1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong đời sống hằng ngày của con người diễn ra rất nhiều hoạt động,
có hoạt động cần sự tập trung chú ý, sự tham gia cao độ của ý thức và cũng có
hoạt động diễn ra một cách tự động và không cần sự kiểm sốt của ý thức.
Đó là những thói quen. Thói quen là những điều một người làm một cách tự
động, không cần phải tập trung suy nghĩ cho lắm. Nhờ có thói quen mà con
người hồn thành một cơng việc nào đó một cách dễ dàng mà khơng cần sự
tập trung của bộ não, nó giúp giảm tải bớt mức độ làm việc quá căng thẳng
của bộ não mà công việc vẫn hiệu quả như tập thể dục, thức dậy sớm, đánh
răng, ăn uống … nhờ đó mà con người có nhiều thời gian và hướng sự tập
trung trí não của mình cho những cơng việc phức tạp khác. Những thói quen
tốt giúp nâng cao giá trị cuộc sống con người, giữ cho sự phát triển vững
trong hiện tại và cả tương lai. Và một trong những thói quen quan trọng mà
một đứa trẻ cần có là thói quen tiết kiệm.
Xã hội ngày càng phát triển, con người ngày càng sinh sôi nhiều hơn
nhưng những nguồn tài nguyên thiên nhiên là có hạn. Sự phân bố các nguồn
tài nguyên thiên nhiên trên khắp thế giới rất khác nhau, nơi thừa, nơi thiếu.
Cộng vào đó là việc con người khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên quá
lãng phí, điều đó dẫn đến sự mất cân bằng, một bộ phận lớn người dân khơng
được hưởng những quyền lợi chính đáng mà đáng lẽ ra họ đương nhiên phải
được. Chính vì vậy mà bên cạnh việc phát triển xã hội con người cần chú ý
đến việc rèn luyện thói quen tiết kiệm cho chính mình để việc phát triển thật
sự bền vững cho các quốc gia và cho các thế hệ tương lai.
Nếu ở nhà trẻ nhiệm vụ hàng đầu là giáo dục sức khỏe và thể chất cho
trẻ thì vào lứa tuổi mẫu giáo nhiệm vụ giáo dục đạo đức cho trẻ được đặt lên
hàng đầu. Nhà giáo dục cần quan tâm đặc biệt đến việc hình thành cho trẻ
một số chuẩn mực về hành vi đạo đức phù hợp với yêu cầu xã hội, trường
lớp mẫu giáo và cộng đồng. Trẻ mầm non có đặc điểm bắt chước mọi người
xung quanh, ham học hỏi, thích khám phá, ấn tượng đầu đời là những ấn
2
tượng mạnh mẽ và lưu giữ suốt đời, …đây là khoảng thời gian tốt nhất để
hình thành thói quen cho trẻ. Thói quen tiết kiệm là một trong những kỹ
năng sống cần thiết cho trẻ làm hành trang bước vào trường phổ thơng và
cuộc sống sau này.
Tuy nhiên, Về phía xã hội thời gian qua đã quan tâm nhiều hơn đến vấn
đề tuyên truyền, vận động thực hành tiết kiệm nhưng đa phần thì những cơng
việc đó thuộc về trách nhiệm của người lớn mà họ đã lãng quên vai trị vơ
cùng to lớn của trẻ: trẻ em là những người chủ tương lai của đất nước.
Về phía nhà trường, một ngày trẻ có đến gần 10 tiếng đồng hồ là ở
trường mầm non, nhiệm vụ giáo dục thói quen tiết kiệm cho trẻ chủ yếu thực
hiện ở đây. Vì vậy vai trị của việc giáo dục thói quen tiết kiệm cho trẻ ở
trường mầm non là to lớn và khơng nơi nào thay thế được. Chương trình giáo
dục mầm non được Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành năm 2009 có vai trị
như kim chỉ nam định hướng cho hoạt động giáo dục ởcấp học mầm non,
trong nội dung chương trình đã có đề cập đến việc giáo dục thói quen tiết
kiệm cho trẻ tuy nhiên chỉ dừng lại ở mức tiết kiệm điện, nước và chỉ là một
nội dung nhỏ, khá sơ sài. Hiện nay việc giáo dục thói quen tiết kiệm cho trẻ
vẫn cịn nhiều hạn chế vì trẻ khơng được có cơ hội thực hiện, thực hiện không
thường xuyên, chưa tới nơi tới chốn, chưa thấy được lợi ích và niềm vui từ
thói quen tiết kiệm. Trường mầm non, cụ thể là khối lớp 5-6 tuổi thì lại tập
trung chủ yếu cho việc thực hiện Bộ chuẩn trẻ 5 tuổi và những chỉ số liên
quan đến việc chuẩn bị cho trẻ vào lớp Một. Thêm vào đó là trong các biện
pháp giáo dục thói quen tiết kiệm cho trẻ ở còn rất chung chung, thiếu tính
đặc trưng và khơng có nhiều biện pháp hoạt động, cung cấp kiến thức một
chiều, khơng chú ý việc hình thành kỹ năng và thái độ đối với việc thực hành
tiết kiệm cho trẻ.
Xuất phát từ những lý do trên đề tài nghiên cứu “Một số biện pháp giáo
dục thói quen tiết kiệm cho trẻ 5-6 tuổi thông qua chế độ sinh hoạt hàng
ngày” được xác lập.
3
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
2.1. Về lý luận
Làm phong phú thêm cơ sở lý luận về việc giáo dục thói quen tiết kiệm
cho trẻ thơng qua chế độ sinh hoạt hàng ngày
2.2. Về thực tiễn
Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thói
quen tiết kiệm cho trẻ 5- 6 tuổi dựa trên kết quả nghiên cứu thực trạng của
việc giáo dục thói quen tiết kiệm cho trẻ ở mầm non.
3. Mục tiêu của đề tài
Nghiên cứu lí luận tìm hiểu về thực trạng và đề xuất biện pháp giáo dục
thói quen tiết kiệm cho trẻ 5 – 6 tuổi thông qua chế độ sinh hoạt hàng ngày
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Nghiên cứu những vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài
4.2. Tìm hiểu thực trạng và đề xuất biện pháp của việc giáo dục thói quen
tiết kiệm cho trẻ 5 – 6 tuổi thông qua chế độ sinh hoạt hàng ngày
4.3. Tiến hành thử nghiệm sư phạm nhằm kiểm chứng hiệu quả của các
biện pháp đã đề ra
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp giáo dục thói quen tiết kiệm của trẻ5-6 tuổi thông qua chế
độ sinh hoạt hàng ngày.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Trường mầm non Hùng Vương, thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ.
Đề tài tập trung nghiên cứu về tiết kiệm điện, nước.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, Nhà nước, ngành giáo
dục và các tài liệu khoa học có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
Đọc các tài liệu, tham khảo một số cơng trình nghiên cứu có liên quan
đến vấn đề nghiên cứu.
4
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6.2.1. Phương pháp quan sát
Ghi nhận những biểu hiện về nhận thức, thái độ, hành vi thói quen tiết
kiệm của trẻ 5-6 tuổi trong khi sinh hoạt tại trường cũng như quan sát biểu
hiện của trẻ về thói quen tiết kiệm trong khi trả lời các câu hỏi làm rõ vấn đề
của người nghiên cứu.
Người nghiên cứu quan sát trực tiếp các thời điểm sinh hoạt trong ngày
của trẻ và đánh dấu vào bảng quan sát được thiết kế sẵn.
6.2.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Bảng hỏi được xây dựng dành cho hai đối tượng là giáo viên đang
giảng dạy lớp 5 - 6 tuổi và phụ huynh có con đang theo học lớp 5-6 tuổi. Hai
bảng hỏi này mục đích là tìm hiểu về mức độ nhận thức, các phương pháp tổ
chức và những khó khăn trong q trình rèn luyện thói quen tiết kiệm cho trẻ.
Dựa trên cơ sở lý luận của đề tài và các phương pháp luận để xây dựng
bảng hỏi phù hợp mục đích.
