Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Khóa luận tốt nghiệp một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 6 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (860.34 KB, 80 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Để thực hiện sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì vấn
đề phát triển nguồn nhân lực là vấn đề vơ cùng quan trọng. Chính vì vậy mục
tiêu phát triển toàn diện nhân cách con người cần được triển khai và quán triệt
một cách triệt để trong các nhà trường. Con người phát triển toàn diện về nhân
cách là sự kết hợp hài hòa về phẩm chất và năng lực. Con người mới trong thời
kì cơng nghiệp hóa- hiện đại hóa ngồi việc nắm vững tri thức, phát triển năng
lực hoạt động trí tuệ, có phẩm chất đạo đức tốt thì cần phải có kĩ năng sống, kĩ
năng hịa nhập.
Đặc biệt trong xu thế hội nhập với một xã hội khơng ngừng biến đổi
hiện nay địi hỏi con người phải thường xuyên ứng phó với những thay đổi hàng
ngày của cuộc sống, mục tiêu giáo dục không chỉ giúp con người học để biết, học
để làm, học để làm người mà cịn học để chung sống. Do đó vấn đề giáo dục kĩ
năng sống cho trẻ là vấn đề cấp thiết hơn bao giờ hết.
Kĩ năng sống được xem xét đến hoàn cảnh giúp mọi người đi từ nhận
thức đến hành động chuẩn xác, những thói quen lành mạnh. Những người có kĩ
năng sống tốt là người có thể kiểm soát suy nghĩ, cảm nhận, cảm xúc và hành vi.
Họ thường lạc quan, năng động và thành công hơn trong cuộc sống. Những người
thiếu kĩ năng sống thường là nguyên nhân của nhiều vấn đề xã hội. Giáo dục kĩ
năng sống có thể thúc đẩy những hành vi xã hội tích cực, tăng cường chất lượng
cuộc sống và giảm những vấn đề xã hội. Giáo dục kĩ năng sống giúp con người
sống an toàn, khỏe mạnh với chất lượng cao trong xã hội hiện đại, đa văn hóa và
sự phát triển kinh tế, nơi mà thế giới được xem như một ngơi nhà chung. Giáo dục
kĩ năng sống có thể đáp ứng tích cực những nhu cầu và quyền của con người,
những điều được ghi trong luật pháp của Việt Nam và Quốc tế.
Những thay đổi nhanh chóng trong xã hội hiện đại đã tác động lớn đối với
con người nói chung và đặc biệt là với trẻ mầm non nói riêng. Trẻ ở lứa tuổi mầm
non là giai đoạn quan trọng nhất đặt nền móng cho sự phát triển nhân cách toàn




2

diện của trẻ . Do đó việc hình thành cho trẻ mầm non kĩ năng sống để giúp các em có
thể sống một cách an tồn và khỏe mạnh là việc làm cần thiết. Chính những kết quả
này sẽ là cơ sở, là nền tảng giúp trẻ phát triển nhân cách sau này. Hơn thế nữa, trong
thực tế hiện nay việc hình thành kĩ năng sống cho trẻ mầm non cịn nhiều hạn chế và
chưa có nhiều chuyển biến, ngun nhân chính là do giáo viên, phụ huynh chưa hiểu
được rõ tầm quan trọng của việc giáo dục kĩ năng sống cho trẻ. Chính vì thế nên hiệu
quả giáo dục kĩ năng sống cho trẻ chưa cao.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tơi đã chọn nghiên cứu đề tài: “Một
số biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi ”
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
2.1. Về lí luận
- Làm rõ cơ sở lí luận về kĩ năng sống và vấn đề giáo dục kĩ năng sống
cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
- Xác định cơ sở khoa học của việc xây dựng một số biện pháp tổ chức
hoạt động giáo dục một số kĩ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
2.2. Về thực tiễn
- Đề xuất được một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho trẻ mẫu giáo
5-6 tuổi.
- Đề tài là tài liệu tham khảo cần thiết cho sinh viên nghành giáo dục mầm
non và giáo viên mầm non quan tâm đến vấn đề giáo dục kĩ năng sống cho trẻ mẫu
giáo 5-6 tuổi.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Đề xuất một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho trẻ 5 - 6 tuổi ở
trường Mầm non Hùng Vương - Thị xã Phú Thọ nhằm giúp trẻ hiểu được tầm
quan trọng của hành vi và thái độ của mình, từ đó trẻ biết thay đổi hành vi của
mình theo hướng tích cực đối với các vấn đề trong cuộc sống.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận của giáo dục kĩ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi.
- Đánh giá thực trạng giáo dục kĩ năng sống của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi ở
trường Mầm non Hùng Vương- Thị xã Phú Thọ.


3

- Đề xuất và thực nghiệm một số biện pháp giáo dục góp phần rèn luyện
kĩ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp giáo dục một số kĩ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài tập trung nghiên cứu một số kĩ năng sống của trẻ mẫu giáo: kĩ
năng tự nhận thức, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng làm việc nhóm.
- Đề tài tiến hành nghiên cứu, điều tra thực trạng trên 50 trẻ mẫu giáo 5 6 tuổi tại trường mầm non Hùng Vương - Thị xã Phú Thọ.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Các phương pháp nghiên cứu lí luận
- Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp các quan niệm về kĩ năng
sống và các cách phân loại kĩ năng sống để hiểu rõ về kĩ năng sống,các con đường,
hình thức giáo dục kĩ năng sống cho trẻ; các đặc điểm tâm sinh lí, xã hội của lứa
tuổi mẫu giáo làm cơ sở lí luận cho việc xác định những định hướng giáo dục kĩ
năng sống cho trẻ mẫu giáo.
6.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6.2.1. Phương pháp điều tra thực trạng bằng phiếu hỏi đối với giáo viên
Mục đích của phương pháp này nhằm đánh giá thực trạng, đề xuất một số
biện pháp, thực nghiệm sư phạm.
- Để thực hiện mục đích trên tôi tiến hành theo hai bước:
Bước 1: Sử dụng hệ thống câu hỏi mở và câu hỏi đóng

Bước 2: Sau khi xử lý kết quả của anket mở (câu hỏi mở), chúng tôi tiến hành
nghiên cứu.
Cách tiến hành:
- Nhắc lại mục đích, yêu cầu, hướng dẫn giáo viên làm bài.
- Phát phiếu điều tra cho mỗi giáo viên, yêu cầu ghi rõ tuổi, giới tính, thâm niên
cơng tác.
- Thu phiếu điều tra và xử lý kết quả nghiên cứu


4

6.2.2. Phương pháp đàm thoại
Hình thức đàm thoại chính là hoạt động đưa ra những câu hỏi liên quan
đến vấn đề nghiên cứu với những đối tượng liên quan mà bằng phương pháp quan
sát khơng thấy hết được. Trị chuyện trực tiếp với giáo viên và trẻ để tìm hiểu họ
nhận thức như thế nào về kĩ năng giao tiếp, kĩ năng tự nhận thức và kĩ năng làm
việc nhóm đồng thời cũng biết được việc thực hiện kĩ năng này như thế nào.
6.2.3. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
Gặp trực tiếp các chuyên gia trong lĩnh vực giáo dục, các giáo viên có
kinh nghiệm, các nhà quản lí xin ý kiến, trao đổi về những vấn đề có liên quan đến
đề tài như thực trạng, hệ thống tiêu chí, hệ thống biện pháp giáo dục kĩ năng sống
cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi.
6.2.4. Phương pháp quan sát
Đây là một trong những phương pháp chính của đề tài. Phương pháp này
bao gồm quan sát có chủ định và quan sát không chủ định nhằm thu thập những
thông tin về những biểu hiện hành vi, những khó khăn của trẻ trong quá trình giáo
dục kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng giao tiếp và làm việc nhóm.
- Quan sát trẻ: Thơng qua các giờ học ngồi giờ lên lớp, hoạt động vui
chơi, giờ học tập trong lớp.
- Quan sát giáo viên: Dự giờ và quan sát giờ dạy của giáo viên.

