Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Khóa luận tốt nghiệp củng cố biểu tượng định hướng không gian cho trẻ 5 6 tuổi thông qua tổ chức một số hoạt động học tập theo hướng tích hợp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 103 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay đặt ra cho giáo dục nước ta trọng
trách lớn về vấn đề phát triển con người. Đảng và Nhà nước ta đã xác định:
“Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho
sự phát triển”. Quan điểm đó được cụ thể hố qua nhiều chủ trương, chính
sách phát triển giáo dục, đào tạo. Nghị quyết Trung Ương II khóa VIII đã xác
định: “Giáo dục là một bộ phận quan trọng của kinh tế xã hội, có vị trí hàng
đầu trong chiến lược con người, phục vụ chiến lược kinh tế và quốc phòng”.
Trong hệ thống Giáo dục quốc dân Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên giữ
vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đặt nền móng phát triển con người. Mục
tiêu của Giáo dục Mầm non là: “giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm,
trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị
cho trẻ em vào học lớp một” (Luật giáo dục 2005, chương II, mục 1, điều 22).
Vì vậy, quan tâm chăm sóc phát triển các kĩ năng của trẻ ngay từ những năm
tháng đầu tiên tới trường là một việc làm hết sức cần thiết và có ý nghĩa vơ
cùng quan trọng trong sự nghiệp giáo dục và bồi dưỡng con người.
Hình thành biểu tượng sơ đẳng về toán là một trong những nội dung
giáo dục quan trọng cho trẻ lứa tuổi mầm non, góp phần giáo dục tồn diện
cho trẻ. Biểu tượng sơ đẳng về tốn giữ vai trị đặc biệt quan trọng trong giáo
dục nhận thức, phát triển trí tuệ trẻ, giúp trẻ dễ dàng thích ứng với các trải
nghiệm mơi trường sống với muôn vàn sự vật, hiện tượng là hiện thân của các
biểu tượng về tốn. Nói riêng, đối với biểu tượng định hướng không gian,
dưới sự tác động của các nhà sư phạm, trẻ nắm được cách xác định các phía,
các hướng của mình, của người khác, của đồ vật trong không gian, xác định
được hướng khi di chuyển, hiểu và diễn đạt được mối quan hệ về định hướng
khơng gian của các đối tượng bằng lời nói,... Nhờ đó kỹ năng vận động, cách
thức tổ chức sắp xếp vị trí, xác định phương hướng của bản thân và sự vật




2

xung quanh được dễ dàng hơn. Từ đó trẻ có thể ứng dụng những kiến thức, kỹ
năng đó vào giải quyết các nhiệm vụ trong cuộc sống hàng ngày, tạo nền
móng kiến thức tổng hợp vững chắc cho bản thân.
Tổ chức các hoạt động tích hợp là một trong những cách thức phù hợp
với đặc điểm nhận thức của trẻ mầm non, đảm bảo cho trẻ tích lũy kiến thức
trong mối quan hệ tác động lẫn nhau giữa các nội dung học tập. Thông qua
việc huy động tổng hợp kiến thức, kĩ năng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau
nhằm giải quyết các nhiệm vụ học tập, trẻ được hình thành những kiến thức,
kĩ năng mới. Các trải nghiệm thông qua những HĐHT được tích hợp thành
một thể thống nhất giúp trẻ hiểu được nội dung cũng như nắm được kiến thức,
hình thành kỹ năng một cách hiệu quả. Việc tổ chức các HĐHT theo hướng
tích hợp mang tính thực tiễn và xác thực trong việc hình thành các kĩ năng của
trẻ. Hơn nữa, thực hiện các hoạt động tích hợp trong học tập giúp cho những
kinh nghiệm trẻ tích lũy được từ hoạt động học tập này là cơ sở để dẫn đến
kinh nghiệm cho các hoạt động ở các nội dung tiếp theo. Từ đó các kiến thức
được tích lũy, các kĩ năng được hình thành một cách tự nhiên, không khiên cưỡng.
Đối với trẻ mầm non, việc củng cố biểu tượng tốn học ban đầu cho
trẻ nói chung và củng cố biểu tượng ĐHKG nói riêng cũng đóng vai trị rất
quan trọng trong sự phát triển trí tuệ của trẻ và chuẩn bị cho trẻ tự tin bước
vào học cấp 1. Biểu tượng ĐHKG là vốn kiến thức giúp trẻ xác định vị trí của
bản thân, của người khác, của các đồ vật trong không gian. Việc đạt được
mục đích định hướng khơng gian cho trẻ khơng thể tiến hành một sáng một
chiều mà địi hỏi sự tích lũy kiến thức lâu dài, sự trải nghiệm của trẻ mầm non
qua nhiều hoạt động, qua giải quyết các nhiệm vụ học tập phức hợp có cài đặt
dụng ý sư phạm của giáo viên. Tổ chức các HĐHT theo hướng tích hợp là
một trong những phương pháp có tiềm năng lớn đối với việc củng cố các biểu

tượng ĐHKG gian cho trẻ.
Hiện nay, quá trình hình thành các biểu tượng sơ đẳng về tốn cho trẻ
nói chung và hình thành các biểu tượng về ĐHKG cho trẻ 5 - 6 tuổi nói riêng
theo hướng tích hợp được giáo viên mầm non rất quan tâm. Giúp trẻ ĐHKG


3

thơng qua HĐHTcó vai trị đặc biệt quan trọng trong việc rèn luyện và phát
triển trí tuệ cho trẻ. Tuy nhiên, nhiều hoạt động tích hợp nhằm giúp trẻ
ĐHKG hiện nay được tổ chức tại một số trường mầm non chưa được khai
thác tối đa giá trị theo lí luận về dạy học tích hợp. Vấn đề hình thành, củng cố
biểu tượng không gian thông qua tổ chức HĐHT theo hướng tích hợp là một
trong những nội dung khó địi hỏi sự hiểu biết đầy đủ, thấu đáo bản chất của
quan điểm tích hợp các nội dung giáo dục. Việc tổ chức hoạt động giáo dục
theo hướng tích hợp nếu khơng được bám sát lí luận dễ gây nên tình trạng rời
rạc, tách bạch, thiếu sự đan cài vào nhau giữa các nội dung hoặc rơi vào tình
trạng đơn điệu, rập khuân, lặp đi lặp lại nhiều lần các hoạt động dẫn tới sự
nhàm chán, giảm hứng thú của trẻ. Để khắc phục hạn chế đó địi hỏi sự
nghiên cứu cơng phu, nghiêm túc, sát lí luận, phù hợp thực tiễn trường mầm
non trong điều kiện hiện nay.
Từ những lí do trên, chúng tôi chọn: “Củng cố biểu tượng định
hướng không gian cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua tổ chức một số hoạt động
học tập theo hướng tích hợp” làm đề tài nghiên cứu.
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
2.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài
- Làm rõ cơ sở lí luận của việc củng cố biểu tượng ĐHKG cho trẻ 5 - 6
tuổi; vai trò của việc tổ chức một số HĐHT theo hướng tích hợp trong việc củng
cố biểu tượng ĐHKG cho trẻ 5 - 6 tuổi; các yếu tố ảnh hưởng đến việc củng cố
biểu tượng ĐHKG cho trẻ 5 - 6 tuổi.

- Xác định cơ sở khoa học của việc xây dựng các biện pháp củng cố
biểu tượng ĐHKG cho trẻ 5 - 6 tuổi thơng qua một số HĐHT theo
hướng tích hợp.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
- Đề xuất được các biện pháp củng cố biểu tượng định hướng không
gian cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua tổ chức một số HĐHT theo hướng tích hợp
với những hướng dẫn thực hiện cụ thể.


