Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Khóa luận tốt nghiệp củng cố biểu tượng hình dạng cho trẻ 5 – 6 tuổi thông qua trò chơi lắp ghép xây dựng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 113 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giáo dục và đào tạo giữ vai trò đặc biệt quan trọng đối với quá trình
phát triển xã hội trong tất cả các giai đoạn lịch sử. Đảng và Nhà nước ta đã
coi “Giáo dục cùng với khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu”. Quan
điểm đó được cụ thể hố qua nhiều chủ trương, chính sách phát triển giáo
dục, đào tạo. Nghị quyết Trung Ương II khóa VIII đã xác định: “Giáo dục
là một bộ phận quan trọng của kinh tế xã hội, có vị trí hàng đầu trong
chiến lược con người, phục vụ chiến lược kinh tế và quốc phòng”. Hiện
nay, trước những yêu cầu của thời đại mới, nhất là ở giai đoạn đất nước ta
đang trong quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, địi hỏi giáo dục cần
chú trọng đổi mới phương pháp dạy học, vì phương pháp dạy học là một
yếu tố cơ bản có tầm ảnh hưởng lớn, có tính chất quyết định đến chất
lượng giáo dục và đào tạo.
Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân
giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đặt nền móng phát triển con người.
Mục tiêu của Giáo dục Mầm non được xác định rõ: “giúp trẻ em phát triển về
thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của
nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào học lớp một” (Luật giáo dục 2005,
chương II, mục 1, điều 22). Để đạt mục tiêu đó, thì: “Phương pháp giáo dục
mầm non chủ yếu là thông qua việc tổ chức các hoạt động vui chơi để giúp trẻ
em phát triển toàn diện” (Luật giáo dục 2005, chương II, mục 1, điều 23).
Các nghiên cứu giáo dục nói chung, giáo dục mầm non nói riêng đã khẳng
định việc tổ chức các hoạt động học tập dưới hình thức vui chơi góp phần
quan trọng trong việc hình thành nét tính cách, phát triển phẩm chất, sự mạnh
dạn, tự tin, năng động, sáng tạo,…của trẻ, là tiền đề để chuẩn bị cho trẻ học
tập ở bậc tiểu học và các bậc sau đạt kết quả cao.
Hình thành, củng cố biểu tượng hình sơ đẳng về tốn giữ một vai trò quan
trọng trong cuộc sống, trong việc tạo dựng các kiến thức cơ sở để học tập của


trẻ mầm non. Hơn nữa, việc củng cố biểu tượng toán học ban đầu cho trẻ nói


2

chung, củng cố biểu tượng hình dạng nói riêng cũng đóng vai trị rất quan
trọng trong sự phát triển trí tuệ của trẻ và chuẩn bị cho trẻ tự tin bước vào cấp
học tiếp theo. Biểu tượng hình dạng là vốn kiến thức giúp trẻ xác định hình
dạng của sự vật, hiện tượng xung quanh trong cuộc sống. Việc củng cố biểu
tượng hình dạng cho trẻ nói chung, trẻ 5 – 6 tuổi nói riêng có tác dụng khắc
sâu hơn tính ổn định và sự phát triển tri giác hình dạng vật thể, phát triển tư
duy ở trẻ. Sự củng cố biểu tượng hình dạng của trẻ một mặt được thực hiện
trên cơ sở nhận thức cảm tính, mặt khác nó được thực hiện với sự tham gia
của tư duy và ngôn ngữ. Sự tri giác vật thể phụ thuộc vào kinh nghiệm thao
tác thực tiễn đối với vật thể mang lại cho trẻ sự phát triển thị giác, ngôn ngữ,
tư duy. Việc dạy trẻ phân biệt hình dạng như dấu hiệu của vật thể và diễn đạt
bằng lời rất quan trọng, ảnh hưởng tích cực đến sự hình thành những kiến
thức đầy đủ về hiện thực xung quanh trẻ. Việc củng cố biểu tượng hình dạng
tạo cơ sở cho việc nắm vững các hình hình học, hình thành các khái niệm tốn
học sau này. Hình dạng của vật trong môi trường xung quanh rất phong phú,
đa dạng. Tuy nhiên hình dạng của bất kỳ vật thể nào đều được phản ánh khái
qt bằng hình hình học nào đó hay bằng sự kết hợp của một số hình hình học
là các chuẩn mà con người dựa vào đó để xác định hình dạng vật thể. Việc
hình thành và phát triển ở trẻ biểu tượng hình dạng làm tăng chỉ số cho sự
phát triển trí tuệ của trẻ, góp phần tích cực chuẩn bị cho trẻ học các kiến thức
hình học khi học các lớp cấp cao hơn.
“Học bằng chơi, chơi mà học” là một trong những nguyên tắc dạy học
đối với trẻ mầm non. Trong những trò chơi củng cố kiến thức của bậc học
mầm non, trò chơi lắp ghép xây dựng là một trị chơi có sức hấp dẫn đối với
trẻ, được trẻ quan tâm và thích thú. Sản phẩm trò chơi lắp ghép gắn với các

chủ đề chơi góp phần phát triển ở trẻ hiểu biết về thế giới vật chất thơng qua
các hình, qua kích thước, màu sắc khác nhau của các viên gạch chơi, các khối
nhựa ghép hình,... Trị chơi lắp ghép xây dựng là phương tiện tiềm năng để
củng cố biểu tượng hình dạng cho trẻ đạt hiệu quả cao. Bởi khi tham gia trò
chơi trẻ sẽ có cơ hội củng cố hình dạng các hình thể hiện qua sự sáng tạo của


3

mình, từ đó trẻ được mở rộng tư duy, củng cố trí nhớ, khơi gợi óc sáng tạo và
phát triển ngôn ngữ. Trong khi chơi, trẻ thể hiện sự hiểu biết và khả năng ghi
nhớ của mình, khả năng tư duy và sáng tạo rất rõ ngay từ khi hình thành ý
tưởng xây dựng trên cơ sở các biểu tượng đã có, đến nguyên vật liệu, cách
thức lắp ghép xây dựng cơng trình,..
Trong thực tế, q trình củng cố biểu tượng tốn học nói chung cũng như
củng cố các biểu tượng hình dạng nói riêng rất được giáo viên chú trọng. Tuy
nhiên, một số giáo viên chưa khai thác hết giá trị của trò chơi lắp ghép xây dựng
trong củng cố biểu tượng hình dạng cho trẻ nên hiệu quả về việc dạy học biểu
tượng hình dạng của trẻ chưa được tuyệt đối hóa. Việc tổ chức q trình chơi
cho trẻ đảm bảo sự lồng ghép, hòa quyện vào nhau giữa trị chơi và nội dung
học tập theo lí luận về tổ chức trò chơi của một số giáo viên mầm non chưa
được quan tâm đúng mức. Điều đó gây nên những hạn chế trong việc kích thích
hứng thú nhận thức của trẻ khi chơi, giá trị của việc tổ chức các hoạt động học
tập thơng qua trị chơi chưa được khai thác một cách tối đa.
Là một giáo viên Mầm non tương lai, chúng tôi ý thức một cách
nghiêm túc việc nghiên cứu, học hỏi kiến thức củng cố biểu tượng sơ đẳng về
tốn thơng qua trị chơi để từ đó làm tốt cơng tác chun mơn của mình sau
này. Q trình nghiên cứu của chúng tơi hướng vào trẻ mẫu giáo lớn - đối
tượng có nhận thức, kinh nghiệm và nền kiến thức cơ sở của việc tham gia
các trị chơi phong phú. Từ đó, việc thiết kế các biện pháp sư phạm có cơ sở

để đảm bảo tính phong phú, đa dạng,
Xuất phát từ thực tế trên, chúng tơi đã chọn: “Củng cố biểu tượng
hình dạng cho trẻ 5 – 6 tuổi thơng qua trị chơi lắp ghép xây dựng” làm đề
tài nghiên cứu.
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
2.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài
- Làm rõ cơ sở lí luận của việc củng cố biểu tượng hình dạng cho trẻ
mầm non, các yếu tố ảnh hưởng đến việc củng cố biểu tượng hình dạng cho


