Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Khóa luận tốt nghiệp thực trạng kỹ năng tự nhận thức bản thân của trẻ 5 6 tuổi tại tỉnh phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (888.66 KB, 90 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đổi mới của sự nghiệp cơng nghiệp hóa - hiện
đại hóa. Sự thách thức bằng cạnh tranh trí tuệ đang địi hỏi cần thiết phải đổi mới giáo dục
trong đó có sự đổi mới căn bản về phương pháp dạy và học nhằm tạo ra những lớp người
đáp ứng với đòi hỏi của xã hội. Đó là những con người năng động, sáng tạo, có năng lực
giải quyết các vấn đề, có khả năng thích ứng với mọi biến động trong đời sống kinh tế xã hội, có đạo đức trong sáng, có lối sống lành mạnh, có đầy đủ sức khỏe và đặc biệt
phải tích cực nhận thức để cải tạo thế giới và cải tạo chính bản thân mình. Nghĩa là
người được giáo dục phải có hiểu biết nhất định về bản thân, biết khả năng và hạn chế
của mình trong hoạt động để có niềm tin vào bản thân, có thể điều khiển hành vi, hành
động của mình trong mối quan hệ với mọi người xung quanh nhằm tạo ra được hiệu
quả cao trong hoạt động. Do đó, việc giáo dục sự tự nhận thức bản thân cho mỗi người
là vô cùng quan trọng.
Thời đại ngày nay, với sự đòi hỏi ngày càng cao của xã hội thì con người cần
phải có những hiểu biết về thế giới xung quanh và hiểu rõ bản thân. Bởi, nếu mỗi
người tự nhận thức được về bản thân, nắm được khả năng của mình thì sẽ tạo ra nhiều
cơ hội cho sự thành công. Ngược lại, nếu khơng tự nhận thức được về mình thì kết quả
mang lại sẽ không như mong muốn. Do vậy, việc nhận thức đúng đắn về bản thân là vô
cùng quan trọng và chỉ khi nào hiểu đúng về bản thân, đánh giá đúng mình thì mới có
thể thành cơng trong mọi hoạt động.
Giáo dục mầm non là hệ thống giáo dục đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc
dân, là giai đoạn quan trọng nhất trong việc đặt nền móng cho sự phát triển nhân cách
tồn diện của trẻ và cho trẻ bước vào trường tiểu học. Trong thực tế hiện nay, rèn kỹ
năng sống cho các bé ở trường mầm non còn bộc lộ nhiều hạn chế. Việc rèn kỹ năng
sống cho trẻ chưa thực sự tạo ra chuyển biến, nguyên do chính là trong tư tưởng giáo
viên, phụ huynh chỉ chú trọng đến việc dạy kiến thức, việc rèn kỹ năng sống cho học
sinh còn chiếu lệ, chưa được quan tâm rõ rệt, đặc biệt là kỹ năng tự nhận thức bản thân.
Mặc dù, ngay từ lứa tuổi mầm non, trẻ đã có nhu cầu nhận thức sự vật hiện tượng xung
quanh, đặc biệt là trẻ sớm có hứng thú nhận thức đối với bản thân và ý thức được sự


phụ thuộc của bản thân vào môi trường xung quanh. Nhờ đó trẻ có niềm tin vào bản
thân khi tham gia hoạt động và giao tiếp với mọi người.


2

Phú Thọ là một tỉnh có nhiều khu vực khác nhau từ thành phố, thị xã đến nông
thôn, miền núi. Chính sự khác nhau này đã dẫn đến sự khác nhau về điều kiện kinh tế,
văn hóa, xã hội, phong tục tập quán giữa các vùng và môi trường sống… Do vậy, có
ảnh hưởng khơng nhỏ tới việc hình thành và phát triển kỹ năng tự nhận thức bản thân
của trẻ mẫu giáo giữa các khu vực đó.
Xuất phát từ lý do trên mà tôi chọn đề tài:“Thực trạng kỹ năng tự nhận thức
bản thân của trẻ 5 - 6 tuổi tại tỉnh Phú Thọ”.
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
2.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài
- Làm rõ cơ sở lý luận về kỹ năng tự nhận thức bản thân của trẻ 5 - 6 tuổi, xác
định nội dung tự nhận thức bản thân của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi. Các yếu tố ảnh hưởng
đến kỹ năng tự nhận thức bản thân của trẻ 5 - 6 tuổi.
- Quá trình hình thành kỹ năng tự nhận thức bản thân và vai trò của việc giáo dục kỹ
năng tự nhận thức bản thân cho trẻ 5 - 6 tuổi. Đồng thời, từ đó xác định các yếu tố của việc
xây dựng các biện pháp giáo dục kỹ năng tự nhận thức bản thân cho trẻ 5 - 6 tuổi.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
- Tìm hiểu về thực trạng kỹ năng tự nhận thức bản thân của trẻ 5 - 6 tuổi tại tỉnh
Phú Thọ. Xác định các biểu hiện và mức độ kỹ năng tự nhận thức bản thân của trẻ 5 - 6
tuổi và so sánh mức độ biểu hiện về kỹ năng này ở trẻ nam và trẻ nữ; giữa trẻ ở các
trường mầm non tại các khu vực khác nhau trong địa bàn tỉnh Phú Thọ.
- Xác định nguyên nhân của sự khác biệt về kỹ năng nhận thức bản thân của trẻ
5 - 6 tuổi tại một số địa bàn trong tỉnh Phú Thọ.
- Đề xuất một số biện pháp giáo dục kỹ năng tự nhận thức bản thân cho trẻ mẫu
giáo 5 - 6 tuổi.

3. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu các vấn đề lý luận có liên quan tới kỹ năng tự nhận thức bản thân
của trẻ 5 - 6 tuổi và xác định thực trạng kỹ năng này của trẻ 5 - 6 tuổi tại địa bàn tỉnh
Phú Thọ. Từ đó, đề xuất một số biện pháp giáo dục kỹ năng tự nhận thức bản thân cho
trẻ 5 - 6 tuổi nhằm góp phần phát triển tồn diện nhân cách cho trẻ.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Nghiên cứu những vấn đề lý luận về kỹ năng tự nhận thức bản thân của trẻ 5 - 6 tuổi.


3

4.2. Điều tra thực trạng kỹ năng tự nhận thức bản thân của trẻ 5 - 6 tuổi trên địa
bàn tỉnh Phú Thọ.
4.3. Đề xuất một số biện pháp giáo dục kỹ năng tự nhận thức bản thân cho trẻ
giáo 5 - 6 tuổi.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu về mức độ và biểu hiện kỹ năng tự nhận thức bản thân của trẻ giáo
5 - 6 tuổi
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu về thực trạng kỹ năng tự nhận thức bản thân của trẻ 5 - 6 tuổi tại các
trường mầm non:
+ Trường mầm non Hoa Phượng - Thành phố Việt Trì - Tỉnh Phú Thọ.
+ Trường mầm non Hùng Vương - Thị xã Phú Thọ - Tỉnh Phú Thọ.
+ Trường mầm non Thạch Sơn - Huyện Lâm Thao - Tỉnh Phú Thọ.
+ Trường mầm non Thu Ngạc - Huyện Tân Sơn - Tỉnh Phú Thọ.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Sưu tầm, đọc, tìm hiểu và phân tích những tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên
cứu để xác định các khái niệm công cụ cho đề tài và xây dựng hệ thống hóa, khái quát

hóa lý luận về thực trạng kỹ năng tự nhận thức bản thân của trẻ 5 - 6 tuổi.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6.2.1. Phương pháp quan sát
Quan sát và ghi chép quá trình giáo dục kỹ năng tự nhận thức bản thân cho trẻ 5 - 6
tuổi của giáo viên mầm non, nhằm thu thập thêm thông tin cho việc điều tra Anket.
6.2.2. Phương pháp đàm thoại
- Trao đổi với giáo viên để có thêm thơng tin về vấn đề nghiên cứu.
- Trò chuyện với trẻ 5 - 6 tuổi để biết được mức độ và biểu hiện kỹ năng tự nhận
thức bản thân của trẻ.
6.2.3. Phương pháp điều tra Anket
Sử dụng phiếu Anket bằng một hệ thống câu hỏi đóng và mở để điều tra cán bộ
quản lý và giáo viên mầm non. Từ đó, xác định rõ nhận thức của giáo viên mầm non về


4

cách thức tổ chức việc giáo dục kỹ năng tự nhận thức bản thân của trẻ 5 - 6 tuổi tại
trường mầm non.
6.2.4. Phương pháp nghiên cứu trường hợp
Nhằm tìm hiểu mức độ biểu hiện tự nhận thức bản thân của trẻ 5 - 6 tuổi thông
qua một trường hợp điển hình. Kết quả này sẽ minh họa và làm rõ hơn những số liệu
thu được từ bảng hỏi và các bài tập khảo sát.
Nội dung nghiên cứu trường hợp xoay quanh những vấn đề về các biểu hiện của
trẻ trong từng khía cạnh tự nhận thức bản thân và một số đặc điểm yếu tố ảnh hưởng
đến khả năng tự nhận thức của trẻ.
Nghiên cứu trường hợp được tiến hành chủ yếu thơng q trình trị chuyện, qua
các câu chuyển kể, quan sát các hoạt động của trẻ tại trường mầm non.
6.2.5. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng cơng thức tốn học để xử lý số liệu kết quả thu được qua điều tra thực
trạng kỹ năng tự nhận thức bản thân của trẻ 5 – 6 tuổi.