6.2.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Thực nghiệm là phương pháp đặc biệt cho phép tác động lên đối tượng
nghiên cứu một cách chủ động, can thiệp có ý thức vào quá trình diễn biến tự
nhiên để hướng q trình ấy diễn ra theo mục đích mong muốn
Tiến hành thực nghiệm ở trường Mầm non để kiểm nghiệm tính khoa học,
khả thi của các biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi.
6.2.6. Phương pháp thống kê tốn học
Tơi sử dụng các cơng thức tốn học để nghiên cứu đối tượng khoa học,
tính tốn các thơng số có liên quan đến đối tượng, tìm các quy luật vận động của
đối tượng và cuối cùng là dùng tốn học để xử lí số liệu do kết quả nghiên cứu của
các phương pháp khác từ đó tăng độ tin cậy của đề tài.


5

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Nghiên cứu về kĩ năng sống ở nước ngồi
Có thể nhận định rằng trong những thập kỉ qua, vấn đề kĩ năng sống đã
được nhiều nước trên thế giới quan tâm. Kĩ năng sống bắt đầu xuất hiện ở một số
chương trình giáo dục của UNICEF. Trước tiên là chương trình “giáo dục những
giá trị sống” (Living values). Chương trình này được Unesco, Ủy ban UNICEF
của Tây Ban Nha và Hiệp hội hành tinh, tổ chức Brahma và các chuyên gia giáo
dục UNICEF (New York) tham gia. Khái qt các cơng trình nghiên cứu về kĩ
năng sống ở nước ngồi có thể nêu lên hai hướng chính như sau:
Hướng thứ nhất: quan tâm đến các kĩ năng sống trong lao động, công
việc, trong hành nghề. Theo hướng này có thể kể đến các cơng trình nghiên cứu
đặc biệt chú ý đến như:
Năm 1989, Bộ lao động Mỹ thành lập một Ủy ban thư kí về việc rèn

luyện các kĩ năng cần thiết. Thành viên của Ủy ban đến từ nhiều lĩnh vực khác
nhau như: giáo dục, kinh doanh, người lao động.. nhằm mục tiêu thúc đẩy nền
kinh tế bằng nguồn lao động kĩ năng cao và công ciệc thu nhập cao.
Tác giả Stephen R.Covey đã viết cuốn “7 habits of Highly Effective
People” (7 thói quen của người thành đạt). Đây là một cuốn sách đã nổi tiếng hàng
chục năm nay trên khắp thế giới. Tác giả muốn giới thiệu một phương pháp kết
hợp toàn diện và thực tiễn để giải quyết các vấn đề về tính cách con người và sự
nghiệp. Tác giả cho thấy từng bước của con đường phải đi để sống một cuộc đời
trung thực, nhất quán, lương thiện và xứng với nhân phẩm.
Gồm 7 thói quen:
Thói quen 1: Ln chủ động
Thói quen 2: Bắt đầu bằng định hướng tương lai
Thói quen 3: Việc quan trọng làm trước


6

Thói quen 4: Lợi người - Lợi ta
Thói quen 5: Hiểu rồi được hiểu
Thói quen 6: Cùng hiệp đồng
Thói quen 7: Sự tương hỗ lẫn nhau
Như vậy, nội dung cuốn sách cho người đọc thấy được những giá trị sống
cơ bản để sống thành công.
Hướng thứ hai: quan tâm đến các kĩ năng hướng vào giáo dục sức khỏe,
hành vi, cách ứng xử, giáo dục an tồn giao thơng, bảo vệ mơi trường hay giáo dục
lịng u hịa bình. Theo hướng này có thể kể đến các cơng trình nghiên cứu về kĩ
năng sống liên quan được đặc biệt chú ý đến như:
Từ năm 1997 đến năm 2002, ở Lào ban đầu kĩ năng sống chủ yếu được
nghiên cứu trong lĩnh vực có liên quan đến giáo dục phịng tránh HIV/AIDS đã
được lồng ghép vào các chương trình giáo dục chính quy, khơng chính quy và các

trường sư phạm đào tạo giáo viên. Về sau kĩ năng sống được mở rộng ra các lĩnh
vực khác như: giáo dục dân số, giáo dục sức khỏe sinh sản, giáo dục sức khỏe và
vệ sinh các nhân, giáo dục môi trường,..
Năm 2005, Barry L.Boyd đã nghiên cứu về “Developing life skills in
youth” (Phát triển kĩ năng sống của thanh thiếu niên). Tác giả cho rằng thanh thiếu
niên hiện nay cần được hình thành và phát triển kĩ năng sống. Tác giả nhấn mạnh
đến những kĩ năng sống cơ bản như kĩ năng tự nhận thức bản thân, kĩ năng ra
quyết định, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng giải quyết vấn đề.
1.1.2. Nghiên cứu về kĩ năng sống ở Việt Nam
Thuật ngữ kĩ năng sống được người Việt Nam biết đến bắt đầu từ chương
trình của UNICEF năm 1996 “Giáo dục kĩ năng sống để bảo vệ sức khỏe và phong
chống HIV/AIDS cho thanh thiếu niên trong và ngoài nhà trường”. Quan niệm về
kĩ năng sống được giới thiệu trong chương trình này chỉ bao gồm những kĩ năng
cốt lõi như: kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng xác định giá trị, kĩ
năng ra quyết định… nhằm vào những chủ đề giáo dục sức khỏe do các chuyên
gia Úc tập huấn. Tham gia chương trình này đầu tiên có ngành Giáo dục và Hội


7

chữ thập đỏ. Khái qt các cơng trình nghiên cứu về kĩ năng sống ở Việt Nam có
thể nêu lên hai hướng nghiên cứu chính như sau:
Hướng thứ nhất: Quan tâm đến các kĩ năng sống trong lao động, công
việc, trong hành nghề. Theo hướng này có thể kể đến các cơng trình nghiên cứu về
kĩ năng sống được đặc biêt chú ý.
Tác giả Huỳnh Văn Sơn đã xuất bản cuốn: “Bạn trẻ và kĩ năng sống”
(năm 2009). Nội dung cuốn sách bàn đến vấn đề hành trang cần có của thanh niên
hiện đại đó là kĩ năng sống. Tác giả đưa ra những kĩ năng sống cần thiết cho thanh
niên là: kĩ năng tự đánh giá mình, kĩ năng tư duy sáng tạo, kĩ năng tác động đến tư
duy của con người, kĩ năng hợp tác, lắng nghe, kĩ năng biết chấp nhận người

khác…
Hướng thứ hai: quan tâm đến các kĩ năng hướng vào giáo dục sức khỏe,
hành vi, cách ứng xử, giáo dục an tồn giao thơng, bảo vệ mơi trường hay giáo dục
lịng u hịa bình cho trẻ. Theo hướng này có thể kể đến các cơng trình nghiên
cứu về kĩ năng sống được đặc biệt chú ý. Cụ thể là:
Bộ giáo dục & Đào tạo phối hợp với ngành Cơng an và ủy ban An tồn
giao thơng Quốc gia đưa chương trình giảng dạy thí điểm và tổ chức nhiều cuộc
thi tìm hiểu Luật An tồn giao thông cho trẻ em các trường từ mẫu giáo đến phổ
thông trung học để trang bị cho các em những kiến thức ban đầu về luật lệ an toàn
giao thông.
Nghiên cứu “Giáo dục kĩ năng sống ở Việt Nam” - trưởng nhóm là bà
Nguyễn Thanh Bình, nghiên cứu tập trung tìm hiểu quá trình nhận thức về kĩ năng
sống và tổng quan qua các chủ trương, chính sách, điều luật phản ánh yêu cầu tiếp
cận kĩ năng sống trong giáo dục và giáo dục kĩ năng sống ở Việt Nam từ trẻ mầm
non đến người lớn thông qua giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên.
1.2. Kĩ năng sống
1.2.1. Khái niệm
1.2.1.1. Khái niệm kĩ năng
Kĩ năng là một vấn đề được nhiều nhà tâm lí học, giáo dục học trong và
ngồi nước quan tâm. Ở góc độ khác nhau, các tác giả có các quan niệm khác nhau


8

về kĩ năng: kĩ năng được xem là mặt kĩ thuật của hành động; là khả năng của cá
nhân; ở một bình diện khác, kĩ năng là hành vi ứng xử.
Quan điểm thứ nhất: Xem xét kĩ năng từ góc độ kĩ thuật của hành động,
của thao tác mà ít quan tâm đến kết quả của của hành động.
+ PGS Trần Trọng Thủy cho rằng: kĩ năng là mặt kĩ thuật của hành động,
con người nắm được hành động tức là kĩ thuật hành động có kĩ năng.