4

trẻ, vai trò của trò chơi lắp ghép xây dựng đối với việc củng cố biểu tượng
hình dạng cho trẻ 5 – 6 tuổi.
- Xác định cơ sở khoa học của việc xây dựng các biện pháp củng cố biểu
tượng hình dạng cho trẻ 5 – 6 tuổi thơng qua trò chơi lắp ghép xây dựng.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
- Đề xuất được các biện pháp củng cố biểu tượng hình dạng cho trẻ 5 –
6 tuổi thơng qua trị chơi lắp ghép xây dựng.
- Các biện pháp đề xuất và các ví dụ minh họa trong đề tài là tài liệu
tham khảo cần thiết cho sinh viên ngành giáo dục mầm non, giáo viên mầm
non quan tâm đến vấn đề củng cố biểu tượng hình dạng cho trẻ 5 – 6 tuổi
thông qua hoạt động lắp ghép xây dựng.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Đề xuất các biện pháp củng cố biểu tượng hình dạng cho trẻ 5 – 6 tuổi
thơng qua trị chơi lắp ghép xây dựng.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu, cần thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lí luận và thực tiễn về củng cố biểu tượng
hình dạng cho trẻ mầm non.

- Làm rõ lí luận về mối quan hệ giữa trị chơi nói chung, trị chơi lắp ghép
xây dựng nói riêng với việc củng cố biểu tượng hình dạng cho trẻ 5 – 6 tuổi.
- Khảo sát thực trạng việc củng cố biểu tượng hình dạng cho trẻ mầm
non thơng trị chơi lắp ghép xây dựng tại trường mầm non Hùng Vương – thị
xã Phú thọ - tỉnh Phú thọ.
- Đề xuất biện pháp củng cố biểu tượng hình dạng cho trẻ 5 – 6 tuổi
thơng qua trị chơi lắp ghép xây dựng.
- Thử nghiệm sư phạm kiểm tra tính khả thi, hiệu quả của các biện pháp
đã đề xuất.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Củng cố biểu tượng hình dạng cho trẻ mầm non.


5

Phạm vi: Củng cố biểu tượng hình dạng cho trẻ 5 – 6 tuổi thơng qua trị
chơi lắp ghép xây dựng.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
- Tập hợp, đọc, nghiên cứu, phân tích, tổng hợp, hệ thống các nguồn tài
liệu, các đề tài nghiên cứu, các giáo trình tham khảo liên quan tới đề tài: Mục
tiêu dạy học mầm non; định hướng đổi mới phương pháp dạy học ở trường
mầm non; vấn đề hình thành các biểu tượng về tốn cho trẻ mầm non; lí luận
về sử dụng trò chơi học tập trong dạy học mầm non nói chung, trong hình
thành và củng cố biểu tượng tốn học cho trẻ nói riêng;...
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6.2.1. Điều tra bằng phiếu (An két)
Sử dụng điều tra đối với giáo viên mầm non nhằm mục đích điều tra
thực trạng việc củng cố biểu tượng hình dạng cho trẻ 5 – 6 tuổi thơng qua
trị chơi lắp ghép xây dựng ở trường Mầm non Hùng Vương – thị xã Phú

thọ - tỉnh Phú thọ.
6.2.2. Phương pháp đàm thoại
Trao đổi, trò chuyện với giáo viên mầm non về việc tổ chức hướng dẫn
trò chơi lắp ghép xây dựng cho trẻ 5 – 6 tuổi nhằm thu thập thơng tin có liên
quan đến đề tài, phát hiện thực trạng và làm sáng tỏ các thông tin thu nhận
được từ Anket.
6.2.3. Phương pháp quan sát
Dự giờ, quan sát các buổi chơi lắp ghép xây dựng của trẻ 5 - 6 tuổi tại
trường Mầm non Hùng Vương – thị xã Phú thọ - tỉnh Phú thọ để thấy được
thực trạng việc sử dụng trò chơi lắp ghép xây dựng nhằm củng cố biểu tượng
hình dạng cho trẻ tại trường Mầm non.
6.2.4. Phương pháp thử nghiệm sư phạm
Tổ chức thử nghiệm sư phạm tại trường Mầm non Hùng Vương - thị xã
Phú Thọ - tỉnh Phú Thọ nhằm kiểm tra tính khả thi, hiệu quả của biện pháp


6

củng cố biểu tượng hình dạng cho trẻ thơng qua trò chơi lắp ghép xây dựng
đã đề xuất trong đề tài.
6.2.5. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng một số cơng thức tốn học thống kê như: tính phần trăm, tính
điểm trung bình,…..nhằm xử lý, phân tích định lượng các kết quả khảo sát
thực trạng và kết quả thử nghiệm


7

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Những nghiên cứu ở nước ngồi
Tốn học đóng vai trò quan trọng trong đời sống hàng ngày của trẻ,
giúp trẻ làm quen với thế giới xung quanh. Ngay từ những năm tháng đầu đời
trẻ đã tiếp xúc với người lớn và với thế giới xung quanh tất cả điều đó ảnh
hưởng đến sự phát triển của trẻ. Qua các hoạt động đa dạng, dưới sự hướng
dẫn của người lớn trẻ dần dần có những khái niệm về tính chất, đặc điểm của
sự vật trong thế giới xung quanh như: hình dạng, màu sắc, kích thước, số
lượng, sự sắp xếp của chúng trong không gian và mối quan hệ tốn giữa
chúng. Những điều đó giúp trẻ tích lũy dần các kinh nghiệm và giúp trẻ tự
giải quyết phần nào các thắc mắc, mong muốn, hiểu biết của mình đồng thời
đó cũng là cơ sở để hình thành các khái niệm toán học sau này.
Nội dung trong việc giáo dục trí tuệ trong khoa học sư phạm mẫu giáo
là sự hình thành ở trẻ khối lượng tri thức nhất định về các đối tượng, các hiện
tượng và những phương thức hoạt động tư duy nhất định như kỹ năng quan
sát, phân tích, so sánh, khái qt hóa đơn giản. A.P.Usova cũng đã nhận định
rằng: “Trong khi đem lại cho trẻ những thông tin về các đối tượng, nhiệm vụ
khác nhau trong hiện thực cần phải làm cho chúng có mối liên hệ (trong đó
có mối liên hệ về hình dạng) và quy luật đơn giản (quy luật các nhóm hình
dạng giống nhau).
Thế kỷ XVII – XIX các nhà giáo dục J.A.Komensky, J.H.Pestalozzi,
K.Đ.Usinxki... trong cơng trình nghiên cứu của mình đã đề cập đến vấn đề
nội dung và phương pháp dạy trẻ học tốn và củng cố biểu tượng hình dạng.
Các nhà khoa học này xuất phát từ nhu cầu thực tiễn đều cho rằng nhất thiết
phải cho trẻ lĩnh hội toán học trong tương lai. Họ đưa ra các ý kiến riêng lẻ
về nội dung và phương pháp dạy toán cho trẻ trong gia đình.


