Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Khóa luận tốt nghiệp một số biện pháp xây dựng mối quan hệ giữa gia đình và nhà trường nhằm rèn thói quen giao tiếp có văn hóa cho trẻ 5 6 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (713.08 KB, 86 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử nhân loại đã chứng minh rằng, từ xã hội còn lạc hậu đến thời đại
văn minh, mỗi cá nhân đều được sinh ra, trưởng thành, cho đến khi từ biệt cõi
đời đều gắn bó với gia đình, xã hội. Gia đình là tổ chức cơ sở đầu tiên đối với
mỗi cá nhân, là tế bào hợp thành đời sống xã hội. Khơng có gia đình thì xã hội
khơng thể tồn tại và phát triển được.
Cá nhân ấy, gia đình ấy, xã hội ấy, nếu khơng có giáo dục thì mãi mãi nó
khơng thể phát triển đến mức sáng lạn như ngày hơm nay. Để cá nhân tốt, gia
đình tốt, xã hội phát triển thì một thành phần khơng thể thiếu đó là nhà trường.
Nhà văn Ý Lan đã để cho người mẹ nói với con “Đi đi con, hãy can đảm lên, thế
giới này là của con, bước qua cánh cổng trường là một thế giới kì diệu sẽ mở ra”.
Đảng và nhà nước ta đã xác định “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, “Đầu tư cho
giáo dục là đầu tư cho phát triển”. Giáo dục trở thành mối quan tâm hàng đầu
của mọi gia đình và của tồn xã hội.
Quá trình giáo dục của nhà trường, gia đình và xã hội đều đóng vai trị
thiết yếu trong cuộc đời của mỗi đứa trẻ, giúp đứa trẻ tích lũy kinh nghiệm, tri
thức cần thiết cho cuộc sống của chúng. Văn hóa gia đình là một bộ phận của
văn hóa xã hội, mà muốn đứa trẻ hòa nhập được với xã hội thì nhà trường là
khơng thể thiếu. Qua nhà trường đứa trẻ sẽ tích lũy cho mình vơ vàn kiến thức
cần thiết để có thể bước vào thế giới xã hội kì diệu mn màu mn sắc kia. Và
một trong những kĩ năng mà đứa trẻ cần học hỏi, cần rèn luyện từ gia đình, nhà
trường đó là thói quen giao tiếp có văn hóa. Hiện nay xã hội phát triển, du nhập
từ phương tây về nhiều lối sống tự do và văn hóa giao tiếp của người Việt cũng
đang có nhiều hướng đi lệch lạc. Do lối sống tự do, do sự quan tâm chưa sát sao
của gia đình, mối quan hệ giáo dục gia đình – nhà trường – xã hội chưa thực sự
chặt chẽ mà vì vậy văn hóa giao tiếp, ứng xử cũng ngày càng có chiều hướng suy
thoái, lệch lạc...



2
Đặc biệt là trẻ mẫu giáo lớn, sự phát triển nhận thức của trẻ ngày càng
phát triển hoàn thiện hơn. Nó thể hiện ở mức độ phong phú của các hiện
tượng tâm lí như: Mức độ chủ định các quá trình tâm lí rõ ràng hơn, có ý
thức hơn; tính mục đích hình thành và phát triển ở mức độ cao hơn; độ nhạy
của các giác quan được tinh nhạy hơn và tư duy thì ngày càng phát triển,…
Ngơn ngữ cũng là một lĩnh vực phát triển mạnh ở trẻ lứa tuổi mẫu giáo lớn
này: trẻ sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ; nắm vững ngữ âm, ngữ điệu; vốn từ
và cơ cấu ngữ pháp được phát triển,…tính chất ngơn ngữ thường gặp ở trẻ
mẫu giáo lớn là: trẻ có nhu cầu nhận sự giải thích và cũng thích giải thích
cho bạn; ngơn ngữ tình huống do giao tiếp với người xung quanh bằng
những thông tin mà trẻ trực tiếp tri giác được; tính mạch lạc rõ ràng; tính cá
nhân đã bộc lộ rõ qua các sắc thái khác nhau,... Việc sử dụng ngơn ngữ trong
giao tiếp và các tính chất của ngôn ngữ ở trẻ phụ thuộc phần lớn vào việc
hướng dẫn và sự gương mẫu về lời nói của người lớn. Vì vậy việc rèn luyện
thói quen giao tiếp có văn hóa cho trẻ mẫu giáo lớn địi hỏi sự gương mẫu,
giáo dục ở mọi lúc mọi nơi, đặc biệt là gia đình và nhà trường – nơi mà trẻ
tiếp xúc hàng ngày. Do đó mối liên hệ giữa gia đình và nhà trường cần được
xây dựng và phát triển tốt hơn nữa.
Mặc dù hiện nay vấn đề này đã được đề cập đến tuy nhiên còn chưa
sâu sắc và chưa có biện pháp tốt. Vì vậy việc tìm kiếm phương pháp để rèn
kĩ năng giao tiếp có văn hóa cho trẻ là điều rất cần thiết trong thời kì đất
nước ta hiện nay. Để quá trình giáo dục, rèn luyện kĩ năng giao tiếp có văn
hóa cho trẻ đạt hiệu quả thì một trong những biện pháp tối ưu nhất đó là biện
pháp xây dựng mối quan hệ giữa gia đình và nhà trường, vì vậy chúng tôi đã
chọn đề tài: “Một số biện pháp xây dựng mối quan hệ giữa gia đình và
nhà trường nhằm rèn thói quen giao tiếp có văn hóa cho trẻ 5-6 tuổi”
làm đề tài nghiên cứu.



3
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
2.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài
- Làm rõ cơ sở lí luận và vai trị của việc xây dựng mối quan hệ giữa gia
đình và nhà trường trong mục đích rèn thói quen giao tiếp có văn hóa cho trẻ 5-6
tuổi.
- Xác định cơ sở khoa học của việc đề xuất một số biện pháp xây dựng
mối quan hệ giữa gia đình và nhà trường nhằm rèn thói quen giao tiếp có văn
hóa cho trẻ 5-6 tuổi.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
- Đề xuất được một số biện pháp xây dựng mối quan hệ giữa gia đình và
nhà trường với những hướng dẫn cụ thể.
- Đề tài là tài liệu tham khảo cần thiết cho sinh viên ngành giáo dục mầm
non và giáo viên mầm non quan tâm đến vấn đề xây dựng mối quan hệ giữa gia
đình và nhà trường nhằm rèn thói quen giao tiếp có văn hóa cho trẻ 5-6 tuổi.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu và đề xuất một số biện pháp xây dựng mối quan hệ giữa gia
đình và nhà trường nhằm rèn thói quen giao tiếp có văn hóa cho trẻ 5-6 tuổi.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lí luận của việc xây dựng mối quan hệ giữa gia đình và
nhà trường nhằm rèn thói quen giao tiếp có văn hóa cho trẻ 5-6 tuổi.
Tìm hiểu thực trạng về việc xây dựng mối quan hệ giữa gia đình và nhà
trường nhằm rèn thói quen giao tiếp có văn hóa cho trẻ 5-6 tuổi.
Đề xuất một số biện pháp nhằm xây dựng mối quan hệ giữa gia đình và
nhà trường nhằm rèn thói quen giao tiếp có văn hóa cho trẻ 5-6 tuổi và tổ chức
thực nghiệm sư phạm.


