Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Khóa luận tốt nghiệp thiết kế trò chơi học tập nhằm giáo dục giới tính cho trẻ 5 – 6 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (882.99 KB, 92 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại hiện nay, giáo dục giới tính (GDGT) cho thế hệ trẻ hơn
lúc nào hết đã trở thành nhu cầu khách quan, cần thiết. Nhiều cơng trình
nghiên cứu đã chứng minh rằng: Sự chín muồi ở trẻ em diễn ra sớm hơn 1,5 –
2 năm so với trẻ cách đây vài chục năm. Hơn thế nữa, cùng với sự gia tăng
của các hoạt động phương tiện thông tin đại chúng (tivi, phim ảnh, sách
báo…), trẻ chịu nhiều ảnh hưởng tác động khác nhau một cách thiếu chọn lọc;
trong đó có những luồng thơng tin khơng có lợi cho sự hình thành thái độ
đúng đắn về giới tính ở trẻ. Điều này dẫn tới sự mất cân bằng giữa sự trưởng
thành về sinh lý và tâm lý xã hội.
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, giáo dục mầm non giữ vai trò quan
trọng với mục tiêu: “Giúp trẻ phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ,
hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, phát triển ở trẻ em những chức
năng tâm sinh lý, năng lực và phẩm chất mang tính nền tảng, những kĩ năng
sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi, khơi dậy và phát triển tối đa những khả năng
tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học ở các cấp học tiếp theo và cho việc học tập
suốt đời”[2]. Do đó, GDGT trở thành trong những mục tiêu quan trọng của bậc
học mầm non. GDGT cần phải được xác định là một quá trình giáo dục nhằm
phát triển các năng lực chung của trẻ, giúp trẻ phát triển nhân cách toàn diện; tạo
điều kiện thuận lợi cho việc giáo dục giới tính ở bậc học phổ thông.
Các nhà khoa học đã chứng minh rằng sự hình thành giới tính bắt đầu
từ tuổi ấu nhi (2 – 3 tuổi) và đặc biệt đến cuối tuổi 5 - 6 tuổi thì giới tính của
trẻ có những biến đổi quan trọng về cả mặt sinh lý và tâm lý. Vì vậy, GDGT
cho trẻ ở độ tuổi này mang ý nghĩa rất quan trọng.
Bên cạnh, hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo ở trẻ mẫu giáo. Vì
vậy, khi giáo viên tổ chức cho trẻ tham gia các trò chơi sẽ giúp trẻ lĩnh hội
được các nội dung giáo dục nói chung và GDGT nói riêng một cách hiệu quả.
Trong các trò chơi của trẻ ở trường mầm non thì trị chơi học tập (TCHT) là




2
phương tiện hữu hiệu để GDGT cho trẻ mẫu giáo nói chung và cho trẻ (mẫu giáo)
5 - 6 tuổi nói riêng. Bởi học trong q trình vui chơi là quá trình lĩnh hội tri thức,
vốn sống, vốn kinh nghiệm xã hội nhẹ nhàng, tự nhiên, khơng gị bó, phù hợp với
đặc điểm của trẻ. Bên cạnh đó, khi được thiết kế để GDGT thì hệ thống TCHT có
hình thức tổ chức phù hợp với nội dung của GDGT giúp trẻ sẽ bộc lộ mọi nhận
thức, hiểu biết của mình một cách chân thực; thơng qua đó trẻ tiếp thu được các
bài học về giới tính theo mục đích nhất định mà giáo viên đưa ra.
Thực tế, ở bậc học mầm non cho thấy: giáo viên đã nhận thức được
vai trị của trị chơi nói chung và TCHT nói riêng đối với việc GDGT cho trẻ
5 - 6. Họ đã tổ chức các TCHT để GDGT cho trẻ 5 – 6 tuổi. Tuy nhiên, việc
thiết kế các TCHT còn chưa được hệ thống, số lượng ít, các trị chơi chưa
chuyển được hết các nội dung GDGT… Từ đó làm cho trẻ ít được chơi các
TCHT với các nội dung GDGT. Chính những điều này làm cho GDGT của
trẻ 5 – 6 tuổi chưa đạt được hiệu quả như mong muốn.
Từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Thiết kế trò
chơi học tập nhằm giáo dục giới tính cho trẻ 5 – 6 tuổi”.
2. Mục đích nghiên cứu
Thiết kế được những trò chơi học tập nhằm GDGT cho trẻ MG 5 - 6 tuổi.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1 Khách thể nghiên cứu
Quá trình GDGT cho trẻ MG 5- 6 tuổi
3.2 Đối tượng nghiên cứu
Thiết kế TCHT nhằm GDGT cho trẻ MG 5 - 6 tuổi.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu thiết kế được các TCHT có hình thức đa dạng, phù hợp với mục
tiêu, nội dung GDGT và phù hợp với đặc điểm trẻ MG 5 - 6 tuổi thì kết quả
giáo dục về giới tính trên trẻ thể hiện trong các TCHT sẽ nâng cao.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1 Hệ thống hóa cơ sở lý luận của việc thiết kế TCHT nhằm GDGT cho
trẻ MG 5 - 6 tuổi.


3
5.2 Khảo sát và đánh giá thực trạng thiết kế TCHT nhằm GDGT cho trẻ
MG 5 – 6 tuổi ở một số trường mầm non thị xã – Phú Thọ.
5.3 Thiết kế và thử nghiệm sư phạm các TCHT nhằm GDGT cho trẻ MG
5 – 6 tuổi.
6. Phạm vi nghiên cứu
6.1 Nội dung nghiên cứu
Thiết kế TCHT nhằm GDGT cho trẻ MG 5 – 6 tuổi ở trường mầm non.
6.2 Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu tại 3 trường mầm non thuộc thị xã Phú Thọ - tỉnh Phú Thọ
- Trường mầm non Phong Châu – phường Phong Châu – thị xã Phú
Thọ - tỉnh Phú Thọ.
- Trường mầm non Hùng Vương – phường Hùng Vương – thị xã Phú
Thọ - tỉnh Phú Thọ.
- Trường mầm non Hà Lộc– xã Hà Lộc– thị xã Phú Thọ – tỉnh Phú Thọ.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1 Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
Đọc, phân tích, so sánh, hệ thống hóa các vấn đề lý luận có liên quan
đến đề tài nghiên cứu.
7.2 Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1 Phương pháp điều tra
- Rà soát các TCHT nhằm GDGT cho trẻ MG 5 – 6 tuổi trong chương
trình GDMN.
- Trị chuyện với giáo viên về GDGT và thiết kế các TCHT nhằm
GDGT cho trẻ MG 5 - 6 tuổi bằng phiếu trưng cầu ý kiến.