8


Grube (người Đức) và Pestalosu (người Thụy Điển) vào thế kỷ XIX đã
đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc dạy toán cho trẻ với việc sử
dụng phương pháp mơ phỏng. Hai ơng nhấn mạnh vai trị của trực quan và
coi đó là cơ sở đầu tiên cho sự phát triển lý tính sau nay của trẻ. Sau này,
nhiều cuộc nghiên cứu sư phạm và tâm lý của J.M.Jurova và T.V.Taruntaeva
nhằm soạn ra một hệ thống phương pháp đổi mới có hiệu quả trong việc dạy
các yếu tố tốn học và dạy chữ ở vườn trẻ.
Các nhà tâm lý học: D.B.Elkonin, P.Ia.Galeprin,V.V.Davudov..coi
trọng việc dạy trẻ nắm được bản chất và nguồn gốc của những ý niệm sơ
đẳng về đại cương hình dạng. Họ đánh giá cao việc sử dụng rộng rãi các trị
chơi giáo dục cũng như mơ hình hóa, trực quan hóa các mối quan hệ hình
dạng khác nhau. Theo họ thì phương pháp ấy kích thích trẻ có những hành
động thực tiễn khác nhau như: hành động so sánh, đo lường đơn giản, nhận
biết, phân biệt và các quan hệ chuyển đổi.
Các nhà giáo dục như: L.E.Jurova, T.V.Tuaruntaeva, L.A.Venger họ cho
rằng các trò chơi giáo dục và các bài học trẻ mẫu giáo thực sự thích thú hành
động với đồ vật đồ chơi. Trẻ so sánh, phân loại và lập những bài tốn đơn giản.
Nhìn chung, việc củng cố biểu tượng hình dạng cho trẻ mẫu giáo đã
được các nhà khoa học trên thế giới đề cập đến trong các cơng trình nghiên
cứu của mình. Những thành tựu mà họ để lại được xem là “kim chỉ nam”
định hướng cho các nhà nghiên cứu sau này cũng như những nhà giáo dục tổ
chức hoạt động củng cố biểu tượng hình dạng cho trẻ. Đây cũng là cơ sở, đặt
nền móng cho những nghiên cứu về việc củng cố biểu tượng hình dạng thơng
qua các trị chơi sau này.
1.1.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam
Việc nghiên cứu các phương pháp, biện pháp nhằm củng cố biểu tượng
hình dạng cho trẻ là một nội dung có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nó trở
thành một trong những vấn đề trọng tâm của chương trình “Phương pháp
hình thành và củng cố biểu tượng hình dạng cho trẻ mầm non”. Vấn đề này



9

đã thu hút được sự quan tâm của các nhà khoa học và đã được rất nhiều nhà
khoa học tiến hành nghiên cứu.
Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của bộ mơn “Phương pháp
hình thành và củng cố biểu tượng toán học cho trẻ mầm non” ở Việt Nam ta
thấy: Từ những năm 1945 việc hình thành và củng cố biểu tượng toán cho trẻ
đã được các giáo viên quan tâm. Chương trình đổi mới giáo dục mầm non
năm 1998 đã tạo bước chuyển biến mới về hình thức giáo dục mầm non và
sự đổi mới đó đang được tiếp tục cho đến ngày nay.
Quá trình hình thành và củng cố biểu tượng hình dạng cho trẻ được
tiến hành lồng ghép ở mọi lúc mọi nơi, trong mọi hoạt động và điển hình
nhất là trị chơi LGXD. Giáo viên là thang đỡ là điểm tựa, là người tổ
chức, hướng dẫn tạo điều kiện cho trẻ hoạt động. Còn trẻ đóng vai trị
trung tâm là chủ thể tích cực của hoạt động giáo dục, trẻ tự tìm tịi, khám
phá trải nghiệm và áp dụng những kiến thức, kỹ năng về biểu tượng hình
dạng vào thực tiễn cuộc sống, làm cho những kiến thức, kỹ năng đó trở
nên có ý nghĩa, sâu sắc và bền vững hơn.
Vấn đề củng cố biểu tượng hình dạng cho trẻ mầm non nói chung và
trẻ mẫu giáo nói riêng đã có nhiều tác giả trong nước quan tâm. Tác giả
Nguyễn Thanh Sơn – Trịnh Minh Loan – Đào Như Trang trong cuốn “Hình
thành và củng cố biểu tượng ban đầu về toán” (1999) đã chỉ ra cách sử dụng
các phương pháp củng cố biểu tượng tốn học sơ đẳng nói chung và hình
dạng nói riêng cho trẻ lứa tuổi mầm non.
Tiến sĩ Đỗ Thị Minh Loan trong giáo trình “Phương pháp hình thành
biểu tượng toán sơ đẳng cho trẻ mầm non” và Đinh Thị Nhung trong cuốn
“Tốn và phương pháp hình thành biểu tượng toán cho trẻ mẫu giáo” đã chỉ ra
đặc điểm phát triển biểu tượng hình dạng cho trẻ, cấu trúc nội dung chương

trình, phương pháp, biện pháp, hình thức cách lập kế hoạch hình thành và củng
cố các biểu tượng hình dạng cho trẻ mầm non ở các lứa tuổi khác nhau.
Nhìn chung, các nhà Tâm lý – Giáo dục trong nước tập trung nghiên
cứu những vấn đề khái quát, mang tính lý luận về nội dung, hình thức,


10

phương pháp hình thành biểu tượng hình dạng cho trẻ ở các lứa tuổi khác
nhau. Một số tác giả đã đi vào nghiên cứu những biện pháp cụ thể nhằm
củng cố biểu tượng hình dạng cho trẻ. Chưa có tác giả nào nghiên cứu các
biện pháp củng cố biểu tượng hình dạng cho trẻ 5 – 6 tuổi thơng qua trị
chơi LGXD.
Để góp phần làm phong phú thêm mặt lý luận và thực tiễn biện pháp
củng cố biểu tượng hình dạng cho trẻ mẫu giáo, chúng tôi đã mạnh dạn chọn:
“Củng cố biểu tượng hình dạng cho trẻ 5 – 6 tuổi thơng qua trị chơi lắp
ghép xây dựng” làm đề tài nghiên cứu, nhằm hỗ trợ các giáo viên đang làm
việc trực tiếp với trẻ dễ dàng hơn trong việc lựa chọn và sử dụng biện pháp
củng cố biểu tượng hình dạng cho trẻ thơng qua trị chơi LGXD đạt hiệu
quả cao hơn.
1.2. Cơ sở lý luận của việc củng cố biểu tượng hình dạng cho trẻ 5 – 6
tuổi thơng qua trị chơi lắp ghép xây dựng
1.2.1. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1.1. Khái niệm củng cố
Qua nghiên cứu của I.P.Paplơp về động hình là cơ sở khoa học đúng
đắn cho sự giải thích cơ chế sinh lý của sự hình thành thói quen. Chúng tơi
nhận thấy rằng cơ chế sinh lý của sự hình thành thói quen cũng chính là sự
tạo thành động hình, thực chất là hệ thống phản xạ có điều kiện được hình
thành và củng cố trong vỏ não. Sự tạo thành hệ thống động hình được giải
thích như sau:

Khi các kích thích (trực tiếp và ngôn ngữ) tác động vào hệ thần kinh,
một số các kích thích hưng phấn nhưng một số khác lại ức chế hoạt động của
cơ thể. Nhờ những miền hưng phấn và ức chế trong não có tác động qua lại
với nhau tạo thành những mối liên hệ tạm thời ngày càng phức tạp. Đồng thời
mỗi phản xạ riêng biệt không diễn ra một cách cô lập mà phụ thuộc vào nhau
và vào toàn bộ hệ thống các quá trình thần kinh xảy ra trong vỏ não. Hệ thống
các quá trình thần kinh này rất năng động, thường xuyên thay đổi hình loại,
nhưng nếu có cùng một số hồn cảnh ngoại giới được lặp đi lặp lại trong cùng