+ PGS.TS Hà Nhật Thăng cho rằng: Kĩ năng là mặt kĩ thuật của hành
động thể hiện các thao tác của hành động.
+ Như vậy, theo quan điểm này kĩ năng là phương tiện thực hiện hành
động phù hợp với mục đích và điều kiện hành động mà con người đã nắm vững.
Theo các tác giả trên, người có kĩ năng hoạt động nào đó là người nắm được các
tri thức về hoạt động đó và thực hiện hành động theo đúng yêu cầu của nó mà
khơng cần tính đến kết quả của hành động.
Quan điểm thứ hai: Quan điểm xem xét kĩ năng từ góc độ khơng đơn
thuần chỉ là mặt kĩ thuật của hành động mà còn là biểu hiện của năng lực của chủ
thể hành động và nhấn mạnh đến kết quả của hành động.
+ Theo TS Vũ Dũng: kĩ năng là năng lực vận dụng có kết quả những tri
thức về phương thức hành động đã được chủ thể lĩnh hội để thực hiện những
nhiệm vụ tương ứng.
+ Các nhà tâm lí học khác như PGS.TS Ngơ Cơng Hồn, PGS.TS
Nguyễn Thị Ánh Tuyết, GS Nguyễn Quang Uẩn, Trần Quốc Thành cho rằng kĩ
năng là một mặt năng lực của con người thực hiện một cơng việc có hiệu quả.
Như vậy, hai quan điểm này tuy về hình thức diễn đạt có vẻ khác nhau
nhưng thực chất chúng khơng hồn toàn mâu thuẫn hay loại trừ nhau. Dù theo
quản điểm nào thì khi nói đến kĩ năng chúng ta đều phải quán triệt một số đặc
điểm sau:
+ Mọi kĩ năng đều phải dựa trên cơ sở tri thức, muốn hành động, muốn
thao tác trước hết phải có kiến thức về nó dù cho tri thức có thể ẩn chứa ở nhiều
dạng khác nhau.


9

+ Nói đến kĩ năng của con người là nói đến hành động có mục đích, tức là
khi hành động, thao tác của con người ln hình dung đến kết quả đạt được.
+ Để có kĩ năng con người cũng phải biết cách thực hiện hành động trong

những điều kiện cụ thể và hành động theo quy trình với sự tập luyện nhất định.
+ Kĩ năng liên quan mật thiết đến năng lực của con người. Nó là biểu hiện
cụ thể của năng lực.
Từ phân tích trên, kĩ năng có thể hiểu như sau:
Kĩ năng là khả năng thực hiện có kết quả một hành động, cơng việc nào
đó trên cơ sở nắm vững phương thức thực hiện và vận dụng những tri thức, kinh
nghiệm đã có phù hợp với những điều kiện nhất định.
Như vậy, kĩ năng không chỉ đơn thuần là mặt kĩ thuật của hành động mà
nó còn là biểu hiện của năng lực cá nhân.
1.2.1.2. Khái niệm kĩ năng sống
Khi quan niệm về kĩ năng sống có rất nhiều quan niệm khác nhau và mỗi
quan niệm lại được diễn đạt theo những cách khác nhau.
+ Có quan niệm coi kĩ năng sống là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ
các chức năng và tham gia vào cuộc sống hàng ngày (Tổ chức Văn hóa, Khoa học
và Giáo dục của Liên hợp quốc, viết tắt là UNESCO).
+ Có quan niệm coi kĩ năng sống là những kĩ năng thiết thực mà con
người cần để có cuộc sống an toàn khoẻ mạnh. Tổ chức y tế thế giới (WTO) cho
rằng kĩ năng sống là những kĩ năng mang tính tâm lí xã hội và kĩ năng về giao tiếp
được vận dụng trong những tình huống hàng ngày để tương tác một cách hiệu quả
với người khác và giải quyết có hiệu quả những vấn đề, những tình huống trong
cuộc sống hàng ngày.
+ Tương đồng với quan niệm của Tổ chức y tế Thế giới cịn có quan niệm
kĩ năng sống là những kĩ năng tâm lí xã hội liên quan đến những tri thức, những
giá trị và những thái độ, cuối cùng được thể hiện ra bằng hành vi làm cho các cá
nhân có thể thích nghi và giải quyết có hiệu quả các yêu cầu và thách thức của
cuộc sống.


10


Như vậy, các kĩ năng sống nhằm giúp chúng ta chuyển dịch kiến thức “cái chúng ta biết” và thái độ, giá trị - “cái chúng ta nghĩ, cảm thấy, tin tưởng”
thành hành động thực tế - “làm gì và làm cách nào” là tích cực nhất và mang tính
xây dựng.
Khái niệm kĩ năng sống được hiểu theo nhiều cách khác nhau ở từng quốc gia.
Các nhà giáo dục Thái Lan xem kĩ năng sống là thuộc tính hay năng lực
tâm lí xã hội giúp cá nhân đương đầu với tất cả tình huống hàng ngày một cách có
hiệu quả và có thể đáp ứng với hồn cảnh tương lai để có thể sống hạnh phúc, bao
gồm: Kĩ năng ra quyết định một cách đúng đắn, kĩ năng sáng tạo, kĩ năng giải
quyết xung đột, kĩ năng phân tích và đánh giá tình hình, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng
quan hệ liên nhân cách, kĩ năng làm chủ cảm xúc, kĩ năng làm chủ được cú sốc, kĩ
năng đồng cảm, kĩ năng thực hành.
Người Ấn Độ hiểu kĩ năng sống là những khả năng tăng cường sự lành
mạnh về tinh thần và năng lực của con người, gồm có: Kĩ năng giải quyết vấn đề,
tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng quan hệ liên nhân
cách, kĩ năng ra quyết định, kĩ năng đàm phán, kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng đối
phó với stress và cảm xúc, kĩ năng từ chối, kĩ năng kiên định, hài hòa.
Thuật ngữ kĩ năng sống được người Việt Nam biết đến nhiều từ chương
trình của UNICEF (1996) “Giáo dục kĩ năng sống để bảo vệ sức khoẻ và phịng
chống HIV/AIDS cho thanh niên trong và ngồi nhà trường”. Khái niệm kĩ năng
sống được giới thiệu trong chương trình này bao gồm những kĩ năng sống cốt lõi
như: kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng ra
quyết định, kĩ năng kiên định và kĩ năng đạt mục tiêu. Tham gia chương trình đầu
tiên này có ngành Giáo dục và Hội chữ thập đỏ. Sang giai đoạn 2 chương trình này
mang tên: “Giáo dục sống khoẻ mạnh và kĩ năng sống”.
Từ những quan niệm trên có thể thấy các quốc gia đều dựa trên quan
niệm về kĩ năng sống của các tổ chức quốc tế (WHO, UNESCO, UNICEF) nhưng
có tính khác biệt do điều kiện chính trị, kinh tế văn hoá của từng quốc gia. Nội
dung giáo dục kĩ năng sống vừa đáp ứng những cái chung có tính chất tồn cầu
vừa có tính đặc thù quốc gia. Một số quốc gia coi trọng một số kĩ năng như: kĩ