4
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

5.1. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp xây dựng mối quan hệ giữa gia đình và nhà trường nhằm
rèn thói quen giao tiếp có văn hóa cho trẻ 5-6 tuổi.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Vì thời gian và điều kiện có hạn nên chúng tôi chỉ nghiên cứu đề tài “Một
số biện pháp xây dựng mối quan hệ giữa gia đình và nhà trường nhằm rèn thói
quen giao tiếp có văn hóa cho trẻ 5-6 tuổi” trên 2 lớp 5 tuổi A1 và 5 tuổi A2
trường mầm non Phong Châu - Thị Xã Phú Thọ - Tỉnh Phú Thọ.
6. Các phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
Sưu tầm, đọc và tổng hợp, phân tích, so sánh, hệ thống hóa, khái quát hóa
những tài liệu liên quan làm cơ sở nghiên cứu của đề tài.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6.2.1. Phương pháp điều tra
- Dùng phiếu điều tra khảo sát ý kiến của giáo viên về việc xây dựng mối
quan hệ giữa nhà trường và gia đình nhằm rèn thói quen giao tiếp có văn hóa cho
trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non Phong Châu - Thị Xã Phú Thọ - Tỉnh Phú Thọ.
- Dùng phiếu điều tra khảo sát ý kiến của phụ huynh về việc xây dựng
mối quan hệ giữa nhà trường và gia đình nhằm rèn thói quen giao tiếp có văn
hóa cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non Phong Châu - Thị Xã Phú Thọ - Tỉnh Phú
Thọ.
6.2.2. Phương pháp đàm thoại
Sử dụng phương pháp này nhằm hỗ trợ cho phương pháp điều tra. Trao
đổi, trò chuyện với giáo viên về việc xây dựng mối quan hệ giữa nhà trường và
gia đình nhằm rèn thói quen giao tiếp có văn hóa cho trẻ 5-6 tuổi nhằm thu thập
thơng tin có liên quan đến đề tài, phát hiện thực trạng và làm sáng tỏ các thông
tin thu nhận được từ Anket.


5

6.2.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Chúng tôi thực nghiệm sư phạm nhằm kiểm tra tính khả thi của biện
pháp xây dựng mối quan hệ giữa nhà trường và gia đình nhằm rèn thói quen
giao tiếp có văn hóa cho trẻ 5-6 tuổi đã đề xuất.
6.2.4. Phương pháp nghiên cứu điển hình
Nghiên cứu một số em trẻ mẫu giáo thuộc 2 lớp 5 tuổi A1 và 5 tuổi A2 để
biết tình hình thói quen giao tiếp của trẻ, song nhờ những biện pháp tăng cường
xây dựng mối quan hệ giữa nhà trường và gia đình để rèn thói quen giao tiếp có
văn hóa cho trẻ.
6.2.5. Phương pháp quan sát
Dùng để theo dõi quá trình khảo sát, thực nghiệm. Dùng để tìm hiểu hiệu
quả và cách thức xây dựng mối quan hệ giữa nhà trường và gia đình nhằm rèn
thói quen giao tiếp có văn hóa cho trẻ 5-6 tuổi.
6.2.6. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng các phương pháp thống kê tốn học để sử lí số liệu, là cơ sở để
đánh giá thực trạng và xây dựng các biện pháp của đề tài.


6
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề trên thế giới
“Tất cả những gì mà đứa trẻ có được sau này khi đã trở thành người lớn
đều thu nhận được ở thời thơ ấu. Từ khi lọt lòng cho đến 6 tuổi là một quãng đời
có tầm quan trọng đặc biệt, qng đời cịn lại là những cái mà nó thu nhận được
chỉ đáng 1 phần trăm những cái đó mà thơi” [12,Tr337]. Trong q trình phát
triển và hình thành nhân cách ở trẻ, đúng như L.N.Tơnxtơi đã nhận định. Trong
giai đoạn phát triển kì diệu đó, ở trẻ bắt đầu hình thành q trình xã hội hóa, các
mối quan hệ xã hội, giao tiếp trở thành phương tiện cơ bản để hình thành kĩ năng

sống cho trẻ. Và giao tiếp có văn hóa là vấn đề mà trong xã hội của chúng ta hiện
nay đang thu hút được sự quan tâm của đông đảo các bậc phụ huynhvà các nhà
nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác nhau.
Thứ nhất: Nghiên cứu vị trí, chức năng của giao tiếp trong sự phát triển
của trẻ em.
Các chương trình nghiên cứu của A.V.Papơrơdet, A.P.Vơrơva, M.X.Cagan…
Giao tiếp là phương tiện cơ bản để trẻ được phát triển, là nhân tố để hình thành nhân
cách, là một trong những dạng vận động của con người nhằm vươn tới nhận thức và
đánh giá bản thân thông qua người khác. Do vậy việc hình thành quan hệ giao tiếp tốt
cho trẻ với mọi người xung quanh là điều kiện cho trẻ bộc lộ rõ khả năng và năng lực
của lứa tuổi, từ đó tạo điều kiện phát triển tồn diện nhân cách trẻ.
Thứ hai: Nghiên cứu việc hình thành thói quen giao tiếp có văn hóa cho trẻ
Các tác giả X.V.Pecherina, I.A.Nhicơla cho rằng: Giao tiếp là cơ sở để
hình thành kinh nghiệm ứng xử và giải quyết các xung đột ở trẻ, tạo điều kiện để
củng cố các mối quan hệ hội nhập cộng đồng. Theo họ giáo dục thói quen giao
tiếp có văn hóa cho trẻ chỉ đạt được kết quả như mong muốn nếu xác định được


7
nội dung cụ thể, phù hợp với đặc điểm, khả năng của lứa tuổi và hơn hết là xác
lập được tốt mối quan hệ giữa gia đình và nhà trường trong việc giáo dục thói
quen giao tiếp có văn hóa cho trẻ mầm non.
Các tác giả Davit Warden, Chaeles.A.S, Beapica,… Đặc biệt quan tâm đến
vấn đề hình thành kĩ năng giao tiếp cho trẻ nhỏ. Họ đã chỉ ra những yếu tố cơ
bản ảnh hưởng tới thói quen giao tiếp của trẻ như: Hồn cảnh, mơi trường, gia
đình,… cũng như đặc điểm cơ quan phát âm trạng thái cơ thể của trẻ. Vấn đề
quan trọng là tìm kiếm, quan sát sử dụng các yếu tố tiền đề luyện tập kĩ năng
giao tiếp cho trẻ. Ngồi ra họ cịn đề cao vai trị của mơi trường giao tiếp với
giáo dục thói quen này cho trẻ, đặc biệt là môi trường gia đình và nhà trường để
vấn đề giáo dục được giải quyết một cách tốt nhất.

1.1.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ở Việt Nam
Những nghiên cứu về giáo dục giao tiếp có văn hóa cho trẻ mẫu giáo nói
chung và mẫu giáo lớn nói riêng của các nhà giáo dục ở Việt Nam cũng tập
chung chủ yếu ở một số vấn đề sau: Ý nghĩa, nội dung và phương pháp giáo dục
thói quen giao tiếp có văn hóa. Từ đó họ đi vào nghiên cứu đặc điểm phát triển
giao tiếp, nghiên cứu việc hình thành thói quen giao tiếp, chức năng của giao tiếp
trong sự phát triển của trẻ,…Và sau đây là một số ý kiến và nghiên cứu tiêu biểu
của một số nhà nghiên cứu:
Các tác giả Đào Thanh Âm, Trịnh Dân, Ngyễn Thị Hòa, Đinh Văn Vang
trong giáo dục mầm non đã đề cập đến sự cần thiết phải giáo dục các kĩ năng, kĩ
xảo và thói quen giao tiếp có văn hóa đối với việc phát triển nhận thức và hình
thành nhân cách cho trẻ: “Giáo dục các kĩ năng và thói quen giao tiếp có văn hóa
là một khâu quan trọng trong hệ thống giáo dục nhận thức và trong việc hình
thành nhân cách”. Đồng thời tác giả cũng đã đưa ra những nội dung cụ thể của
việc giáo dục giao tiếp trong đó có giáo dục hành vi ứng xử với người lớn và bạn
bè: Biết cảm ơn khi được giúp đỡ, được người khác quan tâm và biết xin lỗi với
mọi người xung quanh khi mình có lỗi, biết lễ phép với người lớn tuổi hơn mình,


