẻ kĩ năng lập kế
hoạch trong các hoạt động hàng ngày ở trường và ở nhà. (trẻ có thể lập kế
hoạch sinh hoạt cho chính bản thân mình và có thể ghi lại bằng những hình

ảnh, những biểu tượng lên bảng để thực hiện).
c. Kĩ năng làm chủ cảm xúc
Xúc cảm tình cảm tích cực là một trong những yếu tố tâm lý quan trọng
giúp con người sống hài hòa trong xã hội. Nhà tâm lý học A.V.Daparojet đã
từng đưa ra nhận định: “tính dễ xúc cảm và tính đồng cảm đã tạo nên đặc
trưng cho sự phát triển tâm lý ở tuổi mẫu giáo”.
Thật vậy, ở giai đoạn này, tính hình tượng chi phối mạnh đến đời sống


21

tâm lý trẻ làm cho sự vật và hiện tượng bên ngoài khi tác động vào vỏ não
đều để lại những hình ảnh trọn vẹn với những chi tiết cụ thể, sinh động. Tuổi
mẫu giáo là thời kì nhạy cảm với những cái đẹp xung quanh, có thể coi đây là
thời kì phát cảm của những xúc cảm tình cảm tích cực đặc biệt là xúc cảm
tình cảm thẩm mĩ. Trẻ 5 – 6 tuổi rất nhạy cảm, cấu trúc tâm lý của trẻ chưa
được định hình rõ nét, trẻ rất dễ có những biểu hiện thái q, khơng tự kiềm
chế được những cảm xúc của bản thân mình với các hiện tượng xảy ra trong
xã hội. Đến cuối tuổi mẫu giáo, trẻ bắt đầu nhận thức được vị trí của mình
trong xã hội, vai trị của mình trong các mối quan hệ. Vì vậy trẻ rất dễ có
những biểu hiện ích kỉ, ln coi mình là trung tâm trong các mối quan hệ. Khi
khơng đạt được điều mình mong muốn, trẻ rất dễ nóng giận thậm chí đập phá
đồ chơi của bạn hoặc có những biểu hiện khơng đúng mực với bạn chơi, với
bố mẹ, với cô giáo…Trẻ càng được nng chiều, sự kiềm chế xúc cảm, tình
cảm càng kém. Do vậy hình thành ở trẻ kĩ năng làm chủ cảm xúc của mình
trong mọi tình huống là một trong những nội dung quan trọng trong giáo dục
KNS cho lứa tuổi này. Kĩ năng làm chủ cảm xúc càng quan trọng hơn đối với
trẻ 5 – 6 tuổi bởi ở lứa tuổi này xúc cảm tình cảm chi phối rất nhiều đời sống
tâm lý của trẻ. Nếu trẻ cân bằng được trạng thái tâm lý của mình, có khả năng
điều chỉnh được hành vi của bản thân theo hướng tích cực – trẻ sẽ dễ dàng

hịa nhập với bạn bè, được bố mẹ, thầy cô quý mến. Trẻ sẽ tự tin vào khả
năng của mình trước những căng thẳng hay những tình huống bất ngờ.
Hình thành và phát triển cho trẻ 5 – 6 tuổi kĩ năng làm chủ cảm xúc qua
tổ chức hoạt động lễ hội ở trường mầm non bao gồm:
Đồng cảm, sẻ chia với những người thân thiết: bạn bè, bố mẹ, thầy cô…
Cùng với những hoạt động vui chơi sôi động, trẻ cần biết điều chỉnh
cảm xúc của mình khi nhìn thấy bạn đang khóc, hay bạn bị ốm. Một hành
động cử chỉ nhẹ nhàng của trẻ là đến bên bạn, ngồi cùng bạn và hỏi thăm bạn
là cả một sự khác biệt ở trẻ. Trẻ biết cảm thông, chia sẻ với bạn dù chỉ là
những câu hỏi đơn giản “bạn bị làm sao thế?, bạn bị đau ở đâu à? Để tớ gọi
cô giáo nhé? Bạn có đi được khơng? Để tớ dìu bạn nhé?...” Giáo viên giúp