4

- Các biện pháp đề xuất và các ví dụ minh họa trong đề tài là tài liệu
tham khảo cần thiết cho sinh viên nghành Giáo dục mầm non và giáo viên
mầm non quan tâm đến vấn đề củng cố biểu tượng ĐHKG cho trẻ 5 - 6 tuổi
thông qua tổ chức một số HĐHT theo hướng tích hợp.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Đề xuất các biện pháp củng cố biểu tượng ĐHKG cho trẻ 5 - 6 tuổi thông
qua tổ chức một số HĐHT theo hướng tích hợp.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn của việc củng cố biểu tượng
ĐHKG cho trẻ mầm non.
- Làm rõ lí luận về mối quan hệ giữa HĐHT theo hướng tích hợp đối
với việc củng cố biểu tượng ĐHKG cho trẻ 5 - 6 tuổi.
- Khảo sát thực trạng việc củng cố biểu tượng ĐHKG cho trẻ 5 - 6 tuổi
thông qua một số HĐHT theo hướng tích hợp tại một số trường mầm non.
- Đề xuất một số biện pháp nhằm củng cố biểu tượng ĐHKG cho trẻ 5 - 6
tuổi thông qua một số HĐHT theo hướng tích hợp.
- Thực nghiệm sư phạm để kiểm tra tính khả thi, hiệu quả của các biện
pháp đã đề xuất.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Củng cố biểu tượng ĐHKG cho trẻ 5 - 6 tuổi.
- Phạm vi nghiên cứu: Củng cố biểu tượng ĐHKG cho trẻ 5 - 6 tuổi
thông qua một số hoạt động học tập theo hướng tích hợp đối với hoạt động
làm quen với Toán, hoạt động làm quen với GDTC (thể dục) và làm quen với
hoạt đông Tạo hình.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
Tập hợp, đọc, nghiên cứu, phân tích, tổng hợp, hệ thống các nguồn tài
liệu, các đề tài nghiên cứu, các giáo trình tham khảo liên quan tới đề tài: Mục
tiêu dạy học mầm non; định hướng đổi mới phương pháp dạy học ở trường
mầm non; vấn đề hình thành các biểu tượng về tốn cho trẻ mầm non; lí luận


5

về tổ chức HĐHT theo hướng tích hợp trong dạy học mầm non nói chung,
trong hình thành và củng cố biểu tượng tốn học cho trẻ nói riêng;...
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6.2.1. Phương pháp quan sát
Quan sát và ghi chép nhằm thu thập thông tin về thực trạng cách thức tổ
chức một số hoạt động học tập, nhằm củng cố biểu tượng ĐHKG cho trẻ 5 - 6
tuổi ở trường mầm non, về hiệu quả vận dụng các biện pháp đề xuất để củng
cố biểu tượng ĐHKG cho trẻ.
6.2.2. Phương pháp đàm thoại
- Trao đổi với giáo viên để có thêm thơng tin về vấn đề nghiên cứu.
- Trò chuyện với trẻ 5 - 6 tuổi để biết được mức độ nhận thức của trẻ về định
hướng trong không gian thông qua tổ chức một số hoạt động học tập theo hướng
tích hợp, trị chuyện với trẻ để xem xét mức độ hứng thú của trẻ khi thi tham gia vào
các hoạt động học tập theo hướng tích hợp nhằm củng cố biểu tượng không gian.
6.2.3. Phương pháp điều tra Anket

Sử dụng phiếu Anket bằng hệ thống câu hỏi đóng và mở để điều tra cán bộ
quản lí và giáo viên mầm non. Từ đó xác định rõ nhận thức của cán bộ quản lí và
giáo viên mầm non về việc củng cố biểu tượng định hướng trong không gian cho
trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi thông qua tổ chức một số hoạt động học tập theo hướng
tích hợp.
6.2.4. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
Trên cơ sở nghiên cứu tài liệu, trao đổi với cán bộ quản lí và giáo viên
giỏi của trường mầm non để tổng kết những vấn đề về lí luận và thực tiễn có liên
quan đến nghiên cứu củng cố biểu tượng ĐHKG cho trẻ thơng qua HĐHT theo
hướng tích hợp.
6.2.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Tổ chức thực nghiệm sư phạm tại trường Mầm non Phong Châu, Thị xã
Phú Thọ nhằm kiểm nghiệm và đánh giá tính khả thi, hiệu quả của các biện
pháp củng cố biểu tượng trong không gian cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua tổ chức
một số HĐHT theo hướng tích hợp đã đề xuất.


6

6.2.6. Phương pháp thống kê tốn học
Sử dụng cơng thức thống kê toán học để xử lý số liệu kết quả thu được
qua điều tra thực trạng và thực nghiệm.


7

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC CỦNG
CỐ BIỂU TƯỢNG ĐỊNH HƯỚNG KHÔNG GIAN CHO TRẺ 5 - 6
TUỔI THÔNG QUA TỔ CHỨC MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP

THEO HƯỚNG TÍCH HỢP
1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Những nghiên cứu ở nước ngoài
Mọi sự vật, hiện tượng và bản thân đứa trẻ đều tồn tại trong không gian
và thời gian. Trong khơng gian có những vật thể cố định với những vị trí và
thuộc tính nhất định: có trên; có dưới; có trước; có sau; có gần; có xa. Như
vậy, khơng gian cũng là đối tượng hoạt động của tư duy và hoạt động thực
tiễn của trẻ. Vì vậy cần phát triển kịp thời khả năng ĐHKG ở trẻ, tạo điều
kiện cho trẻ thực hiện có hiệu quả các hoạt động khác trong cuộc sống. Vì
vậy, vấn đề dạy trẻ ĐHKG đã được các nhà khoa học trên thế giới cũng như
Việt Nam quan tâm nghiên cứu.
Trong cuấn “Tâm lí mẫu giáo” V.X.Mukhina (1978) đã nói tới vai trị
của khả năng ĐHKG với việc học tập của đứa trẻ ở trường phổ thông. Theo
tác giả, trẻ bước vào tuổi phổ thông cần phải biết tri giác không gian và biết
được mối quan hệ khơng gian một cách đầy đủ, chính xác và tỉ mỉ, vì việc học
tập ở cấp một chủ yếu dựa trên những tài liệu khác nhau dưới sự chỉ đạo của
giáo viên. Trong quá trình học tập, trẻ phải tách biệt thuộc tính bản chất của
sự vật. Việc định hướng chính xác trong khơng gian và thời gian có ý nghĩa
rất quan trọng. Ngay từ ngày đầu bước chân tới trường, đứa trẻ đã nhận được
những lời chỉ dẫn mà các em không thể thực hiện được nếu khơng tính tốn
đến các dấu hiệu khơng gian của đối tượng, nếu khơng có những hiểu biết về
phương hướng khơng gian [17, Tr.15 - 23]. Nhấn mạnh vai trò của ĐHKG
trong việc lĩnh hội nhận thức, B.G.Ananhiep cũng khẳng định: Khơng có hình
thức hoạt động nào của trẻ trong q trình học tập mà trong đó sự ĐHKG


8

không là điều kiện quan trọng để lĩnh hội tri thức cũng như hình thành và phát
triển kĩ năng kĩ sảo, khả năng tư duy của trẻ.