- Trò chuyện với trẻ MG 5 - 6 tuổi về giới tính bằng đề cương.
7.2.2 Phương pháp quan sát
- Quan sát giáo viên và trẻ khi chơi TCHT nhằm GDGT cho trẻ bằng đề cương.
7.2.3 Phương pháp nghiên cứu sản phẩm
Kiểm tra kế hoạch hoạt động, giáo án tổ chức các TCHT của giáo viên
dạy các lớp 5 - 6 tuổi để biết được thực trạng của việc thiết kế TCHT nhằm


4
GDGT cho trẻ MG 5 – 6 tuổi.
7.2.4 Phương pháp thử nghiệm sư phạm
Để kiểm nghiệm tính hiệu quả của các TCHT nhằm GDGT cho trẻ MG
5 – 6 tuổi đã đề ra theo giả thuyết khoa học bằng thử nghiệm sư phạm.
7.3 Phương pháp thống kê toán học
Xử lý các số liệu bằng phần mềm xử lý thống kê SPSS 16.0 và phân
tích các kết quả nghiên cứu.
8. Những đóng góp mới của đề tài
8.1. Hệ thống hóa cơ sở lý luận của việc GDGT cho trẻ MG 5 - 6 tuổi.
8.2. Đánh giá được thực trạng thiết kế TCHT nhằm GDGT cho trẻ MG
5 – 6 tuổi ở một số trường mầm non thuộc thị xã Phú Thọ.
8.3. Thiết kế được TCHT nhằm GDGT cho trẻ MG 5 – 6 tuổi theo
hướng mở với thành phần cấu trúc rõ ràng để giáo viên có thể phát triển các
TCHT đã có và tự thiết kế các trị chơi mới tùy theo khả năng của giáo viên
cũng như khả năng, nhu cầu và hứng thú của trẻ.


5
PHẦN NỘI DUNG

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THIẾT KẾ TRỊ CHƠI HỌC TẬP
NHẰM GIÁO DỤC GIỚI TÍNH CHO TRẺ 5 – 6 TUỔI

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1 . Những nghiên cứu ở nước ngoài
* Trên thế giới, từ xa xưa việc GDGT đã được quan tâm nghiên cứu.
Song phải từ thế kỷ XX, GDGT mới được khẳng định và nghiên cứu rộng rãi.
Có thể xem xét theo hai xu hướng chính sau đây:
Xu hướng 1: Khẳng định GDGT là một bộ phận trọng của giáo dục
đạo đức nói riêng và giáo dục nói chung
Các nhà khoa học Liên Xô, đặc biệt là các nhà khoa học về y học, giáo
dục học, tâm lí học, sinh lí học đã xây dựng nền móng vững chắc cho nền
khoa học giới tính và giáo dục giới tính theo quan điểm Mác–xít:
A.X. Makarenko khẳng định: “Các nhà giáo dục học Xơ viết coi giáo
dục giới tính và giáo dục về đời sống gia đình là một nội dung của giáo dục
đạo đức chuẩn bị cho con người bước vào đời sống gia đình” và“Đạo đức xã
hội đặt ra những vấn đề về giáo dục giới tính cho thanh thiếu niên. Sinh hoạt
giới tính của con người liên quan mật thiết với việc giáo dục về tình yêu, về
đời sống gia đình tức là mối quan hệ gia nam và nữ, mối quan hệ dẫn tới mục
đích hạnh phúc của con người và việc giáo dục con cái. Khi giáo dục một con
người khơng thể qn giáo dục loại tình cảm đặc biệt đó về giới tính”.[5]
I.X. Kon khẳng định: “Chuẩn bị cho nam nữ thanh niên bước vào cuộc
sống gia đình địi hỏi phải hồn thiện hệ thống giáo dục đạo đức và giáo dục
giới tính” và “dù xác định mối tương quan giữa giáo dục giới tính là giáo
dưỡng giới tính như thế nào đi chăng nữa, thì cả hai thứ đều phải tuân theo
các mục đích chung của giáo dục”.
Như vậy, các cơng trình nghiên cứu trên thế giới đã khẳng định vai trò
của GDGT: GDGT khẳng định GDGT là một bộ phận trọng của giáo dục đạo



6
đức nói riêng và giáo dục nói chung. Tuy nhiên, chưa có cơng trình nào
nghiên cứu và chỉ ra vai trò quan trọng của việc GDGT cho trẻ 5 - 6 tuổi đối
với việc giáo dục đạo đức nói riêng và giáo dục nói chung.[33]
Xu hướng 2: Xác định mục đích, nội dung và phương pháp GDGT cho trẻ
Tại Liên Xô từ năm 1968, hầu hết các địa phương của Liên Xô bắt đầu chú ý
tới việc giáo dục thế hệ trẻ các vấn đề về giới tính, nhất là đời sống tình dục
và quan hệ hơn nhân... Tầm quan trọng của việc “cần phải phát triển và hoàn
thiện nội dung phương pháp giáo dục giới tính phù hợp với đạo lý” đã được
thừa nhận tại kì họp liên tịch giữa Viện hàn lâm khoa học y học và Viện hàn
lâm khoa học giáo dục Liên Xô 1971, và tại cuộc “Hội thảo quốc tế của các
nước xã hội chủ nghĩa về kế hoạch hố gia đình, giáo dục giới tính, về vợ
chồng và gia đình tại Varsava” năm 1977 [12].
Từ những năm 70, việc giáo dục giới tính cho học sinh đã được đề
xuất, giảng dạy ở một số nơi. Năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô đã ra
chỉ thị cho tất cả các trường học trong cả nước thực hiện chương trình giáo
dục vệ sinh và giáo dục giới tính cho học sinh các trường phổ thơng. Một
chương trình giáo dục giới tính được biên soạn rất tỉ mỉ và cụ thể cho học sinh
từ cấp 1 đến cấp 3 (trung học phổ thông). Đặc biệt, trong chương trình giáo
dục từ năm học 1983 – 1984 có thêm một môn học cho học sinh lớp 9 và lớp
10 (tương đương lớp 11, 12 của nước ta) gọi tên là “Đạo đức học và tâm lí
học đời sống gia đình” với 34 tiết chính khố.
Tại Đức, vấn đề giáo dục giới tính được tiến hành rộng rãi từ những
năm 60, đặc biệt từ những năm 70 của thế kỉ XX trở đi. Các nhà khoa học
Đức quan niệm rằng: “Những hiểu biết khoa học về vấn đề giáo dục giới tính
cần được trang bị ngay cho cả các cơ mẫu giáo, vườn trẻ ở đó cũng cần phải
nói đến sự giáo dục về môn quan hệ đúng đắn gì những người khác giới”. Từ
năm 1974, một chương trình giáo dục giới tính đã được xây dựng rất tỉ mỉ cụ
thể, dạy cho học sinh phổ thông từ lớp 8, với 15 chủ đề khác nhau và trên 20
sinh tham khảo được quy định.