11

một thời gian dài thì sẽ có một tổ hợp các phản xạ có điều kiện được củng cố.
Hệ thống các phản xạ được củng cố vững chắc đó được thực hiện theo một
trình tự nhất định, gọi là định hình động lực (gọi tắt là động hình). Khi động
hình đã hình thành thì các động tác được thực hiện theo một trình tự quen thuộc,
nhẹ nhàng, khơng có gì là khó khăn và gây ra những xúc cảm tích cực. Điều kiện
sống thay đổi có thể làm phá vỡ động hình. Tuy nhiên động hình khó phá vỡ và
khi phá vỡ thường gây ra những xúc động tiêu cực, tình cảm khơng thoả mãn.
Điều này giải thích tại sao thói quen thường gắn với nhu cầu của mỗi cá nhân.
Như vậy chúng tôi đã dựa vào điều này để đưa ra định nghĩa “Củng cố
là quá trình lập lại làm khắc sâu hơn làm vững chắc vốn kiến thức, kỹ năng,
kinh nghiệm”
1.2.1.2. Khái niệm biểu tượng
Biểu tượng là một khái niệm, một phạm trù được nhiều nhà khoa học
quan tâm nghiên cứu. Tùy theo góc độ nghiên cứu của các nhà khoa học khác
nhau mà khái niệm “biểu tượng” cũng được hiểu theo nhiều cách khác nhau:
Theo từ điển Tiếng việt của tập thể cán bộ ngôn ngữ học biên soạn,
Hồng Phê (chủ biên) thì “biểu tượng” được hiểu như sau: thứ nhất: biểu
tượng là hình ảnh tượng trưng; thứ hai: biểu tượng là hình thức của nhận

thức, cao hơn cảm giác cho người ta hình ảnh của sự vật cịn giữ lại trong
đầu óc sau khi tác động của sự vật vào giác quan ta đã chấm dứt.
Theo quan điểm của các nhà triết học duy vật biện chứng Mac – Lênin
“Biểu tượng là một hình ảnh của khách thể đã được tri giác lưu lại trong óc
của con người và do một tác động nào đó được tái hiện, nhớ lại”. Triết học
duy vật biện chứng Mac – Lenin cũng cho rằng: “Từ những tri giác nhận
thức cảm tính chuyển sang nhận thức cao hơn đó chính là biểu tượng”. Biểu
tượng là những hình thức khác nhau của giai đoạn đầu tiên trong quá trình
nhận thức xong chỉ bằng trực quan sinh động con người không thể nhận
thức được những mối liên hệ bản chất và các quy luật chi phối sự vận động
và phát triển của khách thể. Theo quan điểm của các nhà tâm lý học: “Biểu
tượng là những hình ảnh của sự vật hiện tượng này được sinh ra trong óc


12

khi sự vật và hiện tượng ấy khơng cịn tác động vào các giác quan của ta
như trước”.
Từ những khái niệm trên có thể hiểu: “Biểu tượng là những hình ảnh
của sự vật, hiện tượng được tái hiện lại trong bộ óc của chúng ta khi ta khơng
được tri giác trực tiếp sự vật, hiện tượng ấy”.
1.2.1.3. Khái niệm biểu tượng hình dạng
Hình dạng là một hình học là tập hợp các điểm. Như vậy hình hình học
được cấu tạo từ tập hợp các điểm, do đó một điểm cũng có thể coi là hình
hình học.
Khái niệm hình hình học được hình thành nhờ sự trừu tượng đồng nhất
trong đó có cơ sở là quan hệ tương đương. Nhờ quan hệ này tập hợp các hình
hình học, các vật thể được chia ra thành từng nhóm lóp tương đương. Bất kỳ
hai hình nào, hai vật nào thuộc một lớp thì có hình dạng giống nhau. Lớp của
các hình, vật thể đồng dạng về hình thì gọi là hình dạng

1.2.1.4. Khái niệm phương pháp, biện pháp dạy trẻ
Khái niệm phương pháp: thuật ngữ “Phương pháp” bắt nguồn từ tiếng
Hy Lạp “Metodos” có nghĩa là con đường, cách thức để đạt tới mục đích
nhất định. “Phương pháp là hình thức vận động của nội dung”, nó gắn liền
với hoạt động của con người, giúp con người hình thành được những nhiệm
vụ phù hợp với mục đích đề ra.
Khái niệm phương pháp dạy học: Phương pháp dạy học là cách thức
dạy học của nhà giáo dục với học sinh nhằm mục đích giúp học sinh lĩnh hội
những tri thức, kỹ năng, kỹ sảo, hình thành thế giới quan và phát triển các
năng lực khác. GS. Vũ Ngọc Khánh nhận định “Phương pháp dạy học là
cách thức hợp tác giữa thầy và trò, trong đó thầy truyền đạt kiến thức, kỹ
năng thái độ, điều khiển việc học của trò; trò tiếp thu và điều khiển sự học
tập của bản thân, học những điều được truyền thụ để phát triển nhân cách.
Phương pháp dạy học gồm phương pháp dạy và phương pháp học. Hai
phương pháp này trong suốt q trình dạy học ln có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau. Dạy học là mang tính sáng tạo, đa dạng và linh hoạt, luôn luôn biến


13

đổi và mang tính quy luật về sự thống nhất của mục đích, nội dung, phương
pháp và phù hợp với đối tượng”. Vậy, phương pháp dạy học cho trẻ mẫu giáo
là tổ chức những cách thức chung nhất để tổ chức hoạt động học tập cùng
nhau của giáo viên và trẻ nhằm đạt mục đích đặt ra.
Khái niệm biện pháp dạy học: Biện pháp dạy học là cách làm cụ thể
để tiến hành giải quyết một nhiệm vụ nào đó hướng đến thực hiện mục
đích đặt ra. Do đó, biện pháp là một yếu tố, một bộ phận để hợp thành
phương pháp.
Biện pháp dạy học cho trẻ mẫu giáo: là cách làm cụ thể trong hoạt
động học tập thể cùng nhau của giáo viên và trẻ nhằm thực hiện mục tiêu

dạy học đặt ra.
1.2.2. Đặc điểm quá trình nhận thức của trẻ 5 – 6 tuổi.
1.2.2.1. Đặc điểm chung của sự phát triển tư duy
Giai đoạn 5 – 6 tuổi là thời kỳ phát triển mạnh mẽ nhất của tư duy trực
quan hình tượng. Tư duy phát triển mạnh mẽ là do vốn biểu tượng của trẻ
tăng lên, chức năng kí hiệu phát triển mạnh mẽ, lịng ham hiểu biết và hứng
thú nhận thức của trẻ phát triển. Sự phát triển mạnh mẽ của tư duy trực quan
hình tượng đã giúp cho trẻ mẫu giáo giải quyết được nhiều bài toán thực tiễn
đơn giản mà trẻ gặp trong cuộc sống.
Tư duy trực quan hình tượng phát triển mạnh mẽ là điều kiện thuận lợi
nhất giúp trẻ cảm thụ tốt những hình tượng nghệ thuật và tạo ra những tiền
đề cần thiết để làm nảy sinh những yếu tố ban đầu của kiểu tư duy trừu
tượng. Chính vì thế, giáo viên cần cung cấp những biểu tượng phong phú, đa
dạng được hệ thống hóa và chính xác hóa.
1.2.2.2. Đặc điểm phát triển trí nhớ
Ở tuổi mẫu giáo, năng lực ghi nhớ và nhớ lại của trẻ phát triển mạnh. Tuy
nhiên ở tuổi này hình thức nhớ chủ yếu của trẻ là trí nhớ khơng chủ định.
Đến giữa tuổi mẫu giáo lớn, bên cạnh trí nhớ khơng chủ định cịn xuất
hiện một kiểu ghi nhớ đó là ghi nhớ có chủ định. Sự thay đổi này bắt nguồn
từ điều kiện hoạt động của trẻ ngày một phức tạp hơn, người lớn yêu cầu