Các tác giả như: A. A.Luublinkaia, V.X.Mukhina nghiên cứu đặc điểm
phát triển của sự ĐHKG của trẻ lứa tuổi mầm non. Các tác giả đã vạch ra
những đặc điểm phát triển biểu tượng về các hướng không gian và sự ĐHKG
của trẻ ở các độ tuổi khác nhau. Họ khẳng định, ở giai đoạn đầu của lứa tuổi
mẫu giáo, trẻ định hướng được trong không gian trên cơ sở hệ thống cảm giác
quy chiếu tức là trên cơ thể trẻ. Định hướng “trên chính mình” là nguồn gốc
để trẻ nhỏ định hướng vị trí các vật khác so với trẻ. Dần dần trẻ biết sử dụng
hệ tọa độ với chuẩn là vật bất kì để ĐHKG. Nhưng để định hướng “từ các
vật” trẻ phải biết phân chia các hướng khác nhau (phía trên, phái dưới, phía
trước, phía sau, phía trái, phía phải) của vật, sử dụng nó làm vật quy chiếu để
định hướng vị trí của các vật khác trong khơng gian [17, Tr.20 - 35].
Tác giả A.M.Lêusia (1978) đã đi sâu nghiên cứu đặc điểm phát triển
các biểu tượng về không gian và sự ĐHKG của trẻ mẫu giáo. Theo tác giả,
các biểu tượng không gian xuất hiện ở trẻ rất sớm và sự hình thành phát triển
của nó có sự tham gia của tất cả các cơ quan phân tích khác nhau như xúc
giác, thị giác, khứu giác. Tác giả cũng nghiên cứu đặc điểm phát triển nhận
thức của trẻ mẫu giáo về không gian, về mối quan hệ không gian với các vật
“so với mình” và các “các vật so với nhau”. Tác giả cho rằng, để xác định vị
trí các vật xung quanh, trước tiên trẻ phải định hướng được trên chính mình
(lấy mình làm gốc tọa độ) sau đó mới xác định được vị trí của các đối tượng
[18, Tr.21 - 30].
Nhìn chung, việc hình thành biểu tượng ĐHKG cho trẻ mẫu giáo đã
được một số nhà khoa học đề cập đến trong các cơng trình nghiên cứu của
mình tuy khơng nhiều, nhưng những thành tựu đó được xem như là “kim chỉ
nam” định hướng cho các nhà nghiên cứu sau này cũng như những nhà giáo
dục tổ chức hoạt động hình thành biểu tượng ĐHKG theo hướng tích hợp.
Các nhà khoa học đã đạt được những thành tựu to lớn từ các cơng trình
nghiên cứu của mình, đã cho thấy tầm quan trọng của việc hình thành biểu



9

tượng ĐHKG cho trẻ, cũng như củng cố biểu tượng không gian thông qua các
tiết học nghiên cứu đặc điểm phát triển định hướng không gian của trẻ ở các
lứa tuổi khác nhau và đặc điểm nhận thức của trẻ về không gian cũng như các
mối quan hệ trong không gian giữa các vật so với trẻ và giữa các vật so với
nhau. Tuy nhiên, bên cạnh những nghiên cứu của các nhà khoa học đạt được,
cịn có vấn đề vẫn chưa đề cập đến, đó chính là việc đưa các biểu tượng
không gian vào trong một số HĐHT như: Tạo hình, thể dục, tốn học nhằm
hình thành cũng như củng cố biểu tượng không gian cho trẻ một cách tự nhiên
mà lại mang lại hiệu quả cao. Việc tổ chức một số HĐHT theo hướng tích hợp
nhằm củng cố biểu tượng không gian cho trẻ cũng là một trong những hình
thức được áp dụng rộng rãi ở bậc học mầm non hiện nay, nhưng chưa mang
lại được hiệu quả cao, cũng như chưa phát huy được hết khả năng của nó.
1.1.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam
Cùng với sự đổi mới mạnh mẽ của nền giáo dục Việt Nam, giáo dục
Mầm non cũng trải qua nhiều thời kỳ thay đổi và phát triển phù hợp với xu
thế thời đại. Việc cho trẻ làm quen với biểu tượng toán sơ đẳng nói chung và
củng cố biểu tượng ĐHKH cho trẻ nói riêng đã và đang được rất nhiều nhà
giáo dục, nhà khoa học trên thế giới cũng như trong nước đi sâu tìm hiểu
và nghiên cứu.
Theo Th.S Trịnh Minh Loan, Nguyễn Duy Thuận (1999) trong nghiên
cứu về “Toán và phương pháp cho trẻ làm quen với những biểu tượng toán sơ
đẳng” đã chỉ ra các phương pháp hình thành các biểu tượng tốn học nói
chung và biểu tượng khơng gian nói riêng cho trẻ mầm non ở các lứa tuổi [10,
Tr.34]. TS. Đỗ Thị Minh Liên trong giáo trình “Lí luận và phương pháp hình
thành biểu tượng tốn học sơ đẳng cho trẻ mầm non” (2003) và Đinh Thị
Nhung trong “Tốn và phương pháp hình thành các biểu tượng tốn học cho
trẻ mẫu giáo” đã chỉ ra đặc điểm phát triển biểu tượng định hướng không gian
cho trẻ, cấu trúc nội dung chương trình, phương pháp, biện pháp, hình thức,

cách lập kế hoạch, hình thành và củng cố biểu tượng định hướng không gian
cho trẻ ở các độ tuổi khác nhau. Ngồi ra cịn rất nhiều các tác giả cũng đi


10

nghiên cứu về vấn đề hình thành biểu tượng định hướng không gian cho trẻ
như tác giả Nguyễn Thanh Sơn – Trịnh Minh Loan – Đào Như Trang trong
cuốn “Toán học và phương pháp hình thành các biểu tượng tốn ban đầu về
toán cho trẻ mầm non”(1994).
Việc tổ chức các hoạt động học tập theo hướng tích hợp cũng như tích
hợp các biểu tượng tốn vào trong phần ĐHKG, được các nhà khoa học quan
tâm, việc tích hợp các mơn học trong củng cố biểu tượng định hướng không
gian cho trẻ là vô cùng cần thiết. Những kiến thức, kỹ năng sơ đẳng về toán
cho trẻ được cấu trúc theo mạng chủ đề, chủ điểm giáo dục thích hợp và đặc
biệt có sự đan cài, lồng ghép với các hoạt động giáo dục khác một cách phù
hợp. TS. Nguyễn Thị Hoa trong nghiên cứu “Giáo dục tích hợp ở bậc học
mầm non” (2010) đã đánh giá cao sự cần thiết phải tích hợp trong các hoạt
động, trong các mơn học. Trong quá trình truyền thụ kiến thức cũng như trong
mọi hoạt động phải coi trẻ là trung tâm.
Nhìn chung các nhà Tâm lý - Giáo dục trong nước tập trung nghiên cứu
những vấn đề khái quát, mang tính lí luận về nội dung, hình thức, phương
pháp hình thành biểu tượng định hướng không gian ở các lứa tuổi khác nhau.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, cịn có vấn đề mà các nhà
khoa học chưa thực sự chú trọng đi sâu nghiên cứu, đó chính là việc củng cố
biểu tượng không gian cho trẻ, thông qua tổ chức một số HĐHT như trong
giờ thể dục, tạo hình, tốn..thì việc hình thành cũng như củng cố biểu tượng
khơng gian cho trẻ được tiến hành như thế nào, việc củng cố biểu tượng đó
được giáo viên tích hợp trong các mơn học ra sao. Việc hình thành biểu tượng
khơng gian cho trẻ là khâu cơ bản, ban đầu vô cùng quan trọng, nhưng bên

cạnh việc hình thành biểu tượng khơng gian, thì củng cố biểu tượng khơng
gian cho trẻ theo hướng tích hợp lại càng khơng thể thiếu, nó giúp trẻ được
thực hành nhiều lần, trải nghiệm nhiều lần, khắc sâu thêm biểu tượng không
gian, giúp trẻ nắm kiến thức không gian một cách hiệu quả nhất.
1.2. Đặc điểm nhận thức, mục tiêu, nội dung hình thành biểu tượng định
hướng không gian cho trẻ 5 - 6 tuổi