Ngoài ra, tại nhiều nước Châu Âu khác: Tiệp Khắc, Hungary, Ba Lan


7
Anh, Đan Mạch, Thuỷ Điển, Mĩ, Pháp… đều đã tiến hành giáo dục giới tính
cho học sinh phổ thơng bằng những chương trình bắt buộc trên tồn quốc,
được chính phủ công bố [14].
- Tại các nước châu Á, châu Phi, Mĩ Latin cũng đưa giáo dục giới tính
vào trường phổ thông và đã đạt kết quả tốt. Trung Quốc đã tiến hành giáo
dục giới tính cho học sinh từ năm 1974 và hiện nay là một trong những nước
có nhiều cơng trình nghiên cứu, có sự phát triển cao trong nghiên cứu khoa
học về giới tính.
- Tại các nước Đơng Nam Á như: Thailand, Malaysia, Indonesia,
Singapore, Philippines… cũng đã thực hiện nội dung GDGT [9].
Ở Philippines, giáo dục giới tính đã được đưa vào chương trình nội
khố của trường phổ thông cơ sở và trường trung học phổ thông, và là một bộ
phận của giáo dục dân số và kế hoạch hố gia đình. Nội dung giáo dục giới
tính đã được lồng ghép một cách hợp lí vào nhiều bộ mơn văn hố khác, chủ
yếu là mơn kế hoạch hố gia đình qua các giờ chính khố và qua các hoạt
động ngoại khoá, theo mức độ khác nhau ở các lứa tuổi khác nhau. Ở nước
này, việc nghiên cứu các tỉnh thức tổ chức dạy học, những phương pháp và
những phương tiện dạy học về giới tính rất được quan tâm và cuốn hút học
sinh, làm cho quá trình giáo dục đạt hiệu quả cao. Việc giáo dục nội dung này
cũng đã được mở rộng ra ngoài nhà trường, đến các tầng lớp nhân dân khác
nhau qua rất nhiều hình thức giáo dục phong phú, qua các trung tâm tư vấn và
đã được xã hội ủng hộ.
* Nghiên cứu về việc thiết kế TCHT nhằm GDGT cho trẻ 5 – 6 tuổi
Ở nước ngoài, nghiên cứu về TCHT thường theo các xu hướng: Thiết
kế các TCHT nhằm giáo dục nhận thức, tình cảm và dạy các nội dung cụ thể
(hình thành biểu tượng tốn, làm quen với mơi trường xung quanh, phát triển

ngôn ngữ....). Tuy nhiên, thiết kế TCHT nhằm GDGT cho trẻ 5 – 6 tuổi là
chưa có.
Như vậy, có thể thấy việc thiết kế các TCHT nhằm GDGT cho trẻ 5 –
6 tuổi là cần thiết nhưng chưa được quan tâm nghiên cứu một cách hệ thống


8
và đầy đủ.
1.1.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam
* Nghiên cứu về giáo dục giới tính cho trẻ 5 – 6 tuổi
Ở Việt Nam, trong thời gian gần đây, cùng với giáo dục dân số giáo
dục giới tính đã bắt đầu được quan tâm và được nghiên cứu. Có thể xem xét
GDGT theo hai hướng chính sau:
Xu hướng 1: Khẳng định vai trị quan trọng của GDGT cho trẻ nói
chung và GDGT cho trẻ 5 - 6 tuổi nói riêng.
Các nhà giáo dục Việt Nam khẳng định định vai trò của GDGT đối với
trẻ. Họ cho rằng: Giới tính xuất hiện rất sớm ở con người, bởi vậy để con người
phát triển tồn diện và tốt đẹp, cũng cần có GDGT từ rất sớm. “Giáo dục giới
tính thì có thể và phải bắt đầu càng sớm càng tốt, từ khi trẻ rời nhà hộ sinh”.
“Cũng như mọi lĩnh vực giáo dục khác, GDGT phải được bắt đầu từ ngay
những năm đầu tiên của cuộc đời con người. Mỗi lứa tuổi cần có có nội dung
và hình thức phù hợp.
Tác giả Nguyễn Khắc Viện đã dày công nhiên cứu về giáo dục giới tính
trẻ em lứa tuổi mẫu giáo. Theo ơng: “Vào tuổi mẫu giáo, khi trẻ tò mò muốn
biết về mọi cái trong thế giới xung quanh mình, chúng muốn biết về sự khác
biệt của mọi cái xung quanh thì sự khác biệt về giới tính cũng nằm trong tầm
mắt của trẻ em khiến trẻ có ý thức về bản thân mình và người khác”.[4]
Như vậy, các cơng trình tâm lý học và giáo dục học đã nghiên cứu
trong nước đã khẳng định GDGT cho trẻ là bộ phận của GD, GDGT góp phần
vào việc phát triển tồn diện nhân cách con người. Tuy nhiên, vai trò của

GDGT cho lứa tuổi 5 - 6 tuổi cịn ít được đề cập đến trong các cơng trình
nghiên cứu này.
Xu hướng 2: Xác định mục đích, nhiệm vụ, nội dung và phương
pháp của quá trình GDGT cho trẻ 5 - 6 tuổi
Từ việc xác định GDGT cho trẻ là một nhiệm vụ quan trọng, các tác
giả đã xác định mục đích, nhiệm vụ, nội dung và phương pháp của GDGT
cho trẻ 5 - 6 tuổi:


9
Nguyễn Thị Thu Hà đã đưa ra các mục đích, nội dung, phương pháp
GDGT cho trẻ 5 - 6 tuổi. Tuy nhiên, mục đích chưa đầy đủ, nội dung chưa cụ
thể và phương pháp được giới hạn trong hoạt động vui chơi. Ngồi ra, chưa
có mục tiêu GDGT cụ thể làm cho q trình GDGT cho trẻ gặp nhiều khó
khăn.[7]
Nguyễn Văn Lê và Nguyễn Thị Đoan trong cuốn “ Giáo dục giới tính
trong giáo dục dân số” cungc tổng kết về một số kinh nghiệm của GDGT của
một số nước.Trong đó có đề cập đến GDGT ngay từ lứa tuổi MG và đưa ra
một số nội dung, GDGT cho độ tuổi này.[6].
Ngơ Thị Hợp và Nguyễn Thị Bích Hạnh trong “Những kiến thức ban
đầu hình thành kĩ năng sống cho trẻ mầm non” đã tìm hiểu về đặc điểm giới
tính của trẻ mầm non và trên cơ sở đó đã đưa ra một số nội dung GDGT cho
trẻ mẫu giáo: dạy trẻ nhận biết về giới tính, dạy trẻ phịng tránh xâm hại tình
dục và một số phương pháp để GDGT cho trẻ trong đó nhấn mạnh phương
pháp trị chuyện “Vấn đề giới tính vốn là điều khá tế nhị và khó nói. Tuy
nhiên, trẻ rất cần được trang bị những kiến thức về giới tính trước khi thành
người lớn. Hãy bắt đầu nói chuyện khéo léo để cho trẻ được tiếp cận dần với
những khái niệm về giới tính”[13]
Như vậy, các tác giả này đã đề cập đến một số nội dung GDGT, các
phương pháp để GDGT cho trẻ nói chung và trẻ 5 – 6 tuổi nói riêng; tuy

nhiên, các nội dung GDGT này chưa đầy đủ, đáp ứng nhu cầu phát triển của
trẻ và sự phát triển của xã hội.
Như vậy, các cơng trình nhiên cứu lí luận và thực tiễn trong và ngoài
nước đã đề cập đến nhiều khía cạnh của việc GDGT cho trẻ: mục đích, nội
dung, phương pháp giáo dục…Tuy nhiên, chưa có một cơng trình nào tập
trung khai thác ưu thế của các TCHT để GDGT cho trẻ 5 - 6 tuổi. Hơn nữa,
việc nghiên cứu, thiết kế TC để tác động lên q trình phát triển tồn diện cho
trẻ MG đang là một xu hướng trong giáo dục mầm non. Nên việc làm phong
phú thêm nguồn TC sẽ mang một ý nghĩa về lý luận và thực tiễn trong việc tổ
chức TCHT cho trẻ MG. Vì vậy, đề tài “Thiết kế TCHT nhằm GDGT cho trẻ