8
biết kính trên nhường dưới, biết ứng xử hịa nhã đối với mọi người xung quanh
mình,… Các tác giả này cho rằng, ở lứa tuổi mẫu giáo “hệ thần kinh trung ương
có tính mềm dẻo cao nhất với các phản ứng của tồn bộ các tế bào giúp hình
thành tốt những phản xạ có điều kiện và do sự lặp lại thường xuyên hàng ngày
mà hình thành được kĩ năng và thói quen”. Chính vì vậy, việc hình thành các kĩ
năng và thói quen phải thực hành mọi lúc mọi nơi. Đồng thời giúp trẻ ý thức
được ý nghĩa của việc giao tiếp có văn hóa, từ đó hình thành nhu cầu muốn giao
tiếp, ứng xử với mọi người có văn hóa.
Tác giả Trần Thị Trọng đã đề cập đến việc giáo dục thói quen giao tiếp có
văn hóa cho trẻ trong “Giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo”. Bà cho rằng giao

tiếp có văn hóa khơng những giúp phát triển ngơn ngữ và cịn tăng cường sự hiểu
biết của trẻ mà còn thể hiện nếp sống văn minh và là một phần đạo đức của con
người. Vì vậy, một trong những nhiệm vụ của giáo dục đạo đức là giáo dục cho
trẻ những thói quen giao tiếp có văn hóa. Nội dung giáo dục thói quen giao tiếp
có văn hóa được tác giả đưa ra khá cụ thể: “Biết tơn trọng lẫn nhau, có thiện ý
trong giao tiếp, trẻ biết quan tâm đến người khác, biểu hiện nhân hậu, biểu hiện
trung thực, kĩ năng ứng xử khéo léo, có mục đích rõ ràng (sử dụng cử chỉ điệu bộ
trong giao tiếp và tư thế thể hiện nội dung giao tiếp,…)”. Về phương pháp giáo
dục, tác giả đã đưa ra hệ thống các phương pháp giáo dục nhằm xây dựng thói
quen và tích lũy hành vi với các phương pháp cụ thể:
- Nhóm phương pháp tập làm nhằm hình thành ở trẻ những kĩ năng cụ thể:
phương pháp làm mẫu, phương pháp đàm thoại, trình tự đàm thoại (phương pháp
này dùng để tập cho trẻ các thói quen bao gồm các thao tác đòi hỏi các kĩ năng
trả lời như: con thưa cô, con xin phép cô,…), phương pháp kèm cặp, chỉ dẫn.
- Nhóm các phương pháp khích lệ nhằm tạo hứng thú: nêu gương, nhắc
nhở, quan sát có chủ đích, dùng tình huống, nhận xét.
Tác giả cho rằng, giáo dục thói quen giao tiếp có văn hóa cho trẻ bao gồm
nhiều khâu: làm cho trẻ nắm được các yêu cầu, rèn luyện kĩ năng thực hiện các


9
thao tác, nắm được các trình tự, hình thành thói quen,… Trong quá trình giáo
dục phải sử dụng đồng thời nhiều phương pháp, giáo dục trong mọi hoạt động
của trẻ như: vui chơi, học tập, lao động. Đặc biệt là giáo dục trẻ ở mọi lúc mọi
nơi, mọi môi trường mà trẻ được tiếp xúc.
Ở Việt Nam mặc dù thực tiễn giáo dục mầm non rất quan tâm đến việc
hình thành thói quen giao tiếp có văn hóa cho trẻ nhưng các tài liệu cơng bố cịn
ít (chủ yếu trong chương trình giáo dục trẻ).
Như vậy, giáo dục và rèn luyện thói quen giao tiếp có văn hóa cho trẻ mẫu
giáo là vấn đề rộng và phức tạp. Trong phạm vi đề tài của chúng tôi chỉ xin đi

sâu vào một số vấn đề quan trọng, chưa được giải quyết tốt và chưa đạt được kết
quả như mong muốn cả trong lí luận và thực tiễn giáo dục mầm non Việt Nam.
Đó là nghiên cứu các biện pháp xây dựng mối quan hệ giữa gia đình và nhà
trường nhằm rèn thói quen giao tiếp có văn hóa cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi. Kết
quả là cơ sở nghiên cứu ban đầu góp phần hình thành cơ sở ban đầu cho việc
nghiên cứu tâm lí lứa tuổi trẻ, chuẩn bị tốt hơn ở các bậc học tiếp theo cho trẻ.
1.2. Những vấn đề chung về thói quen giao tiếp có văn hóa
1.2.1. Khái niệm chung
1.2.1.1. Khái niệm thói quen
“Thói quen thường chỉ những hành vi của cá nhân được diễn ra trong các
điều kiện ổn định về thời gian, không gian và các quan hệ xã hội nhất định. Thói
quen có nội dung tâm lí ổn định, thường gắn với nhu cầu các nhân” [8, tr186].
Khi đã trở thành thói quen thì mọi hoạt động tâm - sinh lí trở thành cố định, cân
bằng và rất khó phá vỡ. Sở dĩ như vậy là bởi vì thói quen là loại hành động tự
động hóa trở thành nhu cầu của con người và đòi hỏi được thực hiện theo một
cách nhất định.
Muốn tạo những thói quen tốt cần tạo những điều kiện ổn định về không
gian và các quan hệ xã hội. Tuy nhiên nếu chỉ tạo ra những điều kiện ổn định về
khơng gian và các quan hệ xã hội thì chỉ tạo ra những con người chỉ hoạt động


10
tốt trong điều kiện đó và khi gặp điều kiện thay đổi sẽ cảm thấy rất khó khăn, lúng
túng trong hành động. Để hình thành thói quen bền vững, con người không chỉ
sống trong điều kiện ổn định về không gian và quan hệ xã hội mà còn phải tạo ra
thói quen trong hồn cảnh mới để thói quen này được củng cố và bền vững.
1.2.1.2. Khái niệm giao tiếp
Giao tiếp là một quá trình tương tác, trao đổi giữa người và người thơng
qua lời nói và cử chỉ nhằm trao đổi thông tin và tạo nên những mối quan hệ có
liên quan đến nhu cầu của con người.

Phương tiện giao tiếp thường được thể hiện bằng ngôn ngữ (ngôn ngữ lời
nói, ngơn ngữ chữ viết), tín hiệu phi ngơn ngữ (cử chỉ, điệu bộ, nét mặt,…), hay
có thể nói giao tiếp có lời và giao tiếp khơng có lời. Các phương tiện giao tiếp
trên có tác dụng hỗ trợ cho nhau trong quá trình giao tiếp.
Hình thức giao tiếp có thể dưới dạng trực tiếp hay dán tiếp, có thể chính
thức hay khơng chính thức và giữa chúng có sự tác động qua lại, bổ sung cho
nhau làm cho mối quan hệ con người ngày càng tốt đẹp hơn. Giao tiếp vô cùng
quan trọng trong đời sống sinh hoạt và đời sống giao tiếp của con người, nó có
thể thúc đẩy hay hạn chế tình cảm, tình đồn kết và mối quan hệ tốt đẹp của mỗi
cá nhân, nhóm và cộng đồng xã hội.
1.2.1.3. Khái niệm giao tiếp có văn hóa
Giao tiếp có văn hóa có thể hiểu là những loại giao tiếp ứng xử mang tính
đại diện, chuẩn mực cho các thế hệ mang trong nó những giá trị văn hóa, đạo
đức, thẩm mĩ phù hợp với bản sắc của mỗi dân tộc, là sự kết tinh của truyền
thống và hiện đại. Cái dân tộc và cái quốc tế nó trở thành một quy ước, một thói
quen, thành nếp sống của mỗi cá thể, mỗi nhóm người hay một quốc gia, một
dân tộc. Tuy nhiên, giao tiếp có văn hóa khơng phải là tồn bộ các hành động
giao tiếp mà chỉ là những hành động, những cách ứng xử tiêu biểu cho cái đẹp và
được coi là chuẩn mực xã hội trong các mối quan hệ của con người được con
người chấp nhận với tư cách truyền thụ cho các thế hệ sau.