11

1.2.1. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1.1. Khái niệm củng cố
Trong quá trình tổ chức HĐHT việc củng cố kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo
rất cần thiết để làm cơ sở cho những tri thức mới. Trẻ mẫu giáo chưa thể tái
hiện lại vì vậy khơng có khâu củng cố riêng và cũng khơng có việc giao bài
tập về. Mà củng cố được tiến hành ngay, đi liền với giải thích, trình bày, giải
thích chuyển xang luyện tập, củng cố. Việc dạy học cho trẻ mang tính chất
truyền khẩu, cần tạo điều kiện cho trẻ được trình bày ý kiến của mình, điều đó
giúp trẻ củng cố kiến thức và phát triển ngôn ngữ. Việc củng cố kiến thức cho
trẻ về khơng gian có thể tiến hành trong phần đầu của giờ học, giữa giờ học
và cũng có thể củng cố thơng qua trị chơi kết thúc. Việc củng cố giúp trẻ nắm
vững kiến thức hơn. Mặt khác, nội dung mà trẻ được tiếp xúc đã có những ấn
tượng đối với trẻ, tuy nhiên trẻ cịn có sự nhầm lẫn, cả về kiến thức lẫn kĩ
năng, vì thế việc củng cố chính là giúp trẻ ơn lại kiến thức đã được học trước
đó. Vì thế, củng cố theo Từ điển Tiếng Việt được hiểu như sau: “Củng cố
chính là quá trình lặp lại kiến thức làm khắc sâu để nắm vững cũng như nắm
chắc kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm” [14].
1.2.1.2. Khái niệm biểu tượng
Có rất nhiều tác giả thuộc ngành khoa học khác nhau quan tâm nghiên
cứu về biểu tượng đứng ở các góc độ thì họ lại có cách nhìn nhận khác nhau

về khái niệm này. Biểu tượng là một khái niệm đang được đẩy mạnh nghiên
cứu trên thế giới đến nay khái niệm biểu tượng vẫn là một lĩnh vực chứa đựng
nhiều bí ẩn.
Ở các nước có nền tâm lí học phát triển như Mỹ, Anh, Pháp, Đức…,
người ta đẩy mạnh không những các nghiên cứu về biểu tượng xã hội
(BTXH). Chẳng hạn hiện nay, trong tâm lí học Pháp có bốn dịng lớn nghiên
cứu BTXH: Một dòng chuyên khảo miêu tả nhằm ghi lại các biểu tượng của
nhóm về một đối tượng nào đó (Moscovisi và các học trị của ơng). Dịng thứ
hai nghiên cứu ảnh hưởng của các BTXH lên ứng xử (Codol, Arbic). Dòng
thứ ba chuyên nghiên cứu các kỹ thuật đo lường các BTXH nhằm nắm bắt các


12

cấu trúc của chúng, và dịng cuối cùng chun tìm hiểu những biến đổi của
các BTXH (Jodelet, Di Giacomo, Flament, Arbic), cũng như tìm các cơ chế
ngầm ẩn của các sự biến đổi này.
Khái niệm “biểu tượng” là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa
học xã hội khác nhau và cũng có nhiều cách phát biểu khác nhau. Trên bình
diện của ngành tâm lí học, theo từ điển tâm lí học (Vũ Dũng - NXB KHXH 2000), "Biểu tượng là hình ảnh các vật thể, cảnh tượng và sự kiện xuất hiện
trên cơ sở nhớ lại hay tưởng tượng. Khác với tri giác, biểu tượng có thể mang
tính khái quát. Nếu tri giác chỉ liên quan đến hiện tại, thì biểu tượng liên quan
đến quá khứ và tương lai”. Theo từ điển Tiếng Việt (GS Hoàng Phê chủ biên):
“Biểu tượng là hình ảnh tượng trưng, là hình ảnh của nhận thức, cao hơn cảm
giác cho ta hình ảnh của sự vật cịn giữ lại trong đầu óc khi tác động của sự
vật vào giác quan đã chấm dứt” [14].
Như vậy, biểu tượng là những hình ảnh của những sự vật, hiện tượng
của thế giới xung quanh, được hình thành trên cơ sở các cảm giác và tri giác
đã xảy ra trước đó, được giữ lại trong ý thức hay là những hình ảnh mới được
hình thành trên cơ sở những hình ảnh đã có từ trước. Biểu tượng khơng phải

hồn tồn là thực tế, bởi vì nó là sự xây dựng lại thực tế sau khi đã được tri
giác. Tuy nhiên, những hình ảnh đó cũng khơng hồn tồn là kết quả chủ
quan xuất phát từ những hoạt động tâm trí của chủ thể. Biểu tượng chính là
hiện tượng chủ quan của đối tượng về hiện tượng khách quan đã được tri giác
từ trước [14, Tr.13].
Theo luận điểm của I.M Xêtrênốp : "Các biểu tượng là kết quả trung gian từ
các tri giác phân chia thành từng thành phần riêng lẻ của sự trừu tượng hoá
một tổng số nhất định các vật thể cùng loài và thành phần của sự trừu tượng
hóa này bao gồm các dấu hiệu bên ngồi cịn các dấu hiệu khơng phơi bày ra
một cách trực tiếp mà phải nhờ mọi sự phân tích chi tiết về mặt trí tuệ và thể
chất các vật thể, cũng như quan hệ giữa chúng với nhau và giữa chúng với
con người.
Quan điểm này, chúng ta thấy cấu trúc của biểu tượng có thể phân chia thành:


13

- Những biểu hiện về bề ngồi vơ cùng đa rạng của hiện thực
- Những dấu hiệu của sự vật, hiện tượng của hiện thực mà tự chúng
không phơi bày ra. Khi có sự phân tích của trí tuệ về các sự vật, hiện tượng
cũng như về các hành vi thì các bộ phận riêng lẻ được tách ra của các biểu
tượng sẽ được liên kết với các hình ảnh hồn chỉnh. Do đó, cuối cùng sẽ dẫn
đến những biểu tượng đầy đủ và hoàn chỉnh hơn. Ngoài ra, một đặc điểm nổi
bật của các biểu tượng là chúng vừa được giữ lại trong trí nhớ của chủ thể,
đồng thời dưới ảnh hưởng của tri giác mới (tác động của thế giới khách quan)
và tưởng tượng thì nội dung của chúng lại được bổ xung và phong phú thêm.
Như vậy, biểu tượng là yếu tố động, luôn thay đổi, tuỳ thuộc vào ảnh hưởng
của tri giác tác động cũng như tuỳ thuộc vào trí tưởng tượng phong phú của mỗi
cá nhân.
Theo từ điển Tiếng Việt của tập thể cán bộ ngơn ngữ học biên soạn do

Hồng Phê làm chủ biên. Biểu tượng được hiểu như sau:
Thứ nhất: Biểu tượng là hình ảnh tượng trưng
Thứ hai: Biểu tượng là hình thức của nhận thức, cao hơn cảm giác cho
ta hình ảnh của sự vật cịn giữ lại trong đầu óc sau khi tác động của sự vật vào
giác quan của ta và chấm dứt [14, Tr.45].
Theo quan điểm của các nhà tâm lý học: “Biểu tượng là những hình
ảnh của sự vật, hiện tượng này được sinh ra trong óc khi sự vật và hiện tượng
ấy khơng cịn tác động vào các giác quan của ta như trước”
Có nhiều quan niệm khác nhau về biểu tượng, trong đề tài nghiên cứu
của mình chúng tơi sử dụng khái niệm của các nhà tâm lý học: “Biểu tượng là
những hình ảnh của sự vật hiện tượng này được sinh ra trong óc khi sự vật và
hiện tượng ấy khơng cịn tác động vào các giác quan của ta như trước”.
1.2.1.3. Khái niệm biểu tượng định hướng không gian
Theo Triết học duy vật biện chứng, khơng gian và thời gian được coi
như là hình thức tồn tại của vật chất đang vận động. Mọi sự vật trong thế giới
vật chất đều có vị trí, hình thức, kết cấu, độ dài – ngắn, cao – thấp. Tất cả
những cái đó được gọi là khơng gian. Sự tri giác thế giới bên ngoài chia cắt