11

năng tư duy, kĩ năng thích ứng, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng hợp tác và cạnh tranh, kĩ
năng luân chuyển công việc. Một số nước khác lại chú trọng đến kĩ năng xố đói
giảm nghèo, kĩ năng phịng chống HIV/AIDS. Trong đề tài này chúng tôi hiểu
khái niệm kĩ năng sống như sau:
Kĩ năng sống từ quan điểm giáo dục là tất cả những kĩ năng cần thiết trực
tiếp giúp cá nhân sống thành công và hiệu quả, trong đó tích hợp những khả năng,
phẩm chất, hành vi tâm lí, xã hội và văn hố phù hợp và đương đầu được với
những tác động của môi trường. Những kĩ năng sống cốt lõi cần nhấn mạnh là: kĩ
năng tự nhận thức, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng làm việc nhóm, kĩ năng hợp tác và
cạnh tranh, kĩ năng thích ứng cao, kĩ năng làm chủ bản thân, kĩ năng tự nhận thức.
1.2.2. Tầm quan trọng của kĩ năng sống với cuộc sống của con người
Xã hội hiện đại có sự thay đổi tồn diện về kinh tế, văn hóa, xã hội và lối
sống với tốc độ nhanh đã làm nảy sinh những vấn đề mà trước đây con người chưa
gặp, chưa trải nghiệm, chưa phải ứng phó, đương đầu. Chính vì vậy con người
sống trong xã hội hiện đại cần phải có kĩ năng sống để sống thành cơng và nâng
cao chất lượng cuộc sống.
Kĩ năng sống là cây cầu nối giúp cho con người vượt qua những bến bờ
của thử thách, ứng phó với những thay đổi của cuộc sống hành ngày.
Để phát triển bền vững và nâng cao chất lượng cuộc sống, chúng ta mong
muốn mỗi người có một cuộc sống tích cực, lành mạnh, hạnh phúc. Chính vì vậy,
kĩ năng sống trở thành một hợp phần quan trọng trong nhân cách con người sống
trong xã hội hiện đại.
Kĩ năng sống giúp biến kiến thức thành những hành động cụ thể, những
thói quen lành mạnh. Những người có kĩ năng sống là những người biết làm cho
mình và người khác cùng hạnh phúc. Họ thường thành công hơn trong cuộc sống,
luôn yêu đời và làm chủ cuộc sống của chính họ.
Đặc biệt với sức khỏe con người: Việc nâng cao kĩ năng cá nhân và các kĩ

năng xã hội của mỗi người là một phần quan trọng trong chương trình can thiệp nâng
cao sức khỏe cho chính mình cũng như cho mọi người mọi người trong cộng đồng.


12

Kĩ năng sống góp phần thúc đẩy sự phát triển cá nhân và xã hội, ngăn
ngừa các vấn đề xã hội, sức khỏe và bảo vệ quyền con người. Các cá nhân thiếu kĩ
năng sống là một nguyên nhân làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội. Người có kĩ năng
sống sẽ thực hiện những hành vi mang tính xã hội tích cực, góp phần xây dựng các
mối quan hệ xã hội tốt đẹp và do vậy sẽ giảm bớt tệ nạn xã hội, làm cho xã hội
lành mạnh.
1.3. Lí luận chung về một số kĩ năng sống mà đề tài nghiên cứu
1.3.1. Kĩ năng tự nhận thức
“Tôi là ai? Tơi có thể làm được điều gì? Tơi có những điểm mạnh, điểm
yếu như thế nào?” – Những câu hỏi được rất nhiều người từng đặt ra và luôn trăn
trở để đi tìm câu trả lời đúng cho mình. “Nhận thức về bản thân của một người là
cơ sở nhân cách của người đó. Nó ảnh hưởng đến mọi phương diện đời sống của
con người: khả năng học hỏi, khả năng trưởng thành và thay đổi, sự nghiệp và bạn
đời. Khơng q đáng khi nói rằng, nhận thức đúng về bản thân là sự chuẩn bị khả
dĩ và tốt nhất cho những thành công trong cuộc sống” (TS. Joyce Brothers).
Xã hội ngày càng phát triển, kéo theo sự phát triển bùng nổ của khoa học
và công nghệ đã một phần nào đó làm ảnh hưởng khá lớn tới giới trẻ hiện nay, đặc
biệt là trẻ nhỏ với đặc tính thích khám phá và tìm tịi. Sự lệ thuộc q nhiều vào
cơng nghệ của đồ chơi, điện thoại, máy tính, máy tính bảng… làm cho khơng ít trẻ
thiếu những kỹ năng sống cơ bản để thích nghi và tồn tại với với cuộc sống.
Trẻ khơng biết mình là ai? Trẻ khơng biết mình phải làm gì? Trẻ khơng
biết được khả năng của mình có tới đâu, mình cần và mình mong muốn những gì
từ cuộc sống? Từ đó mà dẫn tới, trẻ thường xun có những suy nghĩ tiêu cực,
khơng đặt ra được mục tiêu phấn đấu của bản thân cho cuộc sống và dễ vấp ngã

vào những thói hư tật xấu, cùng những hiểm họa từ xã hội. Một trong số kỹ năng
sống cốt lõi, rất cần thiết để giáo dục cho trẻ hiện nay là “Kĩ năng tự nhận thức giá
trị của bản thân”.
Tự nhận thức (hay còn gọi là nhận thức về bản thân) là khả năng nhận
biết một cách chính xác về cảm xúc của mình ngay khi nó xảy ra và hiểu mình có
khuynh hướng làm gì trong tình huống đó.


13

Kỹ năng tự nhận thức giá trị bản thân giúp trẻ hiểu rõ bản thân mình: Đặc
điểm, tính cách, thói quen, thái độ, ý kiến, cách suy nghĩ, cảm xúc, nhu cầu của
chính mình, các mối quan hệ xã hội cũng như những điểm tích cực và hạn chế của
bản thân.
Xác định giá trị bản thân một cách đúng đắn, sẽ giúp trẻ tự nhận thức rõ
giá trị, vị trí của chính bản thân mình trong cuộc sống, ngồi ra giúp trẻ xác định
được rõ những ưu điểm, khuyết điểm của bản thân từ đó nhận ra được những khả
năng tiềm ẩn của trẻ trong những lĩnh vực khác nhau như: khoa học, văn hóa, nghệ
thuật…Đồng thời, trẻ biết học cách sống tích cực hơn tránh xa thói sống tiêu cực,
biết rõ đâu là điểm dừng tốt nhất cho bản thân, và đặc biệt biết tự đặt ra những
mục tiêu thiết thực phấn đấu cho tương lai sau này.
Chúng ta hướng trẻ vào một tiến trình nhận thức tài năng, sự khéo léo
cũng như khó khăn và hạn chế của trẻ. Tiến trình này giúp trẻ thể hiện tốt hơn nhu
cầu của trẻ, để trẻ khơng thu mình lại, khơng chạy trốn hiện thực. Trẻ có thể dần
trở nên khéo léo trong những mối quan hệ xã hội, khám phá ra mình là một cá thể
duy nhất trong xã hội và dần có thể nhận thức về những người xung quanh.
1.3.2. Kĩ năng giao tiếp
Ngay từ khi trẻ chào đời, thì giao tiếp đã là một kỹ năng quan trọng giúp
trẻ tồn tại và phát triển, trẻ giao tiếp qua ánh mắt, qua các cử động của tay chân và
đặc biệt là qua tiếng khóc... Một người mẹ có sự quan tâm và gần gũi con chắc

chắn sẽ hiểu khi nào trẻ khóc vì đói, khi nào trẻ khóc vì đau, vì sợ và cả vì nhõng
nhẽo nữa. Khi biết nói ở lứa tuổi lên 3, thì trẻ bắt đầu sử dụng ngôn ngữ để giao
tiếp, đồng thời với khả năng bộc lộ cảm xúc thông qua giao tiếp phi ngôn ngữ qua
ánh mắt với những nét mặt và các dấu hiệu của cơ thể, nếu được đáp ứng đầy đủ
sẽ giúp cho trẻ hình thành sự tự tin vào bản thân cũng như xây dựng những mối
tương giao với mọi người xung quanh.
Vì thế kỹ năng giao tiếp được xem là một năng lực cần thiết cho trẻ mở
rộng quan hệ từ trong gia đình cho đến ngồi xã hội. Đây là một kỹ năng phức tạp
bao gồm nhiều yếu tố khác nhau, vì thế ngồi năng lực nội tại của trẻ, phụ huynh


