Tải bản đầy đủ (.pdf) (50 trang)

Vận dụng tư tưởng hồ chí minh về tri thức vào xây dựng đội ngũ tri thức ngành y tế hiện nay p1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (791.92 KB, 50 trang )

Bản quyền tài liệu thuộc về Thư viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.

BỘ Y TẾ
ĐẠI HỌC Y DƢỢC TP. HỒ CHÍ MINH

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP TRƢỜNG
TÊN ĐỀ TÀI:
VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TRÍ THỨC VÀO
XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC NGÀNH Y TẾ HIỆN NAY

Tp. Hồ Chí Minh tháng 03 / 2018.
1
Tuân thủ Luật sở hữu trí tuệ và Quy định truy cập tài liệu điện tử. Ghi rõ nguồn tài liệu khi trích dẫn.


Bản quyền tài liệu thuộc về Thư viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.

II. DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA NGHIÊN CỨU
1. Thành viên tham gia nghiên cứu: Bùi Ngọc Hiển
2. Đơn vị phối hợp:

2
Tuân thủ Luật sở hữu trí tuệ và Quy định truy cập tài liệu điện tử. Ghi rõ nguồn tài liệu khi trích dẫn.


Bản quyền tài liệu thuộc về Thư viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.

II. MỤC LỤC
I. TRANG BÌA


tr. 01

II. DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA NGHIÊN CỨU

tr. 02

III. MỤC LỤC

tr. 03

IV. LỜI MỞ ĐẦU
tr. 05
V. NỘI DUNG
tr. 10
Chương I
tr. 10
KHÁI QUÁT VỀ TRÍ THỨC VIỆT NAM TỪ CUỘC VẬN ĐỘNG THÀNH LẬP
ĐẢNG CỘNG SẢN ĐẾN NAY
tr. 10
1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam từ khi thực dân Pháp xâm lược đến khi Đảng cộng sản Việt
Nam ra đời
tr. 10
2. Trí thức Việt Nam đồng hành với dân tộc và tiến bộ thời đại
tr. 14
3. Trí thức Việt Nam giác ngộ, truyền bá Chủ nghĩa Mác – Lênin, nhân tố quan trọng sự
ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
tr. 28
Chương II.
tr. 48
HỒ CHÍ MINH VỚI ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC NGÀNH Y TẾ VIỆT NAM

I. Hồ Chí Minh với đội ngũ trí thức ngành y tế Việt Nam
tr. 48
1. Hồ Chí Minh là một trí thức lớn, có sức thu hút lớn đối với trí thức
tr. 48
2. Hồ Chí Minh với ngành Y tế Việt Nam
tr.63
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức với việc nâng cao y đức Việt Nam hiện nay tr.67
II. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức vào xây dựng đội ngũ trí thức ngành Y tế
hiện nay.
tr.72
1. Xây dựng nền y học khoa học, dân tộc và đại chúng; Xây dựng nền y tế của nhân dân,
vì nhân dân.
tr.72
2. Rèn luyện, tu dưỡng đạo đức của người thầy thuốc Việt Nam.
tr.76
3. Xây dựng đội ngũ trí thức ngành Y tế tại Đại học Y dược Tp. Hồ Chí Minh theo tư
tưởng Hồ Chí Minh
tr.81
VI. KẾT LUẬN
tr.83
VII. TÀI LIỆU THAM KHẢO
tr.87

3
Tuân thủ Luật sở hữu trí tuệ và Quy định truy cập tài liệu điện tử. Ghi rõ nguồn tài liệu khi trích dẫn.


Bản quyền tài liệu thuộc về Thư viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.

III. THƠNG TIN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ

CÔNG NGHỆ CẤP TRƢỜNG
1. Thông tin chung:
- Tên đề tài: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức vào xây dựng đội ngũ trí thức
ngành Y tế hiện nay.
- Mã số:
- Chủ nhiệm đề tài: Th.S Bùi Ngọc Hiển

ĐT: 0918639941; Email:


- Đơn vị: Bộ môn KHXH&NV, Khoa Khoa học Cơ Bản, Đại học Y dược Tp. HCM
2. Mục tiêu:
- Mục tiêu chung: Làm sáng tỏ về q trình hình thành, vai trị đội ngữ trí thức Việt Nam
dưới tác động của Chủ nghĩa Mác – Lê nin và Tư tưởng – nhân cách Hồ Chí Minh đối
với lịch sử dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức và trí thức ngành Y tế Việt Nam;
Trình bày giải pháp để xây dựng trí thức ngành Y tế Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí
Minh.
- Mục tiêu cụ thể: Đề tài nghiên cứu:
+ Lý luận về trí thức (khái niệm đội ngũ trí thức; cơ sở lý luận – thực tiễn của q trình
hình thành và vai trị của trí thức Việt Nam; ..); Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị của trí
thức, trí thức ngành y tế đối với việc xây dựng phát triển ngành Y tế Việt Nam;
+ Thực tiễn vai trị trí thức ngành Y tế đối với sự nghiệp chăm sóc sức khỏe nhân dân;
+ Trình bày một số giải pháp nhằm phát triển đội ngũ trí thức ngành y tế ở nước ta hiện
nay.
3. Nội dung chính:
Đề tài “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức vào xây dựng đội ngũ trí thức
ngành Y tế hiện nay” tìm hiểu ba nội dung sau:
Một là, trình bày khái lược quá trình hình thành đội ngũ trí thức Việt Nam từ cuối triều
đại phong kiến Việt Nam độc lập đến thời kỳ Pháp xâm lược Việt Nam. Phân tích ngun
nhân hình thành, thay đổi và phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam trong giai đoạn này.


4
Tuân thủ Luật sở hữu trí tuệ và Quy định truy cập tài liệu điện tử. Ghi rõ nguồn tài liệu khi trích dẫn.


Bản quyền tài liệu thuộc về Thư viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.

Hai là: trình bày tư tuởng Hồ Chí Minh đội ngũ trí thức Việt Nam đặc biệt là tư tuởng Hồ
Chí Minh về trí thức ngành y tế Việt Nam. Khái quát lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh
về trí thức và trí thức ngành y tế Việt Nam.
Ba là, nêu một số giải pháp nhằm xây dựng hoàn thiện phát triển đội ngũ trí thức ngành y
tế Việt Nam nói chung và đội ngũ trí thức ngành y tế tại Đại học Y dược Tp. Hồ Chí
Minh nói riêng.
4. Kết quả đạt đƣợc:
Về lượng: Đề tài hoàn thành toàn văn với dung lượng là file giấy A4, 80
trang, bản toàn văn;
Khái quát đề tài đăng tạp chí Nghiên cứu khoa học cấp trường, với tiêu đề
“Tư tuởng Hồ Chí Minh về trí thức và trí thức ngành y tế” với 8 trang khổ A4;
Về chất: Đề tài góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận, thực tiễn trong
tư tuởng Hồ Chí Minh về vai trị của trí thức Việt Nam; xây dựng đội ngũ trí thức
ngành Y tế “vừa hồng vừa chun” theo tư tưởng Hồ Chí Minh và trình bày một
số giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ trí thức ngành Y tế Việt Nam hiện nay.
4. Hiệu quả kinh tế - xã hội do đề tài mang lại:
Nghiên cứu nhằm nâng cao phương pháp - kỹ năng nghiên cứu khoa học;
nâng cao nhận thức của giảng viên về trí thức, về trí thức ngành Y tế theo tư tưởng
Hồ Chí Minh, có giá trị đối với giảng viên khi giảng dạy các chuyên đề liên quan
đến môn Tư tưởng Hồ Chí Minh. Đề tài là cơ sở khoa học cho việc tìm hiểu, học
tập tư tuởng Hồ Chí Minh, chứng minh tính khoa học, cách mạng đối với tư tuởng
của Hồ Chí Minh. Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,
giảng dạy các chuyên đề về tư tưởng Hồ Chí Minh; ở mức độ nào đó có thể dùng

làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan chức năng trong chiến lược xây dựng đội
ngữ trí thức nói chung, đặc biệt trí thức ngành Y tế. Cung cấp cơ sở lý luận cho
quá trình việc đào tạo, thu hút và sử dụng trí thức Việt Nam. Đối với sinh viên và
độc giả quan tâm thì nó là tài liệu quan trọng khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí
Minh về trí thức và là những gợi mở về rèn luyện, tu dưỡng y đức.

5
Tuân thủ Luật sở hữu trí tuệ và Quy định truy cập tài liệu điện tử. Ghi rõ nguồn tài liệu khi trích dẫn.


Bản quyền tài liệu thuộc về Thư viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.