14

khơng gian, điều này xuất phát từ chính chất 3 chiều của không gian: Chiều
dài, chiều rộng, chiều sâu.
Mặt khác, theo từ điển Tiếng Việt, khái niệm “khơng gian” có hai nghĩa:
- Thứ nhất: Là hình thức tồn tại cơ bản của vật chất (cùng với thời gian) trong
đó các vật thể có độ dài và độ lớn khác nhau, cái nọ ở cách cái kia (vật chất
vận động trong không gian và thời gian).
- Thứ hai: Không gian là khoảng không bao trùm mọi vật xung quanh con người.
Trên thực tế đã có rất nhiều quan điểm khác nhau định nghĩa về khơng
gian, từ đó tơi đi đến kết luận sau: “Khơng gian là hình thức tồn tại cơ bản của

vật chất đang vận động, là khoảng không gian bao chùm mọi vật xung quanh
con người”.
Theo Th.S Đỗ Thị Minh Liên [7, Tr.32 - 35]: Sự định ĐHKG của con
người được thực hiện trên cơ sở tri giác trực tiếp không gian và biểu thị bằng
lời các phạm trù khơng gian như vị trí, độ xa, mối quan hệ không gian giữa các
vật. Như vậy, khái niệm “Định hướng không gian” bao gồm cả sự đánh giá
khoảng cách, xác định kích thước, hình dạng và vị trí tương đối của chúng so
với vật thể chuẩn. Sự định ĐHKG được hiểu theo nghĩa hẹp là sự xác định vị trí:
- Xác định vị trí của chủ thể định hướng so với các khách thể xung
quanh nó.
- Xác định vị trí của các vật xung quanh so với chủ thể định hướng
- Xác định vị trí của các vật một cách tương đối so với nhau
Từ những quan điểm ý kiến trên chúng tôi đưa đến khái niệm biểu tượng định
hướng trong khơng gian: “Là hình ảnh chỉ những mối quan hệ (trên - dưới;
phải - trái; trước - sau; sắp đặt vị trí các vật….) của đối tượng cịn lưu lại
trong trí óc ta khi những mối quan hệ đó khơng cịn được ta tri giác trực tiếp,
khơng cịn đang tác động trực tiếp vào giác quan của ta như trước.
1.2.1.4. Khái niệm tích hợp
Theo quan điểm của nhiều nhà khoa học, giáo dục theo hướng tích
hợp là phù hợp và có hiệu quả hơn cả đối với bậc học mầm non. Hiện nay,


15

giáo dục tích hợp cũng đang được các giáo viên áp dụng trong các hoạt động
học ở trường mầm non.
- Tích hợp khơng chỉ là đặt cạnh nhau, liên kết với nhau, mà là xâm
nhập, đan xen các đối tượng hay các bộ phận của đối tượng vào nhau tạo
thành một chỉnh thể.
- Theo quan điểm tiếp cận tích hợp, đứa trẻ được nhìn nhận sự vật thế

giới xung quanh như một chỉnh thể trọn vẹn. Đứa trẻ sống và lĩnh hội kiến
thức trong môi trường sống tổng thể. Tất cả các yếu tố xã hội, tự nhiên và
khoa học của môi trường đan quyện vào nhau tạo thành môi trường sống
phong phú của trẻ. Xuất phát từ quan điểm này mà chương trình giáo dục trẻ
nhỏ được xây dựng theo nguyên tắc tích hợp theo chủ đề. Giáo dục tích hợp
và dạy học tích hợp nhằm nhấn mạnh việc kết hợp nhiều nội dung giáo dục
(xã hội, tự nhiên, khoa học) thơng qua các hoạt động tích cực của cá nhân trẻ
với mơi trường sống xung quanh của mình. Trong cách học này, trẻ học một
cách tự nhiên, không có giới hạn tuyệt đối về thời gian, khơng gian và môn
học. Bredekam viết: “Việc học của trẻ không chỉ diễn ra trong phạm vi hạn
hẹp của mỗi môn học, sự học và sự phát triển của trẻ mang tính tích hợp. Mỗi
hoạt động đều thúc đẩy một mặt nào đó phát triển, đồng thời cũng tác động một
phần nào đó đến các mặt khác của trẻ”.
Quan điểm tích hợp trong giáo dục mầm non, được hiểu là sự xâm hập,
liên kết, đan xen những quá trình sư phạm tạo thành một thể thống nhất, tác
động đồng bộ đến đứa trẻ như một chỉnh thể tồn vẹn, nhờ đó hiệu quả sư
phạm được nâng lên [3, Tr. 21].
Quan điểm tích hợp trong giáo dục mầm non được thể hiện ở một số
đặc điểm chủ yếu sau:
- Trước hết, được thể hiện ở mối quan hệ giữa việc chăm sóc và giáo
dục trẻ em. Khi thực hiện hai hoạt động này cần đan cài, lồng ghép chúng vào
nhau mới đạt tới hiệu quả cao cho từng nhiệm vụ và cho cả hai. Trong khi
chăm sóc phải chú ý đến dạy.


16

- Lồng ghép, đan cài các hoạt động của trẻ, trong đó chơi là hoạt động
chủ đạo. Chơi là một hoạt động vốn mang tính tích hợp. Khi trẻ tham gia vào
trò chơi, cũng như các hoạt động học tập, trẻ tiếp thu kinh nghiệm xã hội ở

nhiều góc độ, nhiều lĩnh vực khác nhau. Đó là những kinh nghiệm mang tính
tích hợp, cần cho cuộc sống của trẻ. Hình thức thể hiện quan điểm tích hợp
phổ biến như là: Tích hợp theo chủ đề, Tích hợp trong một hoạt động…
1.2.2. Đặc điểm quá trình nhận thức của trẻ 5 - 6 tuổi.
1.2.2.1. Đặc điểm phát triển cảm giác tri giác trong không gian
Cảm giác và tri giác là cấp độ đầu tiên của quá trình nhận thức phản
ánh những thuộc tính bên ngồi của sự vật. Đối với trẻ em chủ yếu là sự cảm
giác về không gian và sự nhận biết về các mối quan hệ khác nhau với không
gian như chiều sâu trong không gian, xác định vị trí của các vật trong khơng
gian và xác định vị trí giữa các đối tượng so với nhau…Sự tri giác khơng gian
xuất hiện rất sớm ở trẻ nhỏ. Nó được thể hiện ở việc trẻ đã biết dừng mắt nhìn
vật, trẻ biết nhìn theo các chuyển động, trẻ biết đưa mắt liên tục nhìn theo
những vật chuyển động…, đó là nguồn gốc phát triển những cảm nhận về
không gian.
Trẻ 5 - 6 tuổi đã có khả năng xác định, trẻ nói được vị trí của các vật so
với bản thân, hay với đồ vật khác, biết thay đổi hướng trong quá trình thực
hiện yêu cầu. Trẻ cảm nhận được hướng chính của khơng gian, khả năng xác
định phía trái, phía phải của trẻ được mở rộng dần. Trẻ nhận thấy rằng việc
định hướng không gian trên bản thân trẻ là sự mở đầu quan trọng, là cơ sở
định hướng không gian cho các đối tượng khác
Trẻ 5 – 6 thì tầm nhìn của trẻ càng mở rộng, khả năng phân biệt các đối
tượng ở các khoảng cách khác nhau trong không gian càng phát triển, không
gian tri giác của trẻ được mở rộng, từ đó dẫn tới sự phát triển cơ chế cảm
nhận khơng gian của trẻ. Ngồi ra, trẻ 5 - 6 tuổi khả năng định hướng không
gian của trẻ đã tương đối chính xác và đầy đủ. Khả năng ĐHKG mà khơng
phụ thuộc vào vị trí của bản thân trẻ phần lớn trẻ đã thực hiện được, trẻ đã


17


biết tạo ra mối quan hệ giữa các vật trong không gian, sắp xếp chúng một
cách khoa học, hợp lý.
1.2.2.2. Đặc điểm phát triển trí nhớ
Trí nhớ là sự ghi lại, giữ lại và có thể tái hiện lại những gì trẻ đã thu
nhận được trong hoạt động sống của mình. Ở tuổi mẫu giáo, khả năng ghi
nhớ và nhớ lại của trẻ phát triển rất nhanh. Trẻ 5 - 6 tuổi đã có khả năng ghi
nhớ chủ định, trẻ nhớ được các sự vật hiện tượng dù mới chỉ tiếp xúc một
lần; trẻ có khả năng hiểu và sử dụng ngơn ngữ đơn giản để mơ tả và nói lại
mối quan hệ giữa các sự vật trong không gian theo trí nhớ. Sự phát triển trí
nhớ có chủ định đóng vai trị khá quan trọng trong việc giúp trẻ nắm kiến
thức, kỹ năng về định hướng không gian.
1.2.2.3. Đặc điểm phát triển vận động
Quá trình nhận biết, tìm hiểu không gian phát triển dần cùng với sự
phát triển khả năng vận động của bản thân trẻ. Nhờ sự vận động mà trẻ nhận
biết được các khoảng cách khác nhau giữa các đối tượng cũng như sự sắp đặt
của chúng trong không gian. Trẻ 5 - 6 tuổi những phản ứng, cử động, các kỹ
thuật động tác ngày càng dứt khốt, nhanh nhẹn, chính xác, các kỹ năng vận
động ngày càng hoàn thiện. Nhờ cảm giác vận động mà trẻ nhận được thông
tin về tư thế thân thể trong không gian, về các động tác, kỹ thuật. Thơng qua
các trị chơi vận động như : vượt chướng ngại vật, làm theo yêu cầu.., hay các
hoạt động tạo hình, hoạt động thể dục, trẻ được trực tiếp tiến hành hoạt động.
Vận động giúp trẻ 5 - 6 tuổi phát triển khả năng ĐHKG qua sự định hướng
trong khi vận động, xác định vị trí của các dụng cụ, biết được vị trí của các
vật trong khơng gian: trên – dưới; trước – sau; trái - phải.., xác định được khả
năng ước lượng bằng mắt.
1.2.2.4. Đặc điểm phát triển tư duy
Tư duy là hoạt động nhận thức nhằm phản ánh những thuộc tính, bản
chất, những mối quan hệ có tính quy luật của sự vật, hiện tượng, phản ánh
một cách gián tiếp và khái quát những điều mà ta chưa biết trước đó. Trẻ 5 - 6
tuổi, nhu cầu nhận thức của trẻ đang phát triển mạnh, cho nên bên cạnh phát