11
1.2.1.4. Khái niệm thói quen giao tiếp có văn hóa
Thói quen giao tiếp có văn hóa là những biểu hiện cụ thể bên ngoài được
điều khiển bởi cấu trúc tâm lí của chủ thể có ý thức chứa đựng những chuẩn mực
văn hóa được thực hiện theo quy tắc ứng xử xã hội thơng qua lời nói và cử chỉ
trong các mối quan hệ xã hội hàng ngày.
Ngược lại với thói quen giao tiếp có văn hóa là những thói quen giao tiếp
khơng có văn hóa. Mặc dù chúng có những đặc điểm chung là đều khơng có

những biểu hiện của con người thơng qua lời nói, cử chỉ trong những mối quan
hệ hàng ngày. Tuy nhiên, thói quen giao tiếp khơng có văn hóa có đặc điểm khác
với thói quen giao tiếp có văn hóa ở chỗ thói quen đó khơng chứa đựng các yếu
tố về cái hay, cái đẹp, cái có văn hóa, khơng tn theo những quy tắc chuẩn mực
của xã hội trong các mối quan hệ hàng ngày. Vì vậy, để tìm hiểu bản chất của
khái niệm thói quen giao tiếp có văn hóa cần phân tích các thuộc tính cơ bản,
những đặc điểm về nội dung, hình thức của thói quen giao tiếp có văn hóa làm
cơ sở để đánh giá người có thói quen giao tiếp có văn hóa.
1.2.1.5. Cơ chế hình thành thói quen giao tiếp có văn hóa cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
Chúng ta có thể giải thích cơ chế hình thói quen giao tiếp có văn hóa cho
trẻ như sau:
Để hình thành thói quen giao tiếp có văn hóa cho trẻ, trước hết cần giáo
dục thói quen giao tiếp có văn hóa cho trẻ. Nhu cầu giao tiếp có văn hóa ( nhu
cầu xã hội) nằm trong hệ thống nhu cầu cá nhân, trong điều kiện nhất định,
giường như được tách ra từ thế giới bên trong và đưa lên hàng đầu ý muốn của
trẻ. Khi đó, động cơ hành vi xuất hiện biện hộ cho các ý muốn chính đáng của
trẻ (trẻ biết chúng muốn nói điều gì và tại sao lại như vậy ?). Trẻ bắt đầu đánh
giá điều kiện khách quan, khả năng thỏa mãn nhu cầu và có sự đấu tranh của các
động cơ. Cuối cùng là sự tham gia của trẻ vào hoạt động nhằm thỏa mãn nhu
cầu. Tuy nhiên chủ thể của thói quen giao tiếp có văn hóa là tồn bộ nhân cách
gồm: ý chí, kĩ năng, kĩ xảo đang được sắp xếp lại trong hệ thống phẩm chất năng


12
lực cùng với ý thức của bản thân đứa trẻ. Do vậy để hình thành thói quen cần
giáo dục thái độ, tình cảm với việc thực hiện thói quen cũng như các phẩm chất ý
chí để chuyển các thuộc tính xu hướng thành hành động cụ thể, tạo điều kiện dễ
dàng cho trẻ thực hiện hành vi theo đúng quy cách mà xã hội quy định. Nghĩa là,
cần luyện tập để thói quen được bền vững giúp cho tính sẵn sàng hành động đầy
đủ và chọn vẹn. Đồng thời phải chú ý đến các yếu tố như: Nhu cầu tự khẳng

định, sự tự đánh giá, lương tâm, ý thức bản ngã của chủ thể trong quá trình hình
thành hành vi cho trẻ.
1.2.1.6. Khái niệm quan hệ và các quan hệ trong giáo dục
Theo từ điền tiếng Việt (nhà xuất bản ngơn ngữ học năm 2004) thì quan hệ
là: “sự gắn liền về mặt nào đó giữa hai hay nhiều sự vật khác nhau, khiến sự vật
này có biến đổi, thay đổi thì có thể tác động lên sự vật kia”.
Các mối quan hệ trong nhà trường bao gồm: quan hệ giữa hiệu trưởng với
giáo viên, quan hệ giữa giáo viên với trẻ, quan hệ gữa giáo viên với giáo viên,
quan hệ giữa trẻ với trẻ,…
Các mối quan hệ ngoài nhà trường bao gồm: Quan hệ giữa nhà trường và
đảng ủy, chính quyền, các đồn thể địa phương; quan hệ giữa nhà trường với hội
cha mẹ trẻ mẫu giáo; quan hệ giữa nhà trường và các đơn vị kinh tế, quan hệ
giữa nhà trường và gia đình trẻ mẫu giáo.
Trong phạm vi của đề tài này chỉ nghiên cứu mối quan hệ giữa nhà trường
và gia đình nhằm rèn thói quen giao tiếp có văn hóa cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi và
biện pháp xây dựng mối quan hệ đó.
1.2.1.7. Khái niệm biện pháp
Biện pháp là cách thức tiến hành, giải quyết một vấn đề cụ thể hay hướng
giải quyết từng phần một nhiệm vụ nào đó.
Biện pháp giáo dục là những tác động riêng biệt của giáo viên trong mỗi
phương pháp giáo dục cụ thể.
1.2.2. Q trình hình thành thói quen giao tiếp


13
Để hình thành thói quen giao tiếp có văn hóa cho trẻ, trước hết cần giáo dục thói
quen giao tiếp có văn hóa cho trẻ. Nhu cầu giao tiếp có văn hóa (nhu cầu xã hội)
nằm trong hệ thống nhu cầu cá nhân, trong điều kiện nhất định, giường như được
tách ra từ thế giới bên trong và đưa lên ý muốn hàng đầu của trẻ. Khi đó, động
cơ hành vi xuất hiện biện hộ cho các ý muốn chính đáng của trẻ (trẻ biết nó

muốn nói điều gì, tại sao lại như vậy?). Trẻ bắt đầu đánh giá điều kiện khách
quan, khả năng thỏa mãn nhu cầu và có sự đấu tranh của các động cơ. Cuối cùng
là sự tham gia của trẻ vào hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu. Tuy nhiên chủ thể
của thói quen giao tiếp có văn hóa là tồn bộ nhân cách gồm: ý chí, kĩ năng, kĩ
xảo đang được sắp xếp lại trong hệ thống phẩm chất năng lực cùng với ý thức
của bản thân đứa trẻ. Do vậy, để hình thành thói quen cần giáo dục thái độ, tình
cảm với việc thực hiện thói quen cũng như các phẩm chất ý chí để chuyển các
thuộc tính xu hướng thành hành động cụ thể, tạo điều kiện cho trẻ dễ dàng thực
hiện hành vi theo đúng quy cách do xã hội quy định. Nghĩa là, cần luyện tập lặp
đi lặp lại nhiều lần để thói quen được bền vững giúp cho tính sẵn sàng hành động
đầy đủ và chọn vẹn. Đồng thời cần chú ý đến các yếu tố như: Nhu cầu tự khẳng
định, sự tự đánh giá, lương tâm, ý thức bản ngã của chủ thể trong quá trình hình
thành hành vi cho trẻ.
Tóm lại, việc giáo dục và rèn luyện thói quen giao tiếp có văn hóa cho trẻ
mẫu giáo 5-6 tuổi đòi hỏi các nhà giáo dục phải quan tâm đến các yếu tố di
truyền, môi trường hoạt động cho cá nhân trẻ. Hơn nữa cơ chế của việc hình
thành thói quen này phải bắt đầu từ việc giáo dục tình cảm, giúp trẻ nhận được
thói quen có ý nghĩa đối với chúng, tạo điều kiện cho trẻ có khả năng sẵn sàng
thực hiện thói quen một cách tự giác.
1.2.3. Ảnh hưởng của giao tiếp có văn hóa đối với sự phát triển tồn diện
nhân cách của trẻ
Thói quen giao tiếp có văn hóa có ảnh hưởng lớn đối với sự phát triển tồn
diện nhân cách của trẻ. Nó giúp hình thành và phát triển phẩm chất đạo đức ngay từ