5

NỘI DUNG
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KỸ NĂNG TỰ NHẬN THỨC BẢN THÂN
CỦA TRẺ 5 - 6 TUỔI

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Những nghiên cứu ở nước ngoài
1.1.1.1. Các nghiên cứu về kỹ năng
Trên thế giới, đã có rất nhiều tác giả nghiên cứu về kỹ năng nói chung và kỹ năng
của trẻ nói riêng. Qua tìm hiểu, phân tích các cơng trình nghiên cứu của các tác giả nước
ngồi chúng tơi thấy, các nghiên cứu tập trung theo hai khuynh hướng:
- Hướng thứ nhất: Nghiên cứu kỹ năng như một thành phần trong phẩm chất của
mỗi con người.
Nhà tâm lý học E.A.Milerian (người Áo), coi kỹ năng như một thành phần, một
mức độ nguồn lực của con người, điều kiện hình thành kỹ năng là tri thức và kinh
nghiệm trước đó. Như vậy, theo ông kỹ năng không phải tự nhiên mà có, kỹ năng
được hình thành và phát triển dựa trên sự tích lũy tri thức và kinh nghiệm cá nhân.
- Hướng thứ hai: Nghiên cứu kỹ năng như một biểu hiện năng lực con người.
Theo một số nhà tâm lý học sư phạm, họ coi kỹ năng là một biểu hiện của năng
lực, làm rõ khái niệm kỹ năng, kỹ xảo, mối quan hệ giữa kỹ năng và kỹ xảo.Theo các
tác giả này cơ sở của kỹ năng là tri thức và kinh nghiệm cá nhân.Theo A.V.Petropxki,
V.A.Kruchetxki, N.Đ.Levitov [34], [10] thì kỹ năng có hai loại là kỹ năng bậc thấp và
kỹ năng bậc cao.
Xavier Roegiers xem kỹ năng như một biểu hiện của năng lực. Theo tác giả này,
khơng có một kỹ năng nào tồn tại dưới dạng thuần khiết và mọi kỹ năng đều được biểu
hiện qua nội dung cụ thể.

Trong những năm gần đây khi đề cập tới kỹ năng, đặc biệt là kỹ năng nghề
nghiệp người ta không chỉ dừng ở tiêu chí kết quả chính xác, khả năng linh hoạt, mà
còn xem xét các yếu tố thái độ, động cơ của cá nhân trong thực hiện hành động có kỹ
năng đó. Cách tiếp cận này xem xét kỹ năng ở góc độ rộng hơn khi nó kết nối các yếu
tố kiến thức, kỹ thuật và giá trị (thái độ, niềm tin) trong hành vi của một hoạt động nhất
định. Cho rằng, mọi hành vi của con người đều xuất phát từ cách mà người ta suy nghĩ,
tác giả J.N.Richard coi kỹ năng là những hành vi được thể hiện ra hành động bên ngoài


6

và chịu sự chi phối cách thức con người cảm nhận và suy nghĩ. L.Louise (1995) cũng
khẳng định, kỹ năng là yếu tố mang tính thực tiễn và là kết quả của sự nối kết giữa lý
thuyết và giá trị (thái độ, niềm tin). Mặc dù ghi nhận hành vi có kỹ năng là khả năng
lựa chọn những kiến thức, kỹ thuật thích hợp và sử dụng chúng có hiệu quả, song S.A.
Morales & W.Sheator (1987) và M.Bartte Hariet (1970) nhấn mạnh sự lựa chọn đó
chịu ảnh hưởng của thái độ, niềm tin của cá nhân đối với hoạt động cụ thể. Đây là một
xu hướng khá mới về quan niệm kỹ năng.Quan điểm này tương đối phù hợp cho
nghiên cứu những kỹ năng chuyên sâu trong lĩnh vực hoạt động chun mơn.
Như vậy, vấn đề hình thành kỹ năng được nhiều nhà tâm lý học trong và ngoài
nước quan tâm.Mỗi tác giả, mỗi trường phái có những ý kiến khác nhau song đều
thống nhất với nhau rằng kỹ năng được hình thành trong hoạt động. Kỹ năng được hình
thành và phát triển theo từng giai đoạn với các mức độ từ thấp tới cao. Mức độ thấp là
những kỹ năng nguyên phát - dạng kỹ năng đơn giản, tương ứng với những thao tác
của hành động nhất định. Mức độ cao là các kỹ năng thứ phát - là tập hợp của nhiều
yếu tố để tạo nên kỹ năng phức hợp, nâng cao.
1.1.1.2. Các nghiên cứu về kỹ năng tự nhận thức
- Hướng thứ nhất: Nghiên cứu về kỹ năng tự nhận thức là kỹ năng sống cần thiết.
Trong cơng trình “Vấn đề tự ý thức trong tâm lý học (1977)”I.I.Trexnôcôva cho
rằng tự nhận thức là một thành phần trong cấu trúc của tự ý thức, trong cấu trúc đó

gồm 3 mặt thống nhất: nhận thức (tự nhận thức), cảm xúc - giá trị (thái độ đối với bản
thân) và hành động - ý chí, điều khiển (tự điều chỉnh). Việc hình thành và rèn luyện kỹ
năng tự nhận thức bản thân cho trẻ được I.I.Trexnôcôva cho là kỹ năng sống rất cần
thiết đối với trẻ. [50]
Nhà tâm lý học người Mỹ D.Mead cho rằng, trong mối tương tác với những
người khác trong quá trình hoạt động của mỗi con người trở thành khách thể nhận thức
của chính mình. Nhận thức bản thân không được thực hiện trực tiếp mà gián tiếp qua
thái độ của cá nhân đó với những người khác trong nhóm người hoặc tồn bộ nhóm nói
chung. Ơng cho rằng, nguồn gốc hình thành tự ý thức là trị chơi của trẻ.Đầu tiên đó là
những trị chơi lặp lại hành động của người lớn.Thông qua hoạt động vui chơi, trẻ đã
dần hình thành kỹ năng sống đầu tiên, cơ bản cần thiết cho trẻ.
- Hướng thứ hai: Nghiên cứu về kỹ năng tự nhận thức ở trẻ mầm non


7

Freud [45, tr47] cho rằng: Nhân cách con người gồm ba cấp: cái “Nó”, cái
“Tơi”, và cái “Siêu tơi”. Cái “Nó” gồm tất cả những xung lực bản năng thơi thúc đứa
trẻ địi hỏi được thỏa mãn để tìm khối cảm.Về nguồn gốc, cái “Nó” là một hệ thống
các nhu cầu có sức mạnh và động lực nhất định.Mâu thuẫn giữa đứa trẻ và thực tế dần
dần tạp ra cái “Tơi”, trẻ cảm nhận về bản thân mình đối lập với các đồ vật và những đồ
vật và những người khác, tức là cảm nhận được thực tế. Đó là nguồn gốc của cái “Tơi”,
sau này chính là phần ý thức của con người biết suy nghĩ và đòi hỏi thực tế chứ không
phải theo dục vọng của bản thân. Những cấm đoán mệnh lệnh, khuyên bản của người
lớn dần dần được nhập tâm và biến thành vô thức chi phối hành vi của trẻ, đó là cái “Siêu
tơi”. Freud cho rằng: việc xuất hiện cái “Siêu tôi” vừa là một sự kiện mang tính chất cá
nhân vừa có tính chất lịch sử. Cái “Siêu tôi” được tạo ra và hoạt động như đại diện cho các
lực lượng kiềm chế của cha mẹ và đảm nhiệm chức năng kiểm soát cái “Tơi”.
Vấn đề hình thành kỹ năng nhận thức khơng chỉ có Freud nghiên cứu mà cịn
được nhiều nhà tâm lý học trong và ngoài nước quan tâm.Mỗi tác giả, mỗi trường phái

có những ý kiến khác nhau song đều thống nhất với nhau rằng kỹ năng được hình
thành trong hoạt động. Kỹ năng tự nhận thức được hình thành và phát triển theo từng
giai đoạn với các mức độ từ thấp tới cao.
Ngoài ra, vấn đề kỹ năng nhận thức đã được các nhà khoa học trên thế giới
khác quan tâm và nghiên cứu như: Có tác giả Xavier Rogier và tác giả Jean Marie
Deketel nghiên cứu xác định các kỹ năng cơ bản và có tác giả Bloom Dhainer đã xác
định các mức độ nhận thứ của con người qua đó giúp tìm ra các kỹ năng nhận thức cần
thiết và rất nhiều các tác giả khác.
Một số tác giả như: Jean Marie Deketel nghiên cứu các kỹ năng nhận thức cơ
bản của con người, Bloom, Phainer đã xác định các mức độ nhận thức của con người
qua đó giúp ta tìm ra những kỹ năng nhận thức cần thiết.
Tóm lại, vấn đề kỹ năng tự nhận thức đã được rất nhiều các nhà nghiên cứu trên thế
giới quan tâm, đưa ra các hướng nghiên cứu và đã đóng góp rất nhiều trong lĩnh vực này
nhưng vẫn chưa đi sâu vào từng nội dung cụ thể của vấn đề tự nhận thức bản thân.
1.1.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam
1.1.2.1. Các nghiên cứu về kỹ năng
Ở trong nước cũng có những nghiên cứu về kỹ năng, đại diện là các tác giả
Phạm Minh Hạc, Trần Quốc Thành, Nguyễn Thanh Bình, Nguyễn Quang Uẩn… [18],