18

triển tư duy trực quan hình tượng ở lứa tuổi này cịn xuất hiện thêm một kiểu
tư duy đó chính là tư duy trực quan - sơ đồ. Tư duy này giúp trẻ phán ảnh
những mối liên hệ tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào hành động hay ý
muốn chủ quan của bản thân trẻ. Tư duy trực quan - sơ đồ vẫn giữ tính chất
hình tượng, song bản thân hình tượng cũng trở nên khác trước hình tượng đã
bị mất đi những chi tiết rườm rà chỉ còn giữ lại những yếu tố chủ yếu giúp trẻ
phản ánh khái quát sự vật chứ không phải từng sự vật riêng lẻ. Vì vậy, giáo
viên cần cung cấp cho trẻ những biểu tượng không gian thật phong phú và đa
rạng được hệ thống hóa chính xác hóa.
1.2.2.4. Đặc điểm phát triển ngôn ngữ
Trẻ 5 - 6 tuổi, ngôn ngữ của trẻ phát triển mạnh mẽ về mặt vốn từ cũng
như về mặt ngữ pháp. Trẻ có thể sử dụng ngơn ngữ của mình để diễn đạt mối
quan hệ khơng gian giữa các vật bằng từ ngữ đơn giản. Tuy nhiên, mỗi trẻ là
một cá thể riêng biệt và môi trường giáo dục có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát
triển ngơn ngữ của trẻ. Vì thế, gia đình và nhà trường MN có vai trị quan
trọng trong sự phát triển và hồn thiện ngơn ngữ cho trẻ nói chung và ngơn
ngữ tốn học nói riêng. Như vậy, dựa vào đặc điểm phát triển các quá trình
nhận thức cho trẻ 5 - 6 tuổi ta có thể xây dựng phương pháp, biện pháp, hình
thức tổ chức tổ chức HĐHT cho phù hợp tạo điều kiện tốt nhất cho sự phát triển
mọi mặt của trẻ.
1.2 .3. Đặc điểm nhận thức của trẻ 5 - 6 tuổi về biểu tượng ĐHKG
Ở lứa tuổi này trẻ hiểu rõ việc phân nhỏ các phần trong không gian là
sự thống nhất và trẻ đã cảm nhận được các hướng chính của khơng gian. Trẻ
hiểu khơng gian là một hệ thống nhất hồn chỉnh có cả tính thống nhất và rời
rạc. Vì vậy, trẻ 5 - 6 tuổi đã phân biệt không gian theo 2 vùng đối xứng nhau
(trên - dưới; trước - sau; phải - trái). Mỗi phía phải được chia ra làm 2 khu vực:

Bên phải về phía trên và bên phải về phía dưới. Hay phía trước về bên phải, phía
trước về bên trái, lúc này đứa trẻ được coi là trung tâm. Khi xác định sự xếp đặt
các vật thể trong không gian trẻ dần dần thấy rằng các vật xung quanh nó đều có
tọa độ riêng. Việc xác định vị trí của một vật nào đó chỉ có tính chất tương đối.


19

Khi góc tọa độ thay đổi thì vị trí các vật trong không gian cũng thay đổi. Việc định
hướng không gian trên bản thân trẻ, từ trẻ và từ vật đã chuyển dần từ chỗ trẻ dùng
hệ tọa độ gốc cố định, đến việc dùng hệ tọa độ có điểm gốc khi di chuyển tự do.
Việc định hướng trên bản thân trẻ là sự mở đầu quan trọng, là cơ sở để trẻ định
hướng không gian cho các đối tượng khác.
1.2.4. Mục tiêu, nội dung hình thành biểu tượng định hướng không gian
cho trẻ 5 – 6 tuổi
Mục tiêu giáo dục mầm non là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình
cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn
bị cho trẻ vào lớp một, hình thành và phát triển ở trẻ em những chức năng tâm
sinh lý, năng lực phẩm chất mang tính nền tảng, những kỹ năng sống cần thiết
phù hợp với lứa tuổi, khơi dậy và phát triển những khả năng tiềm ẩn, đặt nền
tảng cho việc học tập ở các cấp học tiếp theo và cho suất cuộc đời. (Chương
trình giáo dục mầm non, ban hành kèm theo thông tư số 17/2009/TTBGDĐT ngày 25 tháng 7 năm 2009 của Bộ trưởng bộ giáo dục đào tạo).
Mục tiêu của hình thành biểu tượng tốn học sơ đẳng cho trẻ mầm non
là giúp trẻ có những kiến thức sơ đẳng về biểu tượng số lượng, con số và phép
đếm; về kích thước và hình dạng của các vật. Trẻ biết định hướng trong
không gian và thời gian, trẻ nắm được phép đếm, phép đo độ dài các vật bằng
các thước đo ước lệ, biết thiết lập mối quan hệ số lượng giữa các sự vật, hiện
tượng xung quanh. Đồng thời phát triển ở trẻ khả năng ước lượng kích thước
các vật …giúp trẻ phát triển trí tuệ. Ngồi ra, việc hình thành ở trẻ những biểu
tượng tốn học sơ đẳng góp phần phát triển ngơn ngữ cho trẻ, trẻ nắm được

các thuật ngữ toán học như: tên gọi các con số, các hình hình học phẳng. Trẻ
hiểu và diễn đạt được mối quan hệ khơng gian bằng lời nói. Việc hình thành
các biểu tượng tốn học cho trẻ mầm non trước hết cần hướng vào việc giáo
dục cho trẻ thói quen định hướng thế giới xung quanh một cách đầy đủ và
logic, nó có tác dụng hình thành ở trẻ khả năng tìm tịi, quan sát…thúc đẩy
phát triển tư duy, phát triển ngơn ngữ cho trẻ. Trong q trình giáo dục Mầm
non, việc hình thành biểu tượng tốn học sơ đẳng cho trẻ nói chung và củng


20

cố biểu tượng không gian cho trẻ 5 - 6 tuổi nói riêng có vai trị vơ cùng to lớn.
Q trình này đã hình thành ở trẻ những khả năng tìm tịi, quan sát……..thúc
đẩy sự phát triển của tư duy, ngôn ngữ cho trẻ, giúp trẻ nắm được mối liên hệ
và quan hệ toán học, giúp trẻ lĩnh hội những tri thức toán học ban đầu, nắm
được các thuật ngữ toán học trẻ hiểu và diễn đạt được bằng lời nói. Trẻ mẫu
giáo lớn đã có khả năng xác định các hướng khơng gian cơ bản như: Phía trên
- phía dưới; phía trái - phía phải; phía trước - phía sau của bản thân trẻ, không
gian định hướng đã được mở rộng hơn. Tuy nhiên, giáo viên cần tác động để
tiếp tục phát triển cho trẻ khả năng xác định vị trí của những đối tượng xung
quanh so với trẻ và vị trí của bản thân trẻ giữa những đối tượng xung quanh,
mở rộng hơn nữa không gian định hướng cho trẻ.
Trẻ 5 - 6 tuổi đã có khả năng xác định các hướng trong khơng gian cơ
bản như: phía trên - phía dưới; phía trước - phía sau; phía trái - phía phải của
bản thân trẻ, khơng gian định hướng đã được mở rộng hơn. Giáo viên vẫn cần
tác động để tiếp tục phát triển cho trẻ khả năng xác định vị trí của các đối
tượng xung quanh so với trẻ và vị trí của bản thân trẻ với các đối tượng xung
quanh, mở rộng hơn nữa không gian định hướng cho trẻ. Ngoài ra giáo viên
cần tiếp tục phát triển khả năng của trẻ xác định phía phải, phía trái của bạn
khác dựa trên sự xác định tay phải, tay trái của bạn đó.