6.2.3. Phương pháp phỏng vấn
Để làm rõ những vấn đề mà trong quá trình quan sát chưa thể hiện được.
Tiến hành phỏng vấn sau khi quan sát trực tiếp trẻ, người nghiên cứu sẽ
phỏng vấn trẻ những vấn đề chưa rõ trong quá trình quan sát dựa trên bảng
hỏi đã được soạn sẵn.
6.2.4. Phương pháp thử nghiệm
Kiểm tra tính khả thi của các biện pháp.
Các biện pháp đưa vào thử nghiệm phải đáp ứng đầy đủ các nguyên tắc
khả thi, mục đích, …
6.2.5. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm
Thu thập thơng tin về thói quen tiết kiệm của trẻ thể hiện trong sản
phẩm do trẻ làm ra.
Trước và sau khi thử nghiệm, người nghiên cứu cho trẻ làm các bài tập,
tạo hình về chủ đề tiết kiệm, sau đó người nghiên cứu đánh giá, so sánh kết
quả về thói quen tiết kiệm của trẻ thể hiện trong sản phẩm.
5
6.2.6. Phương pháp thống kê toán học
Kiểm nghiệm T- Test các kết quả của quá trình điều tra thực trạng và
thử nghiệm làm cơ sở để bình luận số liệu thu được từ phương pháp điều tra
bằng bảng hỏi, quan sát và phỏng vấn.
6
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC THÓI QUEN
TIẾT KIỆM ĐIỆN, NƯỚC CHO TRẺ 5 – 6 TUỔI
1.1.
Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Khi nghiên cứu về thói quen cho trẻ mầm non, có nhiều hướng nghiên
cứu khác nhau, trong giới hạn đề tài này chúng tôi đưa ra một số hướng
nghiên cứu như sau:
1.1.1. Hướng thứ 1: Nghiên cứu về quá trình và cơ chế hình thành thói quen
Khi nhắc đến hình thành thói quen khơng thể nào khơng nhắc đến
I.Pavlov. Cơng trình nghiên cứu về phản xạ có điều kiện ơng đã phát hiện ra
rằng bất kỳ một tín hiệu nào như tiếng chng, tiếng huýt sáo… gắn liền với
sự xuất hiện của thức ăn trong một thời gian dài liên tục thì sẽ cho ra kết quả
tương tự. Ơng lặp lại thí nghiệm này trong nhiều lần. Nhưng thí nghiệm này
chỉ có tác dụng với những chú chó đã ở lâu trong phịng thí nghiệm. Cịn với
những chú chó mới được ni thì khơng được, bởi vì chó mới ni chưa có
thói quen để tạo ra phản ứng. I.Pavlov cho rằng đây là loại phản ứng đối với
sự kích thích từ bên ngồi. Ông gọi đó là “phản xạ có điều kiện” Kết quả cơng
trình nghiên cứu của ơng có ý nghĩa rất lớn cho các nhà giáo dục ứng dụng
vào để giáo dục hình thành hành vi, thói quen cho người học.
Năm 2012, nhà báo Charles Duhigg đã cho xuất bản quyển sách The
power of habit. Tạm dịch là: Sức mạnh của thói quen. Qua nghiên cứu của
mình, tác giả đã đưa ra kết luận bất kỳ thói quen nào muốn được hình thành
đều trải qua một quá trình, quá trình này được tác giả gọi là “Vịng lặp thói
quen” gồm 3 bước: Gợi ý, hành động và cuối cùng là phần thưởng. Qua thời
gian, vịng lặp đó trở nên tự động hóa và thói quen cũng được tạo ra. Tác giả
cho rằng thói quen có một vai trị to lớn đối với cuộc sống con người.
Năm 2013, tác giả Stephen Guise đã cho ra đời quyển sách Mini
habits: Smaller habit, Bigger result. Quyển sách của ơng cho rằng những
thói quen nhỏ là những hành vi tích cực rất nhỏ mà nó ép buộc con người
phải thực hiện mỗi ngày. Những thói quen này nhỏ đến mức tưởng chừng
7
như nó khơng trọng lượng, khơng cần có ý định trước khi thực hiện. Tuy
nhỏ như vậy nhưng nó mang đến cơ hội thay đổi cuộc sống cho đến 99%
con người trên trái đất.
Nghiên cứu của tác giả Benjamin Gardner thì cho rằng thói quen chính
là sự tự động chứ khơng phải là sự thường xun. Có nghĩa là thói quen đã
đạt mức độ cao, việc thực hiện thường xuyên chỉ là công cụ để biến hành vi
thành tự động.
1.1.2 Hướng thứ 2: Nghiên cứu về việc giáo dục môi trường nói chung và
việc sử dụng năng lượng có hiệu quả
Nội dung giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi, Trung
tâm Nghiên cứu giáo dục mầm non, năm 2002 đã đưa ra nội dung các hoạt
động thực tiễn của trẻ góp phần bảo vệ mơi trường: tiết kiệm trong sinh hoạt
(tiết kiệm điện, nước, đồ dùng đồ chơi). Chương trình giáo dục mầm non thí
điểm 2005-2006 giáo dục trẻ quan tâm đến môi trường, tiết kiệm điện, nước.
Trong Luận văn thạc sĩ Trần Thị Thanh Duyên năm 2013 đã nghiên
cứu về đề tài: “Một số biện pháp giáo dục trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi sử dụng
năng lượng tiết kiệm, hiệu quả” trong đó có nội dung giáo dục ý thức tiết
kiệm nước cho trẻ
Chương trình giáo dục mầm non mới được Bộ Giáo dục và Đào tạo ban
hành ngày 25 tháng 7 năm 2009 đã đưa nội dung giáo dục bảo vệ môi trường
thành một nội dung quan trọng, để phục vụ cho điều đó, nhóm tác giả Hồng
Thị Thu Hương – Trần Thị Thu Hòa – Trần Thị Thanh đã biên soạn quyển
sách Hướng dẫn thực hiện nội dung giáo dục bảo vệ môi trường trong trường
mầm non dành cho giáo viên, cán bộ quản lý, phụ huynh và những người
quan tâm đến mơi trường. Bên cạnh một số phương pháp, hình thức để tổ
chức giáo dục trẻ sử dụng tiết kiệm điện, nước, thức ăn, đồ dùng đồ chơi theo
quan điểm tích hợp chủ đề thì quyển sách cịn chia sẻ một số kinh nghiệm
giáo dục bảo vệ môi trường, giáo dục trẻ tiết kiệm ở một số nước tiên tiến như
Hàn Quốc, Nga, Australia. Trong đó vấn đề giáo dục trẻ tiết kiệm cũng được
quan tâm.
8
Tác giả Hoàng Thị Thu Hương và Trần Thị Thu Hịa đã viết quyển
sách: Hình thành hành vi thân thiện với môi trường. Quyển sách đề cập đến
các nội dung, phương pháp giáo dục bảo vệ môi trường và tổ chức các hoạt
động thu hút sự tham gia của trẻ. Trong đó việc sử dụng điện nước tiết kiệm
là một trong những kỹ năng bảo vệ môi trường.
Năm 2013, đứng trước nguy cơ nguồn nước sạch ngày càng cạn kiệt,
tác giả Kim Phụng đã biên soạn quyển sách “Tiết kiệm nước” nằm trong loạt
sách những cách tốt nhất để bảo vệ mơi trường. Quyển sách đề cập đến chính
sách tiết kiệm nước của một số nước trên thế giới, tác dụng của nguồn nước
đối với con người và các cách tiết kiệm nước trong gia đình. Tuy nhiên,
những cách này chỉ phù hợp và đối tượng chủ yếu là dành cho người lớn.