8

[51]cho rằng quá trình hình thành kỹ năng gồm 3 giai đoạn: Giai đoạn 1: Nhận thức
đầy đủ về mục đích, cách thức và cách điều kiện hành động; Giai đoạn 2: Quan sát và
làm thử theo mẫu; Giai đoạn 3: Luyện tập để tiến hành các hành động theo đúng yêu
cầu nhằm đạt được mục đích đặt ra.
Theo các tác giả này, việc nhận thức mục đích, cách thức và điều kiện hành
động cực kỳ quan trọng. Vì mục đích là kết quả hành động mà người ta dự kiến trước
khi bắt tay vào hành động. Trên cơ sở xác định mục đích hành động, người ta sẽ lập kế
hoạch và tìm các điều kiện, biện pháp phù hợp để đạt được mục đích.Như vậy, đây chỉ

là bước định hướng hành động. Nếu dừng lại ở bước này thì chưa có kỹ năng, vì nó chỉ
thể hiện mặt lý thuyết, tri thức về hành động, chứ chưa có mặt kỹ thuật, thao tác thực
tiễn của hành động để đạt mục đích đề ra.
Giai đoạn làm thử theo mẫu cũng không kém phần quan trọng. Ở giai đoạn này
con người một mặt thực hiện thao tác theo mẫu để hình thành kỹ năng, một mặt con
người đối chiếu với tri thức về hành động và điều chỉnh các thao tác, hành động nhằm
đạt được kết quả giảm bớt những sai sót trong q trình hành động. Tùy theo khả năng
của từng người mà độ sai sót nhiều hay ít, giai đoạn làm thử dài hay ngắn.
Sau khi làm thử để nắm vững cách thức hành động, người ta phải tiến hành
luyện tập để hoàn thiện kỹ năng.Ở giai đoạn này các tri thức về hành động được củng
cố nhiều lần, cách thức hành động cũng được ơn luyện có hệ thống làm cho người ta
nắm chắc hành động hơn.Đến đây có thể nói, kỹ năng đã được hình thành.Tuy nhiên,
kỹ năng vẫn chưa ổn định.Nhiều khi, người ta có thể đạt được kết quả cần thiết song vẫn
còn những sai sót, vấp váp trong hành động.Kỹ năng thực sự ổn định khi người ta hành
động có kết quả trong những điều kiện khác nhau.
Việc luyện tập đạt kết quả cao hay thấp phụ thuộc vào nhiều yếu tố: điều kiện
luyện tập, tính hệ thống của nhiều q trình luyện tập, đặc biệt là sự nỗ lực của cá
nhân. Quan điểm trên đây đã chỉ ra những yêu cầu cần thiết của việc hình thành kỹ
năng hành động: nhận thức và triển khai nó trong thực tiễn.
1.1.2.2. Các nghiên cứu về kỹ năng tự nhận thức
Theo tâm lý học phát triển, nhóm tác giả Dương Thị Diệu Hoa, Nguyễn Ánh
Tuyết, Nguyễn Kế Hào, Phan Trọng Ngọ, Đỗ Thị Hạnh Phúc [21] cho rằng: dấu hiệu
đầu tiên của quá trình hình thành nhân cách là sự xuất hiện của tự ý thức, cịn được gọi
là “cái tơi” hay ý thức bản ngã, tức là tự nhận thức, tự ý thức về bản thân mình.


9

Ở Việt Nam, vấn đề giáo dục kỹ năng nhận thức cho trẻ cũng đã được nhiều tác
giả quan tâm nghiên cứu và cũng đi theo những xu hướng khác nhau:

Xu hướng 1: Nghiên cứu vấn đề tự nhận thức của người trưởng thành
Đại diện là tác giả Lê Ngọc Lan, theo tác giả tự ý thức, tự nhận thức trong mối
liên hệ với các yếu tố bên trong của nhân cách, sự khác nhau về giới tính, tính chất các
hoạt động ảnh hưởng tới việc hình thành kỹ năng tự nhận thức của mỗi cá nhân. Ngoài
ra, các tác giả Nguyễn Quang Uẩn [50], Ngô Thiên Thạch, Đinh Thị Tứ, Ngơ Thị
Huệ... trong các cơng trình nghiên cứu đã xác định nguồn gốc, cơ sở hình thành kỹ
năng tự nhận thức là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố vật chất, tinh thần của mỗi con
người với môi trường xã hội, trong đó mơi trường hoạt động và giao tiếp đóng vai trị
quan trọng.
Xu hướng 2: Nghiên cứu vấn đề tự nhận thức bản thân của trẻ mẫu giáo.
Tự nhận thức bản thân của trẻ mẫu giáo mà trước hết là sự tự ý thức, tự đánh giá bản
thân của trẻ.Các tác giả Ngơ Cơng Hồn, Nguyễn Ánh Tuyết trong các cơng trình
nghiên cứu về sự phát triển tâm lý của trẻ em đã đề cập đến.Theo các tác giả, tự ý thức
là hạt nhân quan trọng của sự hình thành nhân cách trẻ. Tự ý thức được hình thành từ
cuối tuổi nhà trẻ và phát triển mạnh ở trẻ mẫu giáo, có vai trị to lớn đối với các hoạt
động vui chơi, học tập của trẻ mầm non. Đó là mầm mống, là tiền đề để biến quá
trình giáo dục thành tự giáo dục ở trẻ sau này, là điều kiện khơng thể thiếu cho sự
hồn thiện nhân cách của trẻ [17], [23], [42].Ngoài ra, một số tác giả khác như:
Nguyễn Thị Thư, Trần Thị Bích Ngọc, Bùi Thị Hồi… cũng đã có các đề tài nghiên
cứu về vấn đề tự nhận thức, sự hình thành kỹ năng tự nhận thức bản thân của trẻ
mẫu giáo [17], [27], [41].
Tác giả Hồng Thị Phương trong cuốn “Giáo trình lý luận và phương pháp
hướng dẫn trẻ làm quen với môi trường xung quanh” đã đưa ra nội dung giáo dục tự
nhận thức bản thân cho trẻ bao gồm: Hướng dẫn trẻ làm quen với cơ thể chúng; Giáo
dục trẻ tự nhận thức về tình cảm, ý nghĩ, hành vi; Giáo dục ý thức vị trí xã hội cho trẻ.
Tác giả đã khẳng định rằng: “Giáo dục tự nhận thức về bản thân là một phần quan
trọng của quá trình hình thành nhân cách trẻ. Trẻ ý thức về bản thân ngày càng đầy đủ
thì càng tích cực tham gia vào q trình hồn thiện bản thân để trở thành người”.Để
làm được điều đó, tác giả đã chỉ ra nội dung yêu cầu cụ thể của việc giáo dục tự nhận
thức bản thân với trẻ ở các lứa tuổi. [35]



10

Ngoài ra, một số tác giả khác như Trần Thị Thanh, Nguyễn Thị Thanh Thủy, Lê
Thị Ninh, Trần Việt Hồng… trong các tài liệu về việc cho trẻ khám phá môi trường
xung quanh cũng đã đề cập đến nội dung giáo dục tự nhận thức bản thân. Những
nghiên cứu trên là cơ sở lý luận trực tiếp của đề tài.
Nhóm tác giả Lê Xuân Hồng, Lê Thị Khang, Hồ Lai Châu, Hồng Mai có nghiên cứu
về kỹ năng sư phạm mầm non, phát triển những kỹ năng cơ bản cho trẻ mầm non. [27].
Tác giả Hoàng Thị Oanh, Nguyễn Thị Xuân [47] nghiên cứu để phát triển và rèn luyện
các kỹ năng nhận thức và kỹ năng khám phá khoa học về môi trường xung quanh cho
trẻ mầm non (kỹ năng quan sát, so sánh, phân nhóm, sử dụng, suy luận…). Tác giả
Nguyễn Thị Hòa lại nghiên cứu về kỹ năng nhận thức đối với việc phát huy tính tích
cực của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi thông quan trị chơi học tập.
Nhìn chung, ở Việt Nam cũng đã có tương đối nhiều các tác giả quan tâm,
nghiên cứu đến kỹ năng nói chung và kỹ năng tự nhận thức bản thân của trẻ mẫu giáo
nói riêng. Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu mói chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu
chung về vấn đề tự nhận thức chứ chưa tập chung chỉ rõ những biểu hiện về kỹ năng tự
nhận thức bản thân. Song, hầu hết các công trình nghiên cứu mới đề cập đến những vấn
đề chung liên quan tới kỹ năng tự nhận thức bản thân mà chưa đi sâu làm rõ đặc điểm,
quá trình, cơ chế tâm lý hình thành và phát triển kỹ năng tự nhận thức bản thân cũng
như các mức độ và biểu hiện kỹ năng tự nhận thức bản thân ở trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi.
Chính vì vậy, chúng tôi đã lựa chọn hướng nghiên cứu của đề tài nhằm làm rõ những
vấn đề này ở trẻ 5 – 6 tuổi.
Tóm lại, đã có rất nhiều nghiên cứu ở trong nước và ngoài nước về vấn đề liên
quan đến kỹ năng nhận thức bản thân của trẻ. Các nghiên cứu đi theo những xu hướng
khác nhau nhưng đều đã chỉ ra vai trò của việc rèn luyện kỹ năng tự nhận thức đối với
sự phát triển tâm lý, nhân cách trẻ, khẳng định ý nghĩa to lớn của việc rèn luyện kỹ
năng tự nhận thức bản thân cho trẻ lứa tuổi mầm non.