14

cũng cần quan tâm giúp trẻ phát triển về kỹ năng giao tiếp bằng cách kích thích
nhiều giác quan, mà chủ yếu là nghe - nhìn và đụng chạm.
Từ khi lọt lòng trẻ đã được nghe tiếng hát ru của bà của mẹ trong giấc ngủ.
Khi trẻ mầm non được đến trường, ngồi việc được cơ chăm sóc, vui chơi, học
hành, được làm quen, tiếp xúc với bao điều mới lạ. Bên cạnh đó, trẻ cịn được học
phát âm đúng, được cơ giáo quan tâm uốn nắn lời nói qua các hoạt động hằng ngày
của trẻ. Từ đó, trẻ được học kĩ năng giao tiếp với mọi người xung quanh qua phát
triển ngơn ngữ, trí tưởng tượng, hình thành nhân cách, đạo đức, đáp ứng được nhu
cầu tình cảm ham hiểu biết của trẻ, dần dần trẻ biết sử dụng ngơn ngữ chính xác,
biểu cảm rõ ràng những ngơn ngữ, cử chỉ điệu bộ, tất cả những điều đó đều phụ
thuộc nhiều vào cô giáo. Muốn được như vậy, ngay từ tuổi ấu thơ thì trẻ mầm non,
đặc biệt là trẻ 5 - 6 tuổi đng ở những bước phát triển mạnh về nhận thức, tư duy,
ngơn ngữ, tình cảm phải được quan tâm đúng mức và được giáo dục kĩ năng sống.
Trẻ mầm non với đôi mắt trong veo đầy thơ mộng, tâm hồn trẻ thơ như tờ
giấy trắng, nếu khéo vẽ thì sẽ trịn, cịn khơng khéo thì méo mó. Suy nghĩ nhiều về
vấn đề này, chúng tơi nghĩ mình cần phải đầu tư nhiều vào việc giáo dục kĩ năng
giao tiếp cho trẻ, tô điểm vào tâm hồn trẻ những cái hay, cái đẹp, để các cháu trở

thành những bơng hoa thơm ngát, là con ngoan, trị giỏi, có hành vi văn minh
đứng đắn và giao tiếp một cách lịch sự.
1.3.3.Kĩ năng làm việc nhóm
Mỗi trẻ em là một thực thể, có cá tính riêng biệt. Với trình độ nhận thức,
tư duy khác nhau, mỗi trẻ trở nên độc đáo với sở trường thiên phú.
Do vậy, dạy trẻ ở trường Mầm non, người giáo viên không thể cố gắng
đưa các em vào một khuôn mẫu cho sẵn, không hề ép buộc trẻ học theo cách định
dạng nhằm đạt được các kết quả như nhau.
Trẻ em thường yêu thích trị chơi do chúng lựa chọn và tự phân nhóm, tự
đề ra cách chơi. Vì vậy để việc giáo dục mang tính hiệu quả cao, người giáo viên


15

cần xâu chuỗi nội dung chương trình mơn học và tiến hành bài dạy thơng qua giáo
án, trị chơi học tập.
Cần dẫn dắt trẻ vào bài học, khám phá kiến thức khơng chỉ từ giáo viên,
có thể gợi ý, định hướng một vài trẻ trong lớp đặt vấn đề,giới thiệu tình huống để
lơi cuốn các bạn tập trung chú ý và cùng làm việc.
Việc tổ chức học tập sáng tạo cho trẻ có thể ở trong lớp hay ngồi trời,
tùy thuộc vào điều kiện thời tiết và nội dung bài dạy. Một khơng gian thống đãng,
tràn đầy nắng gió, an tồn cho sức khỏe hay phịng lớp có số lượng trẻ vừa phải sẽ
khởi đầu cho tiết học hay. Với tất cả bài học, cơ giáo có thể nhờ trẻ cùng chuẩn bị
nội dung và đồ dùng học tập, giáo viên cần chủ động chuẩn bị nhiều hoạt động
phù hợp và hệ thống câu hỏi đa dạng, thích ứng với từng đối tượng trẻ. Trẻ sẽ thu
nhận vững chắc kiến thức mới nếu được tập trung chú ý, rèn luyện kĩ năng nghe,
nói, đọc, viết dựa trên vốn sống thực tế đã có và hoc bằng thị giác, thính giác, xúc
giác, vận động trí óc và chân tay.
Việc tổ chức nhóm thảo luận cũng là một phần quan trọng của bài học
nhằm giúp trẻ phát huy năng lực trí tuệ tập thể. Khơng khí học tập trở nên hứng

khởi khi phần thảo luận được phân chia đều trong nhóm. Mỗi em phải thể hiện
quan điểm cá nhân độc lập với bài học hoặc suy luận của bạn trong nhóm, bạn
cùng lớp. Trong lúc trao đổi ý kiến, mục tiêu bài học được hình thành, tư duy sáng
tạo được phát triển, khả năng ghi nhớ và ngơn ngữ diễn đạt có điều kiện nâng cao.
Sau tổ chức làm việc nhóm phải cần chú ý đến sản phẩm cá nhân. Đây là
kết quả học tập của từng trẻ. Mỗi em biết tận dụng thế mạnh của mình để giải
quyết các yêu cầu của bài học, bài luyện tập. Dựa trên khả năng tiềm ẩn, trẻ đã học
một cách sáng tạo, khi có thể giải thích, vận dụng một kiến thức mới đã học bằng
tranh vẽ, xếp hình, sơ đồ mạng và có thể tự sáng tác bài vè, bài thơ ngắn chứa
chan tình cảm.
Giáo viên cần nhìn nhận từng khả năng nơi trẻ để có cách đánh giá chính
xác, nhất là những trẻ có khó khăn về tiếp nhận, xử lí thơng tin. Giáo viên hãy gợi
mở giúp trẻ tìm ra con đường học tập cho chính mình, dù mất nhiều thời gian, tốn nhiều
cơng sức đi qua đoạn đường vịng nhưng có cơ hội nảy sinh ý tưởng mới, rút ra cách