10
5 - 6 tuổi” sẽ là đóng góp làm phong phú cơ sở lý luận và nâng cao hiệu quả
GDGT cho trẻ 5 - 6 tuổi.
1.2. Cơ sở lý luận về GDGT cho trẻ 5- 6 tuổi
Thiết kế TCHT nhằm giáo dục giới tính cho trẻ 5 – 6 tuổi dựa trên các
cơ sở lý luận về GDGT và về TCHT cho trẻ MG:
1.2.1. Khái niệm “giáo dục giới tính”
1.2.1.1. Khái niệm giới và giới tính
Giới tính và giới là hai thuật ngữ đã trở nên quen thuộc. Tuy nhiên,
trong thực tế nhiều người vẫn nhằm lẫn và tranh cãi về ý nghĩa của hai khái
niệm này hoặc cho rằng cả hai khơng có gì khác biệt hoặc chỉ muốn nói đến
hai nhóm người: nam giới và nữ giới. Sự không rõ ràng này thường dẫn đến
những quan niệm không đúng về sự khác biệt giới dẫn đến bỏ qua sự đa dạng
của vấn đề giới trong xã hội. Do đó, có một sự phân biệt tách bạch giữa hai
khái niệm này là cần thiết.
Theo SEAGEP (2001), giới và giới tính được định nghĩa như sau:
Giới tính là sự khác biệt về mặt sinh học giữa nam giới và nữ giới.
Giới tính của mỗi người khơng thể thay đổi được. Chỉ có một số khác biệt nhỏ

về vai trị của nam và nữ về mặt sinh học và sinh lý trên cơ sở giới tính. Ví dụ
như việc mang thai, sinh nở và sự khác biệt về sinh lý có thể là do các đặc
điểm giới tính.
Giới là sự khác biệt về mặt xã hội giữa nam và nữ như vai trò, thái độ,
hành vi ứng xử và các giá trị. Vai trị giới được biết đến thơng qua q trình
học tập và khác nhau theo từng nền văn hóa và thời gian, do vậy giới có thể
thay đổi được. Ví dụ: các nhóm dân tộc khác nhau sẽ xác định vai trò của phụ
nữ khác nhau, mặc dù chế độ gia trưởng phụ quyền là chủ yếu ở đa số các
nhóm dân tộc nhưng chế độ mẫu hệ vẫn cịn tồn tại ở một số nhóm dân tộc
thiểu số….
Khác với vấn đề giới tính vốn chỉ đề cập tới sự khác biệt sinh học giữa
nam và nữ, khái niệm giới đề cập đến những khác biệt về mặt xã hội do các
nhóm xã hội con người tạo ra. Bản chất xã hội của giới được thể hiện rõ trong


11
sự khác nhau giữa các đặc tính và các hoạt động được coi là của nam giới và
nữ giới khi thực hiện so sánh trong các nền văn hoá, giữa các tầng lớp xã hội
và các nhóm dân tộc trong cùng một nền văn hoá, hoặc thay đổi theo thời
gian. Phân biệt giữa giới và giới tính được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 1.1: Phân biệt giới tính và giới
Khác biệt

Giới tính

Giới

1. Đặc

- Sự khác biệt về mặt sinh - Sự khác biệt về phương diện xã


tính

học giữa nam và nữ.

2. Nguồn

- Thể hiện qua những đặc - Thể hiện qua những đặc tính xã

gốc

tính sinh học, có tính chất hội, do hoàn cảnh xã hội tạo nên

hội giữa nam và nữ.

tự nhiên, bẩm sinh, hình chứ khơng có sẵn khi ra đời.
thành từ khi ra đời.
3. Sự biến

- Không thay đổi theo thời - Thay đổi theo thời gian, có sự

đổi

gian, khơng khác biệt giữa khác biệt giữa các xã hội, thời
các xã hội, thời kỳ.

kỳ.

1.2.1.2. Khái niệm giáo dục giới tính


Giáo dục giới tính là một lĩnh vực phức tạp. Có nhiều quan niệm và ý
kiến khác nhau về vấn đề này. Cùng với sự phát triển của xã hội, GDGT
càng ngày càng được quan tâm nên khái niệm này ngày càng hoàn thiện và
đầy đủ hơn.
* Theo A.G.Khricova, D.V.Kolexev: “Giáo dục giới tính là một q
trình hướng vào vạch ra những nét, những phẩm chất, những đặc trưng cũng
như khuynh hướng phát triển của nhân cách, xác định thái độ xã hội cần thiết
của con người đối với người khác”.
Khái niệm này cho ta thấy khái niệm này cho ta thấy GDGT chủ yếu là
hình thành và phát triển các thái độ về giới tính phù hợp cho trẻ và ứng xử với
những người xung quanh phù hợp với giới tính của mình. Như vậy,
A.G.Khricova, D.V.Kolexev đã đề cao vai trò của việc giáo dục nhân cách
của con người trong GDGT. Tuy nhiên, khái niệm chưa chỉ ra được riêng biệt


12
giữa GDGT và giáo dục đạo đức cho con người.
* Theo A.V.Petrovxki: “GDGT là hệ thống các biện pháp y khoa và sư
phạm nhằm giáo dục cho thiếu nhi, thiếu niên và thanh niên có thái độ đúng
đắn với các vấn đề giới tính”.
Như vậy, A.V.Petrovxki đã đề cập đến q trình GDGT cho trẻ. Trong
đó khẳng định vai trị kết hợp của y khoa và sư phạm trong việc GDGT cho
trẻ để cung cấp cho trẻ các kiến thức sinh lý một cách khoa học và thái độ về
giới tính đúng đắn. Như vậy đây là một khái niệm tương đối hoàn thiện.
* G.S Trần Trọng Thuỷ, G.S Đặng Xn Hồi cho rằng GDGT có
phạm vi rất lớn, tác động toàn diện đến tâm lý và đạo đức của con người, “là
hình thành chuẩn mực đạo đức của hành vi có liên quan đến lĩnh vực thầm
kín của con người, hình thành những quan niệm đạo đức giữa em trai và em
gái, thanh nam và thanh nữ, giáo dục những “kiềm chế có đạo đức”, sự thuần
khiết và tươi mát về đạo đức trong tình cảm của các em”.

Trong khái niệm này, G.S Trần Trọng Thủy và G.S Đặng Xn Hồi đã
khẳng định vai trị quan trọng của GDGT đối với việc hình thành đạo đức của
con người. Đó là việc giáo dục để hình thành các thái độ giới tính phù hợp với
các chuẩn mực đạo đức của xã hội.
* Theo Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, GDGT đúng nghĩa là “Giáo dục cho trẻ
biết về cơ thể, về mối quan hệ xã hội, tương tác của mỗi giới, vai trị vị trí của
mỗi cá nhân trong nền tảng văn hoá chung của một chủng tộc, quốc gia. Đồng
thời cũng giáo dục cả những tình cảm, cảm xúc, sự tôn trọng lẫn nhau, hỗ trợ
giúp đỡ lẫn nhau. GDGT cũng sẽ dạy cách chăm sóc gia đình, ni dưỡng
con cái”.
Như vậy, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc khẳng định, GDGT cho trẻ không chỉ
giúp trẻ, cung cấp cho trẻ các kiến thức về sinh lý đơn thuần (về cấu tạo của
cơ thể nam và nữ, về các bệnh sinh dục...) cho trẻ mà cịn phải giúp trẻ hình
thành thái độ về giới tính (cảm xúc, tơn trọng, giúp đỡ) và các kĩ năng (chăm
sóc gia đình và ni dạy con cái).
Như vậy, có rất nhiều khái niệm khác nhau về giáo dục giới tính. Mỗi