1.2. Các vấn đề lý luận về kỹ năng tự nhận thức bản thân của trẻ 5 - 6 tuổi
1.2.1. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1.1. Khái niệm kỹ năng
Kỹ năng là một vấn đề được nhiều nhà tâm lý học, giáo dục trong và ngoài nước
quan tâm. Ở các góc độ khác nhau, các tác giả có những quan niệm khác nhau về kỹ
năng, nhưng tổng kết lại có 2 quan niệm về kỹ năng như sau:


11

- Quan niệm thứ nhất, xem xét kỹ năng nghiêng về mặt kỹ thuật của hành động.
Đại diện cho loại quan niệm này là các tác giả V. A. Cruchetxki, V.V Tsebưseva, A.V.
Petrovxki…[29], [55]
- Quan niệm thứ hai, xem xét kỹ năng nghiêng về mặt năng lực của con người. Đó là
quan niệm của các tác giả: N.Đ.Levitov, X.I. Kixegof, K. K. Platonov, Xavier Roegiers,
Kevin Barry, Ken King, Trần Quốc Thành, Nguyễn Quang Uẩn… [10], [34], [50].
Theo quan niệm thứ hai, coi kỹ năng không chỉ đơn thuần là kỹ thuật hành động
mà nó cịn là biểu hiện của năng lực, kỹ năng vừa có tính ổn định, vừa có tính mềm
dẻo. Nhờ có sự mềm dẻo mà con người có tính sáng tạo hoạt động thực tiễn. Ở đây, các
tác giả có chú ý đến kết quả của hành động.
Từ những quan niệm trên, chúng tôi đi đến kết luận:
Kỹ năng là sự vận dụng tri thức, kinh nghiệm vào hoạt động hay hành động thực
tiễn trong điều kiện cụ thể để thực hiện hành động hay hoạt động đó có kết quả theo
mục đích đã đề ra.
- Người có kỹ năng hành động trong một lĩnh vực hoạt động được biểu hiện ở
những dấu hiệu sau đây:
+ Có tri thức về hành động: nắm được mục đích hành động; Nắm được cách
thức thực hiện hành động và các điều kiện thực hiện hành động.
+ Thực hiện hành động đúng với các yêu cầu của nó.
+ Hành động đạt kết quả theo mục đích đề ra.

+ Có thể thực hiện hành động có kết quả trong những điều kiện thay đổi.
Nghĩa là, kỹ năng đòi hỏi, trước hết con người phải có tri thức, kinh nghiệm cần
thiết về hành động.Tuy nhiên tri thức và kinh nghiệm chưa phải là kỹ năng. Kỹ năng
chỉ có được khi con người vận dụng những tri thức và kinh nghiệm đó vào hoạt động
thực tiễn một cách có kết quả. Có thể nói, tri thức và kinh nghiệm là những điều kiện
cần để hình thành kỹ năng, việc vận dụng tri thức, kinh nghiệm vào hoạt động thực tiễn
nhằm đạt được mục đích đề ra là điều kiện đủ để hình thành kỹ năng.
1.2.1.2. Khái niệm nhận thức
Nhận thức là một trong những mặt hoạt động của đời sống tâm lý con người. Nó
là tiền đề của tình cảm và hành động ý chí nhưng lại có quan hệ mật thiết với chúng.
Có nhiều quan điểm khác nhau mô tả và xây dựng khái niệm “nhận thức”
như sau:


12

Theo từ điển Giáo dục học thì “Nhận thức là quá trình hoặc kết quả phản ánh và
tái hiện hiện thực khách quan vào trong tư duy của con người”.Điểm xuất phát đầu tiên
của nhận thức là cảm giác, các cảm giác được lặp lại tạo thành tri giác.Các sự vật, hiện
tượng đã được tri giác trước đó nay dù khơng hiện diện trước mặt nhưng vẫn có thể
hình dung thấy, vẫn được tái hiện dưới dạng biểu tượng. [39]
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam: “Nhận thức là qua trình biện chứng của sự
phản ánh thế giớ khách quan trong ý thức con người, nhờ đó mà con người tư duy và
không ngừng tiến đến khách thể”.
Theo quan điểm triết học: Các nhà triết học duy vật biện chứng đã xác định rõ
mục đích của q trình nhận thức là cải tạo thế giới xung quanh. Nhận thức là quá trình
biện chứng diễn tra rất phức tạp bao gồm nhiều giai đoạn và hình thức khác nhau.
Theo tâm lý học, nhận thức được xem xét như sau:
Theo quan điểm của piaget (1896 – 1980), quá trình nhận thức được coi là sự
tổng hợp của hai quá trình trái ngược và bổ xung lẫn nhau: Q trình đồng hóa và quá

trình điều ứng. Đứng trước một sự vật, hiện tượng, để tìm hiểu hay tác động lên nó,
con người bước đầu vận dụng một “sơ cấu” hành động hoặc tư duy đã có từ bẩm sinh
hoặc trải nghiệm trước đó là q trình đồng hóa.Tuy nhiên, con người thường gặp
những sự vật hiện tượng mang những đặc tính mới khác với “sơ cấu” vốn có khi ấy
phải điều chỉnh tức là tạo ra mơ hình sơ cấu mới để song nạp được sự vật, hiện tượng
mới đó, q trình này được gọi là điều ứng. Cả đồng hóa và điều ứng đều nhằm giúp cá
thể thích nghi với mơi trường và đạt đến sự cân bằng. Quan điểm này có tác dụng rất
lớn trong việc giải thích sự phát triển q trình nhận thức và tự thích nghi của con
người với môi trường.[36]
- Quan điểm theo lý thuyết thông tin: Quá trình nhận thức của con người được
xem như quá trình thu nạp và xử lý thơng tin trong một hệ thống máy tính, trong đó các
thơng tin được các cơ quan cảm giác của con người ghi lại và xử lý, quá trình này theo
họ thực chất là quá trình chuyển hóa thơng tin qua lại giữa bộ nhớ động và bộ nhớ tĩnh.
Bộ nhớ sử dụng như một màn hình máy tính, trong cùng một lúc nó có thể hiểu và biểu
diễn ra thành phần ứng bên ngoài và tối đa không tồn tại đối tượng khác nhau cịn bộ
nhớ tĩnh như cái thư viện khổng lồ có sức chứa gần như vô hạn. Các thông tin từ bộ
nhớ hoạt động có thể được ghi lại trực tiếp vào bộ nhớ tĩnh hoặc ghi vào nhờ quá trình
lặp lại, ngược lại, thơng tin từ bộ nhớ tĩnh có thể được lấy trở lại bộ nhớ hoạt động nhờ


13

q trình hồi tưởng, đơi khi thơng tin có thể bị mất đi do khơng có ý nghĩa hoặc khơng
được sử dụng lại (Hiện tượng quên). Lý thuyết thông tin về quá trình nhận thức cho
phép hình dung một cách khá tường minh về quá trình nhận thức khách quan nhưng
không kể đến tác động qua lại với các quá trình tâm lý khác, những đặc điểm mang
tính chủ quan của chủ thể, cách tiếp cận này tỏ ra tương đối thuận lợi cho việc mô tả lại
các đặc điểm nhận thức của trẻ. [22]
Phân tích các quan điểm trên về khái niệm “nhận thức” chúng tôi xác định khái
niệm “nhận thức” như sau:

“ Nhận thức được hiểu là quá trình chủ thể tiếp nhận những thơng tin và xử lý
những thông tin thu được làm cơ sở cho việc định hướng, điều khiển, điều chỉnh hành
vi của mình nhằm đảm bảo sự thích ứng và phát triển của cá nhân”.
1.2.1.3. Khái niệm tự nhận thức
Để có cách hiểu về tự nhận thức làm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu thực tiễn
của đề tài, chúng tôi đã phân tích các quan điểm khác nhau về tự nhận thức để tìm hạt
nhân hợp lý.
Theo nhà tâm lý học người Nga N.N. Yechocoba “tự nhận thức như là mắt xích
đầu tiên và là cơ sở tồn tại thể hiện của tự ý thức.Qua nhận thức, con người đi từ những
hiểu biết xác định về bản thân. Những hiểu biết đó đi vào nội dung của tự ý thức như là
tâm điểm của nó”.
Nhà tâm lý học S.Franz cho rằng, tự nhận thức là một thành phần của tự ý
thức.Tự nhận thức là q trình nhận thức hướng vào chính bản thân mình cùng với kết
quả của q trình đó. [57]
Theo quan điểm của S.Franz: “Quá trình tự nhận thức là q trình phong phú và
phức tạp, nó được thực hiện trong các quá trình thành phần khác nhau, chỉ cá thể tách
ra một cách tương đối về mặt lý thuyết? Vậy các quá trình tự nhận thức bao gồm các
quá trình cung cấp tài liệu ban đầu như tự quan sát, tự phân tích thơng qua hoạt động
và giao tiếp của bản thân. Kết quả của sự tự quan sát, tự phân tích phụ thuộc vào tính
chất phức tạp của hoạt động. Hoạt động càng phức tạp thì con người càng hiểu biết mình
rõ hơn, hiểu biết về cơ thể bản thân, về những khái quát khả năng của bản thân”. [57]
Theo I.I.Trexnocova, tự nhận thức là một thành phần trong cấu trúc của tự ý
thức, trong cấu trúc đó gồm có 3 mặt thống nhất:
+ Nhận thức (có tự nhận thức)


14

+ Cảm xúc gía trị (có thái độ đối với bản thân)
+ Hành động ý chí (tự điều chỉnh, điều khiển hành vi)