Đứng trước các vấn đề khó khăn của giáo viên mầm non trong việc
giáo dục trẻ bảo vệ môi trường. Tác giả Trần Lan Hương đã biên soạn quyển:
Sổ tay giáo viên mầm non Hỏi đáp về giáo dục bảo vệ môi trường trong
trường mầm non nhằm cung cấp cho giáo viên mầm non phương pháp tổ chức
hoạt động, mô tả một số thực nghiệm cho giáo viên tham khảo. Tác giả cho
rằng giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ cần phải giáo dục ý thức tiết kiệm lâu
bền, trách nhiệm, trong quá trình sử dụng phải biết cách tiêt giảm, tái sử dụng,
tái chế.
1.1.3. Hướng thứ 3: Nghiên cứu về việc giáo dục thói quen tiết kiệm cho trẻ
trong nhà trường
Có một vài nghiên cứu của tác giả Philippa Lally về thói quen đã được
đăng trên tạp chí European journal of social psychology. Tác giả Philippa
Lally cùng nhóm cộng sự của mình tại trường đại học Luân Đôn vào năm
2010 tiến hành nghiên cứu trên 96 tình nguyện viên. Kết quả nghiên cứu đã
chỉ ra rằng để biến một hành động nào đó thành một thói quen cần mất trung
bình khoảng 66 ngày thực hiện hành động đó liên tục, và tùy thuộc vào tính
chất, độ phức tạp của thói quen thì thời gian hình thành có thể dao động từ 18
đến 254 ngày hoặc hơn. Bà nhấn mạnh vai trị của tình huống hay là ngữ cảnh
9
thực hiện hành động. Tình huống hay ngữ cảnh có vai trò như gợi ý nhắc nhở
thực hiện hành động để dần biến hành động đó thành thói quen.
Trong quyển sách Giáo trình giáo dục tích hợp ở bậc học mầm non của
tác giả Nguyễn Thị Hịa có đề cập đến việc giáo dục trẻ phải biết tiết kiệm trong
sinh hoạt. Cụ thể là tắt điện, tắt quạt khi ra khỏi phịng, khóa vịi nước sau khi
dùng và khơng để thừa thức ăn. Như vậy là tác giả xác định có ba đối tượng gần
gũi mà trẻ có thể thực hành tiết kiệm là điện, nước và thực phẩm.
Nhìn chung, các nghiên cứu của các tác giả nước ngồi thì chủ yếu
nghiên cứu về quá trình, cơ chế hình thành thói quen trên góc độ tâm lý, lý
giải các hiện tượng, trên cơ sở đó giải thích các vấn đề về tâm lý và y học.
Các nghiên cứu được thực hiện chủ yếu trên người trưởng thành và chưa thấy
một kết luận rõ ràng nào về cơ chế, cách thức hình thành thói quen cho trẻ.
Các nghiên cứu của các tác giả trong nước đều có đề cập đến vấn đề giáo dục
tiết kiệm cho trẻ, tuy nhiên, việc giáo dục, luyện tập sao cho tiết kiệm trở
thành thói quen cho trẻ thì chưa thấy rõ mà chỉ dừng lại ở việc giáo dục xen
kẽ, rời rạc, thiếu liên tục. Chính vì vậy mà tiết kiệm chưa thể chuyển thành
thói quen của trẻ. Qua đó ta thấy việc nghiên cứu quá trình và cách thức áp
dụng biện pháp giáo dục thói quen tiết kiệm cho trẻ là hết sức cần thiết.
1.2. Lý luận về giáo dục thói quen tiết kiệm cho trẻ 5 – 6 tuổi
1.2.1. Khái niêm tiết kiệm
Theo Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí ngày 29/11/2005: Tiết
kiệm là việc giảm bớt hao phí trong sử dụng vốn, tài sản, lao động, thời gian
lao động và tài nguyên nhưng vẫn đạt được mục tiêu đã định. Định nghĩa ở
đây nêu một cách khái quát về việc thực hành tiết kiệm trên phương diện là
hoạt động sản xuất.
Theo chủ tịch Hồ Chí Minh thì cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính
quan trọng mà một người cần có. Kiệm có nghĩa là tiết kiệm vật tư, tiền bạc, thời
gian, khơng xa xỉ, khơng hoang phí. Và tiết kiệm ở không không phải là bủn xỉn.
Tiết kiệm là giảm bớt việc sử dụng, tuy nhiên, Người nhấn mạnh rất cần thiết
phải phân biệt được tiết kiệm và bủn xỉn, hay còn gọi là sự keo kiệt.
10
Theo từ điển Tiếng Việt thì “Tiết kiệm là giảm bớt hao phí sức lực, của
cải, thời gian,…trong sản xuất hoặc sinh hoạt”. Theo đại từ điển của Nguyễn
Như Ý có nêu “Tiết kiệm là giảm bớt hao phí khơng cần thiết, tránh lãng phí
trong sản xuất, sinh hoạt”.
Tiếp thu những quan điểm khác nhau về tiết kiệm, theo chúng tơi thì
tiết kiệm là “Giảm bớt hao phí khơng cần thiết, tránh lãng phí trong mọi
mặt của đời sống xã hội”.
1.2.2. Khái niệm tiết kiệm điện, tiết kiệm nước
Tiếtkiệm, hiểu theo nghĩa thông thường là hành vi giảm thiểu các lãng phí.
Tiết kiệm là khái niệm kinh tế, có liên quan mật thiết tới việc đầu tư. Tiết kiệm
cho phép tích lũy (dự trữ). Tiết kiệm trong kinh tế học là phần thu nhập có thể sử
dụng khơng được chi vào tiêu dùng. Trong thuật ngữ tài chính cá nhân tiết kiệm
đề cập đến việc dự trữ tiền cho tương lai - loại tiền được gửi trong ngân hàng. Tiết
kiệm khác với sự đầu tư, nơi mà có những rủi ro.
Tiết kiệm điện, nước có nghĩa là giảm lượng điện, nước sử dụng trong
khi đạt được một kết quả tương tự sử dụng cuối cùng. Sử dụng điện, nước ít
hơn có rất nhiều lợi ích - bạn có thể tiết kiệm tiền và giúp cho môi trường.
Tạo ra năng lượng địi hỏi nguồn tài ngun thiên nhiên q giá, ví dụ như
than, dầu hoặc khí. Vì vậy, sử dụng ít điện, nước hơn giúp chúng ta bảo tồn
các nguồn tài nguyên. Tiết kiệm điện, nước đề cập đến việc giảm điện, nước
thơng qua sử dụng ít hơn của một dịch vụ điện, nước.
Tiết kiệm điện, nước là một thách thức địi hỏi các chương trình chính
sách, phát triển cơng nghệ và thay đổi hành vi. Như vậy, việc sử dụng điện,
nước tiết kiệm (Energy conservation) là việc tiết kiệm điện, nước, giảm tiêu
thụ năng lượng không tái tạo, là việc sử dụng điện, nước một cách đúng lúc,
đúng chỗ “không dùng nữa thì tắt ngay”.
1.3. Thói quen, đặc điểm, phân loại và cơ chế hình thành thói quen với
việc giáo dục thói quen tiết kiệm điện, nước cho trẻ 5 – 6 tuổi
1.3.1. Khái niệm thói quen
Theo Từ điển Tiếng Việt của tác giả Hồng Phê chủ biên thì thói quen
11
là lối, cách sống hay hành động do lặp đi lặp lại lâu ngày đã trở thành thói
quen, khó thay đổi. Định nghĩa này nhấn mạnh con đường hình thành nên
thói quen là sự lặp đi lặp lại một hành động nào đó trong khoảng thời gian
dài và khó thay đổi là đặc điểm của thói quen, một khi hành động trở nên
tự động hóa thì con người sẽ hành động mà không cần đến sự tham gia của
ý thức.
Theo Đại Từ điển Tiếng Việt của Tác giả Nguyễn Như Ý thì “Thói
quen là lối, cách sống hay hành động do lặp lại lâu ngày trở thành nếp, rất
khó thay đổi”.
Theo từ điển Tâm lý học của Vũ Dũng chủ biên thì “Thói quen là lối,
cách sống hay hoạt động do lặp đi lặp lại lâu ngày đã trở thành thói quen,
khó thay đổi”.