14

ngày một cao hơn buộc trẻ không những định hướng vào thực tại mà cả vào
quá khứ và tương lai. Sự phát triển trí nhớ có chủ định có vai trò quan trọng
trong việc chuẩn bị cho trẻ vào lớp một. Vì thế cần phải giúp trẻ bước đầu
phát triển trí nhớ có chủ định.
1.2.2.3. Đặc điểm phát triển đời sống cảm xúc, tình cảm
Ở lứa tuổi 5 – 6 tuổi, tình cảm thống trị tất cả các mặt hoạt động tâm lí

trẻ. Tình cảm của trẻ có một bước chuyển biến mạnh mẽ, sâu sắc và phong
phú hơn so với tuổi trước. Trẻ rất dễ xúc cảm, dễ khóc dễ cười. Trẻ chưa
biết làm chủ tình cảm của bản thân. Biểu hiện ra bên ngồi của những tình
cảm của trẻ em lứa tuổi này trực tiếp mạnh mẽ, không chủ định. Con người
và các sự vật xung quanh trẻ là nguồn khơi dậy những xúc cảm, tình cảm cho
trẻ, đặc biệt là trong mối quan hệ qua lại của trẻ với mọi người. Tình cảm của
trẻ cịn phụ thuộc vào hồn cảnh, khơng ổn định, chưa bền vững. Lúc này, ở
trẻ xuất hiện những tình cảm cao cấp như: tình cảm trí tuệ, tình cảm đạo đức,
tình cảm thẩm mĩ ở lứa tuổi này.
1.2.2.4. Đặc điểm phát triển tri giác
Lên đến 5 – 6 tuổi trẻ được tiếp xúc nhiều hơn với thế giới xung quanh
nhờ đó độ nhạy cảm phát triển giúp trẻ dễ dàng nhận biết được các dấu hiệu,
thuộc tính bên ngồi của sự vật hiện tượng với mức độ tăng dần, ngày càng
chính xác hơn, khả năng quan sát của trẻ cũng phát triển, không chỉ về số
lượng vật mà các chi tiết dấu hiệu thuộc tính cũng được trẻ chú ý đến. Trẻ
cũng bắt đầu xuất hiện khả năng kiểm tra độ chính xác của mình bằng hành
động tháo lắp, vặn, mở……. cho phù hợp với u cầu nhiệm vụ được giao.
Trẻ ln có nhu cầu sờ mó, khám phá khi nhìn thấy vật mới. Do đó việc tổ
chức cho trẻ tri giác và hướng dẫn trẻ cùng quan sát cùng với những nhận xét
của cha mẹ, giáo viên giúp cho trẻ có thói quen làm việc có mục đích, có kế
hoạch…...,chuẩn bị cho trẻ vào trường phổ thông sau này.
1.2.2.5. Đặc điểm phát triển tưởng tượng
Trí tưởng tượng của trẻ chủ yếu được hình thành trong q trình tham
gia các trị chơi. Ở trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi, trí tưởng tượng có thể dựa vào cả


15

những vật khơng giống nhau, thậm trí khác hẳn nhau để làm vật thay thế.
Dần dần trẻ không cần đến chỗ dựa bên ngồi nữa mà chuyển dần vào trí

tưởng tượng ngầm bên trong óc. Tưởng tưởng đi từ bình diện bên ngồi vào
bình diện bên trong theo cơ chế “chuyển vào trong” của tâm lí học.
Tưởng tượng của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi là có chủ định, những cái làm
gì cho trẻ xúc động mạnh thì sẽ thành đối tượng của tưởng tượng. Ở độ tuổi
này xuất hiện tưởng tượng có chủ đích nhằm mục đích đề ra trước. Vì thế,
chú ý đến việc phát triển ngơn ngữ cho trẻ cũng chính là làm tăng tính chủ
định trong hoạt động tâm lí, đặc biệt là trong quá trình phát triển trí tưởng
tượng của trẻ.
1.2.2.6. Đặc điểm phát triển chú ý
Khả năng chú ý của trẻ ở lứa tuổi này là chú ý có chủ định, tuy nhiên
nó mới bắt đầu được hình thành: Trẻ bắt đầu điều khiển chú ý của mình, biết
tự giác hướng chú ý của mình vào những đối tượng nhất định.
Việc tổ chức các hoạt động cho trẻ có ý nghĩa quyết định đối với sự
phát triển có chủ định như tổ chức cho trẻ quan sát các sự vật hiện tượng
xung quanh, khuyến khích trẻ tham gia tích cực vào các hoạt động ở trường
Mầm non. Sự chú ý một cách có chủ định khơng những gắn liền với những
hành động có mục đích mà cịn gắn liền với việc sử dụng ngôn ngữ để điều
chỉnh hành vi của trẻ.
Mặc dù trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi đã hình thành chú ý có chủ định nhưng
chú ý khơng chủ định vẫn chiếm ưu thế. Trẻ rất khó tập trung vào các hoạt
động mang tính đơn điệu, khơng hấp dẫn. Trong khi đó hoạt động vui chơi là
hoạt động mang tính sáng tạo, đượm màu sắc xúc cảm thường lôi cuốn được
trẻ khá lâu, đây chính là cơ sở để tổ chức các hoạt động cho trẻ và việc luôn
luôn thay đổi các hình thức hoạt động duy trì chú ý trẻ vào những đối tượng
một cách bền vững.
1.2.2.7. Đặc điểm phát triển ngôn ngữ
Trong giai đoan 5 – 6 tuổi, ngôn ngữ của trẻ phát triển mạnh mẽ. Trẻ sử
dụng khá thành thạo tiếng mẹ đẻ trong sinh hoạt và trong hoạt động hàng



16

ngày. Trẻ sử dụng được phong phú các từ loại, bắt đầu biết lĩnh hội và tập sử
dụng những cấu trúc ngữ pháp như câu đơn. Cảm xúc ngôn ngữ được hình
thành và thể hiện qua giọng nói, ngữ điệu nhưng đơi khi cịn bị nhầm lẫn hay
nói ngọng. Ngơn ngữ của trẻ cịn gắn liền với tình huống, hồn cảnh, sự việc,
hiện tượng đang diễn ra trước mắt trẻ.
Sự phát triển ngơn ngữ của mỗi trẻ cịn phụ thuộc vào hồn cảnh, mơi
trường sống của trẻ. Dựa trên những đặc điểm phát triển của các quá trình
nhận thức của trẻ 5 – 6 tuổi chúng ta có thể xây dựng phương pháp, biện
pháp, hình thức tổ chức, phương tiện dạy học phù hợp tạo điều kiện tốt nhất
cho sự phát triển mọi mặt cho trẻ.
1.2.3. Đặc điểm nhận thức của trẻ 5 – 6 tuổi về biểu tượng hình dạng
Một trong những tính chất của các vật trong mơi trường xung quanh là
hình dạng của vật. Ngay từ khi cịn nhỏ đã có khả năng nhận biết về hình
dạng các vật trong mơi trường xung quanh. Hình dạng của bất kì sự vật nào
đều có thể quy về dạng các hình hình học nhất định hoặc được biểu thị như
một sự kết hợp một số hình hình học sắp xếp theo một kiểu nào đó trong
khơng gian.
Ví dụ 1.1: Một bơng hoa có thể được tạo bởi nhiều hình trịn xếp đan
vào nhau. Hay một cái ơ tơ được tạo bởi hai hình chữ nhật và hai hình trịn,
một con lật đật được tạo bởi một hình trịn to và một hình trịn nhỏ.
Trẻ em nhận biết hình dạng vật thể và các hình hình học là nhờ có sự
hoạt động tích cực của các giác quan, mà chủ yếu là thị giác và xúc giác, sau
đó dùng lời nói để khái quát cách nhận biết đó.
Việc nhận biết hình dạng vật thể với việc nhận biết các hình hình học
có mối quan hệ tương hỗ với nhau. Lúc đầu trẻ chưa nhận ra các hình hình
học, với trẻ các hình được coi như các vật bình thường và trẻ gọi tên tương
ứng các vật
Ví dụ 1.2: Hình trụ là cái cốc, cái lon nước ngọt; hình tam giác là lá cờ,

cánh buồm; hình chữ nhật là cửa sổ, cái bảng........