Tự nhận thức là quá trình phát triển cao của con người. Đây là một trong những
vấn đê phức tạp và quan trọng nhất của chủ thể.Tự nhận thức được hiểu là quá trình cá
nhân phân biệt cái thuộc về mình, đặc biệt là phân tách cái tơi nội tâm của mình để hiểu
được mình với đặc điểm tâm lý, nhân cách và phẩm chất đạo đức riêng của cá nhân. [36]
Tự nhận thức là khả năng bạn nhận biết một cách chính xác về cảm xúc của
mình ngay khi nó xảy ra và hiểu mình có khuynh hướng làm gì trong tình huống đó….
Kỹ năng biết tự nhận thức giá trị bản thân giúp trẻ hiểu rõ bản thân mình: Đặc điểm,
tính cách, thói quen, thái độ, ý kiến, cách suy nghĩ, cảm xúc, nhu cầu của chính mình,
các mối quan hệ xã hội cũng như những điểm tích cực và hạn chế của bản thân.
Tự nhận thức khơng phải là khám phá những bí mật thầm kín, đen tối hoặc
những động cơ vơ thức mà mà là phát triển một sự hiểu biết chính xác và trung thực về
những điểm mạnh của bản thân. Một điều ngạc nhiên về sự nhận thức là chỉ cần nghĩ
về nó thơi đã đủ giúp cho con người cải thiện kỹ năng, cho dù thoạt đầu bạn có khuynh
hướng tập trung vào những gì bạn làm sai. Đạt được khả năng tự nhận thức có nghĩa
là bạn khơng cịn sợ mình sai lầm trong cảm xúc nữa.
Dựa vào cách hiểu trên, chúng tôi xác định khái niệm “tự nhận thức” như sau:
“Tự nhận thức là quá trình chủ thể tiếp nhận thông tin và xử lý thông tin về
bản thân làm cơ sở cho việc định hướng, điều khiển, điều chỉnh hành vi của mình
trong mối quan hệ với mơi trường xung quanh nhằm đảm bảo sự thích ứng và tự
phát triển của cá nhân”.
* Tự nhận thức có quan hệ mật thiết với tự ý thức:
- Tự nhận thức là một thành phần của tự ý thức, là mắt xích đầu tiên, là cơ sở để
tồn tại và phát triển của tự ý thức.
- Trong cấu trúc tự ý thức chứa đựng tự nhận thức ở tất cả các mặt cấu thành của nó.
- Tự nhận thức là quá trình (đồng thời là kết quả) nhận thức hướng vào bản thân.
- Tự nhận thức được bắt đầu bằng sự hiểu biết bản thân làm cơ sở cho sự tự ý
thức về mình.
1.2.1.4. Khái niệm kỹ năng tự nhận thức bản thân
Có thể nói, kỹ năng tự nhận thức bản thân là kỹ năng căn bản; một khi bạn đã có
nó, bạn sẽ vận dụng những kỹ năng trí tuệ, cảm xúc khác dễ hơn nhiều. Khi mức độ tự



15

nhận thức tăng lên, sự thỏa mãn của con người trong cuộc sống - được định nghĩa là
khả năng họ có thể đạt được những mục tiêu trong cơng việc.
Kỹ năng tự nhân thức bản thân còn được hiểu là năng lực cá nhân vận dụng có
hiệu quả những tri thức, những kinh nghiệm thành hành động để nhận biết đúng đắn
mình là ai, mình có thể làm được gì, mình đang sống trong hồn cảnh nào.
Tác giả Trần Thanh Bình [6, tr9] quan niệm: “Kỹ năng tự nhận thức bản thân là
khả năng một người nhận biết đúng đắn rằng: mình là ai, sống trong hồn cảnh nào,
u thích điều gì, ghét điều gì, điểm mạnh và điểm yếu của mình ra sao, mình có thể
thành cơng ở những lĩnh vực nào, những độn g cơ thúc đẩy bản thân hành động và phải
vui vẻ, muốn thay đổi bản thân và những thành quả mong đợi, các niềm tin, giá trị bản
thân…”. Từ đó, có thể cảm nhận được cảm xúc của nhiều người khác nữa, hiểu được
những gì người khác nói với mình và cách mà cảm xúc của mình ảnh hưởng đến những
người xung quanh. Nó bao gồm: cảm giác, ý nghĩ của bản thân cũng như khi bản thân
mình hiểu được cảm xúc của người khác như thế nào, nó cho phép bản thân mình kiểm
sốt được mối quan hệ của mình hiệu quả hơn, hịa hợp hơn.
Dựa vào các cách hiểu trên, chúng tôi đưa ra khái niệm về kĩ năng tự nhận thức
bản thân như sau: “Kỹ năng tự nhận thức bản thân là sự vận dụng tri thức, kinh nghiệm
của bản thân chủ thể vào hoạt động tìm hiểu và khám phá chính mình”
1.2.2. Đặc điểm nhận thức của trẻ 5 – 6 tuổi
1.2.2.1. Một số đặc điểm cơ bản của hoạt động nhận thức
Các tiến trình nhận thức liên quan đến việc quyết định biến cố nào trong nhiều
biến cố bên ngoài sẽ được quan sát và cá nhân tiếp nhận, phản ứng với các biến cố này
như thế nào. Nhận thức ảnh hưởng đến hành vi của trẻ về một số phương diện. Trước
tiên một động cơ thúc đẩy nào đó được căn cứ theo nhận thức trong đó, trong một số
trường hợp, các hành động có thể phát sinh khơng phải sự kích thích từ yếu tố bên
ngồi mà từ các hoạt động nhận thức nội tại. Do đó, những ý nghĩ về hậu quả của

tương lai và một hành vi có thể đang thúc đẩy, và về mặt nhận thức các mục tiêu được
ấn định có thể thúc đẩy hành vi. Qua nhận thức, moi người hoạt động như những tác
nhân tích cực trong sự năng động của chính mình.Nhận thức cũng giữ vai trị khác
trong việc quyết định hành vi.[40; tr435 - 436]
Nhận thức gồm 4 đặc trưng cơ bản sau:


16

+ Thứ nhất: Hoạt động nhận thức có mục đích khám phá, tái tạo lại và sáng tạo
thế giới, nhằm thỏa mãn nhu cầu nhận thức của con người, qua đó hình thành và phát
triển hiểu biết của con người về thế giới và phương pháp vận động của nó. Thực chất
hoạt động nhận thức là quá trình cá nhân tích cực hoạt động trong thế giới sự vật, hiện
tượng, thâm nhập vào chúng, khám phá, phân tích tái tạo lại, cấu trúc lại chúng bằng
các vận động vật chất, tinh thần, trí óc.
+ Thứ hai: Trong hoạt động nhận thức con người không trực tiếp tác động vào
đối tượng, mà phải gián tiếp thông qua công cụ (phương tiện). Vì vậy, trong hoạt động
nhận thức bao giờ cũng diễn ra một quá trình kép: Quá trình tìm hiểu và nắm cũng cách
sử dụng công cụ (học cách sử dụng cơng cụ) và q trình tìm hiểu, tái tạo đối tượng
nhận thức. Hai q trình này khơng tách rời nhau, thường chuyển hóa lẫn nhau tạo
thành bản chất của quá trình nhận thức về đối tượng và cách tiếp cận đối tượng.
+ Thứ ba: Hoạt động nhận thức diễn ra trong mối tương tác trực tiếp hoặc gián
tiếp giữa các cá nhân.
+ Thứ tư: Hoạt động nhận thức có nhiều cấp độ, tùy thuộc vào sự tham gia của
các chức năng nhận thức: cảm tính và lý tính. Trong nhận thức cảm tính vai trị chủ đạo
thuộc về cảm giác, tri giác, dựa trên nền tảng của q trình trí nhớ, kết hợp với sự tham
gia của tư duy tái tạo.trong nhận thức lý tính, vai trị chủ đạo thuộc về tư duy logic, tư
duy và tưởng tượng sáng tạo.
Các cơ chế này không tồn tại riêng rẽ hoặc xếp chồng lên nhau.Chúng đan xen,
kế thừa, giao thoa và hỗ trợ nhau trong suốt quá trình phát triển cá nhân và xã hội. [40]

1.2.2.2. Đặc điểm tâm lý nhận thức của trẻ 5 – 6 tuổi
* Đặc điểm về cảm giác và tri giác
Ở lứa tuổi mẫu giáo lớn, cùng với sự hồn thiện của các giác quan thì hoạt động
nhận cảm của trẻ tiếp tục được hoàn thiện, độ nhạy cảm của các giác quan được nâng
cao, việc phân tích các thuộc tính sự vật, hiện tượng xung quanh hiệu quả hơn trước.
Cùng với cảm giác, tri giác cũng phát triển mạnh.Trẻ mẫu giáo lớn rất ham học học,
tìm tịi, thích quan sát, tìm hiểu thế giới xung quanh và đặc biệt là khám phá những
điều mới lạ. Khi phạm vi tiếp xúc với thế giới xung quanh ngày càng được mở rộng thì
vốn hiểu biết của trẻ càng phong phú và sâu sắc hơn dẫn tới nhu cầu nhận thức ngày
càng cao hơn. [45]