Là hành động được hình thành bằng cách lặp đi, lặp lại nhiều lần, được
đặc trưng bởi mức độ thành thạo cao và khơng cần có sự điều khiển, kiểm
soát của ý thức.
Người ta phân biệt các thói quen tự động hóa lần đầu được hình thành
mà không cần ý thức về các thành tố của chúng và các thói quen tự động hóa
lần thứ hai được hình thành với việc ý thức sơ bộ và khi cần thiết, các thói
quen này trở thành những thói quen được kiểm soát bởi ý thức một cách dễ
dàng hơn, được hồn thiện nhanh chóng hơn và được chấn chỉnh lại.
Thói quen được đặc trưng bởi các mức độ khái quát khác nhau: các loại
đối tượng càng nhiều, thì các thói quen càng được khái quát và càng linh hoạt.
Quá trình hình thành thói quen bao hàm việc xác định các thành tố của nó và
chiếm lĩnh các thao tác mà đạt được các chỉ số cao nhất trên cơ sở hoàn thiện
và củng cố các mối liên hệ giữa các thành tố, q trình tự động hóa chúng và
mức độ chuẩn bị hành động tái tạo cao.
Thơng thường thói quen được hình thành bằng con đường bắt chước
hoặc luyện tập những phản xạ có điều kiện cũng như bằng con đường thử sai.
Q trình não bộ chuyển hóa một chuổi hoạt động thành hành vi tự
12
động gọi là “chunking” và là nguồn gốc để thói quen hình thành. Có hàng
chục, nếu khơng phải là hàng trăm nhóm hành vi con người thực hiện mỗi
ngày. Một số thì đơn giản như tự động đưa bàn chải lên trước khi đẩy nó
trongmiệng. Một số thì phức tập hơn như thay quần áo hay chuẩn bị bữa trưa
cho con cái. Một số thì quá phức tạp nên chỉ một số nhỏ mơ đặc biệt tiến hóa
qua hàng triệu năm mới có thể chuyển thành thói quen. Ban đầu cần phải có
sự tập trung cao độ nhưng dần dần sau đó, con người có thể thực hiện mà
khơng cần phải suy nghĩ nhiều. Thói quen đã tạo nên hành vi tự động. Khi
thói quen đó bắt đầu, việc làm khác là im lặng hay suy nghĩ những việc khác.
Theo các nhà khoa học, thói quen hình thành vì não bộ khơng ngừng tìm cách
để giảm bớt sự nỗ lực trí óc. Não bộ cố gắng để chuyển hầu hết hoạt động
hàng ngày thành thói quen cho phép não bộ nghỉ ngơi thường xuyên hơn [8].
Tiếp thu những quan điểm khác nhau về thói quen, theo chúng tơi:
“Thói quen là lối, cách sống hay hoạt động do lặp đi lặp lại lâu ngày đã trở
thành thói quen, khó thay đổi và liên tục được củng cố bởi các yếu tố môi
trường, cảm xúc và tâm lý”. Trong định nghĩa chúng tơi chú trọng đến cách
thức hình thành, độ lâu bền của thói quen và những yếu tố chi phối sự hình
thành và tồn tại của thói quen đó.
1.3.2. Phân loại thói quen
Theo từ điển tâm lý học thì thói quen được phân ra: thói quen nhận
cảm, thói quen trí tuệ và thói quen vận động.
- Thói quen nhận cảm là sự phản ánh tự động về mặt cảm xúc những tính
chất và đặc điểm của vật thể quen thuộc đã được tri giác trước đó nhiều lần.
- Thói quen trí tuệ là cách thức tự động để giải quyết các nhiệm vụ đã
gặp từ trước.
- Thói quen vận động là tác động tự động lên bề ngoài của vật thể nhờ
các chuyển động đã được thực hiện nhiều lần trước đó với mục đích cải tạo lại
nó. Thói quen vận động bao gồm cả thói quen nhận cảm và thói quen trí tuệ
và chủ thể điều chỉnh chúng trên cơ sở phản ánh vật thể, các điều kiện và thứ
tự thực hiện các động tác chuyển động, hướng đến việc cải tạo lại các đối
13
tượng thực tế một cách tự động. Đồng thời các nghiên cứu cũng phân biệt ra:
thói quen tự động nguồn gốc - thói quen được hình thành mà khơng ý thức về
các thành phần của nó và thói quen tự động thứ phát- các hành động được
hình thành với ý thức trước đó về các thành phần, chúng dễ dàng được kiểm
sốt về mặt ý thức và nhanh chóng được hồn thành và điều chỉnh lại.
Nhờ hình thành thói quen mà cá nhân đạt được hai hiệu ứng: hành động
được thực hiện nhanh chóng, chính xác và ý thức được giải phóng để có thể
hướng tới việc lĩnh hội các hành động phức tạp hơn. Q trình này có ý nghĩa
nền tảng và là cơ sở để phát triển tất cả kỹ năng, kiến thức và khả năng.
Thói quen có các mức độ khái quát khác nhau. Lớp vật thể mà thói
quen được thực hiện trên cơ sở quan hệ với chúng càng rộng thì thói quen
càng khái qt, q trình hình thành thói quen bao gồm việc xác định các
thành phần của nó và nắm vững các thao tác cho phép liên kết các thành phần,
tự động hóa và sẵn sàng tái tạo ở mức độ cao.
Những nhân tố có thể ảnh hưởng đến việc hình thành thói quen:
- Động cơ, trình độ đào tạo, quá trình lĩnh hội, bài tập củng cố, sự hình
thành hồn chỉnh hoặc bộ phận.
- Việc làm rõ nội dung của các thao tác- mức độ phát triển của chủ thể,
sự tham gia của kiến thức, kĩ năng, khả năng giải thích nội dung của thao tác,
liên hệ phản hồi.
- Nắm vững thao tác, làm sáng tỏ đầy đủ nội dung của nó, tính tuần tự
của bước chuyển từ mức độ nắm vững thứ nhất đến các bước tiếp theo theo
các tiêu chí đã được xác định( tính tự động hóa, hứng thú, tốc độ,…). Sự kết
hợp các tiêu chí trên đây theo các cách khác nhau sẽ hình thành các bức tranh
khác nhau của q trình hình thành thói quen: sự tiến bộ nhanh chóng trong
giai đoạn đầu và chậm hơn vào giai đoạn cuối hoặc ngược lại. Có thể có các
phương án linh hoạ.
Tuy nhiên, để phù hợp với khả năng hiểu biết của trẻ và theo cách mà
thông thường mà chúng ta vẫn hay sử dụng, đó là phân loại thói quen theo
14
khái cạnh đạo đức. Đánh giá thói quen về mặt đạo đức có thói quen tốt và thói
quen xấu.
- Thói quen tốt là những thói quen phù hợp với những chuẩn mực đạo
đức của xã hội đó yêu cầu, nhằm đảm bảo cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp và
bền vững. Nó là điều kiện quan trọng để nâng cao năng suất lao động, chất
lượng học tập, để hành động theo đúng những tiêu chuẩn, đạo đức của xã hội.
- Thói quen xấu là những thói quen đi ngược lại những chuẩn mực
đạo đức của xã hội yêu cầu, thông thường người ta gọi đó là tật. Thói quen
xấu rất có hại cho trật tự chung, cho đời sống xã hội và cho cả cá nhân.
Trong đề tài nghiên cứu này chúng tơi sẽ tập trung giáo dục thói quen cho
trẻ theo cách phân loại thói quen dựa trên phương diện đạo đức, tức là thói
quen xấu và thói quen tốt vì phân loại thói quen theo cách này trẻ sẽ hiểu
và tiếp thu dễ dàng hơn.
1.3.3. Đặc điểm của thói quen
Một số đặc điểm của thói quen: mang tính chất nhu cầu, nếp sống,
ln gắn với tình huống cụ thể, bền vững, ăn sâu vào nếp sống; hình thành
bằng nhiều con đường khác nhau, kể cả tự phát, được đánh giá về mặt đạo
đức: quen tốt/ xấu; có lợi/ có hại.