14
khi trẻ còn nhỏ, mang lại cho trẻ những cơ sở ban đầu của việc hình thành con
người có ích cho xã hội – con người mới – con người của xã hội, giúp trẻ hòa nhập
với nền văn minh của nhân loại. Sự ảnh hưởng đó thể hiện ở một số điểm sau:
Biết tôn trọng lẫn nhau: Trẻ bước đầu biết thiết lập mối quan hệ giao tiếp

với mọi người, không biết phân biệt địa vị, tuổi tác,… Quan hệ giao tiếp được
thiết lập một cách hồn nhiên, vô tư. Biết chào hỏi mọi người khi gặp gỡ và chia
tay, biết thể hiện sự đề nghị khi có nhu cầu.
Ví dụ: Trong nói năng
Bản thân trẻ phải nói rõ ràng, mạch lạc, hồn nhiên, khơng nói nhanh, nói lắp,
nói leo, nói q to, la hét nơi đơng người hoặc lúc người khác đang làm việc nghỉ
ngơi, khơng nói ngọng, không văng tục, chửi bậy.
Với bạn bè: Xưng hô thân mật (xưng tên mình hoặc xưng bạn) khơng xưng
hơ khiếm nhã (mày, tao, thằng, con,…) khơng nói q nhiều, lấn át người khác.
Với người lớn: Biết thưa, gửi, vâng, dạ, khơng lắc, gật, ừ và khơng nói
trống khơng, khơng nói ngang, nói leo khi người lớn chưa cho phép, khi người
lớn đang bận việc thì khơng nên quấy nhiễu, vịi vĩnh,…
Có thiện trí trong giao tiếp: Trẻ bước đầu biết thiết lập quan hệ giao tiếp. Trẻ
biết thiết lập và đặt ra các câu hỏi, gợi chuyện, dễ dàng thay đổi ý kiến, thái độ để
có thể nhận được sự đồng tình, duy trì quá trình giao tiếp, thực hiện mục tiêu chung,
biết thể hiện sự biết lỗi và cư xử đúng mực khi người khác có lỗi với mình.
Trẻ biết quan tâm đến người khác: Trẻ mong muốn hiểu biết về người lớn,
muốn chia sẻ, cảm thông với người lớn, thay đổi ý kiến mong được sự hài lòng
của người lớn. Bước đầu chú ý đến công việc chung, sẵn sàng giúp đỡ người lớn
và bạn bè khi được đề nghị hoặc thấy người khác gặp khó khăn thì chủ động
giúp đỡ. Biết thể hiện sự quan tâm đến người khác và đáp lại sự quan tâm của
người khác đối với mình.
Biểu hiện nhân hậu: Trẻ cố gắng cư xử tốt với mọi người, nhường nhịn lẫn
nhau, sẵn sàng tha thứ cho bạn khi bạn đã biết lỗi, có thể chấp nhận sự thất hứa


15
của người lớn khi người lớn xin lỗi hoặc giải thích thỏa đáng. Biết thể hiện lịng
tin với mọi người. Hình thành ở trẻ những tình cảm yêu thương với những người
gần gũi. Ham thích, tự giác làm những cơng việc vừa sức để giúp đỡ người thân

khi cần.
Biểu hiện trung thực: Trẻ khơng giấu diếm tình cảm trong giao tiếp. Khi
có lỗi, trẻ biết nhận lỗi, khơng nói dối, biết giữ lời hứa với bạn và người lớn. Biết
phân biệt đúng, sai, thiện, ác, chăm chỉ, thật thà, dũng cảm, biết u cái phải,
ghét cái ác khơng đồng tình với thói hư tật xấu.
Kĩ năng cư xử khéo léo: Biết sử dụng cử chỉ điệu bộ trong giao tiếp và các
tư thế thể hiện mục đích, nội dung giao tiếp. Trẻ đã biết chú ý đến các quy tắc
giao tiếp xã hội. Biết khởi đầu đón nhận. Kết thúc giao tiếp, biết tính chất lần
lượt ( có người nói thì phải có người nghe, khơng nói chen ngang,…)
Vậy, giáo dục và rèn thói quen giao tiếp có văn hóa cho trẻ có ý nghĩa vơ
cùng lớn tới sự phát triển tồn diện nhân cách cho trẻ, nó có ảnh hưởng tới mọi
mặt trong đời sống của trẻ.
1.3. Đặc điểm tâm lí của trẻ 5-6 tuổi
Mọi tác động giáo dục lên hoạt động nhận thức của trẻ chỉ có hiệu quả
khi nhà giáo dục nắm vững những đặc điểm tâm lí nói chung và khả năng nhận
thức nói riêng của trẻ theo từng lứa tuổi. Các biện pháp giáo dục kĩ năng sống
cho trẻ 5-6 tuổi cũng vậy, chỉ đạt hiệu quả khi nhà giáo dục nắm được đặc điểm
tâm lí và khả năng nhận thức của trẻ ở độ tuổi này.
1.3.1. Cảm giác - Tri giác
Ở lứa tuổi mẫu giáo lớn 5-6 tuổi cùng với sự hoàn thiện của các giác
quan thì hoạt động nhận cảm của trẻ tiếp tục được hoàn thiện, độ nhạy cảm của
các giác quan được nâng cao, việc phân tích các thuộc tính của sự vật, hiện
tượng xung quanh hiệu quả hơn trước. Hệ thống tín hiệu thứ hai tham gia tích
cực hơn vào q trình phân tích làm cho cảm giác trở nên chính xác, cụ thể hơn
và đồng thời làm cho cảm giác có tính “tự giác”. Cùng với cảm giác, tri giác của


16
trẻ cũng phát triển mạnh. Chính độ nhạy cảm cao của các giác quan, cũng như sự
phối hợp hoạt động hài hòa, linh hoạt, mềm dẻo của chúng giúp cho các q

trình nhận thức của trẻ diễn ra nhanh chóng và hiệu quả. Trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
rất ham học hỏi, tìm tịi thích quan sát và tìm hiểu thế giới xung quanh và đặc
biệt hứng thú với việc khám phá những điều mới lạ. Khi phạm vi tiếp xúc với thế
giới xung quanh ngày càng được mở rộng thì vốn hiểu biết của trẻ ngày càng
được phong phú và sâu sắc hơn dẫn tới nhu cầu nhận thức ngày càng cao hơn.
Trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi không thỏa mãn với những hiểu biết về bên ngoài với
những sự vật hiện tượng ở xung quanh mà chúng muốn khám phá, muốn tìm
kiếm những dấu hiệu, bản chất bên trong và mối liên hệ của các sự vật hiện
tượng. Nên nhờ đó, một số kĩ năng của trẻ được phát triển.
1.3.2. Chú ý
Ở lứa tuổi mẫu giáo, chú ý không chủ định vẫn giữ ưu thế vì đặc điểm
này cịn kéo dài tới tuổi mẫu giáo lớn. Trẻ thường chú ý đến những đối tượng khi
đối tượng đó gây ra một kích thích mạnh hoặc một sự ngạc nhiên, nhất là tạo cho
trẻ một sự hứng thú.
Tuy nhiên, đến giữa tuổi mẫu giáo, cùng với sự phát triển của tính chủ
định và ý thức thì khả năng chú ý của trẻ đã có sự thay đổi cơ bản, trẻ bắt đầu
điều khiển chú ý của mình vào những đối tượng nhất định, tức là chú ý có chủ
đích hình thành và phát triển mạnh.
Theo A.V.Daparojet: “Khả năng chú ý đó của trẻ 5-6 tuổi có thể kéo dài
từ 35- 50 phút nếu đối tượng đó hấp dẫn, có nhiều thay đổi, kích thích được sự tị
mị, ham hiểu biết của trẻ”
Chú ý có chủ đích được phát triển trong q trình giáo dục. Nó được
hình thành và phát triển mạnh với những loại kích thích mới, một trong số đó là
kích thích bởi ngơn ngữ nói tác động từ bên ngồi.
Trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi đặc biệt nhạy cảm với ngôn ngữ nói. Trẻ hướng sự
chú ý của mình tới những đặc điểm của lời nói như giọng điệu, ngơn ngữ, cách