22

trẻ hiểu những hành động cử chỉ như vậy là hành động đẹp, là biểu hiện của
một em bé ngoan, được bố mẹ, thầy cơ, bạn bè u q…từ đó trẻ sẽ tích cực
chia sẻ cùng bạn bè hơn. Dần dần, những sự cảm thơng và quan tâm chia sẻ
đó sẽ trở thành kĩ năng thuần thục và giúp trẻ luôn nhận được sự yêu quý và
chia sẻ từ bạn bè và người thân.
Biết nhường nhịn đồ chơi cho bạn.
Hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo trong suốt tuổi mẫu giáo có
ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Trong
đó những đồ chơi luôn cuốn hút trẻ đến kỳ lạ, bất cứ một đứa trẻ nào cũng
mong muốn có được những đồ chơi mới, hấp dẫn. Vì vậy, việc trẻ tranh giành
đồ chơi của nhau là một trong những đặc điểm tâm lý hết sức bình thường của
lứa tuổi. Tuy nhiên khi trẻ tranh giành đồ chơi của nhau sẽ phá vỡ mối quan
hệ chơi giữa trẻ và bạn. Vì vậy, giáo dục trẻ biết nhường nhịn đồ chơi cho bạn
sẽ giúp mối quan hệ chơi của trẻ bền vững. Khi trẻ nhường đồ chơi cho bạn sẽ
nhận được sự khen thưởng thậm chí cả những món q nhỏ của giáo viên. Trẻ

biết rằng tranh giành nhau là một hành động xấu và bị phê bình. Dần dần trẻ
sẽ khơng cịn tức giận và tranh giành đồ chơi với bạn nữa, thay vào đó trẻ biết
nhường cho bạn và giải thích với bạn (cậu chơi trước đi rồi lát nữa đưa cho tớ
chơi nhé). Trước khi cho trẻ chơi, giáo viên cần có giao ước với trẻ (những
quy định) và thường xuyên giám sát các hoạt động của trẻ để có sự nhắc nhở,
tuyên dương kịp thời những hành động đẹp biết nhường nhịn đồ chơi của trẻ.
Làm chủ cảm xúc khi đối đầu với tình huống bất ngờ, căng thẳng
Các tình huống đặt ra hàng ngày với trẻ ln mang nhiều tính bất ngờ
bởi vốn kinh nghiệm của trẻ cịn ít. Do vậy trẻ thường bị động và gặp khó
khăn trong việc lựa chọn cách giải quyết. Các tình huống bất ngờ dễ dẫn đến
căng thẳng mà trẻ gặp phải như vơ tình làm hỏng đồ chơi của bạn, bị bạn va
vào người, bị bạn giật đồ chơi, gặp người lạ vào lớp,… Để trẻ ln chủ động
trong các tình huống như vậy giáo viên lại phải giảng giải cho trẻ bằng lời
hoặc kết hợp với tranh ảnh hay các đoạn phim tình huống giúp trẻ hiểu và
bình tĩnh trong các tình huống tương tự. Giáo viên có thể đưa ra câu hỏi để trẻ


23

giải quyết như (bạn Linh giật đồ chơi trong tay con thì con sẽ làm gì? Bạn Hà
khơng may đập tay vào người con thì con sẽ làm gì?). Sau đó cho trẻ vào vai
các tình huống bất ngờ đặt ra để trẻ luyện kĩ năng làm chủ cảm xúc của mình.
Thể hiện xúc cảm tình cảm tích cực theo hoàn cảnh sống: Trẻ 5 – 6 tuổi
rất hiếu động và có tâm hồn nhạy cảm. Tuy nhiên trẻ chưa điều chỉnh được
cảm xúc của mình trong mọi tình huống đặt ra. Vì vậy cần hình thành ở trẻ kĩ
năng thể hiện cảm xúc, tình cảm tích cực trong các hồn cảnh cụ thể. Q
trình tổ chức hoạt động lễ hội, trẻ phải tuân theo các quy định về đội hình đội
ngũ, biểu hiện cảm xúc theo từng tiến trình của lễ hội. Trong phần nghi thức,
trẻ phải ngồi yên lặng để lắng nghe các bài phát biểu (dù cho trẻ không muốn
nghe), khi giới thiệu đại biểu hay khách mời và các thủ tục khen thưởng tặng