Theo như số liệu của một số tài liệu nghiên cứu thì trung bình là 21
ngày để hình thành một thói quen, tuy nhiên những nghiên cứu gần đây đã
chứng minh con số 21 là thiếu căn cứ. Theo nghiên cứu của Phillipla Lally và
nhóm cộng sự, họ tiến hành thử nghiệm trên 96 tình nguyện viên và thấy rằng
thói quen hình thành trung bình là 66 ngày, có thể dao động trong phạm vi từ
18 đến 254 ngày hoặc hơn. Thời gian để hình thành một thói quen cần tính
đến độ khó của thói quen đó, động cơ để hình thành thói quen, độ tuổi của
người muốn hình thành thói quen…
Do đặc điểm tâm sinh lý của con người rất phức tạp, khác nhau ở từng
lứa tuổi, từng cá nhân. Con số 66 ngày cho hình thành thói quen chỉ là trung
bình. Trên thực tế, tùy thuộc vào tính chất, độ khó, sự quyết tâm của trẻ mà
thời gian hình thành thói quen cũng khác nhau. Trẻ lứa tuổi mầm non rất dễ
dàng tiếp nhận các tác động giáo dục, trẻ có khuynh hướng lặp đi lặp lại một
15
hành động mà khơng cảm thấy chán và đây chính là điều kiện cực kỳ thuận
lợi để hình thành thói quen nếu giáo viên biết cách. Chính vì vậy mà chúng tôi
cho rằng với sự thuận lợi của đặc điểm lứa tuổi và tính chất đơn giản của thói
quen tiết kiệm thì khoảng thời gian hình thành thói quen cho trẻ có thể kéo
xuống thấp nhất là từ 18 đến 30 ngày.
1.3.4. Cơ chế hình thành thói quen
Trong q trình hình thành thói quen, người ta đã phân thành nhiều
thời kì riêng biệt được thống nhất ở những giai đoạn chung hơn.
Trong giai đoạn thứ nhất, diễn ra sự làm quen và chiếm lĩnh vận động
lần đầu tiên. Sự học vận động bắt đầu từ việc phát hiện thành phần của nó –
tuyển lựa các thành tố, tính liên tục và các tổ hợp của vận động. Việc làm
quen này diễn ra bằng con đường trình bày, thuật lại, giảng giải và quan sát.
Ở đây có thể nhìn thấy vận động khá dễ dàng. Vì thế thời kì tiếp theo của giai
đoạn thứ nhất, cũng là thời kì tốn cơng nhất- sự lặp lại vô hạn để làm rõ bức
tranh bên trong của vận động, đồng thời diễn ra việc học bản mã hóa những
tín hiệu xúc cảm thành những mệnh lệnh tác động. Việc tích lũy “từ điển
chuyển mã” là một trong những sự kiện quan trọng của giai đoạn này. Việc
lặp lại nhiều lần là cần thiết bởi cần tìm ra được bản mã hóa cho bất kỳ
phương án vận động nào. Sự kiện cực kỳ quan trọng cuối cùng để hoàn thành
giai đoạn này là những điều chỉnh lần đầu theo các mức độ nằm bên trong.
Giai đoạn thứ hai, giai đoạn tự động hóa vận động. Ở đây diễn ra sự
chuyển giao đầy đủ những thành phần riêng của vận động hoặc tồn bộ vận
động nói chung trong sự dẫn dắt của mức độ nền tảng. Kết quả là mức độ chủ
đạo được giải phóng từng phần hoặc giải phóng hồn tồn. Ở đây đã diễn ra
hai quá trình rất quan trọng. Một là sự phối hợp hoạt động của tất cả các mức
độ cấp thấp. Hai là tổng hợp những khối vận động đã được chuẩn bị sẵn, được
hình thành theo mục đích khác – chính nó giải thích cho những bước đột biến
chất lượng đôi khi quan sát thấy khi chiếm lĩnh những vận động mới. Theo
mức độ tự động hóa, vận động thốt khỏi sự kiểm soát của ý thức và sự “ rút
lui” này có thể cần trợ giúp - đó là ngừng chú ý đến vận động. Đồng thời giúp
16
thúc đẩy nhịp độ vận động, sự lặp lại nhiều lần liên tục, và hiện thực nhất là
đưa một vận động vào nhiệm vụ vận động phức tạp hơn.
Giai đoạn thứ ba, giai đoạn cuối cùng diễn ra sự mài bóng thói quen
một cách triệt để nhờ sự ổn định và sự chuẩn hóa. Khi ổn định, thói quen tìm
được độ bền vững vả độ ổn định không thể phá hủy được trong bất kỳ tình
huống nào. Cịn chuẩn hịa là việc tìm được những thói quen khn sáo, khi
lặp lại vận động nhiều lần sẽ nhận được một loạt bản sao chép như nhau. Tính
khn mẫu xuất hiện nhờ việc luyện tập để sử dụng một cách hiệu quả lực
tích cực và lực quán tính: điều này đạt được nhờ tìm được quỹ đạo ổn định
một cách năng động. Quỹ đạo này là đường thẳng đặc biệt và duy nhất, khi
vận động theo nó lực cơ học được phát triển, lực này tạo điều kiện cho việc
tiếp thu vận động theo hướng đã lựa chọn. Nhờ các lực này mà các vận động
có tính nhẹ nhàng, tự nhiên và theo khn mẫu[8].
1.4. Thói quen tiết kiệm
Đã có nhiều các định nghĩa khác nhau về thói quen tiết kiệm, qua
nghiên cứu tơi mạnh dạn đề xuất khái niệm: “Thói quen tiết kiệm là những
hành động, việc làm giảm bớt sự hao phí sức lực, của cải, thời gian và tài
nguyên được thực hiện ở mức thành thạo cao và không cần có sự điều khiển,
kiểm sốt của ý thức”. Thói quen tiết kiệm cần có ở mỗi con người, nó khơng
những cần thiết cho việc mang đến lợi ích cho hiện tại mà ở tương lai nó càng
cần thiết và quan trọng hơn. Thói quen tiết kiệm giúp mang đến cho cuộc con
người những giá trị quý báu như sự tinh tế, óc quan sát, khả năng tự đánh giá
và đánh giá, quý trọng công sức lao động của người khác, trách nhiệm hơn
với môi trường và đặc biệt là có sự tự giác, chủ động kiểm sốt cuộc sống bản
thân. Muốn biến tiết kiệm thành thói quen cần có một quá trình luyện tập
thường xuyên và thay đổi linh hoạt các tình huống, hồn cảnh và đặc biệt là
phải tác động thay đổi thái độ của con người về tiết kiệm thì thói quen đó mới
vững bền.
1.4.1. Giáo dục thói quen tiết kiệm
Giáo dục thói quen tiết kiệm là những tác động có kế hoạch, có mục
đích và được sắp xếp một cách khoa học nhằm hình thành cho trẻ những hành
17
động, việc làm giảm bớt hao phí của cải, thời gian và tài nguyên đạt được ở
mức thành thạo cao và khơng cần có sự điều khiển, kiểm sốt của ý thức.
Giáo dục thói quen tiết kiệm cho trẻ mẫu giáo mang một ý nghĩa thực tiễn to
lớn. Theo chúng tơi thì việc giáo dục thói quen tiết kiệm cho trẻ phải được
thực hiện càng sớm càng tốt, tránh để trường hợp trẻ đã có thói quen lãng phí
rồi mới cố gắng phá bỏ và giáo dục lại thói quen tiết kiệm, việc giáo dục một
thói quen mới dễ dàng hơn là phá bỏ một thói quen. Trong suốt cuộc đời con
người thì thời kì mẫu giáo là thời kì thuận lợi nhất để giáo dục thói quen, khi
này trẻ đã có nhận thức và đầy đủ những đặc điểm tâm lý phù hợp cho việc
hình thành một thói quen nào đó, những thói quen được hình thành này sẽ có
giá trị to lớn và sẽ đi theo trẻ suốt cuộc đời, khó thay đổi.