Đến cuối lớp mẫu giáo lớn, giáo viên cần chú ý dạy trẻ cách xác định vị
trí của đồ vật này so với đồ vật khác hình thành cho trẻ kỹ năng xác định và
diễn đạt bằng lời nói mối quan hệ khơng gian giữa các vật. Nó giúp trẻ dễ
dàng định hướng trong khơng gian với việc sử dụng hệ tọa độ tự do mà chuẩn
là vật bất kỳ. Bên cạnh đó, giáo viên cần tiếp tục phát triển cho trẻ kỹ năng
định hướng trên mặt phẳng như: tờ giấy; bảng; tấm bìa; trang sách..với việc
xác định một cách chi tiết hơn các vị trí trên mặt phẳng như: góc trên bên
phải, góc trên bên trái, góc dưới bên phải, góc dưới bên trái. Tiếp tục dạy trẻ
định hướng và thay đổi hướng khi di chuyển.
Tóm lại nội dung dạy trẻ 5 - 6 tuổi định hướng trong không gian bao gồm:
- Phát triển cho trẻ định hướng trong không gian khi trẻ lấy mình và bạn khác làm chuẩn.


21

- Dạy trẻ xác định các hướng: Phía phải – phía trái của bạn khác
- Dạy trẻ xác định mối không gian giữa các vật
- Phát triển cho trẻ kỹ năng định hướng trên mặt phẳng và định hướng khi
di chuyển.
1.2.5. Tiêu chí và thang điểm đánh giá mức độ tiến bộ của trẻ về củng cố
biểu tượng ĐHKG
a. Cơ sở xây dựng tiêu chí đánh giá
Dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn về đặc điểm nhận thức của trẻ 5 - 6
tuổi, lí luận về hình thành biểu tượng ĐHKG cho trẻ 5 - 6 tuổi, chúng tơi xây
dựng tiêu chí đánh giá và thang điểm đánh giá việc củng cố biểu tượng không
gian cho trẻ 5 - 6 tuổi
b. Tiêu chí đánh giá
Việc xây dựng tiêu chí đánh giá mức độ củng cố biểu tượng ĐHKG cho
trẻ 5 - 6 tuổi theo dựa theo 4 tiêu chí sau:
Tiêu chí 1: Mục đích trẻ tham gia HĐHT và thời gian cho trẻ tham gia vào

hoạt động (3 điểm)
Tiêu chí 2: Mức độ chú ý lắng nghe, ghi nhớ kiến thức đã học có kĩ năng giải
quyết nhiệm vụ học tập (2 điểm)
Tiêu chí 3: Trẻ có khả năng nhận biết và diễn đạt mối quan hệ không gian
một cách chính xác (3 điểm)
Tiêu chí 4: Kết quả thực hiện nhiệm vụ ĐHKG thông qua HĐHT (2 điểm)
c. Thang điểm đánh giá
Đánh giá mức độ của trẻ 5 - 6 tuổi đối với việc củng cố biểu tượng
không gian theo các biểu hiện ở 4 mức sau:
* Mức độ tốt:
+ Trẻ rất thích tham gia vào HĐHT củng cố biểu tượng định hướng không
gian và mong muốn kéo dài thời gian tham gia hoạt động
+ Trẻ chú ý lắng nghe và ghi nhớ kiến thức đã học, trẻ có kĩ năng giải quyết
nhiệm vụ học tập.
+ Trẻ có khả năng nhận biết và diễn đạt mối quan hệ khơng gian một cách
chính xác.


22

+ Biết kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ ĐHKG của trẻ và
của bạn.
* Mức độ khá:
+ Trẻ thích tham gia vào HĐHT củng cố biểu tượng ĐHKG.
+ Trẻ chú chú ý lắng nghe và ghi nhớ kiến thức đã học.
+ Trẻ có khả năng nhận biết và diễn đạt được mối quan hệ trong không gian.
+ Trẻ biết kiểm tra đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ ĐHKG của mình.
* Mức độ trung bình:
+ Trẻ thích tham gia HĐHT nhưng khơng bền vững lúc trẻ thích, lúc trẻ
khơng thích.

+ Trẻ có chú ý lắng nghe khi tham gia HĐHT, đơi khi cịn lúng túng trong khi
giải quyết nhiệm vụ học tập, mặc dù có sự hướng dẫn của GV.
+ Trẻ có khả năng nhận biết và diễn đạt mối quan hệ trong không gian dưới
sự gợi ý của GV.
+ Biết kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ ĐHKG của mình và của bạn dưới sự
hướng dẫn của GV, tuy nhiên chưa thật chính xác.
* Mức độ yếu:
+ Trẻ còn thờ ơ với việc tham gia hoạt động củng cố biểu tượng ĐHKG, lúc
thích lúc khơng thích tham gia vào HĐHT.
+ Trẻ khơng tập trung trong hoạt động, thực hiện nhiệm vụ học tập theo sự
hướng dẫn của GV cịn lúng túng và chưa chính xác.
+ Khả năng nhận biết khơng gian cịn nhiều lúng túng, bỡ ngỡ. Trẻ chưa diễn
đạt được mối quan hệ không gian mặc dù có sự gợi ý của GV.
+ Trẻ không biết kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ ĐHKG của mình và
của bạn.
- Thang điểm đánh giá:
+ Mức độ Tốt: 8,5 – 10 điểm
+ Mức độ Khá: 7,0 – 8,0 điểm
+ Mức độ Trung bình: 5,0 – 6,5 điểm
+ Mức độ Yếu: < 5 điểm
1.3. Tổ chức một số HĐHT theo hướng tích hợp trong củng cố biểu tượng
định hướng không gian cho trẻ 5 - 6 tuổi


23

1.3.1. Khái quát về tổ chức một số hoạt động học tập theo hướng tích hợp củng
cố biểu tượng khơng gian đối với trẻ 5 - 6 tuổi
1.3.1.1. Khái niệm tổ chức hoạt động học tập
Hoạt động học tập là hoạt động lấy khái niệm khoa học làm đối tượng,