hoa, tặng quà,…trẻ phải vỗ tay để hưởng ứng,…Tuy nhiên không phải cứ gị
ép trẻ thể hiện cảm xúc mà trẻ khơng muốn để hình thành kĩ năng, mà người
giáo viên cần giảng giải để trẻ hiểu trong từng hồn cảnh thì chuẩn mực các hành
động của trẻ phải thể hiện như thế nào thì được mọi người u q tán thưởng.
Ví dụ: nếu mọi người đang chăm chú lắng nghe cô hiệu trưởng nói thì con
có được chạy ra khỏi hàng khơng? Nếu con không trật tự lắng nghe con sẽ bị
mọi người chú ý, mọi người sẽ nhìn con và nói con hư đấy! Con biết khơng?
Như vậy, hình thành ở trẻ cách thể hiện cảm xúc tích cực trong từng hồn
cảnh là nhiệm vụ rất quan trọng và khó khăn. Bởi vừa giúp trẻ làm chủ được
cảm xúc, vừa phải giúp trẻ hiểu và tự nguyện làm theo một cách tích cực, thoải
mái. Khơng nên gị ép trẻ vì như vậy sẽ tạo nên tác dụng ngược chiều trong suy
nghĩ của trẻ và làm mất đi ý nghĩa của việc hình thành kĩ năng làm chủ cảm xúc
ở trẻ.
1.1.3. Đặc điểm tâm sinh lý của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi có liên quan đến q
trình hình thành và phát triển KNS
1.1.3.1. Đặc điểm sinh lí của trẻ 5 - 6 tuổi
Trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo có tốc độ phát triển nhanh và mạnh về thể chất.
Các hệ cơ quan trong cơ thể dần hoàn thiện về cấu trúc và chức năng vận động.
Do vậy đặc điểm phát triển thể chất của trẻ có ảnh hưởng rất lớn đến các mặt


24

phát triển khác của nhân cách như trí tuệ, ngơn ngữ, tư duy trong đó điển hình là
sự hình thành và phát triển kĩ năng sống đặc biệt là các kĩ năng vận động và kĩ
năng tham gia vào các trò chơi nhằm phát triển kĩ năng sống.
Về sự phát triển của các hệ cơ quan: Hệ xương bắt đầu được cốt hóa trở
nên rắn chắc, cơ bắp to ra, các cơ quan hơ hấp và tuần hồn phát triển, trọng
lượng của não tăng nhanh từ 1100g đến 1350g. Số lượng tế bào thần kinh được
miêlin hóa ngày càng nhiều, do đó não bộ dần tăng cường vai trị điều chỉnh và

kiểm tra đối với các vùng dưới vỏ não. Hành vi của trẻ được kiểm soát và phân
cấp, trẻ biết phân biệt thế nào là đúng, thế nào là sai,…từ đó có thể làm chủ cảm
xúc của mình trong mọi tình huống.
Tốc độ hình thành phản xạ có điều kiện tăng nhanh, hệ thống tín hiệu thứ
nhất phát triển mạnh mẽ, điều này giúp trẻ dễ tiếp cận với các hoạt động trong
cuộc sống đặc biệt là hoạt động vui chơi. Các phản xạ có điều kiện được thành
lập tạo thành chuỗi các phản xạ bền vững giúp trẻ thực hiện các nhiệm vụ trong
cuộc sống một cách thuần thục và hình thành nên các kĩ năng kĩ xảo (hình thành
nên định hình động lực).
Sự phát triển thể chất ở lứa tuổi này sẽ tạo điều kiện cần thiết để trẻ có
thể hoạt động độc lập nhiều hơn và giúp trẻ lĩnh hội những hình thức mới của
kinh nghiệm xã hội trong quá trình giáo dục. Thể chất phát triển giúp trẻ có
đủ sức khỏe tham gia vào nhiều hoạt động vui chơi, giải trí của hoạt động lễ
hội. Quá trình diễn ra hoạt động trải qua thời gian dài, do vậy từ khâu chuẩn
bị đến khi diễn ra các hoạt động trẻ cần phải có sức khỏe tốt, dẻo dai và linh
hoạt.
1.1.3.2. Đặc điểm tâm lí của trẻ 5 - 6 tuổi
* Đặc điểm phát triển xúc cảm tình cảm và ý chí
- Đặc điểm phát triển xúc cảm tình cảm:
Xúc cảm tình cảm của trẻ được hình thành từ các lứa tuổi trước đó, đến
giai đoạn 5 – 6 tuổi xúc cảm tình cảm vẫn phát triển mạnh và chi phối đời
sống tâm lý của trẻ. Trẻ bắt đầu hình thành rõ nét các loại tình cảm bậc cao