17

Trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi không thỏa mãn với những hiểu biết về bên ngoài của
các sự vật, hiện tượng xung quanh mà chúng bắt đầu muốn khám phá, muốn tìm kiếm
những dấu hiệu, bản chất bên trong và mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng. Nhờ đó,
kỹ năng tự nhận thức bản thân của trẻ được kích thích và phát triển hơn.
* Đặc điểm về chú ý
Theo A.V.Daparojet: “Khả năng chú ý ở trẻ 5 – 6 tuổi có thể kéo dài từ 30 –
35 phút nếu đối tượng đó hấp dẫn, có nhiều thay đổi, kích thích được sự tị mị, ham
hiểu biết của trẻ”.[12]
Chú ý có chủ đích được phát triển trong q trình giáo dục.Nó được hình thành
và phát triển mạnh với những loại kích thích mới.
Trẻ 5 – 6 tuổi đặc biệt nhảy cảm với ngơn ngữ nói. Trẻ hướng sự chú ý của
mình tới những đặc điểm của lời nói như giọng điệu, ngữ diệu….Trẻ nhận ra được thái
độ, tình cảm của người lớn, bạn bè xung quanh.
Chú ý là một đặc điểm quan trọng đối với nhận thức của trẻ mẫu giáo: “Khơng
chú ý vào một việc gì có chủ định hoặc khơng điều khiển được chú ý thì kết quả nhận
thức sẽ hết sức hạn chế. Vì vậy, khi tổ chức các hoạt động trí tuệ cho trẻ trước hết cần

giáo dục năng lực điều khiển chú ý, năng lực chú ý có chủ định bền vững”.
* Đặc điểm về trí nhớ
Trí nhớ của trẻ 5 – 6 tuổi phát triển mạnh song chủ yếu vẫn là trí nhớ khơng chủ
định.Tuy nhiên,trí nhớ của trẻ vẫn đặc trưng bởi trí nhớ trực quan hành động.Cuối tuổi
mẫu giáo bắt đầu hình thành trí nhớ logic ở trẻ.Trẻ ghi nhớ cái gì đó có ý nghĩa tốt hơn
những cái khơng có ý nghĩa vì thế, trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi khơng phải chỉ có ghi nhớ
máy móc mà cịn có khả năng ghi nhớ ý nghĩa.Đến giai đoạn này thì trí nhớ có chủ
định được phát triển trên nền tảng vững chắc hơn. Từ chỗ trẻ chưa biết đặt một nhiệm
vụ ghi nhớ nào cả, dần chuyển sang ghi nhớ có chủ đích, có mục đích. [45]
* Đặc điểm về tư duy
Cùng với sự mở rộng hiểu biết của mình, trong hoạt động trí tuệ của trẻ mẫu
giáo 5 – 6 tuổi có sự thay đổi, tư duy trực quan hình tượng của trẻ phát triển mạnh và
chiếm ưu thế. Trong thực tế, những thuộc tính bản chất của sự vật, hiện tượng mà trẻ
cần tìm hiểu lại bị che giấu, khơng thể hình dung được bằng hình ảnh.Loại tư duy này
không đáp ứng được nhu cầu nhận thức đang phát triển mạnh mẽ ở trẻ.Cho nên, cuối
tuổi mẫu giáo lớn xuất hiện kiểu tư duy trực quan sơ đồ ở mức độ cao hơn.Tư duy trực


18

quan sơ đồ giúp trẻ lĩnh hội những tri thức mang tính khái quát và đây chính là bước
phát triển đáng kể trong tư duy của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi. [45]
* Đặc điểm về ngôn ngữ
Lứa tuổi mẫu giáo lớn là thời kỳ mà ngôn ngữ phát triển rất nhanh cả về số
lượng lẫn chất lượng. Khi giao tiếp, trẻ đã bắt đầu hiểu nghĩa của các từ , biết sử dụng
tiếng mẹ đẻ để diễn đạt rõ ràng, mạch lạc ý nghĩa và từng bước thể hiện các sắc thái
tình cảm cho phù hợp trong lời nói.
Bước sang tuổi mẫu giáo lớn, tự ý thức của trẻ được xác định rõ ràng cho phép
trẻ thực hiện các hành động một cách chủ đích hơn, nhờ đó trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trở
thành những chủ thể có những năng lực, có những sáng kiến, có khả năng tư duy và

giao tiếp với mọi người theo một cách riêng. [45]
1.2.3. Một số vấn đề lý luận về kỹ năng tự nhận thức bản thân của trẻ 5 - 6 tuổi
1.2.3.1. Khái niệm kỹ năng tự nhận thức bản thân của trẻ 5 - 6 tuổi
Từ các khái niệm “kỹ năng”, “kỹ năng tự nhận thức bản thân” chúng tôi xây
dựng định nghĩa về “kỹ năng tự nhận thức bản thân của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi” như sau:
“Kỹ năng tự nhận thức bản thân của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi là sự vận dụng tri
thức, kinh nghiệm của bản thân trẻ vào các hoạt động tìm hiểu, khám phá các đặc điểm
liên quan đếnhình dáng cơ thể; các khả năng; phẩm chất của bản thân trẻ và vị thế xã
hội của trẻ với mọi người xung quanh.”
Tự nhận thức bản thân là khả năng giúp con người nhận biết một cách chính xác
về cảm xúc của mình ngay khi đó xảy ra và hiểu mình có khuynh hướng làm gì trong
tình huống đó.Tự nhận thức bao gồm việc kiểm soát được những phản ứng thông
thường của bản thân đối với những sự việc, thách thức và đối tượng cụ thể.Hiểu biết
thấu đáo về khuynh hướng của bản thân đóng vai trị rất quan trọng, nó giúp con người
nhanh chóng nắm bắt được cảm xúc của mình. Khả năng tự nhận thức tốt địi hỏi con
người sẵn sàng chịu đựng khó chịu khi phải chú ý đến những cảm xúc đôi khi tiêu cực.
Tự nhận thức bản thân là kỹ năng căn bản, một khi đã có nó một khi đã có nó thì
bạn sẽ vận dụng những kỹ năng trí tuệ, cảm xúc khác dễ dàng hơn.Khi mức độ tự nhận
thức tăng lên, sự thỏa mãn của con người trong cuộc sống được định nghĩa là khả năng
họ có thể đạt được những mục tiêu trong cơng việc và cuộc sống gia đình sẽ gia tăng
đột biến.
1.2.3.2. Đặc điểm kỹ năng tự nhận thức bản thân của trẻ 5 - 6 tuổi


19

Vấn đề tự nhận thức của trẻ cũng đã được các nhà giáo dục quan tâm nghiên cứu
và cho rằng trẻ em sớm có những hứng thú tìm hiểu bản thân và q trình này diễn ra
một cách tích cực. Từ chỗ phát triển nhận thức đến cuối tuổi mẫu giáo trẻ trở nên có
khả năng (tất nhiên là trong dạng đặc biệt) ý thức được cả chính bản thân mình: Ý thức

“cái tơi xã hội” của chính mình và xuất hiện trên cơ sở đó vị thế bên trong tức là thái
độ trọn vẹn nào đó đối với xung quanh và đối với chính bản thân mình.
- Trẻ biết được vị trí của mình trong nhóm bạn cùng tuổi, trong gia đình và
trong lớp học. Trẻ ở lứa tuổi này biết rõ mình là con ai, cháu của ai… Trong ngôn từ đã
biết dùng những đại từ phù hợp khi giao tiếp (trẻ xưng con với bố mẹ, cháu với ông bà,
em với anh, chị, anh – chị với em nhỏ hơn và bạn với bạn bè…).
- Trẻ mẫu giáo lớn nhận biết giới tính của mình. Khơng những trẻ biết mình là
trai hay gái, mà cịn biết rõ phải có hành vi, ăn mặc, đầu tóc (hình thức bên ngồi) như
thế nào cho phù hợp với giới tính của mình.
Ở trẻ mẫu giáo lớn xuất hiện mong muốn có vị trí mới “người lớn” hơn, muốn
thực hiện hoạt động mới quan trọng đối với bản thân và đối với những người xung
quanh. Ở giai đoạn này, lần đầu tiên xuất hiện ý thức của chính đứa trẻ về sự khơng
phù hợp giữa vị trí xã hội khách quan của trẻ về “vị thế bên trong”. Ở trẻ xuất hiện nhu
cầu vượt ra ngồi hình ảnh ban đầu của cuộc sống bản thân, chiếm lĩnh vị trí mới vừa
sức và thực hiện hoạt động có tính chất xã hội thực sự nghiêm chỉnh - vị trí của người
học sinh và hoạt động học tập.
Bên cạnh sự phát triển tự nhận thức xảy ra sự phát triển thái độ, cảm xúc, giá trị
đối với bản thân.Mọi sự tự đánh giá đều là sự thống nhất giữa nhận thức và cảm
xúc.Trẻ càng ngày càng trải nghiệm nhiều hơn sự vui sướng từ nhận thức những khả
năng của mình, những cải tạo vừa sức trong thế giới xung quanh. J.Piagiet đã khẳng
định một cách đúng đắn rằng: “Điều khiển hành động bằng nhận thức và bằng xúc cảm
trải qua con đường phát triển tiến bộ trong suốt thời kỳ thơ ấu, chúng phối hợp và bố
sung lẫn nhau”. [22]
Trẻ nhận biết trạng thái xúc cảm và tình cảm của mình.Đơi khi trẻ tự nhận ra cái
gì chính đáng gây cho trẻ sự đồng tình, sự buồn rầu hay khối trá. Sự lĩnh hội các
chuẩn mực, các quy tắc hành vi, sự phát triển tự nhận thức ở trẻ dẫn tới chỗ bản thân
việc thực hiện hay không thực hiện các chuẩn mực này gây cho trẻ niềm vui sướng, tự