16

giải quyết mới lạ, đúng đắn. Chính kết quả làm việc của nhóm hay cá nhân được trưng
bày trong lớp đã minh chứng cho cách học tập đạt hiệu quả và sáng tạo.
Lúc đó, việc học tập đối với các em sẽ trở nên hào hứng, mỗi em đều có
thể tự tin rằng mình cũng thơng minh và cho rằng học cũng như chơi, nhẹ nhàng
mà hiệu quả, có thói quen nghĩ ra nhiều cách mới, linh hoạt và hấp dẫn hơn. Từ
việc yêu thích học tập, trẻ sẽ tập trung chú ý trong khi học. Khả năng chú ý cao là
cánh cửa của tri thức, tiềm năng cần có của một người năng động, thành tài trong
tương lai.
1.4. Giáo dục kĩ năng sống
1.4.1. Khái niệm
Giáo dục là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát
triển tinh thần, thể chất của một đối tượng giáo dục, làm cho họ dần dần có những

phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra. Trong các nhà trường giáo dục là một
quá trình hình thành và phát triển nhân cách người học, được tiến hành có mục
đích có kế hoạch dưới vai trị chủ đạo của người giáo viên và sự tích cực, tự giác chủ
động sáng tạo của trẻ, được thực hiện thông qua hoạt động và giao lưu nhằm giúp
người học biến kinh nghiệm xã hội lịch sử thành kinh nghiệm cá nhân người học.
Giáo dục (theo nghĩa hẹp) là một quá trình dưới tác động sư phạm của
người giáo viên, người học tự giác tích cực, chủ động, tự tổ chức hoạt động, tự
giáo dục nhằm hình thành ý thức, thái độ, niềm tin, hành vi phù hợp với yêu cầu
của xã hội.
Giáo dục kĩ năng sống là giáo dục cách sống tích cực trong xã hội hiện
đại, là xây dựng những hành vi lành mạnh và thay đổi những hành vi, thói quen
tiêu cực trên cơ sở giúp người học có cả kiến thức, giá trị, thái độ và các kĩ năng
thích hợp. Giáo dục kĩ năng sống có những tính chất cơ bản sau:
- Giáo dục kĩ năng sống là một quá trình giáo dục có mục đích, có kế hoạch và
biện pháp cụ thể.
- Nhà giáo dục đóng vai trị là cố vấn, nhà tổ chức và hướng dẫn, khuyến khích và
động viên người học.


17

- Người được giáo dục kĩ năng sống phải chủ động, tích cực và địi hỏi tính tự giác
rất cao.
- Q trình giáo dục kĩ năng sống có tính năng động cao, mục đích cuối cùng là hành
vi lành mạnh và một phần nhỏ về lợi ích kinh tế cho cá nhân và xã hội, q trình này
khơng q coi trọng vấn đề tri thức nhưng lại rất chú trọng kĩ năng cụ thể.
- Giáo dục kĩ năng sống là q trình lâu dài, phức tạp, địi hỏi nhiều lực lượng
tham gia.
1.42. Ý nghĩa của việc giáo dục kĩ năng sống
- Xét từ góc độ xã hội:

Do đặc điểm của xã hội hiện nay nên sự hình thành và phát triển kĩ năng
sống trở thành một yêu cầu quan trọng của nhân cách con người hiện đại. Hội nghị
Giáo dục Thế giới họp tại Senegan tháng 4 - 2000 đã thông qua kế hoạch hành
động giáo dục cho mọi người (kế hoạch hành động Dakar) gồm 6 mục tiêu lớn.
Trong đó 3 mục tiêu đã vạch ra rằng: Đảm bảo nhu cầu học tập của tất cả thế hệ
trẻ và người lớn được đáp ứng thơng qua bình đẳng tiếp cận với các chương trình
học tập và chương trình kĩ năng sống thích hợp.
Thơng qua việc giáo dục kĩ năng sống mỗi người có thể phát triển các kĩ
năng phân tích, tu duy phê phán, ra quyết định (học để biết); tự trọng, thiện chí,
sáng tạo (học để khẳng định mình); giao tiếp, sống với người khác, giải quyết
xung đột hợp tác và cam kết xã hội (học để chung sống với mọi người); giải quyết
ổn thỏa đối với mọi việc khác nhau (học để làm). Như vậy giáo dục kĩ năng sống
là việc làm vô cùng cần thiết.
- Xét từ góc độ giáo dục:
+ Kĩ năng sống của người học là một biểu hiện của chất lượng giáo dục.
Do đó trong mục tiêu 6 của kế hoạch hành động Dakar về giáo dục cho mọi người
kĩ năng sống được coi là một khía cạnh của chất lượng giáo dục, đánh giá chất
lượng giáo dục cần tính đến những tiêu chí đánh giá kĩ năng sống của người học.
Như vậy tiến hành giáo dục kĩ năng sống để nâng cao chất lượng giáo dục.
+ Giáo dục kĩ năng sống là thực hiện quan điểm hướng vào người học, một
mặt đáp ứng nhu cầu của người học tạo ra năng lực để đáp ứng thách thức của cuộc


18

sống và nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân. Mặt khác thực hiện giáo
dục kĩ năng sống thông qua những phương pháp hướng đến người học và phương
pháp dạy học tương tác, cùng tham gia, đề cao vai trò chủ động, tự giác của người
học và vai trị chủ đạo của người dạy sẽ có những tác động tích cực đối với mối
quan hệ người dạy và người học, người học với người học. Đồng thời, người học

cảm thấy họ được tham gia vào giải quyết các vấn đề có liên quan đến cuộc sống
của bản thân, họ sẽ thích thú và học tập tích cực hơn.
Như vậy giáo dục kĩ năng sống cho người học đồng thời thể hiện tính
khoa học và tính nhân văn của giáo dục.
- Xét từ góc độ văn hóa, chính trị:
+ Giáo dục kĩ năng sống giải quyết một cách tích cực nhu cầu và quyền
con người, quyền công dân được ghi trong pháp luật Việt Nam và quốc tế.
+ Giáo dục kĩ năng sống giúp con người sống an toàn, lành mạnh và có
chất lượng trong một xã hội hiện đại với văn hóa đa dạng, với nền kinh tế phát
triển và thế giới được coi là mái nhà chung.
- Giáo dục kĩ năng sống thúc đẩy sự phát triển bền vững.
+ Giáo dục kĩ năng sống giúp người học hiểu được những tác động mà
hành vi và thái độ của mình có thể gây ra, do đó họ biết ứng dụng những nguyên
tắc phát triển bền vững và cuộc sống của mình. Người có kĩ năng sống là người có
thái độ và hành vi tích cực đối với mơi trường tự nhiên, môi trường xã hội, đối với
các vấn đề của cuộc sống.
+ Việc hình thành những kĩ năng sống cốt lõi như: kĩ năng đặt mục tiêu,
kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng ra quyết định… sẽ giúp cho mỗi cá nhân có thể
định hướng tới cuộc sống lành mạnh phù hợp với các giá trị sống của xã hội, để có
những hành vi tích cực trong giải quyết các vấn đề của cuộc sống giúp thúc đẩy
phát triển bền vững của cá nhân và của tập thể. Bên cạnh những kĩ năng sống cốt
lõi trên, những kĩ năng sống chung như tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, thiện
chí… cịn được áp dụng vào giải quyết các nội dung cụ thể để tạo ra sự phát triển
bền vững.
1.5. Đặc điểm tâm lí của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi


19

Mọi tác động giáo dục lên hoạt động nhận thức của trẻ chỉ có hiệu quả khi

nhà giáo dục nắm vững những đặc điểm tâm lí nói chung và khả năng nhận thức
nói riêng của trẻ theo từng lứa tuổi. Các biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho trẻ
mẫu giáo 5-6 tuổi cũng vậy, chỉ đạt hiệu quả khi nhà giáo dục nắm được đặc điểm
tâm lí và khả năng nhận thức của trẻ ở độ tuổi này.
1.5.1. Cảm giác - Tri giác
Ở lứa tuổi mẫu giáo lớn 5-6 tuổi cùng với sự hồn thiện của các giác quan
thì hoạt động nhận cảm của trẻ tiếp tục được hoàn thiện, độ nhạy cảm của các giác
quan được nâng cao, việc phân tích các thuộc tính của sự vật, hiện tượng xung
quanh hiệu quả hơn trước. Hệ thống tín hiệu thứ hai tham gia tích cực hơn vào q
trình phân tích làm cho cảm giác trở nên chính xác, cụ thể hơn và đồng thời làm cho
cảm giác có tính “tự giác”. Cùng với cảm giác, tri giác của trẻ cũng phát triển mạnh.
Chính độ nhạy cảm cao của các giác quan, cũng như sự phối hợp hoạt động hài hòa,
linh hoạt, mềm dẻo của chúng giúp cho các quá trình nhận thức của trẻ diễn ra
nhanh chóng và hiệu quả. Trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi rất ham học hỏi, tìm tịi thích quan
sát và tìm hiểu thế giới xung quanh và đặc biệt hứng thú với việc khám phá những
điều mới lạ. Khi phạm vi tiếp xúc với thế giới xung quanh ngày càng được mở rộng
thì vốn hiểu biết của trẻ ngày càng được phong phú và sâu sắc hơn dẫn tới nhu cầu
nhận thức ngày càng cao hơn. Trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi không thỏa mãn với những
hiểu biết về bên ngoài với những sự vật hiện tượng ở xung quanh mà chúng muốn
khám phá, muốn tìm kiếm những dấu hiệu, bản chất bên trong và mối liên hệ của
các sự vật hiện tượng. Nên nhờ đó, một số kĩ năng của trẻ được phát triển.
1.5.2. Chú ý
Ở lứa tuổi mẫu giáo, chú ý không chủ định vẫn giữ ưu thế vì đặc điểm
này cịn kéo dài tới tuổi mẫu giáo lớn. Trẻ thường chú ý đến những đối tượng khi
đối tượng đó gây ra một kích thích mạnh hoặc một sự ngạc nhiên, nhất là tạo cho
trẻ một sự hứng thú.
Tuy nhiên, đến giữa tuổi mẫu giáo, cùng với sự phát triển của tính chủ
định và ý thức thì khả năng chú ý của trẻ đã có sự thay đổi cơ bản, trẻ bắt đầu điều



20

khiển chú ý của mình vào những đối tượng nhất định, tức là chú ý có chủ đích
hình thành và phát triển mạnh.
Theo A.V.Daparojet: “Khả năng chú ý đó của trẻ 5-6 tuổi có thể kéo dài
từ 35- 50 phút nếu đối tượng đó hấp dẫn, có nhiều thay đổi, kích thích được sự tị
mị, ham hiểu biết của trẻ”.
Chú ý có chủ đích được phát triển trong q trình giáo dục. Nó được hình
thành và phát triển mạnh với những loại kích thích mới, một trong số đó là kích
thích bởi ngơn ngữ nói tác động từ bên ngồi.
Trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi đặc biệt nhạy cảm với ngôn ngữ nói. Trẻ hướng sự
chú ý của mình tới những đặc điểm của lời nói như giọng điệu, ngơn ngữ, cách
phát âm... Giọng điệu có ý nghĩa kích thích sự chú ý độ chính xác, tỉ mỉ. Trẻ nhận
ra được thái độ, tình cảm (thiện cảm, thân thương, trìu mến hay sự thờ ơ, lạnh
lùng, bực bội,..) của người lớn, bạn bè xung quanh.
Một biểu hiện phát triển mới nữa là trẻ có thể phân phối sự chú ý của
mình tới nhiều đối tượng cùng lúc (từ 2-5 đối tượng). Tuy nhiên, khả năng phân
phối sự chú ý này chưa bền vững, dễ dao động, đặc biệt là trong những hoạt động
quan sát tranh ảnh, mơ hình. Chú ý là một đặc điểm tâm lí vơ cùng quan trọng đối
với hoạt động trí tuệ của trẻ: “Khơng chú ý vào một việc gì có chủ định hoặc
khơng điều khiển được chú ý thì kết quả nhận thức sẽ hết sức hạn chế. Vì vậy, khi
tổ chức hoạt động trí tuệ cho trẻ, trước hết cần giáo dục năng lực điều khiển chú ý,
năng lực chú ý có chủ định bền vững ”.
Cuối tuổi mẫu giáo, việc rèn luyện chú ý có chủ định giúp trẻ chú ý vào
những vấn đề trẻ không thực sự hứng thú sẽ rất cần thiết cho sự tiếp thu kiến thức
của trẻ. Nếu không chú ý có chủ định, trẻ sẽ khơng đặt cho mình nhiệm vụ chú ý
cụ thể, sự nhận thức sẽ phân tán, trẻ không thể tiếp thu kiến thức một cách có hệ
thống, đầy đủ. Trong hoạt động học tập, để giải quyết các nhiệm vụ nhận thức, chú
ý có chủ đích giúp trẻ nhanh vấn đề, từ đó kích thích hứng thú nhận thức của trẻ
nhanh phát triển.

1.5.3. Trí nhớ


21

Trí nhớ của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi phát triển mạnh xong chủ yếu vẫn là trí
nhớ khơng chủ định. Trẻ thường ghi nhớ chủ yếu những gì gây hứng thú hoặc gây
ấn tượng mạnh cho trẻ. Do đó, những sự vật hiện tượng nào gây chú ý cho trẻ
nhiều hơn, trẻ tập trung chú ý, quan sát, lắng nghe giải thích thì trẻ sẽ ghi nhớ cái
đó kĩ hơn.
Bên cạnh đó, trí nhớ của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi vẫn đặc trưng bởi các
điểm trí nhớ trực quan - hành động. Để trẻ ghi nhớ tốt hơn, giáo viên càn phải sử
dụng nhiều loại đồ dùng trực quan, cho trẻ hành động với đồ vật, tổ chức quá trình
ghi nhớ cho trẻ khoa học hơn. Những cơng trình nghiên cứu của các nhà Tâm lígiáo dục học cho thấy rằng, nếu nội dung phù hợp với yêu cầu và hứng thú của trẻ,
sử dụng đồ chơi, đồ dùng dạy học đẹp mắt, đúng chỗ, đúng lúc, kết hợp với lời nói
có diễn cảm, tổ chức cho trẻ được tiếp xúc trực tiếp với đồ chơi, đồ vật, với các sự
vật hiện tượng thì sẽ tạo cho trẻ cảm giác mạnh mẽ, ấn tượng sâu sắc, làm cho trẻ
nhớ lâu hơn, đầy đủ và chi tiết hơn.
Ngồi ra, cuối tuổi mẫu giáo bắt đầu hình thành trí nhớ lơgic. Trẻ ghi nhớ
cái gì đó có ý nghĩa tốt hơn những cái khơng có ý nghĩa và vì thế trẻ mẫu giáo lớn
khơng phải chỉ có ghi nhớ máy móc mà cịn có khả năng ghi nhớ có ý nghĩa. Đến
giai đoạn này thì trí nhớ có chủ định được phát triển trên nền tảng vững chắc hơn.
Từ chỗ trẻ chưa biết đặt một nhiệm vụ ghi nhớ nào cả, dần chuyển sang ghi nhớ có
chủ định.
1.5.4. Tư duy
Cùng với sự mở rộng phạm vi hiểu biết của mình, trong hoạt động của trẻ
mẫu giáo lớn có sự thay đổi, tư duy trực quan hình tượng của trẻ phát triển mạnh
và chiếm ưu thế. Đây là loại tư duy, trong đó nhiệm vụ nhận thức được thực hiện
bằng các thao tác tư duy và các hình ảnh, biểu tượng ở trong đầu. Nhờ kiểu tư duy
này, trẻ có thể lĩnh hội được những khái niệm đơn giản, những thao tác lơgic đơn

giản bằng hình ảnh. Nhưng trong thực tế, những thuộc tính bản chất của sự vật,
hiện tượng mà trẻ cần tìm hiểu lại bị che dấu khơng thể hình dung được bằng hình
ảnh. Loại tư duy này không đáp ứng được nhu cầu nhận thức đang phát triển mạnh
mẽ ở trẻ. Cho nên, ở cuối tuổi mẫu giáo lớn xuất hiện kiểu tư duy trực quan sơ đồ.