17
phát âm,... Giọng điệu có ý nghĩa kích thích sự chú ý độ chính xác, tỉ mỉ. Trẻ

nhận ra được thái độ, tình cảm (thiện cảm, thân thương, trìu mến hay sự thờ ơ,
lạnh lùng, bực bội,...) của người lớn, bạn bè xung quanh.
Một biểu hiện phát triển mới nữa là trẻ có thể phân phối sự chú ý của
mình tới nhiều đối tượng cùng lúc (từ 2-5 đối tượng). Tuy nhiên, khả năng phân
phối sự chú ý này chưa bền vững, dễ dao động, đặc biệt là trong những hoạt
động quan sát tranh ảnh, mơ hình. Chú ý là một đặc điểm tâm lí vơ cùng quan
trọng đối với hoạt động trí tuệ của trẻ: “Khơng chú ý vào một việc gì có chủ định
hoặc khơng điều khiển được chú ý thì kết quả nhận thức sẽ hết sức hạn chế. Vì
vậy, khi tổ chức hoạt động trí tuệ cho trẻ, trước hết cần giáo dục năng lực điều
khiển chú ý, năng lực chú ý có chủ định bền vững”.
Cuối tuổi mẫu giáo, việc rèn luyện chú ý có chủ định giúp trẻ chú ý vào
những vấn đề trẻ không thực sự hứng thú sẽ rất cần thiết cho sự tiếp thu kiến
thức của trẻ. Nếu không chú ý có chủ định, trẻ sẽ khơng đặt cho mình nhiệm vụ
chú ý cụ thể, sự nhận thức sẽ phân tán, trẻ khơng thể tiếp thu kiến thức một cách
có hệ thống, đầy đủ. Trong hoạt động học tập, để giải quyết các nhiệm vụ nhận
thức, chú ý có chủ đích giúp trẻ nhanh vấn đề, từ đó kích thích hứng thú nhận
thức của trẻ nhanh phát triển.
1.3.3. Trí nhớ
Trí nhớ của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi phát triển mạnh xong chủ yếu vẫn là trí
nhớ khơng chủ định. Trẻ thường ghi nhớ chủ yếu những gì gây hứng thú hoặc
gây ấn tượng mạnh cho trẻ. Do đó, những sự vật hiện tượng nào gây chú ý cho
trẻ nhiều hơn, trẻ tập trung chú ý, quan sát, lắng nghe giải thích thì trẻ sẽ ghi nhớ
cái đó kĩ hơn.
Bên cạnh đó, trí nhớ của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi vẫn đặc trưng bởi các
điểm trí nhớ trực quan – hành động. Để trẻ ghi nhớ tốt hơn, giáo viên cần phải sử
dụng nhiều loại đồ dùng trực quan, cho trẻ hành động với đồ vật, tổ chức quá
trình ghi nhớ cho trẻ khoa học hơn. Những cơng trình nghiên cứu của các nhà


18

Tâm lí- giáo dục học cho thấy rằng, nếu nội dung phù hợp với yêu cầu và hứng
thú của trẻ, sử dụng đồ chơi, đồ dùng dạy học đẹp mắt, đúng chỗ, đúng lúc, kết
hợp với lời nói có diễn cảm, tổ chức cho trẻ được tiếp xúc trực tiếp với đồ chơi,
đồ vật, với các sự vật hiện tượng thì sẽ tạo cho trẻ cảm giác mạnh mẽ, ấn tượng
sâu sắc, làm cho trẻ nhớ lâu hơn, đầy đủ và chi tiết hơn.
Ngoài ra, cuối tuổi mẫu giáo bắt đầu hình thành trí nhớ lơgic. Trẻ ghi
nhớ cái gì đó có ý nghĩa tốt hơn những cái khơng có ý nghĩa và vì thế trẻ mẫu
giáo lớn khơng phải chỉ có ghi nhớ máy móc mà cịn có khả năng ghi nhớ có ý
nghĩa. Đến giai đoạn này thì trí nhớ có chủ định được phát triển trên nền tảng
vững chắc hơn. Từ chỗ trẻ chưa biết đặt một nhiệm vụ ghi nhớ nào cả, dần
chuyển sang ghi nhớ có chủ định.
1.3.4. Tư duy
Cùng với sự mở rộng phạm vi hiểu biết của mình, trong hoạt động của
trẻ mẫu giáo lớn có sự thay đổi, tư duy trực quan hình tượng của trẻ phát triển
mạnh và chiếm ưu thế. Đây là loại tư duy, trong đó nhiệm vụ nhận thức được
thực hiện bằng các thao tác tư duy và các hình ảnh, biểu tượng ở trong đầu. Nhờ
kiểu tư duy này, trẻ có thể lĩnh hội được những khái niệm đơn giản, những thao
tác lơgic đơn giản bằng hình ảnh. Nhưng trong thực tế, những thuộc tính bản
chất của sự vật, hiện tượng mà trẻ cần tìm hiểu lại bị che dấu khơng thể hình
dung được bằng hình ảnh. Loại tư duy này không đáp ứng được nhu cầu nhận
thức đang phát triển mạnh mẽ ở trẻ. Cho nên, ở cuối tuổi mẫu giáo lớn xuất hiện
kiểu tư duy trực quan sơ đồ. Đây chính là một dạng của tư duy trực quan - hình
tượng nhưng ở mức độ cao hơn. Ở đây, hình tượng khơng cịn là hình ảnh thực
của sự vật mà đã được giảm bớt những chi tiết mang tính cụ thể (trìu tượng hóa),
chỉ giữ lại những nét chủ yếu mang tính khái quát. Kiểu tư duy này giúp trẻ phản
ánh mối liên hệ giữa hình ảnh sự vật và sự tồn tại khách quan của sự vật trong
không gian, tạo cho trẻ khả năng phản ánh mối liên hệ tồn tại khách quan, không
bị phụ thuộc vào hành động hay ý muốn chủ quan của trẻ. Chính sự phản ánh



19
mối liên hệ khách quan này là điều kiện cần thiết để trẻ lĩnh hội tri thức vượt ra
ngồi khn khổ của việc tìm hiểu từng sự vật riêng lẻ để đạt tới tri thức khái
quát. Trẻ 5- 6 tuổi có khả năng hiểu một cách dễ dàng và nhanh chóng khi nhìn
sơ đồ, biết cách biểu diễn sơ đồ và sử dụng có kết quả những sơ đồ đó tìm hiểu
sự vật. Tư duy trực quan sơ đồ giúp trẻ lĩnh hội những tri thức mang tính khái
quát và đây chính là một bước phát triển đáng kể trong tư duy của trẻ 5- 6 tuổi.
Đặc biệt, ở cuối tuổi mẫu giáo lớn đã có mầm mống của tư duy lơgic, do đó trẻ
có thể lĩnh hội được những khái niệm khoa học đơn giản (tiền khoa học).
Lứa tuổi mẫu giáo là thời kì mà ngơn ngữ của trẻ phát triển với một tốc độ
rất nhanh cả về số lượng và chất lượng. Trẻ mẫu giáo lớn nắm vững ngữ âm và
ngữ điệu khi sử dụng tiếng mẹ đẻ. Trẻ tích lũy được hàng nghìn từ tích cực
khơng những chỉ về danh từ, động từ mà cả các đại từ, tính từ và quan hệ từ…
Trẻ đã có kĩ năng kết hợp các từ trong hầu hết các mẫu câu theo các quy tắc ngữ
pháp tiếng mẹ đẻ. Trong khi sử dụng ngôn ngữ, trẻ 5 -6 tuổi đã bắt đầu hiểu
nghĩa của các từ, biết sử dụng tiếng mẹ đẻ để diễn đạt rõ ràng mạch lạc ý nghĩa
và từng bước thực hiện các sắc thái xúc cảm phù hợp trong lời nói. Sử dụng
thành thạo tiếng mẹ đẻ trong đời sống hàng ngày là một trong những thành tựu
lớn lao nhất của giáo dục mầm non (tức là giáo dục tiền học đường). Tiếng mẹ
đẻ là phương tiện quan trọng nhất để lĩnh hội nền văn hóa dân tộc, để giao lưu
với những người xung quanh, để tư duy, để tiếp thu khoa học, để bồi bổ tâm
hồn,… Việc sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ được thể hiện ở: nắm vững ngữ âm
ngữ âm, ngữ điệu khi sử dụng tiếng mẹ đẻ, phát triển vốn từ và cơ cấu ngữ pháp,
sự phát triển ngôn ngữ mạch lạc. Lứa tuổi mẫu giáo là thời kì bộc lộ tính nhạy
cảm cao nhất đối với các hiện tượng ngơn ngữ của trẻ đạt tốc độ khá nhanh, và
đến cuối tuổi mẫu giáo thì hầu hết trẻ em đều biết sử dụng tiếng mẹ đẻ một cách
thành thục trong sinh hoạt hàng ngày.
Trình độ phát triển ngơn ngữ được coi là một điều kiện hết sức quan trọng
trong việc lĩnh hội các tri thức về khoa học tự nhiên cũng như về khoa học xã