20


hào hay ngược lại là sự đâu khổ, sự xấu hổ ngay cả khi không ai biết cử chỉ của nó, khi
trẻ chỉ có một mình.
Như vậy, có thể thấy khả năng tự nhận thức của trẻ mẫu giáo bao gồm các yếu tố sau:
- Có hứng thú và nhu cầu tự nhận thức (Lịng mong muốn tìm hiểu, khám phá
bản thân mình).
- Có kỹ năng, năng lực tự nhận thức biết vận dụng những điều đã biết vào trong
điều kiện mới, hoàn cảnh mới để khám phá bản thân. Biết sử dụng một số thao tác tư
duy (so sánh, phân tích, tổng hợp, khái qt hóa…) để giải quyết nhiệm vụ nhận thức
về bản thân.
- Có thái độ tích cực đối với việc nhận thức bản thân
Giao tiếp bằng ngôn ngữ khiến phạm vi quan hệ của trẻ được mở rộng và phát
triển, tạo điều kiện cho trẻ tự nhận thức và đánh giá bản thân mình. Trẻ dần nhận ra
được tên gọi của mình và mọi người thân, bạn bè xung quanh trẻ. Cuối tuổi lên ba, trẻ
có sự phát triển nhảy vọt.Từ chỗ xưng hô bản thân mình ở ngơi thứ ba, trẻ bắt đầu
xưng hơ ở ngôi thứ nhất. Điều đặc biệt đối với trẻ là trong tiếng Việt, việc xưng hô ở
ngôi thứ nhất rất phức tạp nhưng trẻ vẫn tự nhận thức được và biết cách xưng hô “con”
với “bố, mẹ, cô giáo”, “em” với “anh, chị”, xưng hô “cháu” với “ông bà, cô, dì, chú,
bác…” một cách tương ứng. Và cũng rất nhanh chóng sau đó, trẻ muốn được độc lập,
muốn “tự mặc lấy quần áo”, “tự đi giầy”, “tự xúc cơm ăn”. Do kiên trì thực hiện ý
muốn của mình, qua quá trình rèn luyện và luyện tập đúng cách, trẻ có thể nhận thức
được khả năng của bản thân mình. Dần dần, trẻ biết phân biệt hành động, hành vi và
việc làm của mình là “ngoan” hay “hư”, nếu người lớn luôn tỏ thái độ nhất quán đối
với hành động, việc làm của trẻ. Từ đó, trẻ muốn trở thành “bé ngoan” để được người
lớn khen, được thưởng.Để muốn được người lớn khen ngợi, ngay cả trẻ mẫu giáo cũng
tự nhận thức mình có những phẩm chất tốt (dù khơng hiểu gì về những phẩm chất đó).
Khi đánh giá các bạn và đánh giá mình, trẻ chỉ nhắc lại một cách đơn giản ý kiến của
người lớn chứ chưa có căn cứ “thế là hư đấy! Cô bảo thế”, hay “Bạn A ngoan lắm, học
giỏi lắm! Cô bảo thế”… Đến cuối tuổi mẫu giáo, sự phát triển của các chức năng tâm
lý (nhận thức, cảm xúc, ý chí…) đã khiến tự nhận thức của trẻ phát triển lên một mức

cao hơn. Trẻ mẫu giáo đã có khả năng đánh giá đúng mình trong những hành động,
hành vi và việc làm cụ thể.


21

Tóm lại, sự tự nhận thức có vai trị quan trọng đối với mỗi đời sống cá nhân. Nó
giúp con người lĩnh hội nhận thức một cách tích cực, tự giác để vận dụng linh hoạt vào
cuộc sống. Việc hình thành khả năng tự nhận thức cho trẻ là một việc làm rất cần thiết
và có ý nghĩa đối với sự phát triển và hoàn thiện nhân cách của trẻ sau này.
1.2.3.3. Các kỹ năng thành phần của kỹ năng tự nhận thức bản thân ở trẻ 5 - 6 tuổi
* Kỹ năng tự nhận thức về vị thế của bản thân
Đây là kỹ năng nhận thức đầu tiên và hình thành sớm hơn cả của con người về
bản thân mình. “Cái tơi xã hội” của trẻ được hình thành ngay từ cuối tuổi nhà trẻ, đầu
tuổi mẫu giáo.Kỹ năng này hình thành cho trẻ tình cảm bền vững đối với mọi người
xung quanh, củng cố sự tin tưởng vào bản thân và giáo dục lòng tự trọng cho trẻ.Trẻ
biết được tên gọi, họ tên của mình, cha mẹ, những người thân trong gia đình, địa chỉ
gia đình và nói đến tên của mình với tư cách là người thứ nhất.Tự nhận thức về vị thế
của bản thân còn được trẻ thể hiện trong sự phân biệt giới tính. Trẻ biết mình là trai hay
gái và có hành động phù hợp với giới tính. Trẻ biết được vị trí của mình trong gia đình
(có anh, có em hoặc chị). Trẻ biết được thái độ của mọi người trong gia đình đối với trẻ
(có yêu quý hay quan tâm tới trẻ khơng?...). Trẻ biết tên lớp học, trường học của mình
và xác định được vị trí của mình trong khơng gian thế giới đồ vật…
Như vậy, kỹ năng tự nhận thức bản thân là một kỹ năng quan trọng trong quá
trình hình thành nhân cách của trẻ.Trẻ ý thức về bản thân càng đầy đủ thì càng tích cực
tham gia vào qua trình hồn thiện bản thân để trở thành người. [35]
* Kỹ năng tự nhận thức về hình dáng bên ngoài của bản thân
Đây là kỹ năng tự nhận thức đặc trưng và rõ ràng nhất của trẻ mẫu giáo về bản
thân mình. Trẻ đã có kỹ năng tự nhận thức về cơ thể của mình, về các bộ phận trên cơ
thể và hình thức của bản thân;Trẻ hiểu ý nghĩa của các giác quan và các bộ phận trên

cơ thể (các giác quan và các bộ phận trên cơ thể dùng để làm gì?); Chúng ta biết rằng,
ngay từ khi cịn nhỏ, trẻ đã có những hoạt động tự khám phá bản thân, dần dần trẻ tách
khỏi mình ra ngoài cuộc sống xung quanh, đến 5 tuổi, trẻ đã có được những nhận thức
tương đối phù hợp về hình thức bên ngồi của mình. [35]
* Kỹ năng tự nhận thức về khả năng của bản thân
Đây là kỹ năng nhận thức được hình thành thơng qua q trình hoạt động của
con người trong lao động, sinh hoạt, học tập, vui chơi….Từ những hoạt động đó mà ở
mỗi con người tự nhận thức được khả năng của mình. Kỹ năng tự nhận thức về khả năng


22

của bản thân cũng được hình thành từ lứa tuổi mầm non với những biểu tượng đơn giản như
khả năng vận động, khả năng hát, khả năng múa, khả năng vẽ tranh, khả năng đọc thơ, kể
chuyện… Cùng với sự lớn lên của đứa trẻ, kỹ năng tự nhận thức này càng phát triển. Từ đó,
con người có thể hiểu biết được về những khả năng đặc biệt của bản thân như chun mơn
về một ngành nghề nào đó hoặc khả năng âm nhạc, hội họa…. [35]
* Kỹ năng tự nhận thức về một số phẩm chất của bản thân
Theo nhận định của các nhà tâm lý học trẻ em, thì trẻ mới bước vào tuổi mẫu
giáo chưa hiểu biết gì mấy về bản thân và những phẩm chất của mình, nhưng đến cuối
tuổi mẫu giáo trẻ bắt đầu hiểu được một cách chung chung mình là người như thế nào,
có những phẩm chất gì? Trẻ thường đánh giá những hành vi, cử chỉ của mình thành
“ngoan”, “khơng ngoan” (hay là hư); Mình có “dũng cảm” hay khơng? Mình có “tự
tin” hay “nhút nhát”... Trẻ đối chiếu hành vi của mình với yêu cầu của người lớn và các
chuẩn mực, các quy tắc xã hội nói chung. Trẻ được thường xuyên đánh giá đúng và cụ
thề hành vi của mình theo các tiêu chuẩn, quy tắc đạo đức xã hội thì ở trẻ sẽ hình thành
đúng đắn các biểu hượng về hành vi ấy. [35]
1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng tự nhận thức bản thân của trẻ 5 – 6 tuổi
1.2.4.1. Các yếu tố khách quan
* Ảnh hưởng của gia đình tới kỹ năng tự nhận thức bản thân của trẻ giáo 5 – 6 tuổi

Gia đình là một tập hợp người cùng chung sống gắn bó với nhau bằng quan hệ
hơn nhân, huyết thống. Có thể coi gia đình là một nhóm nhỏ trong xã hội, ở đó mọi
người có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, điều chỉnh hành vi của nhau dựa trên
cơ sở là tình u thương, nó đảm bảo cho mối quan hệ bền vững của gia đình. Mỗi
thành viên trong gia đình ln có sự quan tâm, chia sẻ và giúp đỡ, động viên nhau dựa
trên sự ảnh hưởng của các thành viên với nhau theo quan hệ hôn nhân và huyết thống.
Trong bất cứ gia đình nào con cái cũng chịu sự tác động rất lớn từ phía cha mẹ và các
thành viên khác trong gia đình. Trẻ cũng tham gia vào tất cả các mối quan hệ với các
thành viên trong gia đình. Từ đây, trẻ xác định được mối quan hệ của mình với từng
người, vị trí của mình đối với mỗi người và từ đó biết được cách ứng xử phù hợp với
mỗi người trong gia đình mình theo các giá trị chuẩn mực đạo đức. Cụ thể như trẻ biết
họ tên các thành viên trong gia đình, trẻ quan tâm đến gia đình, quan tâm tới các thành
viên trong gia đình, trẻ tự hào về gia đình mình, dịng họ của mình… [21]