17

Trên cơ sở nhận biết hình dạng các vật thể dưới sự tác động dạy của
người lớn, nhận thức về các hình học được chuyển dần, các cháu khơng đồng
nhất các vật với các hình mà so sánh: hình vng giống khăn mùi xoa, hình
chữ nhật giống cái bảng, hình trụ giống cái cốc......, và cuối cùng hình học
được các cháu khái quát lên nhận thức như một tiêu chuẩn. Từ việc nắm
vững các biểu tượng hình hình học giúp trẻ củng cố, nâng cao khả năng nhận
biết, xác định và phân biệt hình dạng các vật thể.
Hệ số thụ cảm về hình dạng vật thể và các hình hình học được tăng
theo kinh nghiệm cảm giác của trẻ và nhờ sự tác động đúng đắn của các nhà
giáo dục. Trẻ ở các lứa tuổi khác nhau thì khả năng nhận biết về hình dạng
vật thể và các hình hình học cũng khác nhau.
Trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi đã biết tên gọi hình dạng và phân biệt được các
hình với nhau, so sánh sự giống và khác nhau giữa các hình. Vì vậy ngay từ
khi cịn 2 – 3 tuổi cần cho trẻ được tiếp xúc với các đồ vật có hình dạng là
các hình hình học. Đối với trẻ 3 – 4 tuổi phải cho trẻ hoạt động nhận biết các
hình hình học như là một tiêu chuẩn, dựa vào đó để tri giác các sự vật.
Khả năng nhận biết các hình hình học và các vật thể bằng các giác quan
phát triển hơn. Trẻ đã chủ động dùng ngón tay để cầm nắm, khảo sát hình
nhưng hoạt động này giúp trẻ phân biệt được các hình với nhau. Trẻ tập
trung quan sát các dấu hiệu riêng biệt của hình học phẳng theo đường bao
quanh của chúng nếu được sự hướng dẫn của nhà giáo dục. Trẻ có khả năng
nhận biệt được các hình khối: khối vng, khối cầu, khối chữ nhật, khối trụ.
1.2.4. Mục tiêu, nội dung, yêu cầu hình thành biểu tượng hình dạng cho trẻ
mầm non
1.2.4.1. Đối với trẻ 3 – 4 tuổi

Những biểu tượng về hình dạng sớm được hình thành và tích lũy ở trẻ
trong quá trình trẻ tri giác và thao tác với đồ vật, đồ chơi có hình dạng phong
phú, vốn kinh nghiệm cảm nhận về hình dạng này là cơ sở để hình thành ở
trẻ những biểu tượng về hình dạng của các vật và biểu tượng về các hình


18

hình học. Vì vậy nhiệm vụ của giáo viên mầm non là cần tiến hành tích lũy
kinh nghiệm cảm nhận hình dạng cho trẻ.
Trẻ lứa tuổi mẫu giáo bé thường nhầm lẫn giữa các hình có sự giống
nhau khơng nhiều như: giữa hình vng và hình chữ nhật, hình chữ nhật và
hình tam giác. Vì vậy trong quá trình dạy trẻ cần cho trẻ nhận biết được
những dấu hiệu đặc trưng của các hình như: cấu tạo đường bao quanh hình,
các góc…..., qua việc khảo sát các hình có những dấu hiệu khác như: kích
thước, màu sắc nhằm giúp trẻ nhận biết dấu hiệu hình dạng khơng phụ thuộc
vào những dấu hiệu khác nhau của hình.
Khi trẻ đã nhận biết được các hình trịn, vng, tam giác và hình chữ
nhật giáo viên cần dạy trẻ sử dụng các hình này như những hình mẫu để tiến
hành so sánh và nhận biết hình dạng của những vật xung quanh trẻ.
Như vậy hình thành biểu tượng hình dạng cho trẻ mẫu giáo 3 – 4
tuổi gồm:
- Tích lũy kinh nghiệm cảm nhận hình dạng các vật thể và các hình
hình học.
- Dạy trẻ nhận biết hình trịn, hình vng, hình tam giác và hình chữ
nhật theo tên gọi.
- Bước đầu dạy trẻ biện pháp khảo sát các hình và nắm được một số đặc
điểm đường bao quanh.
- Dạy trẻ tìm trong mơi trường xung quanh trẻ những đồ vật, đồ chơi có
hình dạng giống các hình trên.

1.2.4.2. Đối với trẻ 4 – 5 tuổi
Trẻ mẫu giáo nhỡ cần phân biệt, nhận biết các hình hình học phẳng này
một cách kỹ càng trên cơ sở nắm được những dấu hiệu đặc trưng hơn của các
hình như: cấu tạo đường bao quanh hình, số lượng các cạnh, góc, độ dài các
cạnh của hình....., Vì vậy trong quá trình làm quen của trẻ với các hình giáo
viên cần dạy trẻ nắm được những dấu hiệu đặc trưng này của các hình.
Để trẻ nắm được những dấu hiệu đặc trưng của các hình giáo viên cần
dạy trẻ biện pháp khảo sát các hình bằng các đầu ngón tay của bàn tay phải


19

cùng với chuyển động của mắt lần lượt theo đường bao quanh của hình và
thực hiện các thao tác khảo sát hình như: đo, so sánh độ dài các cạnh, đếm số
lượng góc, cạnh....
Trên cơ sở những kiến thức về các hình của trẻ, giáo viên dạy trẻ phân
biệt được sự giống nhau và khác nhau giữa các hình như: giữa hình trịn với
các hình tam giác, hình vng, hình chữ nhật, giữa hình vng với hình chữ
nhật, giữa hình tam giác với hình vng hoặc hình chữ nhật.
Ở lớp mẫu giáo nhỡ cần cho trẻ làm quen với khối cầu, khối vng,
khối chữ nhật và khối trụ. Đó là những khối mà nhiều vật xung quanh trẻ có
hình dạng giống với nhau.Với các khối này giáo viên cần dạy trẻ nhận biết
chúng theo khối mẫu và theo tên gọi của khối và bước đầu làm quen với đặc
điểm bề mặt các khối.
Trên cơ sở những kiến thức của trẻ về các hình phẳng và hình khối,
giáo viên luyện tập cho trẻ xác định hình dạng của các đồ vật, đồ chơi có
xung quanh trẻ trên cơ sở so sánh hình dạng của chúng với các hình đã biết
và diễn đạt hình dạng của chúng bằng lời nói: “Mặt bàn có hình chữ nhật”,
“Qủa bóng có dạng khối cầu”.....
Như vậy hình thành biểu tượng hình dạng cho trẻ 4 – 5 tuổi bao gồm:

- Mở rộng và làm phong phú hơn biểu tượng về các hình trịn, hình
vng, hình tam giác, hình chữ nhật cho trẻ.
- Dạy trẻ biện pháp khảo sát các hình học phẳng nhằm giúp trẻ nằm
được những dấu hiệu đặc trưng của các hình như: cấu tạo đường bao quanh
hình, số lượng các cạnh, các góc của chúng và độ dài của các cạnh.
- Dạy trẻ so sánh các hình trịn, hình vng, hình chữ nhật và hình tam
giác nhằm giúp trẻ thấy được sự giống và khác nhau giữa chúng.
- Dạy trẻ nhận biết và nắm được tên gọi của các hình khối: khối cầu,
khối vuông, khối trụ, khối chữ nhật.
- Luyện tập trẻ xác định hình dạng của những vật xung quanh trẻ trên
cơ sở so sánh hình dạng của chúng với các hình hình học đã biết.
1.2.4.3. Đối với trẻ 5 – 6 tuổi


20

Trẻ 5 – 6 tuổi đã phân biệt và nắm được những đặc điểm đặc trưng của
các hình trịn, hình vng, hình chữ nhât và hình tam giác, vì vậy giáo viên
cần tiếp tục luyện tập trẻ sử dụng chúng như những hình chuẩn để xác định
hình dạng của những vật có xung quanh trẻ.
Ở trẻ lứa tuổi này khả năng nhận biết các hình phẳng bằng hoạt động
của tay và mắt hồn thiện hơn trước. Vì vậy giáo viên cần dạy trẻ biện pháp
khảo sát các khối cầu, khối trụ, khối vuông và khối chữ nhật bằng chuyển
động lần lượt của các đầu ngón tay kết hợp với chuyển động của mặt trên bề
mặt khối nhằm giúp trẻ nắm được những đặc điểm đặc trưng hơn của chúng
như: cấu tạo bề mặt khối, số lượng các mặt của khối, hình dạng của mặt khối.
Trên cơ sở những kiến thức về các hình khối mà trẻ đã nắm được, giáo
viên dạy trẻ so sánh khối cầu với khối trụ, khối vuông và khối chữ nhật nhằm
giúp trẻ phân biệt được sự giống và khác nhau giữa chúng dựa vào những
dấu hiệu mang tính bản chất hơn.