20
hội. Bởi vậy ở lứa tuổi mẫu giáo, việc trẻ em sử dụng thông thạo tiếng mẹ đẻ
được coi là yêu cầu nghiêm túc. Trước khi đến trường trẻ phải biết nói năng
mạch lạc khi giao tiếp với người xung quanh, biết sử dụng ngôn ngữ như một
phương tiện để tư duy, để giao tiếp.
Lứa tuổi mẫu giáo lớn, việc sử dụng ngơn ngữ tình huống của trẻ dần
mất đi nhờ vốn từ phong phú và khả năng diễn dạt của trẻ ngày càng cải thiện,
trẻ tích cực sử dụng ngơn ngữ - ngữ cảnh. Kiểu ngơn ngữ này địi hỏi trẻ phải nói
sao cho người khác hình dung ra được những điều chúng muốn nói, muốn mơ tả
mà khơng phụ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể trước mắt. Trẻ 5-6 tuổi có nhu cầu
hiểu biết nên thường hay đặt câu hỏi “Vì sao?” và mong muốn người lớn giải
thích. Mặt khác, trẻ cũng có nhu cầu giải thích chi người lớn và các bạn cùng tìm
hiểu được những ý nghĩ của mình. Bên cạnh đó, khả năng giải thích bằng ngôn
ngữ cũng đang được phát triển trong độ tuổi mẫu giáo lớn. Kiểu ngơn ngữ này
địi hỏi trẻ phải trình bày ý kiến của mình theo một trình tự nhất định, phỉa nêu
bật những điều chủ yếu và những mối quan hệ liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng
một cách hợp lí để người nghe có thể hiểu và chấp nhận. Như vậy, có thể nói
rằng ngơn ngữ mạch lạc của trẻ mẫu giáo lớn thể hiện trình độ phát triển tương
đối cao không những về phương diện ngôn ngữ mà cả về phương diện tư duy.
Muốn cho ngơn ngữ được mạch lạc thì những điều trẻ định nói cần phải được rõ
ràng ngay từ trong đầu, tức là cần có tư duy hỗ trợ. Mặt khác, chính ngôn ngữ
mạch lạc lại là phương tiện làm cho tư duy của trẻ phát triển lên một chất lượng
mới, đó là việc nảy sinh các yếu tố của tư duy lơgic và nhờ đó sẽ thúc đẩy tồn
bộ sự phát triển của trẻ 5 -6 tuổi lên một trình độ mới cao hơn.
Bước sang tuổi mẫu giáo lớn, tự ý thức được xác định rõ ràng cho phép
trẻ thực hiện các hành động một cách chủ động hơn, nhờ đó trẻ mẫu giáo lớn trở
thành những chủ thể có những năng lực, có những sáng kiến, có khả năng tư duy
và giao tiếp với mọi người theo một cách riêng.



21
1.4. Mối quan hệ giữa nhà trường với gia đình nhằm rèn thói quen giao tiếp
có văn hóa cho trẻ 5-6 tuổi
1.4.1. Sự cần thiết phải xây dựng mối quan hệ giữa nhà trường và gia đình
Khi bàn về con người C.Mác viết: “... Bản chất của con người không phải
cái gì trừu tượng, vốn có của mỗi cá nhân riêng lẻ, trong tính hiện thực của nó bản
chất của con người là tổng hòa các mối quan hệ của xã hội”. Với quan điểm hoa
học này, Mác cho chúng ta thấy trong sự hình thành và phát triển nhân cách của
mình, con người ln chi phối của nhiều nhân tố, trong đó có mơi trường xã hội.
Trong bài nói chuyện với cán bộ Đảng của ngành giáo dục (tháng 6/1997)
Bác Hồ có nói: “… Giáo dục nhà trường chỉ là một phần cịn cần có sự giáo dục
ngồi xã hội và gia đình nhằm giúp cho việc giáo dục của nhà trường tốt hơn…”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III năm 1960 và lần thứ IV năm 1976,
Đảng ta luôn coi việc kết hợp giáo dục của nhà trường, giáo dục gia đình và giáo
dục xã hội là một nguyên lí giáo dục.
Trong luật giáo dục được quốc hội thông qua tháng 12 năm 1988 ở điều 6
chương 7 có ghi: “… Học đi đơi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản
xuất, lí luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia
đình và giáo dục xã hội”.
Từ quan điểm của Mác, lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh, quan điểm của
Đảng ta được thể hiện trong nhiều văn kiện và luật giáo dục – Đây được xem
như những cơ sở lí luận của việc kết hợp các lực lượng giáo dục trong quá trình
giáo dục trẻ mẫu giáo.
Mặt khác, mơi trường hồn cảnh gia đình và xã hội là những nhân tố
khách quan ln có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến quá trình giáo dục, tới
quá trình hình thành và phát triển nhân cách của trẻ mẫu giáo. Thực tế cho thấy,
với nhiều nguyên nhân khác nhau, hiện nay ở bậc mầm non chủ yếu trẻ học tập,
lao động, sống, sinh hoạt ở hai mơi trường đó là gia đình và nhà trường.



22
Như vậy nếu muốn giáo dục đạt được hiệu quả như mong muốn, khơng
thể khơng khép kín thời gian, khơng gian hoạt động của trẻ và tất yếu cần sự
thống nhất nhiều hướng tác động của tất cả các lực lượng giáo dục, các nhân tố
giáo dục để chúng đều có những ảnh hưởng tích cực đến trẻ nhỏ.
1.4.2. Nhà trường và giáo dục giao tiếp có văn hóa trong nhà trường
Nhà trường là một tổ chức xã hội đặc thù với cấu trúc tổ chức chặt chẽ, có
nhiệm vụ chuyên biệt là giáo dục, đào tạo nhân cách trẻ em theo những định
hướng của xã hội. Nhà trường cũng đồng nghĩa với trường học. Đó là “Nơi tiến
hành giảng dạy, đào tạo toàn diện hay về một số lĩnh vực chun mơn nào đó cho
trẻ mẫu giáo, sinh viên” (từ điển tiếng việt – Nhà xuất bản ngôn ngữ học – 2004).
Quá trình thể hiện chức năng giáo dục là quá trình tổ chức các hoạt động
dạy, học, giáo dục,… Song giáo dục nhà trường có một số khác biệt so với giáo
dục gia đình và xã hội là:
Tính khoa học: Giáo dục nhà trường được tiến hành theo chương trình, nội
dung, phương pháp, hình thức tổ chức có chọn lọc trên cơ sở khoa học và thực
tiễn nhất định, đảm bảo mang lại chất lượng và hiệu quả giáo dục.
Tính hệ thống: Giáo dục nhà trường được tổ chức theo hệ thống bậc học,
cấp học, lớp học, nội dung và tác động cũng có hệ thống để đảm bảo sự thống
nhất mục đích chung là hình thành nhân cách tồn diện, hài hịa cho trẻ.
Tính tích cực: Giáo dục nhà trường ln mang đến những ảnh hưởng tích
cực nhất đối với sự hình thành nhân cách của trẻ nhỏ.
Địa điểm tiến hành: Giáo dục nhà trường thường được thực hiện ở một địa
điểm riêng biệt, có trang thiết bị cần thiết phục vụ cho hoạt động dạy và học đạt
hiệu quả cao…
Nhà trường với lực lượng nòng cốt là đội ngũ giáo viên đóng vai trị quyết
định đến chất lượng chăm sóc và giáo dục trẻ. Chất lượng đội ngũ giáo viên tốt
thứ nhất phải là những người u nghề, có tâm huyết với nghề, có tình u trẻ,
có tình đồng nghiệp, có đạo đức trong sáng. Thứ hai đội ngũ giáo viên phải là