13
khái niệm chỉ ra được các nhiệm vụ, yêu cầu khác nhau của GDGT. Tuy
nhiên, các khái niệm GDGT chủ yếu nhấn mạnh việc hình có thể được hiểu
như sau:
GDGT là một bộ phận của giáo dục đạo đức nói riêng và giáo dục nói
chung, góp phần phát triển tồn diện cho con người. GDGT là quá trình giáo
dục trong đó nhà giáo dục tác động tới thế hệ trẻ nhằm mục đích chuẩn bị
cho họ những kiến thức, thái độ đầy đủ và đúng đắn về sinh lý, tâm lý xã hội,
hình thành các kĩ năng giới tính, hướng các hành vi của họ phù hợp với giới
tính của mình để xây dựng gia đình hạnh phúc.
1.2.2 Giáo dục giới tính cho trẻ MG 5 - 6 tuổi
Giáo dục giới tính cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi là một bộ phận của giáo

dục, là một quá trình giáo dục phức tạp. Quá trình giáo dục này bao gồm các
thành phần cơ bản như: mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức,
phương tiện, điều kiện và đánh giá. Do đó, hiệu quả của GDGT cho trẻ mẫu
giáo 5 - 6 tuổi phụ thuộc vào tất cả các thành phần của nó.
1.2.2.1.Mục tiêu giáo dục giới tính cho trẻ 5 – 6 tuổi
* Cơ sở xác định mục tiêu GDGT cho trẻ:
- Dựa vào mục tiêu của giáo dục mầm non.
- Dựa vào mục đích của GDGT cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi “Mục đích
của GDGT là hình thành ở trẻ em sự hiểu biết đúng đắn về bản chất của các
tiêu chuẩn và tâm thế đạo đức trong các lĩnh vực, các mối quan hệ qua lại của
hai giới, và nhu cầu hành động theo các tiêu chuẩn và tâm thế trong tất cả các
lĩnh vực hoạt động”.[12]
- Dựa vào đặc điểm về giới tính của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi.
* Từ các cơ sở này, mục tiêu GDGT cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi hình
thành và phát triển các kiến thức, kĩ năng và tình cảm (thái độ) về giới tính
cho trẻ, cụ thể như sau:


14
- Kiến thức: Nói được mình thuộc giới nào.
Kể được tên những bộ phận của cơ thể và cơ quan sinh dục ngoài.
Cách vệ sinh cơ quan sinh dục.
Phân biệt được nam và nữ qua những dấu hiệu đặc trưng bên ngồi.
Kể được các đặc trưng “tính nam, tính nữ” về lời nói, hành vi, cơng
việc, khả năng.
Biết được cách phòng tránh hành vi lạm dụng và bảo vệ bản thân khi
gặp hành vi lạm dụng.
Biết được sự mang thai và sinh đẻ của người mẹ.
- Kĩ năng: Vệ sinh được cơ quan sinh dục.
Ứng xử phù hợp với mỗi giới.

Đánh giá được 1 số hành vi nên có phù hợp với mỗi giới.
Phân biệt hành vi yêu thương và hành vi lạm dụng.
- Thái độ: Tự tin vào bản thân dù thuộc giới nào.
Thái độ tự nhiên với những dấu hiệu đặc trưng của giới.
Thích chăm sóc các bộ phận cơ thể.
Yêu thương và tôn trọng bạn khác giới.
Bảo vệ bản thân, bạn bè, không để người khác xâm hại tình dục.
Yêu thương mẹ và những người thân trong gia đình.
1.2.2.2. Nhiệm vụ giáo dục giới tính cho trẻ MG 5 - 6 tuổi
Khi thực hiện GDGT cho trẻ mẫu giáo, cần thực hiện những nhiệm
vụ sau:


15
- Giúp cho trẻ có một số hiểu biết nhất định về đặc điểm giới tính và có
thiện cảm trong quan hệ của mình với những người khác trên cơ sở tính đến
những đặc điểm giới tính của người đó.
- Giáo dục sự nhận thức về giới tính và bước đầu biết tự đánh giá, phân
biệt đúng sai, tốt xấu trong quan hệ với bạn cùng giới và khác giới.
- Hình thành và giáo dục nhận biết ban đầu một số phẩm chất đạo đức
giới tính “biết yêu thương, quan tâm đến những người thân xung quanh, mong
muốn đem lại điều tốt lành cho người khác giới”. Những phẩm chất đạo đức
giới tính này cần thiết cho mối quan hệ nam nữ.
- Giáo dục ý thức giữ gìn và bảo rèn luyện sức khoẻ của mình, trong đó
có cơ quan sinh dục.
1.2.2.3.Nội dung giáo dục giới tính cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi
* Những căn cứ để lựa chọn nội dung GDGT cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi
- Căn cứ vào các đặc điểm của đối tượng giáo dục: Theo Khalopva và
Côlêxôp, khi lựa chọn nội dung GDGT phải căn cứ vào các đặc điểm của đối
tượng giáo dục:

Trình độ phát triển chung của đối tượng giáo dục: mức độ trưởng thành
về thể chất, tinh thần của đối tượng, đặc điểm của sự biến đổi tâm, sinh lý.
Khả năng nhận thức thông tin của đối tượng về giới tính ở mức độ
cao hay thấp và sự quan tâm có chủ định của đối tượng tới các thơng tin
về giới tính.
Những đặc điểm hoạt động của đối tượng giáo dục, những đặc điểm
điển hình thành hành vi và mối quan hệ qua lại giữa chúng với những người
cùng giới và khác giới.
- Ngoài ra, khi lựa chọn các nội dung GDGT cho trẻ MG 5 - 6 tuổi, cần
phải dựa trên các căn cứ sau:
Khái niệm về GDGT.


16
Mục tiêu GDGT cho trẻ MG 5 - 6 tuổi.
Nhiệm vụ GDGT cho trẻ MG 5 – 6 tuổi.
* Nội dung GDGT cho trẻ MG 5 – 6 tuổi
- Các tác giả D.N.Ixaev, Nguyễn Khắc Viện, Trần Trọng Thuỷ, Nguyễn
Thành Tống, Nguyễn Văn Lê và Nguyễn Thị Đoan cho rằng nội dung GDGT
cho trẻ MG gồm các nội dung sau:[12]
+ Dấu hiệu đặc trưng của giới ở bên ngoài cơ thể.
+ Phân biệt trẻ trai và trẻ gái.
+ Làm quen với những dữ liệu thân thể trong đó có cơ quan sinh dục.
+ Làm quen với sự mang thai và sinh đẻ của người mẹ.
+ Đặc trưng “tính nam, tính nữ” cho trẻ MG 5 - 6 tuổi.
+ Quan hệ khác giới: về hành vi, tình cảm, ứng xử, tơn trọng, tự tin vào
bản thân.
+ Giữ gìn sức khoẻ bản thân và rèn luyện thói quen giữ vệ sinh cơ quan
sinh dục.
- Những nội dung trên cho thấy GDGT cho trẻ MG nói chung và cho

trẻ MG 5 – 6 tuổi gồm hai nội dung chính:
Thứ nhất, GDGT về bản thân. Nội dung này gồm:
+ Nhận biết giới tính của bản thân.
+ Tên những bộ phận của cơ thể và cơ quan sinh dục ngoài.
+ Cách vệ sinh cơ quan sinh dục.
+ Cách phòng tránh hành vi lạm dụng và bảo vệ bản thân khi gặp hành
vi lạm dụng.
Thứ hai, GDGT về mối quan hệ khác giới. Nội dung này gồm:


17
+ Phân biệt nam và nữ qua những dấu hiệu đặc trưng bên ngồi.
+ Các đặc trưng “tính nam, tính nữ” về lời nói, hành vi, cơng việc,
khả năng.
+ Sự mang thai và sinh đẻ của người mẹ.
Các nội dung này thể hiện các mục tiêu GDGT cho trẻ MG 5 – 6 tuổi
và được thể hiện bảng sau:
Bảng 1.2: Nội dung và mục tiêu của GDGT cho trẻ MG 5 - 6 tuổi

Kiến thức
Nói được
mình thuộc
giới nào.
Kể được tên
những bộ phận
của cơ thể và
cơ quan sinh
dục ngồi.
Biết được cách
phịng tránh

hành vi lạm
dụng và bảo
vệ bản thân
khi gặp hành
vi lạm dụng.
Phân biệt bạn
nam và bạn nữ
qua những dấu
hiệu đặc trưng
bên ngồi.
Các đặc trưng
“tính nam, tính
nữ” về lời nói,
hành vi, cơng
việc, khả
năng.
Làm quen với
sự mang thai

Mục tiêu
Kĩ năng

Nội dung
Thái độ
Tự tin vào bản Nhận biết giới GDGT
thân dù thuộc tính của bản về bản
giới nào.
thân.
thân


Vệ sinh được Thái độ tự nhiên
cơ quan sinh với những dấu
dục.
hiệu đặc trưng
của giới.

Tên những bộ
phận của cơ thể
và cơ quan sinh
dục ngoài.

Phân biệt hành
vi yêu thương
và hành vi lạm
dụng.

Bảo vệ bản thân,
bạn bè, không để
người khác xâm
hại tình dục.

Cách
phịng
tránh hành vi
lạm dụng và
bảo vệ bản thân
khi gặp hành vi
lạm dụng.

Phân biệt được

nam và nữ qua
những dấu hiệu
đặc trưng bên
ngồi.
Kể được các
đặc trưng “tính
nam, tính nữ”
về lời nói, hành
vi, cơng việc,
khả năng.
Biết được sự
mang thai và

Đánh giá được 1
số hành vi nên
có phù hợp với
mỗi giới.
Ứng xử đúng
cách với mỗi
giới.

Phân biệt bạn
nam và bạn nữ
qua những dấu
hiệu đặc trưng
bên ngồi.
Các đặc trưng
“tính nam, tính
nữ” về lời nói,
hành vi, cơng

việc, khả năng.

u thương mẹ Làm quen với
và những người sự mang thai

GDGT
về mối
quan
hệ
khác
giới


18
và sinh đẻ của sinh đẻ của thân trong gia và sinh đẻ của
người mẹ.
người mẹ.
đình.
người mẹ.
Như vậy, xác định được nội dung GDGT cho trẻ MG 5 – 6 tuổi có ý
nghĩa quan trọng trong việc định hướng thiết kế các TCHT cho trẻ. Khi thiết
kế các TCHT nhằm GDGT cho trẻ, các TCHT có hai nhóm chính:
- GDGT về bản thân.
- GDGT về mối quan hệ khác giới.
1.2.2.3. Nguyên tắc giáo dục giới tính cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi
Việc giáo dục giáo cho trẻ là vấn đề quan trọng, cần thiết, tuy nhiên
cũng là một lĩnh vực phức tạp. Vì vậy, khi GDGT cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi
cần đảm bảo các nguyên tắc sau:
* Đảm bảo tính mục đích
GDGT cho trẻ MG 5 – 6 tuổi cần phải có kiến thức một cách tồn diện

cả về sinh lý giới tính, tâm lý giới tình, thẩm mĩ giới tính và xã hội giới tính.
Khơng nên chỉ tập trung vào những vấn đề sinh lý tính dục mà coi nhẹ các
vấn đề tâm lý xã hội giới tính.
GDGT phải đảm bảo việc hình thành nên những thái độ, kĩ năng đúng
đắn, hình thành ý thức đạo đức phù hợp và phê phán những hành biểu hiện sai
trái, giúp trẻ phát triển toàn diện về nhân cách.
* Đảm bảo tính khoa học
Nguyên tắc này yêu cầu nội dung của GDGT phải dựa trên các cơ sở
khoa học. Các kiến thức về GDGT phải phù hợp với đặc điểm phát triển của
trẻ, là những kiến thức về giới tính đơn giản nhưng phải mang tính khoa học,
được sắp xếp lôgic và chặt chẽ với nhau.
Nguyên tắc này cũng yêu cầu các phương pháp, biện pháp, hình thức
tác động nhằm GDGT cũng phải được xây dựng, tác động đến trẻ một cách có


19
khoa học.
* Đảm bảo tính tích cực
GDGT cho trẻ phải đảm bảo phát huy tính tích cực của trẻ, thực hiện
nguyên tắc “lấy trẻ làm trung tâm” để phát huy được tính tính cực trong nhận
thức của trẻ, thực hiện được mục tiêu đề ra. Tạo mọi điều kiện để trẻ được
hoạt động, được nói, kiểm nghiệm và phát huy tính sáng tạo của bản thân.
* Đảm bảo tính hiện thực
GDGT phải được xây dựng trên cơ sở hiểu biết thực tế về sự phân hố
giới tính, về những khác biệt về giới của trẻ. GDGT phải được thực hiện một
cách phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi, của lớp học, của yêu cầu
giáo dục đặc trưng thích hợp với đối tượng, phù hợp với phong tục tập quán
của từng vùng, địa phương.
* Đảm bảo tính liên tục
GDGT là một quá trình kế thừa và nối tiếp lên tục. Nó được bắt đầu từ

tuổi ấu thơ, đến bậc trung học và tiếp tục đến suốt đời.
Theo các chun gia nước ngồi, giáo dục giới tính nên bắt đầu từ sớm,
là lúc mà trẻ dễ tiếp nhận nhất. Những năm tháng của tuổi thanh thiếu niên
thường là lúc mà sự giao tiếp giữa cha mẹ và con cái hay gặp khó khăn. Vì
vậy, quan điểm giáo dục giới tính là dựa trên tính liên tục và nhấn mạnh trong
suốt giai đoạn phát triển của trẻ.
1.2.2.4.Phương pháp giáo dục giới tính cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi
Khi tiến hành quá trình GDGT cho trẻ MG 5 - 6 tuổi, có thế sử dụng
các phương pháp giáo dục sau:
* Phương pháp trị chuyện
* Phương pháp giải thích kết hợp với hỏi đáp gợi mở và tranh ảnh


20
minh hoạ
* Phương pháp tạo tình huống giáo dục
* Phương pháp rèn luyện theo chế độ sinh hoạt
* Phương pháp thuyết phục bằng sự gương mẫu của người lớn
* Phương pháp sử dụng trò chơi
Các phương pháp GDGT cho trẻ MG 5 – 6 tuổi rất đa dạng và phong
phú. Mỗi phương pháp đều có vai trị nhất định trong việc GDGT cho trẻ. Vì
vậy, khi GDGT cho trẻ MG 5 - 6 tuổi cần kết hợp các phương pháp để quá
trình GDGT cho trẻ đạt được hiệu quả. Khi thiết kế các TCHT để GDGT cho
trẻ, có thể kết hợp các phương pháp này, làm cho các phương pháp này trở
thành phần và cấu trúc của TCHT để các TCHT đạt được hiệu quả.
1.2.2.5.Phương tiện giáo dục giới tính cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi
Khi tổ chức GDGT cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi, có thể sử dụng các
phương tiện trực quan như: tranh, ảnh, sách báo, mơ hình, video, máy tính,
đèn chiếu để q trình giáo dục trở nên đơn giản, dễ hiểu và các kiến thức
mang tính khoa học.