23

Trong gia đình, quan hệ và sự tác động của cha mẹ và trẻ cũng có vai trị rất
quan trọng. Việc cha mẹ trò chuyện cùng trẻ, chơi cùng trẻ cũng kích thích hứng thú
nhận thức của trẻ, khơi gợi trí tị mị, nhu cầu khám phá và hình thành các kỹ năng tự
nhận thức bản thân, thúc đẩy quá trình tư duy, khả năng tưởng tượng sáng tạo của trẻ.
Tuy vậy, cũng cần lưu ý, không phải lúc nào cha mẹ cũng giải thích cặn kẽ mà hãy đặt
cho trẻ những câu hỏi, khuyến khích trẻ suy nghĩ nhiều hơn về những điều chúng thấy
mới là một cách hữu ích để giúp trẻ hình thành những kỹ năng nhận thức cơ bản.
Đối với sự phát triển tự nhận thức của trẻ thì người mẹ đóng vai trị quan
trọng.Mẹ là thế giới bên ngồi đầu tiên của trẻ.Trong q trình phát triển của trẻ em
những năm đầu đời, nhân cách và sự chăm sóc, giáo dục của cha mẹ có vai trị trung
tâm.Người mẹ ln được tơn trọng.Nhờ có tình yêu thương của cha mẹ mà trẻ được
phát triển tốt cả về sức khỏe và tâm hồn. [21; tr69]
Ảnh hưởng của phong cách chăm sóc và giáo dục con

+ Phong cách độc đốn: Là mơ hình ni dạy con rất nghiêm khắc, trong đó,
người lớn chủ yếu ép buộc trẻ thực hiện theo những yêu cầu, mệnh lệnh, quy tắc do họ
đặt ra và mong đợi ở con mình sự tn theo những mệnh lệnh đó. Họ ít khi giải thích
cho đứa trẻ hiểu rõ tại sao phải tuân theo những quy tắc, mệnh lệnh do mình đưa ra.
Trong cách ứng xử với con, những người có phong cách độc đốn thường ưa sử dụng
hình phạt và ép buộc để đạt được sự vâng lời của con. Trẻ xuất thân trong gia đình có
phong cách giáo dục con cái theo phong cách độc đốn thì trẻ thương bị áp đặt những ý
kiến, quan điểm của mình theo sự chỉ đạo của người lớn trong gia đình.
+ Phong cách dân chủ: Là mơ hình ni dạy con mềm dẻo, trong đó, người lớn
cho phép trẻ em tự do thực hiện ý định của mình; cho phép con được tham gia bàn bạc
các cơng việc của gia đình, bố mẹ. Những u cầu, mệnh lệnh được đưa ra cùng với sự
giải thích cẩn thận, để đảm bảo cho đứa trẻ hiểu những yêu cầu và sự ngăn cấm là cần
thiết.Trong cách ứng xử, bố mẹ thường tôn trọng suy nghĩ và thái độ của đứa trẻ.Các
hình thức khuyến khích, động viên được sử dụng nhiều hơn trách phạt. Đối với kiểu
giáo dục con cái theo phong cách dân chủ thì trẻ sẽ được đối xử bình đẳng, trẻ được tự
do đưa ra các ý kiến, quan điểm của mình và bố mẹ sẽ lắng nghe theo nguyện vọng, tôn
trọng ý kiến cá nhân của trẻ.
+ Phong cách tự do: Là mơ hình ni dạy con lỏng lẻo, trong đó, người lớn chỉ
đưa ra một vài đòi hỏi tối thiểu. Họ để cho đứa trẻ được tự do nhận thức, thể hiện thái


24

độ và hành động trong cuộc sống mà ít khi giám sát và can thiệp trực tiếp. Trong các
gia đình này thì nguyên tắc “tự con, của con và vì con” là phương châm ứng xử của cha
mẹ đối với con. Đối với gia đình giáo dục con theo phong cách tự do, bố mẹ, người lớn
trong gia đình khơng can thiệp vào ý kiến cá nhân của trẻ dễ dẫn đến trẻ sẽ được nuông
chiều, thả mặc làm những gì mình thích mà khơng cần chú ý đến suy nghĩ hay ý kiến
của người lớn.
Ảnh hưởng của nghề nghiệp, trình độ của bố mẹ đối với sự phát triển nhận thức

của trẻ cũng là một trong những yếu tố quan trọng.Nghề nghiệp có ảnh hưởng mạnh tới
sự giáo dục trẻ và phát triển của trẻ nhất là gia đình có truyền thống nghề lâu
năm.Chẳng hạn, gia đình có nhiều đời làm nghề nhà giáo sẽ có cách ứng xử và giáo
dục con khác với gia đình làm nghề bn bán, nghệ sĩ hay chính khách. Những đứa trẻ
xuất thân hay được sinh ra từ gia đình mà cha mẹ có nghề nghiệp, trình độ văn hóa cao,
phát triển, có thu nhập cao thì sẽ có cách giáo dục tốt hơn là những đứa trẻ xuất thân từ
gia đình nghèo khổ, trình độ của bố mẹ thấp, lạc hậu. [21]
- Ảnh hưởng về thành phần của gia đình
Trong xã hội, tồn tại rất nhiều loại gia đình với nhiều thể hệ khác nhau. Có gia
đình có hai thế hệ (bố, mẹ, con), ba thế hệ (ông, bà, bố, mẹ và con), gia đình bốn thế hệ
trở lên (là gia đình có nhiều hơn ba thế hệ hay gọi là tứ đại đồng đường)… Mỗi gia
đình dù là mấy thế hệ nhưng đều có những truyền thống riêng.Điều này có ảnh hưởng
rất lớn đến việc tự nhận thức của trẻ.Người lớn trong gia đình giúp trẻ trong quá trình tự nhận
thức để trẻ có thể dần dần biết xác định vị trí của mình trong gia đình và có những cách xưng
hô với người lớn cũng như mọi người xung qunah một cách đúng đắn và phù hợp.
- Ảnh hưởng về điều kiện kinh tế, nơi sống của gia đình
Trong thời đại cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nền kinh tế của đất nước
đang dần dần được phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện.Các gia đình đều có
cuộc sống ấm no, hạnh phúc.Kinh tế của gia đình có ảnh hưởng rất lớn tới sự tự nhận
thức, tự ý thức bản thân của trẻ. Trẻ em được xuất thân trong một gia đình có điều kiện
kinh tế khá giả sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ được phat triển tồn diện, trẻ có điều
kiện được tham gia vào nhiều hoạt động xã hội, trẻ được tự mình khám phá trong một
điều kiện thuận lợi, tạo điều kiện phát triển mạnh kỹ năng tự nhận thức bản thân của
trẻ. Và ngược lại, một số đông trẻ em được sinh ra trong một gia đình có hồn cảnh
kinh tế khó khăn, nghèo khổ.Ngồi việc vui chơi là hoạt động chủ đạo ra thì trẻ cồn


25

phải làm phụ gia đình kiếm sống.Vì vậy, thời gian trẻ được khám phá môi trường xung

quanh sẽ hạn chế hơn, điều này đồng nghĩa với nhận thức của trẻ sẽ hạn chế hơn.Như
vậy, điều kiện kinh tế có ảnh hưởng rất lớn tới sự hình thành và phát triển kỹ năng tự
nhận thức của trẻ cũng như sự phát triển toàn diện nhân cách trẻ.
Đồng thời, nơi sống của gia đình cũng là một yếu tố quan trọng có ảnh hưởng
không nhỏ tới kỹ năng tự nhận thức bản thân của trẻ mẫu giáo. Một số trẻ em được
sinh ra và lớn lên trong gia đình dân tộc, sinh sống ở vùng quê, vùng núi cao, điều kiện
khó khăn dẫn đến việc nhận thức và khám phá về môi trường xug quanh của trẻ cũng
gặp khó khăn. Trẻ ít được đến lớp, ít được giao lưu, giao tiếp với mơi trường xã họi
cũng như con người.Vì vậy, việc tự nhận thức, ý thức về bản thân của trẻ sẽ bị hạn chế
hơn là những trẻ em được sinh ra và lớn lên ở các thành phố, vùng đồng bằng.Trẻ ít
được tham gia vào các hoạt động xã hội nhận biết về thế giới xung quanh mình.Điều
này có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển và nhận thức của trẻ ở giai đoạn sau này.
* Ảnh hưởng của nhà trường tới kỹ năng tự nhận thức bản thân của trẻ 5 – 6 tuổi
Ở trường mầm non, tác động của giáo viên với trẻ mang một ý nghĩa rất lớn đối
với việc hình thành kỹ năng tự nhận thức bản thân của đứa trẻ. So với các tác động từ
gia đình và nhóm trẻ cùng tuổi thì tác động từ phía nhà trường tới trẻ là sâu sắc, mạnh
mẽ và triệt để nhất.
+ Nhà trường có khả năng tổ chức các hoạt động của cá nhân trẻ để thực hiện có
kết quả mục tiêu phát triển của đứa trẻ thông qua nội dung, phương pháp giáo dục, sự
tác động của nhà trường tới bản thân trẻ. Sự tác động toàn diện của giáo dục nhà
trường giúp trẻ phát triển tồn diện nhân cách, hình thành và phát triển ở trẻ những kỹ
năng tự nhận thức cơ bản.
Trong trường mầm non, nếu giáo viên muốn khơi gợi nhu cầu nhận thức, thúc
đẩy trẻ tự tìm lời giải đáp, kích thích trẻ trong hoạt động nhận thức thì họ cần phải tạo
môi trường hoạt động phong phú cho trẻ, sắp xếp phù hợp để kích thích trẻ có hứng thú
tham gia vào các hoạt động. Mặt khác, giáo viên cũng cần phải lựa chọn phương pháp,
hình thức tổ chức khơng chỉ nhằm “nhồi nhét” hay “trao tặng” trẻ về mặt kiến thức mà
còn hướng đến dạy cho trẻ cách nghĩ, cách làm, cách hành động và khả năng xử lý các
kiến thức đó, sau đó, vận dụng chúng để giải quyết các tình huống có ý nghĩa trong
cuộc sống hàng ngày mà chúng phải đối mặt.



×