IV. MỞ ĐẦU
1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Tổng quan tài liệu trong và ngoài nước, lý do tiến hành đề tài:
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển
năm 2011) và Điều lệ ĐCSVN do Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI thơng qua, tiếp
tục khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được rất nhiều
nhà nghiên cứu trong và ngoài nước tiến hành nghiên cứu. Chỉ thị 03-CT/TW của BCH
TW Đảng chỉ thị: tiếp tục Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Do đó,
việc nghiên cứu – tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa lớn đối với chúng ta. Liên
quan đến đề tài này có các bài viết và cơng trình như:
- Hồ Chủ tịch – kết tinh của các giá trị truyền thống và đạo đức cách mạng Việt Nam GS. Trần Văn Giàu;
- Rèn luyện nhân cách cán bộ theo Tư tưởng Hồ Chí Minh - Ths Chu Minh Thiện Nguyễn Duy Tùng;
- Vận dụng tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong xây dựng, chỉnh đốn
Đảng hiện nay - GS.TS Hồng Chí Bảo;
- Xây dựng nền y tế và đội ngũ cán bộ y tế của nhân dân, vì nhân dân theo tư tưởng Hồ
Chí Minh - Phạm Thị Thắm;
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức – TS. Nguyễn Văn Thống …

Trí thức Việt Nam và Tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức là một lĩnh vực phong
phú và rất hấp dẫn với người tìm hiểu. Trong giai đoạn hiện nay tìm hiểu tư tưởng Hồ
Chí Minh về trí thức và trí thức ngành y tế có ý nghĩa chính trị và thực tiễn to lớn nhằm
vận dụng vào việc tập hợp và sử dụng trí thức để xây dựng phát triển đất nước. Tuy
nhiên, Hồ Chí Minh với trí thức ngành y tế là một lĩnh vực hẹp và cũng ít người nghiên
cứu.
Với ý nghĩa đó, tơi chọn đề tài: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức vào
xây dựng đội ngũ trí thức ngành Y tế hiện nay làm đối tượng nghiên cứu.
6
Tuân thủ Luật sở hữu trí tuệ và Quy định truy cập tài liệu điện tử. Ghi rõ nguồn tài liệu khi trích dẫn.


Bản quyền tài liệu thuộc về Thư viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.

2. MỤC TIÊU
- Mục tiêu chung: Làm sáng tỏ về quá trình hình thành, vai trị đội ngữ trí thức Việt Nam
dưới tác động của Chủ nghĩa Mác – Lê nin và Tư tưởng – nhân cách Hồ Chí Minh đối
với lịch sử dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức và trí thức ngành Y tế Việt Nam;
Trình bày giải pháp để xây dựng trí thức ngành Y tế Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí
Minh.
- Mục tiêu cụ thể: Đề tài nghiên cứu:
+ Lý luận về trí thức (khái niệm đội ngũ trí thức; cơ sở lý luận – thực tiễn của q trình
hình thành và vai trị của trí thức Việt Nam; ..); Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị của trí
thức, trí thức ngành y tế đối với việc xây dựng phát triển ngành Y tế Việt Nam;
+ Thực tiễn vai trị trí thức ngành Y tế đối với sự nghiệp chăm sóc sức khỏe nhân dân;
+ Trình bày một số giải pháp nhằm phát triển đội ngũ trí thức ngành y tế ở nước ta hiện
nay.
3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
a. Đối tƣợng nghiên cứu:
- Nghiên cứu khái quát chuyển biến tư tưởng trí thức Việt Nam từ khi có ảnh hưởng của

Chủ tịch Hồ Chí Minh;
- Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo, thu hút và trọng dụng trí thức Việt Nam
và yêu cầu của Người đối với trí thức ngành Y tế;
- Nghiên cứu một số giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ trí thức ngành Y tế Việt Nam.
b. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác – Lê nin: thế giới quan duy
vật biện chứng và phương pháp luận biện chứng duy vật; dựa trên quan điểm duy vật lịch
sử. Đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như: phân tích – tổng hợp; lịch
sử - logic; so sánh đối chiếu; kết hợp lý luận với thực tiễn; các phương pháp xã hội học
như nghiên cứu thống kê, phỏng vấn, điều tra xã hội học …

7
Tuân thủ Luật sở hữu trí tuệ và Quy định truy cập tài liệu điện tử. Ghi rõ nguồn tài liệu khi trích dẫn.


Bản quyền tài liệu thuộc về Thư viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.

4. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Một là, trình bày khái lược quá trình hình thành đội ngũ trí thức Việt Nam từ cuối triều
đại phong kiến Việt Nam độc lập đến thời kỳ Pháp xâm lược Việt Nam. Phân tích ngun
nhân hình thành, thay đổi và phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam trong giai đoạn này.
Hai là: trình bày tư tuởng Hồ Chí Minh đội ngũ trí thức Việt Nam đặc biệt là tư tuởng Hồ
Chí Minh về trí thức ngành y tế Việt Nam. Khái quát lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh
về trí thức và trí thức ngành y tế Việt Nam.
Ba là, nêu một số giải pháp nhằm xây dựng hồn thiện phát triển đội ngũ trí thức ngành y
tế Việt Nam nói chung và đội ngũ trí thức ngành y tế tại Đại học Y dược Tp. Hồ Chí
Minh nói riêng.
Đề tài góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về vai trị của trí thức Việt
Nam, về xây dựng đội ngũ trí thức ngành Y tế “vừa hồng vừa chuyên” theo tư tưởng Hồ
Chí Minh và trình bày một số giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ trí thức ngành Y tế Việt

Nam hiện nay.

8
Tuân thủ Luật sở hữu trí tuệ và Quy định truy cập tài liệu điện tử. Ghi rõ nguồn tài liệu khi trích dẫn.


Bản quyền tài liệu thuộc về Thư viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.

V. NỘI DUNG
Chƣơng I
KHÁI QUÁT VỀ TRÍ THỨC VIỆT NAM TỪ CUỘC VẬN ĐỘNG THÀNH LẬP
ĐẢNG CỘNG SẢN ĐẾN NAY
1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam từ khi thực dân Pháp xâm lƣợc đến khi Đảng cộng sản
Việt Nam ra đời
Lịch sử Việt Nam là một quá trình đầy biến động từ lãnh thổ đến thể chế,
văn hóa, … vào thế kỷ 16, 17 là giai đoạn đầy xáo trộn. Quyền hành thực sự rơi
vào tay hai nhà chúa: Trịnh ở đàng Ngoài, Nguyễn ở đàng Trong, cịn hồng tộc
nhà Hậu Lê vẫn được thừa nhận là chính thống nhưng chỉ để làm danh dự và bị
anh em nhà Nguyễn Huệ lật đổ vào thế kỷ XVIII. Cuộc nổi dậy và thắng trận trong
một thời gian của anh em nhà Tây Sơn (1776 – 1801), nhưng chính Gia Long
(1762 – 1820), Hồng đế đầu tiên của triều Nguyễn (1802 – 1820) đã thống nhất
sơn hà cả về lãnh thổ lẫn chính trị suốt từ Bắc – Nam. Từ thế kỷ XVI, người châu
Âu như Hà Lan, Anh, Pháp, Đức, … bắt đầu giao thiệp với Việt Nam và có ảnh
hưởng nặng nề đến lịch sử Việt Nam. Từ đây, lịch sử Việt Nam đã bị lơi cuốn vào
dịng lịch sử rộng lớn của thế giới. Q trình thực dân Pháp thơn tính Việt Nam là
q trình đầy những biến cố lịch sử, sự thất bại của dân tộc Việt Nam trước sức
mạnh chủ nghĩa thực dân phản ánh sự tụt hậu của người Việt Nam về tri thức
nhiều hơn là về tinh thần yêu nước (Việt Nam khơng mất nước vì thiếu lịng u
nước, mà vì sự tụt hậu về tri thức làm chúng ta thất bại trước thực dân – đây cũng
là dòng chủ lưu của chủ nghĩa thực dân đối với thuộc địa trong thế kỷ XIX, XX.

Các nước tụt hậu về tri thức, khoa học và công nghệ đều rơi vào ách thuộc địa
dưới chiêu bài khai hóa), lịng tự tơn dân tộc; phản ánh sự lạc hậu của văn minh
phương Đông trước sức mạnh vật chất – kỹ thuật, tư duy duy lý của văn minh
phương Tây. Quá trình thực dân Pháp thơn tính Việt Nam đương nhiên có những
đồng thuận (về hình thức) trao đổi về lợi ích trước sức ép của những thỏa thuận
không công bằng giữa nhà Nguyễn và thực dân Pháp, đồng thời có những phản
9
Tuân thủ Luật sở hữu trí tuệ và Quy định truy cập tài liệu điện tử. Ghi rõ nguồn tài liệu khi trích dẫn.