1.5. Giáo dục thói quen tiết kiệm điện và nước cho trẻ 5 – 6 tuổi
1.5.1. Một số đặc điểm tâm lý trẻ 5 - 6 tuổi liên quan đến thói quen tiết kiệm
Tác giả J.Donald Walters trong quyển sách Giáo dục vì cuộc sống có
nói “ Sáu năm đầu tiên trong cuộc đời của trẻ - nói chung là độ tuổi trước khi
đến trường là những năm quan trọng nhất để định hướng cho suốt cuộc đời trẻ
em. Ta cần chú ý khắc sâu vào tâm hồn trẻ các thói quen, thị hiếu và thái độ”.
Tác giả khẳng định giai đoạn quan trọng trong cuộc đời để hình thành thói
quen cho trẻ là sáu năm đầu đời chính vì lứa tuổi này có những đặc điểm tâm
lý rất đặc trưng, tiêu biểu và phù hợp cho việc hình thành thói quen.
Bắt đầu từ tuổi mẫu giáo nhỡ, động cơ hành vi và hệ thống các thứ bậc
động cơ đã được hình thành ở trẻ và tiếp tục phát triển mạnh mẽ ở tuổi mẫu
giáo lớn, sự phát triển động cơ hành vi với các đặc đểm như sự phát triển
mạnh mẽ của việc trẻ muốn tự khẳng định mình, muốn trở thành người lớn,
làm những việc của người lớn…. Những động cơ này gắn liền với việc lĩnh
hội có ý thức những chuẩn mực về những quy tắc hành vi xã hội chỉ là
phương tiện để trẻ duy trì mối quan hệ tích cực của mình và người lớn xung
quanh. Sau rồi do được tán thưởng, khen ngợi mà đứa trẻ vui vẻ thực hiện
những hành vi đó như là một sự bắt buộc của chính mình, như là để đáp ứng
địi hỏi của xã hội. Tức là trẻ hiểu được ý nghĩa xã hội của những hành vi này.
18
Bên cạnh đó, khi này trẻ cịn khao khát thực hiện những mang lại niềm vui
cho người khác. Trẻ hiểu rằng những hành vi của chúng có thể mang lại lợi
ích cho người khác và chúng bắt đầu thực hiện những cơng việc vì người khác
theo sáng kiến riêng của mình. Muốn như vậy thì người lớn cần phải nói cho
trẻ hiểu để trẻ có thể hình dung được những việc mình làm quả là có đem lại
niềm vui cho những người mà mình quan tâm. Trong động cơ hành vi của trẻ
cịn có thêm yếu tố thi đua, yếu tố thi đua kích thích trẻ hoạt động tích cực.
Đây là đặc điểm của động cơ hành vi xuất hiện ở tuổi mẫu giáo nhỡ và tiếp
tục phát triển ở tuổi mẫu giáo lớn.
Ở trẻ 5 tuổi, việc đặt mục đích cho hành động và lập kế hoạch để thực
hiện hành động thường được thể hiện rất rõ nét. Điều đó thúc đẩy các hành
động định hướng bên trong phát triển mang tính chủ định rõ ràng. Tuy kế
hoạch hành động còn sơ sài, đơn giản nhưng rõ ràng là khi trẻ thực hiện đều
có sự sắp xếp, tính tốn. Vì vậy đây là một đặc điểm tâm lý có liên quan chặt
chẽ đến việc giáo dục thói quen tiết kiệm cho trẻ, đặc biệt là trong việc tập
cho trẻ xử lý tình huống.
Theo Tiến Sĩ Mai Thị Nguyệt Nga thì sự phát triển đạo đức của trẻ mẫu
giáo gồm 3 lĩnh vực liên hệ chặt chẽ với nhau: nhận thức (phán đoán, đánh
giá đạo đức); hành vi đạo đức; tình cảm đạo đức.
Trong lĩnh vực nhận thức, trẻ học nắm vững các mặt khác nhau của ý
thức đạo đức xã hội, và trước hết là hiểu các yêu cầu đạo đức, các tiêu chuẩn
đánh giá đạo đức. Sự phát triển của các đánh giá đạo đức của trẻ mẫu giáo
được liên hệ chặt chẽ với cách người lớn đánh giá như thế nào. Nếu người lớn
thường rút ra và đánh giá các hành vi thì trẻ có thể hiểu và đánh giá đúng về
các phẩm chất. Người lớn làm khn mẫu và nói trẻ biết về thế nào gọi là
hành động tiết kiệm, cách thức tiết kiệm như thế nào thì dần dần trẻ sẽ hiểu về
tiết kiệm, thực hành tiết kiệm, trẻ có thể đánh giá hành động của người khác
khi người khác có hành động lãng phí, điển hình là trường hợp trẻ hay bày tỏ
sự khơng đồng tình và đi đến mách với người lớn về một hành động lãng phí
của bạn.
19
Dần dần, trên cơ sở học đối chiếu bản thân với bạn và nghe người
lớn, các bạn đánh giá hành vi của bản thân, trẻ dần có khả năng tự đánh giá
chúng.
Trong lĩnh vực hành vi đạo đức, điều cơ bản là tạo nên các điều kiện để
chuẩn mực đạo đức bắt đầu là động cơ và điều khiển hành vi thực của trẻ,
nghĩa là thiết lập được mối quan hệ giữa ý thức đạo đức và hành vi đạo đức.
Muốn vậy trẻ phải được luyện tập các hành vi đạo đức, được đặt vào các tình
huống khi trẻ phải tự quyết định, tự lựa chọn hành vi đạo đức. Dần dần, hành
vi đó trở thành thói quen, trở thành nhu cầu của trẻ và xuất hiện nhu cầu thực
hiện chuẩn mực đạo đức.
Và cuối cùng trong lĩnh vực tình cảm đạo đức, ở trẻ dần dần hình thành
thái độ đạo đức đúng đắn tới người lớn. Ở trẻ hình thành nên các tình cảm và
các thái độ đạo đức đúng đắn với mọi người như sự quan tâm và tính đến các
nhu cầu, sở thích của người khác, đồng cảm với sự không may mắn và niềm
vui của người khác, cũng như cảm thấy có lỗi khi vi phạm các chuẩn mực đạo
đức. Tình cảm đạo đức đóng vai trị quan trọng vì nó có tác động thúc đẩy
nhận thức và hành vi đạo đức, giúp trẻ thực hiện hành vi một cách tích cực,
chủ động, đây là điều kiện cần thiết để giúp hình thành thói quen cho trẻ. Tuy
nhiên một nhận định trong thực tế về cách giáo dục của nhiều bậc phu huynh
là cấm cản trẻ mọi điều. Trẻ thì lại có xu hướng, có nhu cầu tìm hiểu, khám
phá mọi thứ xung quanh vì chúng đều rất mới mẻ và thú vị, nhưng người lớn
thường cấm đoán trẻ, điều này tạo nên sự ức chế, và trẻ càng muốn làm. Điều
này tạo ra sự mâu thuẫn giữa nhu cầu và sự cấm đoám, mâu thuẫn giữa trẻ và
phụ huynh. Gây ức chế tình cảm đạo đức.
Ngồi ra, trẻ đã có thể nhận thức q trình biến đổi hoặc quá trình phát triển
của đối tượng, nhận ra khả năng bản thân có thể tác động làm biến đổi thế giới.
“Các thí nghiệm của N.N.Paddiakov cho phép ông khẳng định rằng trẻ 5 - 6 tuổi
có thể quan sát, tự tri giác từng trạng thái của đối tượng trong các thời điểm khác
nhau, liên kết chúng lại trong não và có hình dung (có biểu tượng) về một chuỗi
các bước biến đổi hoặc phát triển của đối tượng”.