Trẻ mẫu giáo lớn cần được tiếp tục luyện tập sử dụng các hình khối đã
biết để xác định hình dạng của các vật xung quanh trẻ như: cái cốc, bình
nước, lon bia có dạng khối trụ hay hộp bánh, thùng xe ơto có dạng khối chữ
nhật......
Tóm lại hình thành biểu tượng hình dạng cho trẻ 5 – 6 tuổi gồm:
- Mở rộng và làm phong phú hơn biểu tượng về các hình học phẳng cho trẻ.
- Dạy trẻ biện pháp khảo sát các khối cầu, khối vuông, khối trụ và khối
chữ nhật nhằm giúp trẻ nằm được những dấu hiệu đặc trưng của các hình
khối như: cấu tạo bề mặt bao quanh khối, số lượng các mặt của chúng và
hình dạng của mặt khối.
- Dạy trẻ so sánh khối cầu với khối trụ, khối vuông, khối chữ nhật
nhằm giúp trẻ thấy được sự giống và khác nhau giữa chúng.
- Luyện tập trẻ xác định hình dạng của những vật xung quanh trẻ trên
cơ sở so sánh hình dạng của chúng với các hình học đã biết.


21

1.3. Trò chơi lắp ghép xây dựng trong củng cố biểu tượng hình dạng cho
trẻ 5 - 6 tuổi
1.3.1. Khái quát về trò chơi lắp ghép xây dựng đối với trẻ mầm non
1.3.1.1.Khái niệm trò chơi LGXD
Là một trong những thể loại của trò chơi sáng tạo và củng cố biểu
tượng, trị chơi LGXD ln nhận được sự quan tâm và thích thú của trẻ mẫu
giáo. Khi tham gia trị chơi trẻ được phản ánh thế giới xung quanh, trẻ được
tự do và tự lực thực hiện nhiều cơng trình xây dựng khác nhau. Những kiến
thức, những ấn tượng của trẻ về thế giới xung quanh đã được trẻ thể hiện một
cách sinh động trong các sản phẩm xây dựng của mình.
Từ những nhận định trên tác giả Đinh Văn Vang (2008), “Tổ chức hoạt
động vui chơi cho trẻ mầm non”, nxb Giáo dục [17, tr6] đã đưa ra khái niệm

“Trò chơi lắp ghép xây dựng là loại trò chơi mà trẻ sử dụng đồ chơi, vật liệu
chơi để mô phỏng lại dưới dạng mơ hình hiện thực xung quanh (đặc biệt là
thế giới đồ vật) trong các cơng trình xây dựng, lắp ghép của mình nhờ trí
tưởng tượng và sáng tạo của trẻ”.
Trong các loại trò chơi của trẻ, trò chơi lắp ghép xây dựng thể hiện khả
năng tạo hình của trẻ rõ nhất. Từ những mẩu gỗ, khối nhựa, hộp giấy....với
những hình dạng, kích thước màu sắc khác nhau, trẻ lắp ghép, xây dựng nên
những cơng trình khác nhau như nhà cửa, cầu cống, công viên......., hoặc từ
những vật liệu trong thiên nhiên như các loại hạt, sỏi, cát......, trẻ xây dựng
nên những vườn hoa, ao cá, đường đi....., trong những cơng trình sáng kiến
của trẻ bộc lộ rõ nét. Vốn sống, trí tưởng tượng, sáng tạo, tư duy của trẻ được
thể hiện trong các “cơng trình” mà trẻ tạo ra.
1.3.1.2. Đặc thù của trò chơi LGXD ở trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi
Là một trong những trị chơi của trẻ mẫu giáo, nên ngồi những điểm
tương đồng với các loại trị chơi khác thì trị chơi LGXD có những nét đặc thù:
Một là, trị chơi LGXD là loại trị chơi mang tính củng cố cao.
Trị chơi LGXD thuộc loại trị chơi khơng có nội dung và có luật sẵn.
Khi tham gia trị chơi trẻ phải có khả năng ghi nhớ, tưởng tưởng và sáng tạo


22

nhất định, trẻ tự nghĩ ra những gì cần xây dựng theo ý thích của mình trên cơ
sở vốn kinh nghiệm và vốn biểu tượng đã có của trẻ, trẻ sẽ hình dung ra mơ
hình sản phẩm của trị chơi như: nhà của, con đường .......,và trẻ cũng sẽ dự
kiến những hình dạng nào sẽ dành cho xếp ngơi nhà, đường đi......., Bằng
việc sử dụng các kỹ năng LGXD đã học được cùng với sự tích cực tư duy,
ghi nhớ, sáng tạo, trẻ sẽ lựa chọn nguyên vật liệu phù hợp để tạo ra sản phẩm
mà mình mong muốn, trẻ có thể thay thế vật liệu chuyên biệt thật bằng
những vật liệu thay thế để dựng nên những cơng trình của mình. Qua các

cơng trình xây dựng, sáng kiến của trẻ được bộc lộ rõ rệt, bộc lộ khả năng
hiểu biết và kiến thức của trẻ. Nhiều lần tiếp xúc với các ngun vật liệu là
các hình dạng sẵn có trẻ sẽ có cơ hội tiếp xúc và củng cố hơn khái niệm về
các hình dạng.
Hai là, trị chơi LGXD gắn chặt với hoạt động tốn.
Có thể nói, trị chơi LGXD là loại trò chơi biểu hiện khả năng ghi nhớ
các hình dạng: chữ nhật, hình vng, tam giác của trẻ nhiều nhất. Để xây
dựng được một cơng trình đẹp, trẻ phải có khả năng tư duy hình tượng, khả
năng ghi nhớ các hình dạng và phát huy khả năng sáng tạo của trẻ. Nếu như
nắm vững các biểu tượng hình dạng tốn tốt sẽ giúp trị chơi LGXD được
thuận lợi hơn. Trái lại, nếu trẻ được thực hiện nhiều trị chơi LGXD cũng sẽ
kích thích khả năng ghi nhớ các hình dạng tốt hơn. Trị chơi lắp ghép xây
dựng gắn liền với hoạt động tạo hình, khi chơi trẻ phải thực hiện các thao tác
kỹ thuật như lắp ráp, sắp xếp,…., nên rất cần những kiến thức và kĩ năng sắp
xếp bố cục, màu sắc trong tạo hình. Chính vì thế, trị chơi LGXD vừa mang
tính củng cố vừa mang tính thẩm mĩ.
Ba là, trị chơi LGXD bao giờ cũng có sản phẩm cụ thể. Nhưng là sản
phẩm để chơi chứ không phải sản phẩm để dùng.
Sản phẩm của trị chơi LGXD là động lực kích thích sự say mê, sáng
tạo và nỗ lực của trẻ để tạo ra sản phẩm đẹp hơn, quy mơ hơn. Chính vì lí do
này mà khi chơi trẻ thường xây dựng xong lại phá đi để xây cái khác, cái sau
không giống cái trước. Đồng thời sản phẩm trong trò chơi này còn làm thỏa


23

mãn nhu cầu chơi của chính đứa trẻ. Hơn thế nữa, sau mỗi một buổi chơi trẻ
được tận mắt nhìn ngắm, chiêm ngưỡng, sờ mó sản phẩm tự tay mình làm ra
nên trẻ tham gia trò chơi rất say mê và thích thú. Các sản phẩm LGXD trẻ
tạo ra bằng những nguyên vật liệu như: khối gỗ, nhựa, và màu sắc khác nhau.