Bản quyền tài liệu thuộc về Thư viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.

kháng bất lực của những văn thân yêu nước, nhân dân. Tìm hiểu những sự kiện lịch sử từ
Gia Long – Minh Mạng – Thiệu trị - Tự Đức và đặc biệt những biến cố lịch sử thời Tự
Đức chứng minh rõ quá trình thực dân hóa trên. Nguyễn Ánh lên ngơi vào năm 1802. Có
ba lực lượng chính góp phần vào thành cơng đó: giám mục Bá Đa Lộc và các chí nguyện
quân người Pháp ủng hộ về mặt quân sự; Hoa kiều ủng hộ ông về mặt tài lực; tầng lớp
văn thân nâng đỡ ơng về mặt chính trị. Do khác biệt về văn hóa, nhận thức và văn minh
dẫn đến giữa nhà Nguyễn với phương Tây (cụ thể là Pháp) ngày càng thất vọng và chống
đối nhau. Nhà Nguyễn cũng khơng có được công trạng đối với đất nước nên nhân dân
ngày càng xa lánh. Triều đình giờ đây chỉ trơng cậy vào tầng lớp văn thân, củng cố chế
độ quân quyền theo kiểu Trung Hoa và dựa vào nền Nho học nghiêm ngặt của các sĩ phu
đã từ bao đời được đào tạo theo tư tuởng Khổng Tử.
Sự thất bại của một dân tộc trước ngoại bang có thể được luận giải trên nhiều
phương diện từ kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật, dân số, chiến lược ngoại giao…Tuy
nhiên, thất bại của dân tộc Việt Nam và một số quốc gia lân cận ở Phương Đông trước
sức mạnh của chủ nghĩa thực dân (phương Tây) phản ánh sự thất bại của phương thức sản
xuất phong kiến trước phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, trong đó vai trị của trí
thức giữ một yếu tố cơ bản – trí thức Việt Nam lạc hậu hơn rất nhiều so với trí thức ở các
nước tư bản chủ nghĩa nói chung, thực dân Pháp nói riêng. Vì thế họ bất ngờ và khơng

thể giải thích được sự thất bại của dân tộc, hơn thế nữa không thể dẫn dẫn dắt dân tộc trên
con đường giải phóng đất nước mình. Lịch sử đặt ra và địi hỏi tầng lớp trí thức Việt Nam
lúc bấy giờ cần phải thay đổi, chuyển biến về chất – đạt được sự vượt trội nhận thức
nhằm giải quyết những vấn đề lịch sử giao phó.
Việt Nam trước thời thuộc Pháp (1858) là quốc gia với chính thể phong kiến
chuyên chế, nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu. Thực dân Pháp xâm lược nước ta vào giữa
thế kỷ XIX, khi chế độ phong kiến nước ta đã đi xuống dốc, mâu thuẫn giữa giai cấp
nông dân với giai cấp địa chủ đã vào cực điểm. Đế quốc Pháp là kẻ thù xâm lược mới, là
một nước tư bản chủ nghĩa, có quân đội xâm lược nhà nghề, có trang bị vũ khí và phương
tiện chiến tranh hiện đại, có tiềm lực kinh tế mạnh. Sau khi cơ bản kết thúc giai đoạn vũ
trang xâm lược, bọn tư bản thực dân Pháp bắt đầu tiến hành kế hoạch bóc lột sức người,
10
Tuân thủ Luật sở hữu trí tuệ và Quy định truy cập tài liệu điện tử. Ghi rõ nguồn tài liệu khi trích dẫn.


Bản quyền tài liệu thuộc về Thư viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.

sức của ở Việt Nam. Ngày 01/9/1858 thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược
Việt Nam, đánh dấu bằng sự kiện đổ quân lên bán đảo Sơn Trả thuộc Đà Nẵng.
Mục đích xâm lược của thực dân Pháp là chiếm Việt Nam làm thị trường tiêu thụ
hàng hóa, khai thác tài nguyên và bóc lột nhân công rẻ mạt; chiếm Việt Nam làm
căn cứ quân sự của Pháp tại vùng Đông Nam Á. Tuy nhiên, đến những năm cuối
thế kỷ 19, chính sách khai thác thuộc địa Đông Dương bắt đầu được thực hiện,
tinh thần cơ bản là thị trường Đông Dương phải được đặc biệt dành riêng cho
Pháp. Pháp xâm lược Việt Nam thì triều đình Huế vẫn tồn tại nhưng uy tín ngày
thêm suy sụp. Pháp coi Việt Nam là thuộc địa khai thác tài nguyên nên để nguyên
bộ máy hành chính cũ để khỏi mất công thay đổi và khỏi làm xao xuyến nhân tâm.
Theo hịa ước 1884 thì Pháp khơng có quyền can thiệp vào nội trị của nước ta,
nhưng đại diện Pháp ln tìm cách lấn án quyền triều đình Huế. Sau đạo Dụ 1925
thì Vua Việt Nam khơng còn chút thực quyền nào, chỉ còn dữ tế tự. Trong nước

mọi việc lớn nhỏ đều do người Pháp định đoạt. Viên toàn quyền là chúa tể, nắm
mọi quyền hành. Trước chính sách thực dân này, những vị Vua yêu nước thương
dân khơng chịu bù nhìn thì bị phuế truất, đày xa đất nước như Hàm Nghi, Thành
Thái, Duy Tân. Còn những vị Vua chỉ nghĩ tới tư lợi, nước mặc nước, dân khổ
mặc dân thì được Pháp để yên ngự trên ngôi vàng lâu năm.
Từ năm 1862, thực dân Pháp đã mở cảng Sài Gịn, sau đó đầu tư mở nhiều
cơng xưởng ở Hải Phịng, Hà Nội, Nam Định, Hải Dương, Bến Thuỷ… Năm
1895, nhà Thanh thừa nhận quyền đô hộ của Pháp ở Đông Dương, phe thực dân
thắng thế ở Nghị viện Pháp, bọn thực dân tiến hành cuộc khai thác thuộc địa quy
mơ lớn trên tồn cõi nước ta. Paul Doumer được cử sang Đông Dương nhận chức
Tồn quyền (13-2-1897), đã xây dựng chương trình 7 điểm mà nội dung cơ bản là
hoàn thiện cơ cấu tổ chức hành chính trên tồn lãnh thổ và cho từng xứ ở Đơng
Dương; sửa đổi chế độ tài chính thuế khố; xây dựng các thiết bị khai thác ổn định
tình hình chính trị và qn sự nhằm khuếch trương ảnh hưởng của Pháp ra vùng
Viễn Đông… Paul Doumer cho thi hành một loạt chính sách trên tất cả các mặt từ
chính trị, kinh tế, xã hội đến quân sự, giáo dục, văn hố-tư tưởng.
11
Tn thủ Luật sở hữu trí tuệ và Quy định truy cập tài liệu điện tử. Ghi rõ nguồn tài liệu khi trích dẫn.


Bản quyền tài liệu thuộc về Thư viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.

Về chính trị: thực dân Pháp câu kết với chế độ phong kiến tay sai để đàn áp về
chính trị và bóc lột về kinh tế. Chúng củng cố bộ máy thống trị, tăng cường lực lượng
quân sự, cảnh sát, toà án, nhà tù, đàn áp quyết liệt các phong trào cứu nước.
Về văn hoá - giáo dục: Từ năm 1905, thực dân Pháp tiến hành cải cách giáo dục,
hướng tới một nền giáo dục Tây phương, mở các trường tiểu học Pháp - Việt trên tồn
cõi Đơng Dương, từng bước thay thế nền Hán học đào tạo một lớp công chức, nhân viên
cần thiết cho guồng máy chính trị và kinh tế thực dân, Một số trường sư phạm, trường
chuyên nghiệp, trường y dược được mở ở Hà Nội, Nam Định, Huế, Gia Định… Điển

hình trong thời kỳ này hình thành Đại học Đơng Dương được thành lập từ năm 1906 với
các ngành Luật và Pháp chính, Khoa học, Y học, Xây dựng, Văn chương, sau mở thêm
Cao đẳng sư phạm, Cơng chính, Thương mại, Thú y, Canh nông, các trường dạy nghề,…
Quy mô đào tạo đạt tới hơn 1000 sinh viên/năm theo mô hình đa ngành, đa lĩnh vực, kiểu
phương Tây “... phổ biến ở Đông Dương những kiến thức và phương pháp châu Âu;
hướng dẫn tinh thần khoa học, phương pháp học tập và nghiên cứu hiện đại cho những
người xuất sắc...” một số ngành đạt chất lượng quốc tế. Để tuyên truyền cho chính sách
thực dân, cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỷ XX, một số tờ báo bản xứ đã được xuất bản ở Sài
Gòn, Hà Nội như Nam Trung nhật báo, Lục tỉnh tân văn, Nơng cổ mín đàm…
Về kinh tế: Ngày 28 – 9 - 1897, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định mở rộng áp
dụng quyền sở hữu ruộng đất cá nhân ra toàn lãnh thổ. Theo nghị định này, mọi công dân
Pháp và những người được nhà nước Pháp bảo hộ có đất do được ban tặng hoặc mua
lại… sẽ thuộc toàn quyền sở hữu cá nhân. Quyền sở hữu tối cao về ruộng đất từ chế độ
phong kiến Việt Nam đã thuộc quyền nhà nước Pháp bảo hộ. Tư bản, thực dân và tay sai
dựa vào nghị định này để chiếm hữu ruộng đất lập đồn điền.
Để phục vụ cho chương trình khai thác thuộc địa, thực dân Pháp đã cho xây dựng
hệ thống giao thông đường sắt, đường bộ, đường thuỷ, cầu cống, bến cảng, nhà ga…
Tính đến năm 1913, cả nước có hơn 1.000 km đường sắt, gần 100 km đường xe điện và
xe lửa nhỏ, 4.302 km đường bộ được rải đá. Nhiều cầu lớn như Long Biên, Tràng Tiền
được xây dựng. Nhiều cảng biển được trùng tu, sửa chữa…

12
Tuân thủ Luật sở hữu trí tuệ và Quy định truy cập tài liệu điện tử. Ghi rõ nguồn tài liệu khi trích dẫn.


Bản quyền tài liệu thuộc về Thư viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.