Như vậy, khi thiết kế các TCHT, nhà giáo dục phải sử dụng đa dạng
các phương tiện giáo dục, làm cho TCHT sinh động, thu hút, tạo hứng thú của
trẻ vào trị chơi.
1.2.2.6. Hình thức tổ chức giáo dục giới tính cho trẻ 5 – 6 tuổi
GDGT cho trẻ MG 5 - 6 tuổi có thể thơng qua nhiều hình thức
khác nhau:
* Thơng qua việc tổ chức các hoạt động giáo dục
- Hoạt động chung: Nội dung GDGT cho trẻ rất gần gũi, gắn với liền
với sự phát triển của trẻ nên có thể được tổ chức thơng qua hình thức hoạt
động chung giúp trẻ chiếm lĩnh các kiến thức, kĩ năng và thái độ về giới tính.
Các nội dung về giới tính có thể được được tổ chức dưới các hoạt động
chung như: Làm quen với môi trường xung quanh, làm quen với văn học.


21
- Hoạt động vui chơi: Hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ
em lứa tuổi mẫu giáo. Ở trường mầm non, trẻ có thể được chơi với nhiều loại
loại trị chơi khác nhau. Trong đó, trị chơi đóng vai theo chủ đề, trị chơi học
tập và trị chơi đóng kịch chiếm ưu thế hơn cả trong việc GDGT cho trẻ, giúp
trẻ lĩnh hội và hình thành các kiến thức, kĩ năng và thái độ cơ bản về giới tính
một cách nhẹ nhàng.
- Hoạt động sinh hoạt hàng ngày: Thông qua các hoạt động sinh hoạt
hàng ngày (ăn, ngủ, vệ sinh…) giáo viên hình thành cho trẻ những nề nếp,
thói quen giữ gìn vệ sinh và chăm sóc bản thân, đáp ứng nhu cầu sinh lý
của trẻ.
* Tổ chức tuyên truyền về GDGT: tổ chức các hoạt động tuyên
truyền thông qua loa đài, tivi… sẽ cung cấp các kiến thức về giới tính phù
hợp cho trẻ.
Như vậy, GDGT cho trẻ MG 5 - 6 tuổi có thể thơng qua nhiều hình
thức khác nhau. Vì thế, các TCHT được thiết kế để GDGT cho trẻ MG 5 - 6

tuổi phải đa dạng, phong phú phù hợp với các hoạt động hàng ngày của trẻ.
1.2.2.7.Đánh giá giáo dục giới tính cho trẻ 5 – 6 tuổi
- Mục tiêu đánh giá: Đánh giá kết quả của quá trình GDGT cho trẻ MG
5 – 6 tuổi rất quan trọng. Đánh giá giúp nhà giáo dục xác định được mức độ
nắm kiến thức, kĩ năng và thái độ của trẻ, đo lường sự tiến bộ của trẻ, phát
hiện những khó khăn mà trẻ gặp phải để điều chỉnh và khắc phục, đồng thời
đưa ra những dự kiến cho tương lai, hướng tới một kết quả khả quan hơn
trong việc tổ chức hoạt động GDGT cho trẻ MG 5 - 6 tuổi ở trường mầm non.
- Các tiêu chí đánh giá GDGT cho trẻ mầm non: Khi đánh giá hiệu quả
của GDGT cho trẻ MG 5 – 6 tuổi, dựa vào mục tiêu GDGT cho trẻ mẫu giáo
5 – 6 tuổi gồm 3 tiêu chí: đánh giá các kiến thức, kĩ năng và thái độ về giới
tính của trẻ MG 5 - 6 tuổi.


22
1.2.2.8.Điều kiện giáo dục giới tính cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi
* Điều kiện về trẻ
Trẻ em là chủ thể của quá trình giáo dục, là người chủ động, tích cực,
tự giác lĩnh hội các kiến thức về giới tính nên trẻ phải có các điều kiện sau:
- Trẻ phải có cơ thể phát triển bình thường và có tinh thần thoải mái.
Đây là điều kiện để trẻ hứng thú với các sự vật, hiện tượng xung quanh, làm
cơ sở cho việc lĩnh hội các kiến thức và điều chỉnh các hành vi về giới.
- Trẻ phải có quan hệ tốt trong lớp và chịu ảnh hưởng của dư luận tập
thể, để thông qua dư luận tập thể điều chỉnh các hành vi,… về giới tính. Vì
vậy, nhà giáo dục cần giúp trẻ xây dựng một tập thể đồn kết, nhất trí và hồ
thuận làm chỗ dựa khi trẻ rơi vào tình huống xung đột với các trẻ khác hay
mâu thuẫn trong chính bản thân chúng.
* Điều kiện về giáo viên
Giáo viên là người thực hiện quá trình GDGT cho trẻ ở trường mầm
non nên giáo viên cần có các điều kiện cần thiết như sau:

- Giáo viên cần có các trình độ và năng lực sư phạm nhất định để linh
hoạt và sáng tạo trong việc tổ chức hoạt động, cuộc sống của trẻ sao cho thực
sự hấp dẫn với trẻ.
- Bản thân giáo viên cần có những kiến thức về giới tính phù hợp với
trẻ và có nếp sống lành mạnh là tấm gương để trẻ học tập và noi theo.
- Giáo viên biết tận dụng các thời gian để đưa các nội dung, tổ chức các
hoạt động GDGT phù hợp cho trẻ.
- Có khả năng phối hợp với gia đình trong suốt quá trình giáp dục trẻ,
thực hiện các biện pháp để nâng cao chất lượng của GDGT cho trẻ.
* Phối hợp gia đình
Gia đình là bộ phận giáo dục có ảnh hưởng rất lớn đến trẻ thông qua
nếp sống, phương pháp tác động của tất cả thành viên trong gia đình đến trẻ.
Do vậy, trưịng mầm non cần phối hợp với gia đình để tạo ra các điều kiện
giáo dục cần thiết, cụ thể:
- Cần thường xuyên trao đổi với gia đình để nắm được tình hình của trẻ


23
ở nhà và ở trường. Đồng thời, hướng dẫn gia đình trong việc tổ chức các điều
kiện sống cho trẻ nhằm đáp ứng các yêu cầu của GDGT.
- Tổ chức các cuộc họp phụ huynh, các chuyên đề GDGT cho trẻ để trẻ
hiểu được vai trò của GDGT ở độ tuổi này.
* Mơi trường giáo dục
Mơi trường giáo dục có vai trò quan trọng đối với việc giáo dục cho trẻ
nói chung và GDGT cho trẻ nói riêng. Đặc biệt, phạm vi giao tiếp của trẻ MG
5 - 6 tuổi mở rộng nên môi trường mà trẻ tiếp xúc cũng rất đa dạng và phong
phú, bao gồm: gia đình, trường mầm non, rộng hơn là hàng xóm…. Vì vậy,
cần có sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và tồn xã hội trong việc tạo ra
môi trường giáo dục trong sạch, lành mạnh… để có những tác động tồn diện,
tích cực đến trẻ.