20
Trẻ 5 - 6 tuổi đã dần ý thức được quá trình biến đổi của các sự vật hiện
tượng xung quanh mình. Đặc biệt là trẻ nhận ra vai trị nhất định của mình đối
với thế giới xung quanh, trước hết là những đối tượng gần gũi với cuộc sống
của trẻ. Quá trình trẻ tiếp xúc, hoạt động với đối tượng giúp trẻ rút ra kinh
nghiệm và sự khác biệt khi có sự tham gia của trẻ. Chính vì vậy mà đây là
một đặc điểm rất thuận lợi cho việc ứng dụng vào giáo dục bảo vệ môi
trường, giáo viên cần giúp trẻ nhìn thấy tầm ảnh hưởng của trẻ, khi đó sẽ kích
thích được trẻ hành động.
Để tác động vào thái độ, giúp thói quen tiết kiệm của trẻ bền vững suốt
đời thì rất cần thiết phải tác động vào đời sống tình cảm của trẻ. Đời sống tình
cảm của trẻ thống trị tất cả các mặt trong hoạt động tâm lý của đứa trẻ, nó vừa
phong phú, vừa sâu sắc. Càng lớn, mối quan hệ với người xung quanh càng
mở rộng, tình cảm của trẻ cũng được phát triển về nhiều phía đối với những
người xung quanh. Khi này khơng những trẻ có tình cảm đối với người khác
mà trẻ cịn có tình cảm đặc biệt với với cây cối, con vật, đồ chơi và hiện
tượng thiên nhiên bằng cách nhân cách hóa tính cách của con người cho
chúng. Tình cảm của trẻ phát triển mạnh mẽ đặc biệt là tính đồng cảm và dễ
xúc cảm đối với con người và cảnh vật xung quanh. Đây là thời điểm rất
thuận lợi để giáo dục lòng nhân ái cho trẻ. Và đặc biệt sự phát triển đời sống
tình cảm này là nguồn kích thích để trẻ thực hiện những hành vi tiết kiệm,
biến nó thành thói quen, tự giác duy trì và địi hỏi như nhu cầu khơng thể
thiếu của bản thân.
Trong cuộc đời người diễn ra nhiều giai đoạn với hoạt động chủ đạo
khác nhau, nếu bỏ qua một giai đoạn nào thì rất khó có thể thay thế được. Trẻ
5 - 6 tuổi đang mang trong mình những đặc điểm tâm sinh lý vô cùng thuận
lợi cho việc hình thành thói quen, chính vì vậy mà những đặc điểm trên đây sẽ
là cơ sở cho việc phân tích những phần tiếp theo, đặc biệt nó sẽ là cơ sở quan
trọng cho việc xác định biện pháp giáo dục phù hợp lứa tuổi.
1.5.2. Ý nghĩa của việc giáo dục thói quen tiết kiệm điện, nước cho trẻ 5 - 6 tuổi
Việc giáo dục thói quen tiết kiệm cho trẻ là góp phần vào thực hiện
21
Nghị quyết, Chủ trương của Nhà nước, mục tiêu giáo dục của Bộ Giáo dục và
Đào tạo đã đề ra về việc đưa giáo dục bảo vệ môi trường vào nhà trường,
trong đó có giáo dục tiết kiệm.
Lứa tuổi mầm non là thời kỳ vàng trong cuộc đời con người. Ở giai
đoạn này, trẻ có điều kiện phát triển tồn diện về mọi mặt, việc giáo dục thói
quen tiết kiệm cho trẻ không khi nào tốt và thuận lợi bằng lứa tuổi mầm non,
nếu bỏ qua thời kì này thì khơng có một giai đoạn nào có thể thay thế được.
Trẻ thích hoạt động, khi được đánh giá, được khen ngợi thì trẻ có xu hướng
làm đi làm lại mà không thấy chán. Việc thực hiện lặp đi lặp lại là điều kiện
cần thiết để hình thành thói quen. Rõ ràng, việc hình thành một thói quen dễ
dàng hơn rất nhiều so với việc phá hủy đi một thói quen hay cịn gọi là cải tạo
thói quen. Giáo dục đúng đắn sẽ hạn chế sự tích lũy kinh nghiệm tiêu cực của
trẻ, ngăn cản sự phát triển các kỹ xảo và thói quen hành vi xấu mà có thể ảnh
hưởng khơng tốt đến sự hình thành những phẩm chất đạo đức của trẻ. Vì vậy
tốt nhất là hình thành thói quen tốt ngay khi chưa có thói quen xấu và lứa tuổi
càng nhỏ thì hình thành thói quen càng dễ.
Giáo dục trẻ về thói quen tiết kiệm điện, nước là việc làm của tất cả
mọi người xung quanh trẻ, từ bố mẹ, ông bà, anh chị em đến cô giáo và những
người trong xã hội. Từng hành động nhỏ, những lời giải thích, hướng dẫn,
động viên đều có tác động đến trẻ, đồng thời là điều kiện tốt để giao lưu tình
cảm giữa trẻ và mọi người. Hình thành cho trẻ niềm tin và những tình cảm
tích cực vào người lớn.
Giáo dục trẻ thói quen tiết kiệm điện, nước sẽ giúp trẻ có những kiến
thức cơ bản về điện, nước cần phải tiết kiệm, về thực tế lãng phí của con
người, về tình trạng thiếu thốn của con người ở những nơi khác trên thế giới,
những cách thức sử dụng sao cho tiết kiệm. Tiết kiệm điện, nước sẽ tiết kiệm
chi phí trong gia đình. Nhưng ý nghĩa lớn lao hơn là bảo vệ mơi trường, tức là
bảo vệ chính sự sống an bình của con cháu chúng ta, cũng chính là góp phần
duy trì điều kiện tồn tại lâu dài của loài người trên trái đất. Tiết kiệm điện trên
tầm vĩ mơ, giúp cho lồi người bớt phung phí các tài nguyên quý giá như than
22
đá, dầu mỏ, khí đốt. Việc giảm bớt quy mơ xây dựng tràn lan các cơng trình
thuỷ điện sẽ giúp dịng chảy các con sơng thuận theo tự nhiên, làm cho đồng
bằng mầu mỡ tránh nguy cơ xa mạc hoá, biến đổi dẫn đến diệt chủng các loại
động vật, thực vật trong tự nhiên. Việc hạn chế xây dựng các nhà máy điện
nguyên tử sẽ giảm bớt nguy cơ dò rỉ phóng xạ nguy hiểm, và ảnh hưởng nguy
hại đến mơi trường lâu dài khi phải tìm cách xử lý các chất thải từ nhà máy
điện nguyên tử.
Qua việc trẻ có kiến thức sẽ hình thành nên thái độ. Thái độ theo chúng
tơi là đóng vai trị quan trọng nhất. Thái độ sẽ tạo động lực thúc đẩy trẻ hành
động. Có kiến thức, thái độ đúng đắn thì trẻ sẽ thực hành kỹ năng tiết kiệm,
đó là những cách thức trẻ thực hành tiết kiệm, dần dần, do lặp đi lặp lại nhiều
lần sẽ trở thành thói quen. Thói quen này mang tính bền vững, khó mất đi.
Trên thực tế thì việc hình thành kiến thức, thái độ và kỹ năng xen lẫn vào
nhau, trẻ lĩnh hội một cách toàn diện và thật tự nhiên. Trong khi đang tiếp thu
những kiến thức, trẻ hình thành nên thái độ, trong việc thực hiện kỹ năng
cũng giúp hình thành tình cảm đối với việc thực hành tiết kiệm, khi trẻ thực
hành, trẻ sẽ tiếp tục học hỏi thêm kiến thức.
Ban đầu, bằng một sự vơ tình hay cố ý nào đó, con người tạo ra thói
quen, dần dần qua thời gian, thói quen sẽ tạo ra con người, con người là sản
phẩm của thói quen, chính vì vậy mà rất cần thiết để giáo dục thói quen tiết
kiệm để có những con người mới cho xã hội tương lai ngay từ bây giờ. Việc
giáo dục thói quen tiết kiệm cho trẻ có một ý nghĩa nhân văn sâu sắc vì trẻ
biết chia sẻ, chắc chiu vì người khác, hình thành tinh thần trách nhiệm với
việc mình làm đây là một phẩm chất đang rất thiếu ở giới trẻ. Trẻ biết tôn
trọng sức lao động, q trọng những gì trẻ đang có. Trẻ tự tin vào bản thân
khi trẻ có thể làm những việc mang lại hạnh phúc cho người khác và có thể
tác động làm thay đổi thế giới xung quanh.