Từ khi thực hiện chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất, Pháp tăng
cường đầu tư vào Đông Dương xây dựng các nhà máy xay xát, nấu rượu, chế biến
nông sản... Từ 1899-1908, thực dân Pháp đã xuất khẩu 8.210.000 tấn, chiếm tỉ lệ

60-70% các mặt hàng xuất khẩu. Nơng dân bị bóc lột, vơ vét đến hạt gạo cuối
cùng cho xuất khẩu nên rơi vào cảnh bần cùng hố, khơng cịn khả năng canh tác.
Tình hình trên dẫn đến hậu quả là: nơng nghiệp Việt Nam vẫn trong tình trạng độc
canh, năng xuất thấp, lại phải đáp ứng cho nhu cầu xuất khẩu cao với giá rẻ mạt
nên đời sống nhân dân, nhất là nơng dân vơ cùng bi đát.
Chương trình khai thác thuộc địa mở ra hệ thống các hầm mỏ, công trường,
xí nghiệp của tư bản Pháp, Hoa Kiều và Việt Nam, nhưng chủ yếu nằm trong tay
tư bản Pháp. Nền kinh tế Việt Nam đã có những thay đổi, đặc biệt là mầm mống
kinh tế thị trường và sản xuất công nghiệp. Kinh tế nông nghiệp bắt đầu phát triển
theo hướng kinh tế hàng hố, nhưng vẫn trong tình trạng lạc hậu. Theo khuynh
hướng duy tân, một số nhà Nho tân tiến đã góp vốn kinh doanh và cổ vũ những
thợ thủ cơng khá giả, nhà bn, thầu khốn hùn vốn mở tiệm buôn, xưởng thợ,
tranh thương với tư bản Pháp – Hoa. Bộ phận tư sản dân tộc mới ra đời, chưa có vị
thế về kinh tế và chính trị. Mặc dù vốn liếng ít, bị tư bản Pháp – Hoa chèn ép,
nhưng sự xuất hiện của thành phần kinh tế tư bản tư nhân và tầng lớp tư sản dân
tộc đã tạo ra sự biến đổi quan trọng trong xã hội Việt Nam.
Giai cấp địa chủ phong kiến tiếp tục bị phân hoá. Một bộ phận địa chủ
phong kiến trở thành tay sai đắc lực cho thực dân Pháp trong công cuộc khai thác
thuộc địa và đàn áp các phong trào yêu nước của nhân dân ta. Một số người tham
gia bộ máy quan trường nhưng mang tâm lí tuỳ thời để n thân. Một số khác, có
có lòng yêu nước nhưng bi quan, bế tắc trước thời cuộc. Bên cạnh đó, một bộ phận
địa chủ, quan lại và nho sĩ có tinh thần chống Pháp hướng tới việc chấn hưng đất
nước, hướng tới việc tìm kiếm con đường cứu nước. Giai cấp nông dân là bộ
phận đông đảo nhất của xã hội, bị phân hoá sâu sắc vì chính họ là đối tượng bóc
lột chủ yếu của thực dân Pháp và giai cấp địa chủ phong kiến. Tình trạng nơng dân
bị mất ruộng đất, rơi vào cảnh bần cùng và phá sản ngày càng nhiều. Người nông
13
Tuân thủ Luật sở hữu trí tuệ và Quy định truy cập tài liệu điện tử. Ghi rõ nguồn tài liệu khi trích dẫn.



Bản quyền tài liệu thuộc về Thư viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.

dân phải bỏ xóm làng tràn ra thành phố, đến các công trường, hầm mỏ, đồn điền, xí
nghiệp để làm th nhưng chỉ có một số được nhận. Chính vì thế, họ khơng ngừng tham
gia đấu tranh chống đế quốc và phong kiến và là một động lực to lớn của cách mạng.
Giai cấp công nhân là lực lượng xã hội mới ra đời trong công cuộc khai thác
thuộc địa lần thứ nhất của Pháp. Tính đến năm 1914, cả nước có khoảng trên 10 vạn công
nhân hiện đại và gần 6 vạn công nhân theo mùa. Ngay từ khi mới ra đời, giai cấp cơng
nhân Việt Nam đã có tinh thần đồn kết đấu tranh chống áp bức bóc lột dưới nhiều hình
thức. Tuy nhiên, giai cấp công nhân Việt Nam đầu thế kỉ XX cịn non trẻ, vẫn đang trong
tình trạng “tự nó”. Với số lượng phát triển nhanh và đông đảo, với chất lượng biểu hiện ở
tính tập trung, hiện đại và tinh thần đoàn kết đấu tranh chống kẻ thù chung, cơng nhân
Việt Nam đã đủ điều kiện để hình thành một giai cấp. Ngồi những đặc tính chung của
giai cấp công nhân hiện đại, giai cấp công nhân Việt Nam cịn mang một số đặc điểm
riêng là giai cấp cơng nhân ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc; có mối quan hệ mật thiết
với giai cấp nơng dân; có; kết cấu thuần nhất khơng có tầng lớp “cơng nhân quý tộc”
v.v…
Giai cấp tư sản mới hình thành, số lượng cịn ít, thái độ chính trị khác nhau,
nhưng phần lớn đều có ý thức phát triển kinh tế dân tộc (tư sản dân tộc). Đáng chú ý là
một bộ phận đông đảo xuất thân từ các nhà nho yêu nước, ảnh hưởng tư tưởng duy tân,
khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh do đội ngũ trí thức tiên tiến lúc ấy phát động. Một
bộ phận cư dân đơ thị mới hình thành được gọi là tầng lớp tiểu tư sản gồm những tiểu
thương, tiểu chủ, những người làm dịch vụ, những trí thức, viên chức làm việc trong các
sở công, sở tư, những học sinh, sinh viên, giáo viên, nhà báo, văn nghệ sĩ… có tinh thần
yêu nước và gắn bó với giai cấp cơng nhân, nơng dân trong quá trình đấu tranh trong các
phong trào dân tộc, dân chủ. Tầng lớp trí thức sĩ phu yêu nước có vai trị tích cực nhất
trong phong trào giải phóng dân tộc đầu thế kỉ XX. Bộ phận này vốn nhạy cảm với tình
hình chính trị - xã hội, tiếp thu tư tưởng dân chủ tư sản trên thế giới, đứng ra tổ chức và
vận động cuộc cách mạng giải phóng dân tộc trong những năm đầu thế kỉ XX.
Sự ra đời của những lực lượng xã hội mới đã tạo ra những điều kiện cho cuộc vận

động giải phóng dân tộc theo khuynh hướng mới-khuynh hướng dân chủ tư sản, chống đế
14
Tuân thủ Luật sở hữu trí tuệ và Quy định truy cập tài liệu điện tử. Ghi rõ nguồn tài liệu khi trích dẫn.