23
những người có năng lực chun mơn, nghĩa là phải có kiến thức sâu sắc, phải
có khoa học sư phạm. Do đặc thù lao động của giáo viên là lao động sáng tạo,
vì thế giáo viên phải là người có ý chí vươn lên, tích cực học tập, ham học hỏi,
thường xuyên trau dồi đạo đức, kiến thức, phẩm chất, năng lực, xứng đáng là
tấm gương cho mọi thế hệ noi theo.
Hiện nay, giáo dục giao tiếp có văn hóa ở nhà trường đã được quan tâm và
chú trọng. Trẻ nhỏ được giáo dục thói quen giao tiếp có văn hóa ở mọi lúc, mọi
nơi trong mọi hoạt động của trường học (ví dụ như khi trẻ ăn cơm trẻ biết mời cô
giáo và các bạn trước khi ăn cơm, khi được bạn bè giúp đỡ trẻ biết cảm ơn, khi
có lỗi với bạn trẻ biết xin lỗi,…).
Đặc biệt là người giáo viên mầm non, họ luôn trực tiếp triển khai các
biện pháp giáo dục nói chung và biện pháp giáo dục thói quen giao tiếp có
văn hóa cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi nói riêng, thơng qua tổ chức cuộc sống
cho trẻ ở trường mầm non. Để giáo dục có kết quả cao cần có các điều kiện
sau về giáo viên:
Giáo viên phải nắm được các kế hoạch chung của lớp học, đặc điểm của
trẻ để chủ động xây dựng kế hoạch đưa nội dung rèn luyện thói quen giao tiếp có
văn hóa cho trẻ vào thời điểm và hoạt động thích hợp, phù hợp với đặc điểm của
trẻ và điều kiện cơ sở vật chất của trường mầm non.
Giáo viên phải có trình độ chun mơn và năng lực sư phạm nhất định để
linh hoạt và sáng tạo trog việc tổ chức cuộc sống của trẻ sao cho thật sự hấp dẫn,
thu hút trẻ tích cực hoạt động. Đồng thời, giáo viên cần phải khai thác tích cực
các tình huống trong cuộc sống giúp trẻ được thực hiện giao tiếp trong các tình
huống giao tiếp khác nhau.
Bản thân giáo viên phải có nếp sống lành mạnh, có phẩm chất, đạo đức
tốt, thực sự làm tấm gương trung thực và sống động cho trẻ về giao tiếp có văn
hóa để trẻ noi theo. Giáo viên cần thiết phải có lịng u nghề mến trẻ để có đủ



24
thiện trí và lịng kiên trì trong việc rèn luyện thói quen giao tiếp có văn hóa cho
trẻ mầm non.
1.4.3. Gia đình và giáo dục giao tiếp có văn hóa trong gia đình
Gia đình là tế bào của xã hội, là “tập hợp những người cùng chung sống
thành một đơn vị nhỏ nhất trong xã hội, gắn bó với nhau bằng quan hệ hơn nhân
và dịng máu, thường gồm có vợ chồng, cha mẹ và con cái”. (Từ điển Tiếng Việt
– Viện ngôn ngữ học xuất bản 2004, Tr381).
Mối quan hệ giữa gia đình và xã hội cũng như vị trí của gia đình trong xã
hội, cha ơng ta từ ngàn xưa đã khẳng định: “Gốc của thiê hạ là nước, gốc của
nước là nhà” (Thiên hạ chi bản quốc, quốc chi bản tại gia). Bởi vậy, muốn trở
thành người cơng dân chân chính tham gia vào các hoạt động quản lý đất nước
thì trước hết phải có những phẩm chất tốt đẹp thể hiện trong gia đình (Giục trị kì
quốc giả, tiêu tề kì gia).
Gia đình hạnh phúc dựa trên nguyên tắc cơ bản là mọi người đều phải yêu
thương quý mến nhau, giúp đỡ nhau trong công việc gia đình và xã hội, giữ đúng
tư cách và trách nhiệm của mình trong gia đình.
Ở Việt Nam, theo các chuẩn mực gia đình và truyền thống thì cha mẹ phải
chịu trách nhiệm đầu tiên về việc học tập của con cái. Gia đình có ảnh hưởng
mang tính quyết định đối với đứa trẻ ngay từ khi chúng bắt đầu chào đời và đã
trở thành một nguyên tắc mang tính truyền thống mà cho tới nay vẫn còn nguyên
giá trị “Dạy con từ thuở còn thơ, dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về” (giáo phụ sơ lai,
giáo tử anh hài). Do đó, cha mẹ phải cùng nhau đảm bảo sự ổn định và cân bằng
cần thiết làm cơ sở cho sự phát triển của con cái. Về bản chất, gia đình là mơi
trường giáo dục và cha mẹ phải tổ chức, xây dựng mang nét đặc thù do điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể, phù hợp với mục tiêu phát triển cơng dân chân chính theo
định hướng tốt đẹp: gia phong, gia giáo, gia pháp kết hợp chặt chẽ với quốc
phong, quốc giáo, quốc pháp.

Điều 94 luật giáo dục (trang 70) quy định trách nhiệm của gia đình:


25
- Cha mẹ hoặc người giám hộ có trách nhiệm ni dưỡng, giáo dục và
chăm sóc, tạo điều kiện cho con em hoặc người giám hộ được học tập, rèn luyện
tham gia các hoạt động của nhà trường.
- Mọi người trong gia đình có trách nhiệm xây dựng gia đình văn hóa, tạo
mơi trường thuận lợi cho vệc phát triển tồn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất,
thẩm mĩ cho con em, người lớn có trách nhiệm giáo dục,làm gương cho con em,
cùng nhà trường nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục”.
Giáo dục thói quen giao tiếp ở gia đình đã được hình thành từ xa xưa. Ở
gia đình trẻ được ơng bà, cha mẹ, anh chị,…dạy cho trẻ thế nào là lễ phép, kính
trong người trên, nhường nhịn người nhỏ, luôn luôn phải biết chào hỏi,… Tuy
nhiên mức độ cịn hạn chế, chưa thường xun. Ngồi ra trẻ cịn chưa có ý thức
tự giác, khi vắng mặt người lớn, khơng có sự nhắc nhở, uốn nắn kịp thời trẻ sẽ
quên, học theo những thói xấu: nói trống khơng, nói tục chửi bậy, nói lắp, khơng
biết cảm ơn, xin lỗi,… Hơn nữa là do người lớn chưa làm gương cho trẻ.
Điều kiện của gia đình để việc giáo dục diễn ra được thuận lợi:
Gia đình có đủ cha và mẹ
Cha mẹ là nhưng người cơng dân chân chính, được cộng đồng xã hội
quý mến.
Gia đình phải là mái nhà bình n (gia đình ít có nguy cơ bị tan dã).
Gia dình phải có bầu khơng khí vui vẻ thân thiện
Gia đình phải có lao động chân chính và trung thực
Mọi thành viên trong gia đình ln tơn trọng, thương u và giúp đỡ lẫn nhau
Người lớn ln có những phương pháp giáo dục đúng đắn và có những địi hỏi
thống nhất đối với con trẻ.
Cha mẹ cần có những hiểu biết cần thiết về đặc điểm tâm lí lứa tuổi của
con trẻ.

Gia đình biết cách ứng xử đúng các nguồn thơng tin để định hướng cho việc
hình thành ý thức, tình cảm, hành vi cũng như thói quen hành vi đúng ở con trẻ.


×