Với gia đình, cần tạo khơng khí ấm cúng, vui vẻ, để trẻ thấy sự yêu
thương, trách nhiệm của các thành viên trong gia đình; xây dựng truyền thống
văn hố gia đình để trẻ học và tn theo những nguyên tắc sống và học cách
ứng xử với những người xung quanh. Người lớn cần quan tâm tới suy nghĩ
của trẻ, thường xuyên trao đổi, trò chuyện với trẻ và thống nhất các tác động
giáo dục của tất cả các thành viên trong gia đình.
Từ các điều kiện GDGT cho trẻ MG 5 – 6 tuổi như trên, khi thiết kế các
TCHT nhằm GDGT cho trẻ MG 5 - 6 tuổi có đủ các điều kiện giáo dục để các
TCHT này phát huy được hiệu quả của mình.
1.3. Một số đặc điểm tâm sinh lý của trẻ 5-6 tuổi có liên quan đến GDGT
1.3.1. Đặc điểm sinh lý
Trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo có tốc độ phát triển nhanh và mạnh về thể
chất. Các hệ cơ quan trong cơ thể dần hoàn thiện về cấu trúc và chức năng
vận động. Do vậy đặc điểm phát triển thể chất của trẻ có ảnh hưởng rất lớn
đến các mặt phát triển khác của nhân cách như trí tuệ, ngơn ngữ, tư duy
trong đó điển hình là sự hình thành và phát triển kĩ năng sống đặc biệt là
các kĩ năng vận động và kĩ năng tham gia vào các trò chơi nhằm phát triển


24
kĩ năng sống.
Về sự phát triển của các hệ cơ quan: Hệ xương bắt đầu được cốt hóa trở
nên rắn chắc, cơ bắp to ra, các cơ quan hô hấp và tuần hoàn phát triển, trọng
lượng của não tăng nhanh từ 1100g đến 1350g. Số lượng tế bào thần kinh
được miêlin hóa ngày càng nhiều, do đó não bộ dần tăng cường vai trò điều
chỉnh và kiểm tra đối với các vùng dưới vỏ não. Hành vi của trẻ được kiểm
soát và phân cấp, trẻ biết phân biệt thế nào là đúng, thế nào là sai…từ đó có
thể làm chủ cảm xúc của mình trong mọi tình huống.
Tốc độ hình thành phản xạ có điều kiện tăng nhanh, hệ thống tín hiệu
thứ nhất phát triển mạnh mẽ, điều này giúp trẻ dễ tiếp cận với các hoạt động

trong cuộc sống đặc biệt là hoạt động vui chơi. Các phản xạ có điều kiện được
thành lập tạo thành chuỗi các phản xạ bền vững giúp trẻ thực hiện các nhiệm
vụ trong cuộc sống một cách thuần thục và hình thành nên các kĩ năng kĩ xảo
(hình thành nên định hình động lực).
Sự phát triển thể chất ở lứa tuổi này sẽ tạo điều kiện cần thiết để trẻ có
thể hoạt động độc lập nhiều hơn và giúp trẻ lĩnh hội những hình thức mới của
kinh nghiệm xã hội trong quá trình giáo dục.
1.3.2. Đặc điểm tâm lý
Cũng giống như sự phát triển về mặt thể chất, trẻ 5 – 6 tuổi đạt tốc độ
phát triển rất nhanh về trí tuệ. Từ chỗ chưa nhận thức được thế giới xung
quanh đến cuối tuổi mẫu giáo trẻ đã nhận thức được rất nhiều các biểu tượng
về tự nhiên, các mối quan hệ xã hội và gia đình. Những tri thức về cách thức
sử dụng cũng như tên gọi của các đồ vật trong cuộc sống hàng ngày. Khả
năng quan sát bắt đầu hình thành, trẻ đã nắm vững ngữ âm và ngữ điệu khi sử
dụng tiếng mẹ đẻ. Bên cạnh đó đã có sự phát triển mạch lạc trong ngôn ngữ
của trẻ…Trẻ đã có sự xác định ý thức bản ngã và tính chủ định trong hoạt
động tâm lí. Khuyh hướng , nhu cầu , hứng thú thị hiếu thẩm mĩ của trẻ ngày
càng mở rộng. Trí tuệ phát triển giúp trẻ thiết lập các mối quan hệ và lập được
kế hoạch hoạt động một cách khoa học và hiệu quả.


25
Về tư duy, trẻ 5 – 6 tuổi tư duy trực quan hình tượng phát triển mạnh đã
giúp trẻ giải quyết một số bài toán thực tiễn qua việc xâu chuỗi các sự vật
hiện tượng. Bên cạnh đó, do yêu cầu của việc tìm hiểu các sự vật hiện tượng ở
cấp độ khái quát bản chất, trẻ 5 – 6 tuổi bắt đầu hình thành kiểu tư duy trực
quan hình tượng mới – kiểu tư duy trực quan sơ đồ và xuất hiện một số yếu tố
tư duy logic. Nhờ đó trẻ 5 tuổi phát triển được tư duy khái qt hóa, phán
đốn suy luận và bắt đầu hình thành một số khái niệm đơn giản về tự nhiên.
Trẻ bắt đầu đặt ra các suy luận logic về các nhiệm vụ được giao khi tham gia

vào giáo dục giới tính. Biết lựa chọn những trò chơi , vai chơi phù hợp với
giới tính của mình. Trẻ biết phân biệt một vài sự khác biệt giữa mình và các
bạn khác giới. Biết thiết lập các nhóm chơi và tìm những đồ dùng, trang phục
cho mình và các bạn, Từ đó trẻ có sự xác định ý thức bản ngã và tính chủ định
trong hoạt độ
1.4. Sử dụng trò chơi học tập nhằm giáo dục giới tính cho trẻ 5 – 6 tuổi.
1.4.1. Trò chơi học tập của trẻ mẫu giáo
1.4.1.1. Khái niệm
TCHT cịn gọi là TC trí tuệ thuộc nhóm TC với nội dung và luật chơi
có sẵn. E.I.Tikheva cho rằng, được gọi là TCHT là vì TC đó gắn liền với một
mục đích tổ chức hoạt động học tập nhất định và địi hỏi phải có tài liệu phù
hợp kèm theo [23]. P.G.Xamarucova thì cho rằng, TC được xem là TCHT là
những TC có nhiệm vụ chủ yếu là giáo dục và phát triển trí tuệ cho trẻ em.
Theo A. Xôrôkina: “TCHT thực hiện chức năng của hoạt động thực
hành. Nó tạo điều kiện cần thiết để ứng dụng và kết hợp các kiến thức, thúc
đẩy hoạt động trí tuệ”. Thế nên, TCHT được coi như là một dạng hoạt động
thực hành, trong đó, trẻ vận dụng vốn hiểu biết và khả năng tư duy của mình
để giải quyết nhiệm vụ nhận thức, dưới dạng hoạt động chơi hấp dẫn, khơng
bị gị bó.
Trong lý luận dạy học, những TC gắn với việc dạy học như là phương
pháp, hình thức tổ chức và luyện tập cho trẻ đều gọi là TCHT hay TC dạy
học. Trong trò chơi học tập, trẻ giải quyết nhiệm vụ học tập dưới hình thức


×