Bản quyền tài liệu thuộc về Thư viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.

quốc và chống phong kiến. Và từ đây một chuyển biến mới trong hàng ngũ tri thức
Việt Nam là xuất hiện tầng lớp trí thức tân thư, làm chuyển biến mạnh mẽ số
lượng và chất lượng của đội ngũ trí thức Việt.
2. Trí thức Việt Nam đồng hành với dân tộc và tiến bộ thời đại
Các quan và giới văn thân (những người có học vấn Nho giáo) đã dẫn
đường xã hội Việt Nam từ triều đại nhà Lê thế kỷ XV, nhờ được đào tạo theo Nho
giáo với nhiều mức độ khác nhau, họ chia sẻ các vị trí chính yếu trong các lĩnh
vực chính trị, xã hội và văn hóa. Các quan lại làm việc trong chính quyền và nhân
danh nhà Vua, xếp đặt việc chính trị trên cấp bậc quốc gia và địa phương. Tuy
nhiên, vì triều đình khơng trực tiếp cai trị xã thôn, kể cả qua trung gian các quan,
mà để cho thôn xã tự trị, nên ở đây hào mục phụ trách việc thu gom sưu thuế cho
nhà nước. Còn nhân sĩ lo việc giáo dục trong các trường nhỏ ở làng: họ dạy triết lý
và đạo đức Nho giáo cho học trị, trong số này ắt có người ra làm quan. Do đó,
tầng lớp quan lại và giới văn thân giữ vai trò then chốt trong sự phối trí giữa Nhà
nước (tức triều đình) với xã hội (tức xã thơn). Nói tóm lại nhà Vua cai trị xứ sở
thông qua thành viên của tầng lớp này, và một khi Vua mất đi sự ủng hộ của họ thì
nhà vua khơng thể thực thi quyền hành của mình: vì mối quan hệ giữa nhà vua với
giới văn thân đã trở thành trục lõi xã hội chính trị thiết yếu cho sự tồn tại gắn bó
chặt chẽ của quốc gia Việt Nam trong chế độ quân quyền.
Quan chức và tầng lớp văn thân (các nhân sĩ và thân hào) trên lý thuyết, là
rường cột “đương nhiên” của chính phủ, bởi vì được gắn liền với chính phủ trên
các mặt chính trị, xã hội và kinh tế. Sau khi đỗ đạt, quan chức làm việc trong chính
quyền, nhân sĩ lo dạy viết, dạy học và dạy đạo lý Khổng Mạnh, còn các thân hào ở

các thơn xã có trách nhiệm thu thuế, tuyển mộ binh và phân bổ sưu dịch cho nhà
nước qui định. Trung thành với chính phủ, quan chức và văn thân thận trọng
khơng phê phán hành vi chính phủ, nhưng nếu bước qua được đối phương, họ có
thể cầm đầu các phong trào bài bác và khi đó họ biết vận động và tổ chức dân
chúng như thế nào. Quan lại dưới thời phong kiến Việt Nam là người trí thức được
chọn qua một cuộc thi tuyển nhân sĩ, hành xử một quyền lực (là một công chức)
15
Tuân thủ Luật sở hữu trí tuệ và Quy định truy cập tài liệu điện tử. Ghi rõ nguồn tài liệu khi trích dẫn.


Bản quyền tài liệu thuộc về Thư viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.

do nhà Vua giao phó và được dân kính trọng (phụ mẫu). Con đường làm quan được mở
rộng cho tất cả mọi người “Trong pháp luật cũng như trong phong tục, khơng có trở ngại
nào cấm cản người dân quê nghèo nhất học hành để làm các chính quyền cao nhất. Thực
vậy, các chức vụ nhà nước dành cho tất cả những ai mà tài học đã được các kỳ thi công
nhận, nghĩa là cho tất cả những ai chứng thực họ đã có những hiểu biết văn chương và
đạo đức cần thiết để làm tròn nhiệm vụ của chức quan. Biết chữ làm quan, đó là kỳ vọng
lớn nhất của bất cứ người An nam trẻ nào”, Hay trong tục ngữ “có chí làm quan…”. Cơ
chế của hệ thống này là động cơ thực sự duy nhất của sự thăng tiến xã hội, con đường
duy nhất cho giới thanh niên tiến tới một chức vụ xã hội cao đồng thời được danh vọng
và giàu sang. Người Việt Nam thời kỳ phong kiến học nhiều cốt để thi đỗ, cứ không nào
học chỉ để tăng tiến tri thức, hay hơn nữa, để đào sâu một vấn đề triết học. Sự chuyên cần
là hoàn toàn mưu cầu lợi ích, tuy nhiên khi làm quan thì họ thường giữ một cung cách
khơng hám lợi. Điều đó khơng có nghĩa là họ kinh thị tiền tài, mà trái lại rất nhiều quan
chức lợi dụng địa vị của họ để thu gom của cải và điều này được xã hội chấp nhận như là
hệ quả của chức vụ, cống hiến vì chức vụ đã tạo ra uy tín trước khi tạo ra tiền bạc.
Tồn tại trong xã hội Nho giáo một hệ thống đẳng cấp với bốn tầng lớp từ cao đến
thấp: Sĩ, nông, công, thương. Các hoạt động kinh tế bị đánh giá thấp và người ta xem nhẹ
người bn bán; Điều này giải thích tại sao người Hoa thường nắm quyền hầu hết các

hoạt động thương mại ở Việt Nam và tại sao quan chức người Việt Nam lại yếu kém đến
thế trong lĩnh vực chính sách kinh tế. Ở Việt Nam theo kiểu truyền thống từ năm 1075,
triều đình nhà Nguyễn chọn quan chức bằng khoa cử (hoặc khoa giáp), hệ thống thi cử
này tuyển chọn nhân sĩ bằng những cuộc thi theo kiểu Trung Hoa. Những cuộc thi được
tổ chức ba năm một lần (thi hương – địa phương; thi hội - ở kinh đô và thi đình – triều
đình). Các sĩ tử phải học chun cần ít nhất đến 12 năm để có sự hiểu biết sâu rộng về
chữ Hán đưa họ lên đường danh vọng. Họ học toàn các sách kinh điển Trung Hoa, như
Tứ thư, Ngũ Kinh (Tứ thư gồm: Luận Ngữ, Mạnh Tử, Trung Dung, Đại học; Ngũ kinh:
thư kinh, thi kinh, Dịch kinh, Lễ kinh, Xuân thu). Các bài thi càng lên cao càng khó. Với
lịch sử lâu dài của sự xâm nhập văn hóa Trung Hoa vào xã hội Việt Nam, thì đạo lý
Khổng giáo và một số tác phẩm văn hóa Trung Hoa, việc hiểu biết các kinh sử để sửa
16
Tuân thủ Luật sở hữu trí tuệ và Quy định truy cập tài liệu điện tử. Ghi rõ nguồn tài liệu khi trích dẫn.


Bản quyền tài liệu thuộc về Thư viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.

soạn thi cử nghiêm túc khác với lối sống dân quê dân dã của những người nông
dân. Và do thiếu sách vở, thư viện … nên khoảng cách giữa người học Nho học
với nhân dân có sự cách biệt rất lớn. Điều kiện khó khăn về địa lý, kinh tế, giáo
dục … giữa kinh thành và các tỉnh lị, các vùng nông thôn càng làm cho sự cách
biệt giữa quan chức, văn thân với đa số dân nghèo ít học. Các kỳ thi trong triều
Nguyễn cũng ngày càng khó khăn hơn, các sĩ tử đỗ đạt đều được bổ nhiệm quan
chức tùy theo học vị. Sự liên hệ giữa văn bằng và các chức quan được kiểm chứng
trong nền hành chính Việt Nam, thực tế cho thấy với nền hành chính Việt Nam –
giới cử nhân giữ vai trị trọng yếu và có nhiều khả năng lên nắm nhiều tước vị cao:
như Trần Đình Túc, tổng đốc Hà Ninh (Hà Nội – Ninh Bình) năm 1876 chỉ là một
cử nhân. Nếu người đỗ đạt ban đầu được bổ nhiệm chức vụ cao hoặc thấp thì tùy
vào thứ hạng thi đỗ, sự thăng tiến của họ sau đó tùy thuộc năng lực cơng tác của
họ hoặc là thâm niên trong công tác hơn là văn bằng của họ: nghề làm quan được

mở rộng cho họ, vì các vị tiến sĩ – số này rất ít, khơng giành độc quyền giữ các vị
trí chức quan cao (tiến sĩ, được bổ nhiệm trong Hàn lâm viện). Quan chức Việt
Nam cũng được chia thành chín bậc rõ rệt (phẩm), mỗi bậc chia làm hai hạng
(chánh và tòng). Dân chúng dành sự tơn kính đối với hàng quan giai (chỉ hàng
quan ngũ phẩm trở lên mới được xưng danh quan và mới được yết kiến hoàng đế.
Các viên chức nhỏ, nhất là các quan hàng bát phẩm và cửu phẩm, khơng có văn
bằng. Trong số họ có người mua chức vụ (qun nạp), hoặc có chức vụ nhờ cha có
cơng với nhà nước đã qua đời (ấm bổ). Ngoài ra, có rất nhiều viên chức giúp việc
cho các quan được gọi là thư lại chưa vào ngạch, họ là nhân sĩ vì họ biết chữ Hán,
họ giúp đỡ cho các quan khơng có văn bằng. Điều này cho thấy mối quan hệ giữa
quan lại với tầng lớp văn thân rất sâu sắc. Điều cần nhắc đến là vai trò của các
quan võ thì khơng có vai trị gì trong nền hành chính, học có nhiệm vụ giữ gìn trật
tự hoặc quốc phịng, trong mắt dân chúng cũng khơng được coi trọng bằng quan
văn. Quan chức được suốt đời miễn thuế, có dinh thự rộng lớn do nhà nước trang
bị, tục lệ và pháp luật cho họ được hưởng nhiều danh dự đặc biệt: họ được mặc
phục lễ bằng lụa nâu tươi sáng, mọi người phải nói chuyện với họ nhỏ tiếng và
17
Tuân thủ Luật sở hữu trí tuệ và Quy định truy cập tài liệu điện tử. Ghi rõ nguồn tài liệu khi trích dẫn.