22

Đây chính là một dạng của tư duy trực quan - hình tượng nhưng ở mức độ cao
hơn. Ở đây, hình tượng khơng cịn là hình ảnh thực của sự vật mà đã được giảm
bớt những chi tiết mang tính cụ thể (trìu tượng hóa), chỉ giữ lại những nét chủ yếu
mang tính khái quát. Kiểu tư duy này giúp trẻ phản ánh mối liên hệ giữa hình ảnh
sự vật và sự tồn tại khách quan của sự vật trong không gian, tạo cho trẻ khả năng
phản ánh mối liên hệ tồn tại khách quan, không bị phụ thuộc vào hành động hay ý
muốn chủ quan của trẻ. Chính sự phản ánh mối liên hệ khách quan này là điều
kiện cần thiết để trẻ lĩnh hội tri thức vượt ra ngồi khn khổ của việc tìm hiểu
từng sự vật riêng lẻ để đạt tới tri thức khái quát. Trẻ 5 - 6 tuổi có khả năng hiểu
một cách dễ dàng và nhanh chóng khi nhìn sơ đồ, biết cách biểu diễn sơ đồ và sử
dụng có kết quả những sơ đồ đó tìm hiểu sự vật. Tư duy trực quan sơ đồ giúp trẻ
lĩnh hội những tri thức mang tính khái quát và đây chính là một bước phát triển
đáng kể trong tư duy của trẻ 5 - 6 tuổi. Đặc biệt, ở cuối tuổi mẫu giáo lớn đã có
mầm mống của tư duy lơgic, do đó trẻ có thể lĩnh hội được những khái niệm khoa
học đơn giản (tiền khoa học).
Lứa tuổi mẫu giáo lớn, việc sử dụng ngôn ngữ tình huống của trẻ dần mất
đi nhờ vốn từ phong phú và khả năng diễn đạt của trẻ ngày càng cải thiện, trẻ tích
cực sử dụng ngơn ngữ - ngữ cảnh. Kiểu ngơn ngữ này địi hỏi trẻ phải nói sao cho
người khác hình dung ra được những điều chúng muốn nói, muốn mơ tả mà khơng
phụ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể trước mắt. Trẻ 5 - 6 tuổi có nhu cầu hiểu biết nên
thường hay đặt câu hỏi “Vì sao ?” và mong muốn người lớn giải thích. Mặt khác,
trẻ cũng có nhu cầu giải thích cho người lớn và các bạn cùng tìm hiểu được những

ý nghĩ của mình. Bên cạnh đó, khả năng giải thích bằng ngôn ngữ cũng đang được
phát triển trong độ tuổi mẫu giáo lớn. Kiểu ngơn ngữ này địi hỏi trẻ phải trình bày
ý kiến của mình theo một trình tự nhất định, phải nêu bật những điều chủ yếu và
những mối quan hệ liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng một cách hợp lí để người
nghe có thể hiểu và chấp nhận. Như vậy, có thể nói rằng ngơn ngữ mạch lạc cảu
trẻ mẫu giáo lớn thể hiện trình độ phát triển tương đối cao không những về
phương diện ngôn ngữ mà cả về phương diện tư duy. Muốn cho ngơn ngữ được
mạch lạc thì những điều trẻ định nói cần phải được rõ ràng ngay từ trong đầu, tức


23

là cần có tư duy hỗ trợ. Mặt khác, chính ngôn ngữ mạch lạc lại là phương tiện làm
cho tư duy của trẻ phát triển lên một chất lượng mới, đó là việc nảy sinh các yếu tố
của tư duy loogic và nhờ đó sẽ thúc đẩy tồn bộ sự phát triển của trẻ 5 - 6 tuổi lên
một trình độ mới cao hơn.
Bước sang tuổi mẫu giáo lớn, tự ý thức được xác định rõ ràng cho phép
trẻ thực hiện các hành động một cách chủ động hơn, nhờ đó trẻ mẫu giáo lớn trở
thành những chủ thể có những năng lực, có những sáng kiến, có khả năng tư duy
và giao tiếp với mọi người theo một cách riêng.
1.5.5. Đời sống tình cảm
Tình cảm là những thái độ thể hiện sự dung cảm của con người đối với sự
vật hiện tượng liên quan tới nhu cầu, động cơ của họ. Tình cảm là một mặt rất
quan trọng trong đời sống tâm lý nói chung và nhân cách nói riêng. Đối với trẻ
mầm non tình cảm có vị trí đặc biệt vì nó là khâu trọng yếu gắn liền nhận thức với
hành động của trẻ em.
Trẻ mầm non là lứa tuổi dễ xúc động và khó kiềm chế xúc cảm của mình,
chưa biết kiểm tra những biểu hiện bên ngồi của tình cảm.
Những xúc cảm của lứa tuổi này thường gắn liền với những tình huống cụ
thể, trực tiếp mà ở đó trẻ hoạt động hoặc gắn với những đặc điểm trực quan. Tình

cảm ở lứa tuổi này cịn mỏng manh chưa bền vững, chưa sâu sắc.
1.5.6. Ý trí
Ở lứa tuổi mầm non, ý chí đang được hình thành và phát triển. Trẻ mầm
non chưa có đủ khả năng tự đặt ra mục đích xa và phức tạp cho hành động của
mình. Do ý chí chưa phát triển đầy đủ nên trẻ chưa biết theo đuổi lâu dài theo mục
đích đã đặt ra, chưa kiên trì khắc phục khó khăn. Các phẩm chất ý chí như tính tự
lập, kiềm chế, tự chủ cịn thấp nên trẻ thường trơng chờ vào người lớn khi thực
hiện hành động.
Vì vậy trong quá trình giáo dục và dạy học giáo viên cần tổ chức các hoạt
động giáo dục để rèn luyện ý chí cho trẻ. Người giáo viên phải là tấm gương sáng
về ý chí, lời nói phải đi đơi với việc làm. Giáo viên cần quan tâm, phát triển năng
lực ý chí, tinh thần vượt khó và kiên trì đến cùng mục đích đã đề ra.


24

1.5.7. Tính cách
Tính cách của trẻ thường được hình thành rất sớm. Bằng quan sát chúng
ta có thể thấy có trẻ thì sơi nổi có trẻ thì nhút nhát, những tính cách này có thể thay
đổi dưới tác động giáo dục của gia đình và nhà trường.
Ở lứa tuổi mầm non hành vi của trẻ dễ mang tính tự phát, tính cách của
trẻ thường bướng bỉnh, thất thường. Bên cạnh đó trẻ có nhiều nét tính cách tốt như
lịng vị tha, tính chân thật, lịng thương người.
Tính cách của trẻ mầm non dễ nhận ra là tính rung động trong hành vi.
Từ những đặc điểm trên ta có thể thấy ở lứa tuổi mầm non thì quá trình
nhận thức và nhân cách đang dần được hình thành và phát triển. Muốn trẻ phát
triển tồn diện thì phải thơng qua q trình học tập và rèn luyện. Việc tổ chức giáo
dục kĩ năng sống cho trẻ cũng góp phần khơng nhỏ trong sự hình thành và phát
triển nhân cách của các em.



25

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Từ những lí luận trên chúng tơi rút ra một số kết luận sau:
Kĩ năng sống và vấn đề giáo dục kĩ năng sống cho con người đã xuất hiện
và nhiều người quan tâm nghiên cứu từ xa xưa ở cả hai hướng khái quát và cụ thể.
Kĩ năng sống được phân loại ở rất nhiều góc độ: Góc độ xã hội, góc độ giáo dục giá
trị, góc độ giáo dục hành vi xã hội và theo những quan điểm khác nhau.
Giáo dục kĩ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi là một nội dung quan
trọng trong cơng tác chăm sóc và giáo dục trẻ ở trường mầm non. Tuy nhiên vấn
đề giáo dục kĩ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi ngày càng được quan tâm
nhưng hiệu quả thì chưa đạt được như mong muốn. Nguyên nhân do chưa có biện
pháp thích hợp mà chủ yếu và mang tính truyền thống, thêm vào đó là cơ sở vật
chất cịn thiếu, lớp đơng trẻ,… Những tồn tại đó góp phần làm hạn chế công tác
giáo dục kĩ năng sống cho trẻ.


×