Được coi là sản phẩm, nhưng sản phẩm trong trò chơi LGXD của trẻ chỉ là
sản phẩm để chơi, không phải để sử dụng như một số sản phẩm lao động.
1.3.2. Ý nghĩa của trò chơi lắp ghép xây dựng đối với sự phát triển nhận
thức của trẻ 5 – 6 tuổi
1.3.2.1. Ý nghĩa của trò chơi LGXD với giáo dục trí tuệ
Khi chơi yêu cầu trẻ phải có kỹ năng tái tạo hình ảnh sự vật trong sự
diễn đạt khơng gian. Từ đó trong q trình chơi, hình thành và phát triển cho
trẻ tính định hướng trong không gian, những kỹ xảo phân biệt về sự cân đối
của đồ vật trong mối quan hệ không gian.
Bên cạnh đó trị chơi LGXD lại có những chủ đề, mà muốn thực hiện
chủ đề này đòi hỏi phải suy nghĩ, tìm hiểu về cách thức thể hiện, vật liệu xây
dựng cần sử dụng,....... Do đó, qua trị chơi trẻ có thể biết đánh giá những đặc
điểm, tính chất của vật liệu xây dựng để lựa chọn cho phù hợp với cơng trình
trẻ đang “thi cơng”. Trẻ biết lập kế hoạch trình tự các hành động của mình.
Như vậy, trị chơi LGXD có ý nghĩa trong việc hướng dẫn trẻ hành động có
mục đích, có phương hướng và có kế hoạch.
Đồng thời, trị chơi LGXD là một hoạt động có sản phẩm, vì vậy nó
cho phép hình thành ở trẻ kỹ xảo so sánh, đối chiếu cơng trình xây dựng
những vật thật với hình tượng, biểu tượng bên ngồi. Trị chơi này tạo khả
năng phát triển óc quan sát cho trẻ, đặc biệt là tư duy kỹ thuật và trí tưởng
tượng sáng tạo. Trong khi chơi trẻ cần phải hình thành ý đồ xây dựng trên cơ
sở cải biến vốn biểu tượng mà trẻ đã tích lũy được trong cuộc sống hàng
ngày bằng khả năng tư duy kỹ thuật và tưởng tượng sáng tạo, đó là tiền đề
của hoạt động sáng tạo thực sự sau này.
Khi tham gia vào trò chơi, ngôn ngữ của trẻ cũng trở nên phong phú
và mạch lạc hơn. Trẻ biết thêm các từ mới hoặc nắm được chính xác


24


những từ chỉ tên gọi các hình học: hình vng, hình trịn,......, chỉ mối
tương quan khơng gian. Việc trao đổi với bạn chơi cũng giúp cho ngôn
ngữ của trẻ mạch lạc hơn.
1.3.2.2. Ý nghĩa của trò chơi LGXD với việc giáo dục đạo đức
Những trò chơi LGXD thường là những trị chơi tập thể, do đó nó là
phương tiện gắn bó trẻ em lại thành một tập thể trên cơ sở mục đích chung và
hoạt động chung. Q trình tham gia trò chơi cùng nhau giúp cho các mối
quan hệ bạn bè được củng cố và phát triển, trẻ biết đoàn kết giúp đỡ nhau.
Đặc biệt khi xây dựng các cơng trình lớn, trẻ thường tổ chức chơi theo
nhóm. Lúc đó, địi hỏi trẻ phải biết lập kế hoạch, phân công nhiệm vụ cho
nhau và phối hợp thực hiện. Qua đây, bước đầu có thể giáo dục trẻ kỹ năng
làm việc theo nhóm, đồn kết giúp đỡ nhau hồn thành cơng việc.
Bên cạnh đó trị chơi LGXD cũng có tác động tích cực trong cơng việc
giáo dục các phẩm chất nhân cách quan trọng khác nhau: tính sáng tạo, tính
kiên trì, tính tổ chức, tính tự giác, lịng u lao động.
1.3.1.3. Ý nghĩa của trò chơi LGXD với việc giáo dục thẩm mĩ
Trong trò chơi LGXD là một loại hoạt động có “sản phẩm”, khi chơi
trẻ thường cố gắng làm cho sản phẩm của mình ngày càng đẹp hơn. Nên
khi được xem những cơng trình xây dựng đẹp trong thực tế, trẻ thường có
nhu cầu bắt chước những đường nét, hoa văn, màu sắc,......, của các cơng
trình đó để tơ điểm cho cơng trình của mình. Qua đó, óc thẩm mĩ được
hình thành và phát triển.
Hơn nữa, khi cho trẻ sử dụng các nguyên vật liệu từ thiên nhiên để
LGXD sẽ hình thành ở trẻ tình cảm với thế giới xung quanh, trẻ biết rung
động và nhận ra vẻ đẹp của những sắc màu và hình ảnh từ thiên nhiên xung
quanh nó, góp phần bồi dưỡng xúc cảm, tình cảm thẩm mĩ cho trẻ.
Việc tham gia trò chơi LGXD còn giúp trẻ phát triển sự khéo léo, linh
hoạt của đôi bàn tay, ngón tay, phát triển năng lực sáng tạo của trẻ.



25

1.3.2.4. Ý nghĩa của trò chơi LGXD đối với việc giáo dục thể chất
Đối với trẻ 5 – 6 tuổi hệ thần kinh và hệ cơ của trẻ có những thay đổi
rất lớn, trẻ trở nên cứng cáp hơn, biết tự lực, rất hiếu động và các vận
động của trẻ dần dần được hồn thiện.
Các q trình tâm lí của trẻ ở lứa tuổi này cũng đã hoàn thiện hơn.
Khả năng chú ý và tập trung cao, trẻ hiểu được nhiệm vụ của mình, có thể
khái qt một số hiện tượng và nhanh nhẹn khi nhìn thấy những u cầu
chính trong việc thực hiện. Trẻ có thể thực hiện các động tác quen thuộc
bằng nhiều cách, trong một thời gian dài hơn, với lượng vận động lớn hơn.
Các vận động của trẻ bước đầu đã đạt chính xác, nhịp nhàng nhịp điệu ổn
định, biết phối hợp vận động của mình với vận động của bạn. Trẻ có khả
năng quan sát hình ảnh động tác mẫu của giáo viên, ghi nhớ để thực hiện
lại.
Qua trị chơi LGXD góp phần luyện tập và phát triển khả năng vận
động, đi chạy và cảm giác thăng bằng của trẻ. Trong quá trình vui chơi trẻ
chạy qua chạy lại lấy đồ dùng vật liệu xây dựng. Đã rèn sự nhanh nhẹn và
hoạt bát của đôi chân. Trẻ bước đi ổn định, kết hợp tay với chân tốt. Trẻ
giữ thăng bằng khi mang đồ dùng đồ chơi.
Khi hào hứng và cuốn hút vào trò chơi, trẻ hứng thú hồn thiện sản
phẩm chơi của mình trẻ chạy nhảy tìm đồ dùng, vật liệu xây dựng của
mình. Cơ tay, cơ chân và hệ thần kinh của trẻ được luyện tập và phát triển
ổn định. Trò chơi LGXD mang lại niềm vui cho trẻ giúp cho thể lực và
tinh thần của trẻ khỏe mạnh và sảng khối.
Như vậy trị chơi LGXD đã góp phần đẩy mạnh việc giáo dục trí
tuệ, giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mĩ,......., cho trẻ. Bởi vì, trong trị
chơi, hứng thú của trẻ với hồn cảnh xung quanh càng sâu sắc thì việc
lĩnh hội các biểu tượng về không gian và về mối tương quan không gian
cũng được đào sâu thêm. Hoạt động phân tích, tổng hợp, tư duy xây dựng

được phát triển trong sự thống nhất với ngôn ngữ. Trong khi chơi, các
mối quan hệ xã hội được hình thành, tính tập thể, tình bạn của trẻ cũng


×