Bản quyền tài liệu thuộc về Thư viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.

cung kính, di chuyển bằng cáng đẹp và có người hộ tống,.. Quan lại cũng có bổn phận, họ
phải có tài khéo quản lý trong công việc và đạo đức trong đời tư. Họ phải khoan hồng đối
với dân “như cha mẹ đối với con” khi mà dân chúng biết nghe lời và kính trọng quyền
lực của họ. Những kẻ dưới quyền chống đối, phải sử dụng quyền lực và sự nghiêm khắc
tối đa. Theo luật chung các quan tự coi mình là người có tri thức cao hơn dân chúng và
thường cảm thấy nghi ngờ quần chúng vô học. Trái lại, địa vị của họ rất mong manh đối
với nhà Vua, vị Chúa tối cao có quyền tun tử hình họ nếu họ phạm lỗi nặng. Lại nữa,
các cơ chế đặt kiểm soát lẫn nhau giữa họ. Với hồn cảnh như thế họ khơng thể bài bác –

đồng thời đương nhiên họ rất chăm lo cho sự vững vàng của các cơ chế, các cơ chế này
giữ vững địa vị mà họ có được sau nhiều năm dài cơng tác.
Tóm lại hệ thống thi tuyển và Nho giáo là rường cột của xã hội Việt Nam lúc bấy
giờ. Các quan chức là hiện thân và cấu thành hệ thống sĩ phu ưu tú và ý thức hệ đó. Nhà
Nguyễn ý thức được điều đó, đã ln kiểm sốt giới quan chức và hệ thống thi tuyển để
tìm các tài năng tốt nhất trong dân chúng. Với tình trạng này quan chức đương nhiên là
những người trung thành của chế độ.
Tầng lớp văn thân, từ văn có nghĩa là chữ và cũng có nghĩa là người biết chữ. Xã
hội xưa từ văn thường chỉ những người có học thức. Từ “Thân” có nghĩa chính từ nguồn
gốc là cái dải thắt lưng tơ mà viên chức thời Trung Hoa cột ngang lưng áo: từ này dùng
để chỉ các thân hào, thư lại ở địa phương; hoặc viên chức về hưu. Văn thân chỉ chung là
các nhân sĩ, thân hào, thư lại ở địa phương và các viên chức về hưu. Cụm từ tầng lớp văn
thân không có nghĩa là thành viên của giai tầng này đều có địa vị xã hội như nhau: nhân
sĩ và thân hào, chẳng hạn có những địa vị xã hội rất khác nhau. Nhưng đa số thành viên
của tầng lớp này có chung một sự đào tạo cơ bản xã hội văn hóa, nghĩa là họ biết đọc,
biết viết ngơn ngữ chính là Hán tự. Trong khi dân chúng giao tiếp với nhau thuần túy
bằng tiếng “bình dân” tiếng Nơm, khác xa với tiếng chính thức (ngơn ngữ quan trường:
tiếng Hán), chính các thân hào và nhân sĩ đảm nhận việc phiên dịch cho dân chúng các
tuyên cáo chính thức, các bài viết bằng Hán tự mà dân chúng sẽ không hiểu được nếu đọc
nguyên văn. Điều này và chức vụ trung gian cần thiết của văn thân giữa cấp lãnh đạo và
dân chúng là đặc biệt quan trọng đối với các biến cố. Trong giới văn thân có bộ phận
18
Tuân thủ Luật sở hữu trí tuệ và Quy định truy cập tài liệu điện tử. Ghi rõ nguồn tài liệu khi trích dẫn.


Bản quyền tài liệu thuộc về Thư viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.

quan trọng là Nhân sĩ, Nhân sĩ là những người có học hoặc đang học đạo lý và văn
học Trung Hoa. Có thể khơng kể đến những người có chức vụ xã hội, hay chỉ đến
những người đỗ đạt trong các kỳ thi hoặc những người không thi tuyển nhưng biết

chữ Hán. Với nghĩa khác từ “nhân sĩ” dung để so sánh với quan chức, chỉ các sĩ tử
đang học thi hoặc sinh sống bằng nghề dạy trò nhỏ ở làng học viết, học đọc, học
văng chương Nho giáo. Sau nữa là nói “nhân sĩ” có nghĩa “dân sự” đối lập với
quân sự. Trung tâm của giới nhân sĩ là nhóm tú tài, một vị trí khơng rõ giữa quan
và dân: “gần thành cơng”, sánh với các quan, vì họ khơng lên đến được tột đỉnh kỳ
thi – không đỗ cử nhân, tiến sĩ – nhưng trái lại, họ thành công ở chỗ hơn người
hỏng thi và quần chúng, ít ra họ đỗ thi Hương, họ hoàn toàn thuộc giới giỏi ở tỉnh,
và được dân làng kính nể. Với địa vị như vậy, tú tài thấy mình vừa cao hơn dân
chúng mà vừa thấp hơn quan chức: tham vọng của các tú tài trẻ vẫn luôn là đi thi
nữa để được làm quan. Thực tế, đa số tú tài phụ trách việc dạy học ở làng quê. Nhà
nước giao cho việc dạy học chữ Hán và bổ nhiệm họ làm tổng giáo lo việc dạy học
ở tổng khi có nhiệm sở trống. Nếu khơng, họ bằng lòng làm thầy đồ làng, hoặc thư
lại ở địa phương, hoặc như cố vấn của cộng đồng làng xã. Điều kiện làm việc ít
thay đổi, khơng gian làm việc là làng xã nông thôn, hấp thụ nền giáo dục Nho
Khổng, và ảnh hưởng trực tiếp của tư tuởng tiểu nông sản xuất nhỏ, tầng lớp này
khá bảo thủ, kinh viện, tư tuởng sung bái Trung hoa... Vì vậy các nhân sĩ nhạy
cảm và chú ý đến tình hình chính trị. Khi biến động chính trị, văn hóa hoặc xã hội
bùng nổ họ phản ứng mạnh (do không chấp nhận thay đổi), một số người của họ
với tư cách lãnh đạo đứng ra vận động và tập trung dân chúng chống lại những gì
mà họ cho là kẻ thù, phần nào có cả nhận thức tư tuởng. Minh chứng là những
cuộc đấu tranh chống Ky tô giáo và những giá trị văn hóa phương Tây tràn vào
Việt Nam thời kỳ này. “Lợi ích riêng tư, trích Rhei, ngày 18 tháng 9 năm 1875
viết: lối sống theo sở thích, sự cách ly đất nước với bên ngoài, làm cho quần chúng
lâm vào cảnh nghèo khó, và như thế để thỏa mãn lòng tự cao của nhân sĩ, là những
kẻ từng miệt mài suốt đời học hành thứ chữ tượng hình, muốn sống trong sự tự
mãn và tự đặt mình như những vị thần cao minh trước mắt đám quần chúng chìm
19
Tuân thủ Luật sở hữu trí tuệ và Quy định truy cập tài liệu điện tử. Ghi rõ nguồn tài liệu khi trích dẫn.



Bản quyền tài liệu thuộc về Thư viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.