25

(tình cảm trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ) điều này giúp trẻ tham gia hoạt động lễ
hội với xúc cảm tình cảm tự nhiên và cảm nhận được ý nghĩa của ngày hội.
Tri giác của trẻ 5 – 6 tuổi phát triển mạnh, đó là sự hình thành tri giác
thẩm mĩ các tác phẩm nghệ thuật. L.X.Vưgotxki, nhà tâm lý học lỗi lạc người

Nga coi sự tri giác tác phẩm nghệ thuật như là một hành động nghệ thuật. Điểm
mới trong tri giác của trẻ là xuất hiện các hình tượng nghệ thuật. Việc tri giác
thẩm mĩ các tác phẩm nghệ thuật của trẻ có những đặc điểm riêng, nó có mối
liên hệ chặt chẽ với tình cảm, xúc cảm thẩm mĩ. Đây là đặc điểm quan trọng
giúp trẻ tham gia vào lễ hội bằng tất cả sự cảm nhận và hứng thú của mình. Các
hoạt động lễ hội được tổ chức luôn mang ý nghĩa sâu sắc về một sự kiện hay
một đối tượng nào đó. Sự phát triển tình cảm thẩm mỹ và khả năng tri giác
nghệ thuật giúp trẻ phát triển xúc cảm tình cảm, biết chia sẻ, biết yêu thương và
thể hiện tình cảm của mình với những người xung quanh.
- Đặc điểm phát triển ý chí:
Sự phát triển ý chí của trẻ tạo ra cho trẻ khả năng điều chỉnh hành vi
của mình trong các hoạt động. Cuối tuổi mẫu giáo xuất hiện hệ thống động cơ
thứ bậc và tranh đấu giữa các động cơ, hình thành động cơ xã hội nhưng tính
bộc phát của hành động vẫn còn chi phối mạnh hành vi của trẻ. Vì vậy giáo
dục KNS cho trẻ cần tạo cho trẻ ý chí kiên định và những hành vi xã hội tích
cực, bền vững. Thơng qua các nhiệm vụ, các tình huống đặt ra trong lễ hội, trẻ
rèn luyện cho mình ý chí kiên định biết vượt qua khó khăn để hoàn thành
nhiệm vụ cũng như thể hiện bản lĩnh của mình.
* Đặc điểm phát triển tư duy
Cũng giống như sự phát triển về mặt thể chất, trẻ 5 – 6 tuổi đạt tốc độ
phát triển rất nhanh về trí tuệ. Từ chỗ chưa nhận thức được thế giới xung
quanh đến cuối tuổi mẫu giáo trẻ đã nhận thức được rất nhiều các biểu tượng
về tự nhiên, các mối quan hệ xã hội và gia đình. Những tri thức về cách thức
sử dụng cũng như tên gọi của các đồ vật trong cuộc sống hàng ngày. Khả
năng quan sát bắt đầu hình thành, trẻ biết ngắm nghía, phát hiện thuộc tính và
các mối quan hệ đặc trưng của sự vật hiện tượng. Bên cạnh đó khả năng tri


×