1.5.3. Nội dung căn bản về giáo dục thói quen tiết kiệm điện, nước cho
trẻ 5 - 6 tuổi
Có nhiều đối tượng cần được giáo dục tiết kiệm như điện, nước, thực
23
phẩm, thời gian, tiền,…theo hướng nghiên cứu của đề tài thì chúng tơi tập
trung vào nghiên cứu việc giáo dục tiết kiệm cho hai đối tượng là nước và
điện. Hai đối tượng này gần gũi, trẻ có điều kiện tiếp xúc rất thường xuyên
trong ngày và thuộc phạm vi nghiên cứu. Trước hết là cần hình thành cho trẻ
những nhận thức về đối tượng như đặc điểm, tầm quan trọng và khả năng bảo
vệ của trẻ đối với đối tượng đó, và cần giáo dục đúng cho trẻ về nhận thức,
thái độ, hành vi.
Tổ chức luyện tập: người giáo viên cần chuẩn bị môi trường, thiết kế
các hoạt động thật sống động, thu hút, gắn với cuộc sống thực để trẻ có thể
thật sự hoạt động và cảm nhận.
Duy trì luyện tập trong một khoảng thời gian đủ trở thành thói quen.
Trẻ nhất thiết phải thấy được thành quả mà hành động tiết kiệm của mình
mang lại và có được những phần thưởng như sự khích lệ hay một bơng hoa
nhỏ thì sẽ giúp trẻ duy trì sự lặp đi lặp lại hành động và dần biến hành động
đó thành tự động. Những nội dung cụ thể để giáo dục cho trẻ:
- Đặc điểm cơ bản của nước và điện.
+ Nước tồn tại ở 3 dạng rắn, lỏng và khí. Nước có ở khắp nơi nhưng
khơng phải nước nào cũng sử dụng được.
+ Điện là một dạng của năng lượng. Điện được tạo ra từ các nhà máy
điện như nhà máy thủy điện, nhà máy nhiệt điện.
- Ý nghĩa của việc thực hành tiết kiệm.
+ Để bảo vệ môi trường.
+ Tiết kiệm tiền cho bố mẹ.
+ Để cho nhiều người khác cũng có để sử dụng.
+ Để tiết kiệm cơng sức lao động của người khác.
- Vai trò của nước và điện trong đời sống.
+ Nước rất cần thiết cho việc làm mát cơ thể, vệ sinh, ăn uống,…ngoài
con người thì tất cả các lồi sinh vật khác đều cần đến nước.
+ Con người cần điện để duy trì sự sống.
- Các cách có thể thực hành tiết kiệm nước và điện phù hợp lứa tuổi.
24
+ Tắt nước khi không sử dụng.
+ Lấy đủ lượng nước cần dùng.
+ Tăng cường sử dụng ánh sáng tự nhiên: đi ra ngoài để làm việc dưới
ánh sáng tự nhiên; mở cửa sổ, cửa cái, kéo dẹp màn cửa... thay vì chỉ bật sáng
đèn trong phịng; cắt cành hay tán cây che mất ánh sáng trên các hành lang...
+ Tắt khi không cần dùng (chỉ sử dụng lượng ánh sáng, nước, chất
đốt...đủ cần thiết).
+ Nhắc nhở người khác thực hành tiết kiệm nước và điện.
- Các chỉ số trong Bộ chuẩn đánh giá trẻ 5 tuổi và một số nội dung
trong Chương trình Giáo dục mầm non có liên quan đến việc giáo dục thói
quen tiết kiệm cho trẻ
+ Chỉ số 31: cố gắng thực hiện công việc đến cùng.
+ Chỉ số 32: thể hiện sự vui thích khi hồn thành cơng việc.
+ Chỉ số 33: chủ động làm một số công việc đơn giản hằng ngày.
+ Chỉ số 34: mạnh dạn nói ý kiến của bản thân.
+ Chỉ số 56: nhận xét được một số hành vi đúng sai của con người đối
với môi trường.
+ Chỉ số 57: có hành vi bảo vệ mơi trường trong sinh hoạt hằng ngày.
+ Chỉ số 114: giải thích được mối quan hệ nguyên nhân kết quả đơn
giản trong cuộc sống hằng ngày.
+ Biết các nguồn nước trong đời sống và ích lợi của nguồn nước.
+ Biết các hành động gây lãng phí nước và điện.
Những chỉ số/ nội dung này đều có sự liên quan chặc chẽ, góp phần
giúp cho cá hành vi tiết kiệm trở thành thói quen. Thực hiện các chỉ số/ nội
dung mang đến hiệu quả cho việc cung cấp kiến thức về các đối tượng cần tiết
kiệm. Trẻ phân biệt được hành vi đúng sai để có những hành động phù hợp
với những chuẩn mực, giá trị đạo đức mà xã hội yêu cầu. Để hình thành kỹ
năng thì việc luyện tập thường xun đóng vai trị quyết định việc hình thành
thói quen, chính vì vậy mà cần trẻ phải có sự vui thích, có vậy mới kích thích
trẻ hành động lặp đi lặp lại. Đồng thời tác động mạnh mẽ vào thái độ của trẻ,
25
giúp trẻ khơng những biết cách tiết kiệm mà cịn hiểu nguyên nhân, vai trò và
sự tự giác của bản thân đối với môi trường và những người xung quanh.
1.6.Vai trò của nước, điện đối với cuộc sống của con người
1.6.1. Khái niệm nước
Đã có nhiều các định nghĩa khác nhau về nước, qua nghiên cứu tôi
mạnh dạn đề xuất khái niệm: “Nước là một hợp chất hóa học của oxy và
hydro, có cơng thức hóa học là H20. Hầu hết các hoạt động của con người đều
cần nước. Chỉ có 0,5% lượng nước trong ao, hồ, sơng, suối là con người có
thể sử dụng được. Tuy nhiên nếu trừ đi lượng nước bị ơ nhiễm thì chỉ cịn
khoảng 0,003% lượng nước ngọt mà con người có thể sử dụng được, và con
số này ngày càng giảm”.
1.6.2. Vai trò của nước đối với con người
Khi các nhà khoa học khám phá các hành tinh khác để tìm ra sự sống
thì việc nghiên cứu nguồn nước là một trong những yếu tố quyết định hàng
đầu. Điều này có nghĩa nước chính là sự sống. Tổ chức Lương Nông Liên
Hiệp Quốc (FAO) cảnh báo trong 15 năm tới sẽ có gần 2 tỷ người phải sống
tại các khu vực khan hiếm nguồn nước và 2/3 cư dân trên hành tinh có thể bị
thiếu nước. Theo ước tính của Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF) ở
Việt Nam có khoảng 17 triệu (52%) trẻ em chưa được sử dụng nước sạch.
Nhu cầu sử dụng nước trên thế giới ngày càng tăng cao khi mà các ngành
cơng nghiệp, nơng nghiệp, dịch vụ giải trí và đặc biệt là dân số tăng nhanh.
Có một sự cách biệt rất lớn trong việc sử dụng nước giữa các nước giàu và
nghèo. Nước sạch được dự báo sẽ sớm trở thành một nguồn tài nguyên quý
báu không kèm dầu mỏ ở thế kỉ trước,nhưng dầu mỏ có thể được thay thế
bằng các loại nhiên liệu khác, còn nước thì khơng.
Một ngun nhân nữa khiến cho nguồn nước sạch trên thế giới ngày
càng khan hiếm đó chính là tình trạng lãng phí. Chính vì quan niệm sai lầm về
lượng nước trên thế giới rằng nguồn nước là vô tận nên con người rất thiếu ý
thức tiết kiệm trong khi sử dụng nguồn nước con người thường sử dụng nhiều
hơn nhu cầu, và khơng nhận ra điều đó.