đắng trong ngu dốt. Người ta nghĩ tiếp tục với người Tây Âu sẽ tước mất uy tín của các
nhà bác học giả hiệu ấy, những người thích sống kẻ cả và dồn mọi nỗ lực dể xua đuổi
chúng ta. Tất cả bọn họ là kẻ thù bất khả hịa giải vì họ chiến đấu cho lòng tự ái của họ”.
Bộ phận tiếp nữa của văn thân là Thân hào, hay hào mục. Người ta dung danh từ này để
chỉ những người có uy tín trong thơn xã – người có tuổi, giàu có, đỗ đạt – và đồng thời
giữ một chức vụ hành chính với tư cách là hội viên của Hội đồng hào mục. Các tiêu
chuẩn để phân biệt thân hào là, nói chung, sự giàu có, sự nổi tiếng về đạo đức và thạo
việc làng nước, tuổi tác (ít nhất là 21 tuổi) và có tên trong đinh bộ. Thân hào có mối quan
hệ với nhà nước trung ương, là cầu nối trung gian giữa nhà nước trung ương phong kiến
với nông dân (Lý trưởng được Hội đồng hào mục bầu cử và được chính quyền địa
phương của triều đình phê chuẩn). Hội đồng hào mục là hội của người giàu họp nhau
thành. Đa số thân hào, nhân sĩ sống ở nông thôn, xa kinh đô, phương tiện giao thông và
thông tin lạc hậu, ít nhiều cũng là cho họ lạc hậu, bảo thủ.
Thời kỳ này, giới trí thức chia làm ba nhóm. Nhóm sĩ phu chống Pháp: Trước
cảnh đất nước bị ngoại xâm giày xéo, đa số sĩ phu hưởng ứng hịch Cần Vương, trả ân
triều đình, chiêu tập binh mã nổi lên đánh đuổi quân xâm lăng. Phong trào Cần vương,
Văn Thân, Đông Du, Đông kinh nghĩa thục đều do các sĩ phu lãnh đạo và gây nhiều khó
khăn cho Pháp (Phan Đình Phùng, Nguyễn Thiện Thuật, Phan Chu Trinh, Nguyễn
Thượng Hiền, …). Nhóm sĩ phu ẩn dật: Sau khi lên ngôi Vua Đồng Khánh thành thực đi
với nhiều người Pháp, lên án sĩ phu đương thời hy sinh tính mạng chống ngoại xâm.
Nhiều nhà Nho khơng cịn có ý chống Pháp nữa. Họ sống ẩn dật, bạn cùng cây cỏ, ngày
ngày uống rượu ngâm thơ cho quyên cái buồn mất nước. Nguyễn Đình Chiểu, Tam
nguyên Yên Đỗ tiêu biểu cho nhóm sĩ phu này; Nhóm sĩ phu thỏa hiệp: Một số nhà Nho
để quyền lợi riêng trên quyền lợi Tổ quốc, cộng tác với quân thù, theo đoàn quân viễn
chinh người Pháp đàn áp các nhà ái quốc. Trần Bá Lộc (Nam Kỳ), Nguyễn Thân, Hoàng
Cao Khải (Trung Kỳ), Lê Hoan (Bắc Kỳ) đã tỏ ra tàn ác hơn cả ngoại nhân trong công
việc mà họ gọi là “tiễu trừ phiến loạn”. Họ được Pháp ưu đãi và tha hồ làm giàu trên
xương máu đồng bào. Một số sĩ phu khác tuy ra làm quan nhưng có thiện chí cho đám


20
Tuân thủ Luật sở hữu trí tuệ và Quy định truy cập tài liệu điện tử. Ghi rõ nguồn tài liệu khi trích dẫn.


Bản quyền tài liệu thuộc về Thư viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.

dân lành khỏi bị đè nén, bóc lột. Nhóm này khơng chịu làm theo ý muốn của
người Pháp, khơng tìm cách bóp nặn dân.
Nhằm phục vụ cho quá trình khai thác thuộc địa thuận lợi, thực dân Pháp
chính sách đó, Pháp đã tuyển chọn một số trí thức Việt Nam sang Pháp đào tạo,
chủ yếu là một số ngành nghề như Y học, Nông học, Hành chính học, Giao thơng,
một ít cho lĩnh vực sư phạm,.. Pháp mở trường Pháp – Việt thay thế nền Hán học
với dã tâm đào tạo một thế hệ tri thức vong bản dễ sai khiến. Pháp nhắm mắt cho
quan lại và cơng chức bóp nặn dân chúng làm giàu bằng mồ hôi và nước mắt đồng
bào. Một số quan lại xuất thân Trường đại học Đông Dương phải làm theo ý muốn
của các viên Công sứ đầu tỉnh, phải khéo luồn lọt, biết bợ đỡ thì mới được bổ
nhiệm cai trị những tỉnh “bờ xôi ruộng mật”. Với số lương chỉ đủ ni gia đình,
nhiều ơng quan sau vài năm làm việc trở nên rất giàu, có tiền cho con cháu du học
bên Pháp, tậu nhà ở tỉnh, tậu đồn điền ruộng ấp, sống cuộc đời trưởng giả, cách
biệt đám dân lành mà họ có bổn phận chăn dắt. Tuy nhiên, bên cạnh những quan
tham lại nhũng cũng có vài vị biết coi thường danh lợi không để bả vinh hoa phú
quí làm mờ ám lương tâm. Một số trí thức cảm thấy nhục mất nước, đau lịng về
những điều trông thấy hàng ngày nên đã can đảm viết báo cơng kích chế độ thực
dân, lập Đảng bí mật lật đổ nền thống trị Pháp.
Sau thời kỳ bình định Việt Nam, Pháp chính thức áp đặc được hệ thống cai
trị đối với nhân dân Việt Nam. Giới trí thức Việt Nam được đào tạo trong thời kỳ
nhà Nguyễn, cũng như được Pháp đào tạo bắt đầu thức tỉnh trước tác động của
những nhân tố quốc tế cũng như trong nước. Sự chuyển hướng về nhận thức chính
trị chắc chắn có ảnh hưởng của tình hình quốc tế, cụ thể hơn đó là tình hình của

các quốc gia lân cận như Nhật Bản, Trung Quốc, .. Về tình hình quốc tế giai đoạn
này có nhiều trí thức Nhật đã khởi xướng tư tưởng duy tân. Tháng 1-1868, sau khi
lên ngôi, Thiên hoàng Minh Trị đã thực hiện một loạt cải cách tiến bộ nhằm đưa
Nhật Bản thốt khỏi tình trạng phong kiến lạc hậu. Cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ
XX, Nhật Bản trở thành một nước tư bản cơng nghiệp, rồi nhanh chóng chuyển
nhanh lên giai đoạn đế quốc. Ở Trung Quốc một số sĩ phu tiến bộ hướng về
21
Tuân thủ Luật sở hữu trí tuệ và Quy định truy cập tài liệu điện tử. Ghi rõ nguồn tài liệu khi trích dẫn.


Bản quyền tài liệu thuộc về Thư viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.

phương Tây, chủ trương học tập khoa học kĩ thuật phương Tây, cải cách kinh tế, chính trị
- xã hội, học thuật để nhanh chóng đuổi kịp các nước tiên tiến trên thế giới. Cuộc Cách
mạng Tân Hợi (1911) dẫn đến sự ra đời của nước Cộng hồ Trung Hoa dân quốc có tác
động mạnh mẽ đến bước chuyển hướng về tư tưởng của các sĩ phu yêu nước Việt Nam.
Trí thức Việt Nam tiếp nhận tư tưởng dân chủ tư sản qua tân thư, tân văn. Tân thƣ
là cách gọi của các sĩ phu yêu nước thời đó, chỉ những cuốn sách chứa đựng kiến thức
mới, tư tưởng mới, cách học mới (tân học), để phân biệt với sách cũ cách học cũ (cựu
học, Nho học). Tân thư truyền bá tri thức về khoa học tự nhiên và khoa học xã hội nhân văn (tốn, lí, hóa, địa lí, lịch sử, kinh tế, chính trị, triết học…), chủ yếu dịch từ
sách của phương Tây, có cuốn dịch qua tiếng Nhật, có sách biên dịch nhằm giới thiệu văn
minh phương Tây, gắn với tư tưởng cải cách duy tân theo xu hướng tư sản phương Tây ở
Trung Quốc cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỷ XX.
Tân văn là những tờ báo đăng tải những bài viết, tin tức do các nhà duy tân của
Trung Quốc sáng lập như tờ “Thời vụ báo” do Lương Khải Siêu làm chủ bút, xuất bản ở
Thượng Hải từ năm 1896, trước ngày “Mậu Tuất chính biến” thất bại. Sau khi trốn sang
Nhật, Lương lại ra tờ “Thanh nghị báo”, rồi tờ “Tân dân tuần báo” cổ vũ cải cách duy
tân và truyền bá tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây và Nhật Bản.
Những cuốn tân thư tiêu biểu sớm được dịch, phổ biến ở Trung Quốc và Nhật Bản
được nhiều người biết đến như Dân ước luận (Khế ước xã hội - Contrat Social) của Lư

Thoa (J.J. Rousseau), Vạn pháp tinh lí (Esprit des lois) của Mạnh Đức Tư Cưu
(Montesquieu)… Sách của các nhà cải cách Trung Quốc có Hải quốc đồ chí của Ngụy
Ngun viết về địa lí, lịch sử các nước; cuốn Thịnh thế nguy ngơn của Trịnh Quang Ứng
viết về tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây và đề ra những giải pháp cho cách mạng
Trung Quốc như lập Nghị viện, ban bố Hiến pháp, mở trường học, trọng kĩ nghệ, phát
triển công nông thương nghiệp… Tân thư còn giới thiệu tư tưởng duy tân và thành tựu
duy tân của Nhật Bản như cuốn Nhật Bản duy tân tam thập niên sử do La Hiếu Cao dịch
sang chữ Hán (1902), và các cuốn Văn minh khái lược luận, Khuyến học thiên… của
Phúc Trạch Dụ Cát (Fukuzawa Yukhichi) viết từ thời Minh Trị Duy Tân cũng được các
học giả Trung Quốc đọc và biên dịch, giới thiệu.
22
Tuân thủ Luật sở hữu trí tuệ và Quy định truy cập tài liệu điện tử. Ghi rõ nguồn tài liệu khi trích dẫn.