động cơ của các hoạt động này là chiếm lĩnh tri thức khoa học của lồi người
đã tích lũy được. HĐHT là hoạt động chủ đạo của học sinh phổ thông và chỉ
đến tuổi học sinh phổ thông hoạt động này mới phát triển đến mức chính thức,
cịn trước đó ở tuổi mẫu giáo nó mới chỉ ở dạng thời kỳ phôi thai.
Hoạt động học tập ở trẻ 5 - 6 tuổi là một loại hoạt động đặc biệt, nó
chưa hẳn là một giờ học như ở phổ thông nhưng cũng khơng là giờ chơi như ở
lứa tuổi nhà trẻ. Nó vừa có hình thức tổ chức như một giờ học ở trường phổ
thông nhưng những phương pháp, biện pháp tác động lên trẻ trong quá trình
hoạt động lại kết hợp nhiều dạng hoạt động tự nhiên, thoải mái; khơng gị bó
trẻ như thơng qua trị chơi, qua lao động, qua các loại hình văn học, nghệ
thuật tạo hình, âm nhạc…Ở các loại hình này khi tổ chức trên giờ học là giáo
viên tạo cơ hội cho trẻ trao đổi, trò chuyện, được phát biểu, nói lên ý kiến của
mình, được tự tìm hiểu, tự làm, tự khám phá để nhận biết bằng nhiều giác
quan khác nhau.
Ở lứa tuổi mẫu giáo, trong nhiều hoạt động đặc biệt là hoạt động vui
chơi đã xuất hiện những yếu tố của hoạt động học. Nếu lúc 3 - 4 tuổi trẻ chỉ
có một số câu hỏi khơng nhiều lắm hướng vào việc tìm hiểu mơi trường xung
quanh, thì đến 5 - 6 tuổi các câu hỏi tìm hiểu cái mới đã chiếm ưu thế hơn.
Nhiều trẻ đã quan tâm đến nguyên nhân của những hiện tượng và muốn tìm
hiểu mối quan hệ giữa chúng. Để hình thành những biểu tượng tốn sơ đẳng,
giáo viên có thể tổ chức các trị chơi, hoạt động để nhận ra mối quan hệ
giữa các vật trong không gian.
HĐHT thường được tổ chức dưới dạng các “tiết học”, với trẻ 5 - 6 tuổi
khoảng thời gian tổ chức cho trẻ thường là từ 30 - 35 phút và đây được coi là
một hình thức đánh giá khả năng, hay kiến thức của trẻ, thông qua hoạt động
học tập giúp trẻ khơng những hình thành mà cịn củng cố cho trẻ những kiến
thức, kỹ năng giúp trẻ phát triển một cách toàn diện. HĐHT là một hoạt động
mà chuyên hướng vào sự tái làm ra (tạo) tri thức ở trẻ. Sự tái làm ra được hiểu



24

theo nghĩa là phát hiện lại, và để tái làm ra đòi hỏi trẻ phải huy động nội lực
của bản thân là ý chí, động cơ… càng phát huy cao bao nhiêu thì khả năng
tiếp thu cũng cao bấy nhiêu. Thông qua HĐHT, được các nhà giáo dục truyền
đạt đến trẻ những tri thức kỹ năng một cách bài bản có hệ thống, giúp trẻ
mầm non nhằm tiếp thu tri thức, hoàn thiện hiểu biết cũng như kỹ năng của
bản thân. Từ những nội dung trên có thể hiểu rằng: “Tổ chức HĐHT là cách
thức mà giáo viên xây dựng hệ thống tri thức một cách bài bản, nội dung chặt
chẽ phong phú, thông qua các giờ học nhằm truyền đạt đến trẻ những hiểu
biết ban đầu, trẻ tiếp thu tri thức, kỹ năng giúp trẻ nâng cao hiểu biết của bản
thân để trẻ có thể phát triển một cách toàn diện nhất”.
1.3.1.2. Đặc điểm của việc tổ chức một số hoạt động học tập ở trẻ 5 – 6 tuổi
Hiện nay, hoạt động hình thành biểu tượng định hướng không gian cho trẻ
5 - 6 tuổi tại các trường MN đều được thực hiện theo chương trình đổi mới hình
thức tổ chức các hoạt động giáo dục. Nội dung tích hợp trong các giờ học cũng
được giáo viên áp dụng rộng rãi, phổ biến khơng chỉ có ở trong “tiết học toán” mà
ngay cả trong các “tiết học” khác cũng được giáo viên triển khai một cách tối đa.
Việc tích hợp nội dung các mơn học khiến cho giờ học của trẻ trở nên sinh động,
hấp dẫn hơn và lôi cuấn trẻ tham gia hoạt động, trẻ chủ động tích cực trở thành
chủ thể của mọi hoạt động. Tích hợp các môn học làm cho tiết học trở nên hấp
dẫn hơn, không nhàm chán và cứng nhắc, nội dung bài học thì phong phú, trẻ tiếp
thu một cách tự nhiên thoải mái theo cách “học là chơi, chơi là học”. Từ trước đến
giờ, bộ mơn tốn và nhất là định hướng về không gian và thời gian được xem là
nội dung khó khi giáo viên muốn truyền đạt kiến thức đến với trẻ, trẻ cũng không
mấy hứng thú với tiết học tốn việc định hướng khơng gian được giáo viên tiến
hành trên tiết dạy toán với nội dung và chủ đề cụ thể, được giáo viên truyền đạt
một cách tỉ mỉ, cụ thể hơn. Ngồi ra giáo viên có thể củng cố kiến thức về biểu
tượng không gian cho trẻ thông qua tổ chức một số HĐHT như thể dục, tạo hình
nhưng việc đó lại chưa khai thác tối đa hiệu quả của nó. Bản thân tiết học thể dục

và hoạt động tạo hình là hai mơn học được xem như là một phương tiện giúp trẻ
củng cố biểu tượng khơng gian một cách có hiệu quả nhất.
1.3.2. Ý nghĩa của việc tổ chức một số hoạt động học tập theo hướng tích
hợp đối với sự phát triển nhận thức về không gian của trẻ 5 - 6 tuổi


25

1.3.2.1. Ý nghĩa của HĐHT đối với giáo dục trí tuệ
Việc tổ chức một số HĐHT theo hướng tích hợp giúp trẻ tiếp cận với
thế giới tri thức mới, kiến thức bao quát rộng hơn, môi trường hoạt động
phong phú hơn, có nhiều cách thức khác nhau để tiếp cận kiến thức. HĐHT là
hoạt động đa rạng, được lồng ghép rất nhiều nội dung, trong đó có việc củng
cố định hướng khơng gian cho trẻ, giúp trẻ hình thành biểu tượng không gian
một cách dễ dàng, hứng thú hơn. Hơn nữa HĐHT sẽ mang lại cho trẻ những
kết quả nhất định. Trẻ 5 - 6 tuổi là giai đoạn cuối của tuổi mẫu giáo, trẻ 5 - 6
tuổi đã bắt đầu có những hành trang cơ bản cũng như đã có những chuẩn bị về
tâm lý, kiến thức, kỹ năng cần thiết để chuẩn bị giúp trẻ bước vào ngưỡng cửa
lớp 1 trẻ sẽ khơng cịn cảm thấy mấy bỡ ngỡ khi bước vào phổ thơng. Vì vậy,
việc định hướng không gian cho trẻ là vô cùng cần thiết và quan trọng. Việc
tổ chức một số HĐHT theo hướng tích hợp dưới dạng “tiết học” củng cố biểu
tượng không gian là một hình thức tổ chức khơng thể thiếu, bởi vì nó khơng
những giúp trẻ hình thành những tri thức mới mà còn giúp trẻ rèn luyện và
củng cố các tri thức cũ, các kỹ năng cần thiết cho trẻ. Phát triển ở trẻ khả năng
chú ý bền lâu có chủ định, rèn luyện và phát triển các thao tác tư duy, phát
triển ngơn ngữ và tính tích cực, tự giác trong học tập, góp phần hồn thiện và
phát triển năng lực cảm giác, thúc đẩy sự ham hiểu biết của trẻ. Trẻ lĩnh hội
tri thức, rèn luyện các kỹ năng thông qua quan sát và hoạt động với đồ vật
dưới sự hướng dẫn của giáo viên, trong đó trẻ giữ vai trị là chủ thể của hoạt
động cịn cơ giáo là người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn trẻ hoạt động.

1.3.2.2. Ý nghĩa của HĐHT đối với việc phát triển thể chất
Đối với trẻ 5 - 6 tuổi hệ thần kinh và hệ cơ của trẻ có những thay đổi rất
lớn, trẻ trở nên cứng cáp hơn, biết tự lực, rất hiệu động và các vận động của trẻ
dần dần được hồn thiện.
Các q trình tâm lí của trẻ ở lứa tuổi này cũng đã hoàn thiện hơn. Khả
năng chú ý và tập trung cao, trẻ hiểu được nhiệm vụ của mình, có thể khái qt
một số hiện tượng và nhanh nhẹn khi nhìn thấy những u cầu chính trong việc
thực hiện. Trẻ có thể thực hiện các động tác quen thuộc bằng nhiều cách, trong
một thời gian dài hơn, với lượng vận động lớn hơn. Các vận động của trẻ bước
đầu đã đạt chính xác, nhịp nhàng nhịp điệu ổn định, biết phối hợp vận động của


×