Bản quyền tài liệu thuộc về Thư viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.

Tân thư, tân văn Trung Quốc đã bắt đầu vào nước ta từ những năm 90 của
thế kỉ XIX qua những cảng Hải Phòng, Sài Gòn, Đà Nẵng. Báo “Thần chung” ở
Sài Gòn nhận xét: “Tập Ẩm băng thất (của Lương Khải Siêu tiên sinh) với sĩ phu
(Việt Nam) lúc nọ chẳng khác chi thang thuốc hay với người mang bệnh “trầm
kha”, còn Trung Quốc hồn là một tập sách vài mươi trang mà thay đổi lịng người
như chớp, một tập sách nói chuyện nước Tàu mà làm cho hai mươi triệu dân Nam
phấn khởi… Những Thanh nghị báo, Tân dân tùng báo, Ẩm băng thất, Tự do thư,
Trung Quốc hồn đã đánh thức đám sĩ phu ta, gần như trực tiếp, vì trong đó nói
chuyện nước Tàu mà có nhiều chỗ trùng bệnh người mình lắm”. Hồi ức của các trí
thức u nước đầu thế kỉ XX cho thấy nhiều người tiếp xúc với tân thư, tân văn từ
Kinh đô Huế mà Nguyễn Thượng Hiền, Đào Nguyên Phổ là những người sớm đọc
và truyền bá tân thư, tân văn. Châu Thơ Đồng (Châu Thượng Văn), một, trí thức
gốc Hoa ở Hội An có tư tưởng sớm có duy tân cũng là một đầu mối cung cấp tân
thư, tân văn qua các thương nhân Trung Quốc.

Tân thư, tân văn mang đến cho những nhà Nho lúc ấy một tầm nhìn mới,
một mơ hình xã hội mới, tiến bộ hơn hơn nền quân chủ chuyên chế. Đọc tân thư,
xem báo mới, thực hành cách học mới, lối sống mới trở thành trào lưu trong giới sĩ
phu tiến bộ ở nước ta lúc đó. Các sĩ phu yêu nước đã tìm thấy sức mạnh của dân
tộc khi được khai sáng sẽ là nguồn lực đưa quốc gia trở thành hùng cường, là
nguồn lực giải phóng dân tộc khỏi ách thực dân. Tân thư, tân văn đã tác động như
một hồi chuông “tỉnh mộng” đối với sĩ phu yêu nước lúc bấy giờ, thúc đẩy quá
trình đoạn tuyệt với chế độ phong kiến. Phan Bội Châu và một số sĩ phu cấp tiến
Việt Nam mở đường Đông Du bởi sự thôi thúc và hấp dẫn của tấm gương phục
hưng tự cường từ nước “đồng chủng, đồng văn” này. Trong “Lưu cầu huyết lệ tân
thư” ông đề ra ba chủ trương lớn: Khai dân trí, Chấn dân khí, Thực nhân tài. Tư
tưởng Duy Tân của các sĩ phu yêu nước bắt đầu từ đấy. Sự xuất hiện ảnh hưởng
của “gió Mỹ mưa Âu đã làm ồn ào vũ trụ” và những tư tưởng mới “tân thư, tân
văn” từ Trung Quốc và Nhật Bản vào Việt Nam đã thay đổi căn bản tư tưởng của
các sĩ phu yêu nước, giúp họ dứt khoát đoạn tuyệt với hệ tư tưởng phong kiến, tìm
23
Tn thủ Luật sở hữu trí tuệ và Quy định truy cập tài liệu điện tử. Ghi rõ nguồn tài liệu khi trích dẫn.


Bản quyền tài liệu thuộc về Thư viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.

những con đường mới để giải phóng cho dân tộc mà tựu trung lại có thể chia làm xu
hướng chính: bạo động và cải cách và tiêu biểu cho sự ảnh hưởng của hai xu hướng này
là hai nhà yêu nước họ Phan. Trong quá trình tiếp xúc với tân thư, tân văn, nhờ mối thâm
giao với quan Thượng thư Hồ Lệ mà các sĩ phu yêu nước cũng có dịp nghiên cứu các bản
điều trần, kế sách chấn hưng đất nước của các nhà canh tân tiền bối như Nguyễn Trường
Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Phạm Phú Thứ,… Đây chính là thời điểm mà những tư tưởng canh
tân, chấn hưng đất nước của thế hệ tiền bối phát huy tác dụng, thấm vào lớp sĩ phu yêu
nước đương thời, được cổ vũ bởi luồng gió mới qua tân thư, tân văn. Hành trình cứu
nước mà Phan Bội Châu lựa chọn gặp nhiều trở ngại, vấp nhiều thất bại, nhưng luôn mở

ra hướng mới để phát triển phong trào. Dù trăm lần thất bại, nhưng tư tưởng và sự nghiệp
của Phan Bội Châu đã hóa thân vào hàng ngàn trí thức ưu tú, hàng chục triệu đồng bào
yêu nước, bồi đắp cho các phong trào kế tiếp như những lớp sóng bồi, ngày càng dày
thêm, đủ sức nhấn chìm quân xâm lược và tay sai. Phan Châu Trinh nhận thức được
nhiệm vụ bức thiết của cách mạng Việt Nam lúc này là khôi phục độc lập, chủ quyền dân
tộc. Muốn thực hiện được nhiệm vụ ấy, trước hết phải thức tỉnh dân tộc ra khỏi cơn mê
muội của nọc độc chuyên chế của thực dân, phong kiến. Đồng hành với tư tưởng Duy
Tân của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh xác định ba nhiệm vụ cấp bách phải làm là:
- Khai dân trí: nhằm mở mang trí tuệ cho dân, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước bằng
cách bỏ lối học tầm chương trích cú của Nho giáo, thay bằng phổ biến nền khoa học giáo
dục của phương Tây; xây dựng một nền học vấn và văn hố tiến bộ, văn minh; chống mê
tín dị đoan, bài trừ hủ tục ở hương thơn.
- Chấn dân khí: thức tỉnh tinh thần tự lực tự cường, giác ngộ mọi người dân về quyền lợi
của mình.
- Hậu dân sinh: gây dựng cơ sở sản xuất, mở tiệm buôn, kinh doanh các ngành nghề,
khẩn hoang, lập vườn, tự lực tự cường chấn hưng kinh tế, vận động nhân dân dùng hàng
nội hoá.
Phan Chu Trinh đặc biệt quan tâm đến dân trí, coi tình trạng dân trí thấp là một
trong những nguyên nhân cơ bản làm cho dân tộc ta bị nơ dịch, vì vậy phải thay đổi tận
gốc, nâng cao dân trí trên nền tảng văn hố tiến bộ mới có thể mưu cầu việc cứu nước
24
Tuân thủ Luật sở hữu trí tuệ và Quy định truy cập tài liệu điện tử. Ghi rõ nguồn tài liệu khi trích dẫn.


Bản quyền tài liệu thuộc về Thư viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.

được. Đó là cơng việc “phải làm thế nào tạo được một số đồng chí dám có cái
nhìn đảo lộn ngai vàng, đảo lộn q tộc, đảo lộn Khổng Mạnh, đảo lộn đặc quyền,
đảo lộn phương thức sinh hoạt, phong tục tập quán vào một thời xã hội còn tối
ngòm ngòm”. Giáo sư Trần Văn Giàu nhận xét: “Ảnh hưởng chủ yếu của các nhà

tư tưởng châu Âu không phải chủ yếu ở chỗ giải phóng dân tộc một cách triệt để,
cái đó thì lịch sử dân tộc Việt Nam bốn nghìn năm ơng thấy đã là lớn rồi, ảnh
hưởng của các nhà tư tưởng châu Âu chủ yếu ở chỗ khuynh hướng dân chủ tư sản
mà người yêu nước Việt Nam bấy giờ không tìm thấy ở trong khu vũ khí dân tộc
mình, phải tiếp thu từ nước ngoài, từ Âu Mỹ đã đi trước”.
Trí thức Việt Nam với phong trào Đơng Du. Từ những tư tuởng ban đầu
của Phan Bội Châu và các đồng chí của ơng chỉ là “cốt sao khơi phục được Việt
Nam, lập ra một chính phủ độc lập, ngồi ra chưa có chủ trương gì khác cả” tức
chỉ là một nhóm có tính chất cá nhân, thì đến đầu năm 1906 khi Duy Tân Hội có
cương lĩnh hẳn hoi “Khôi phục nước Việt Nam, lập thành nước quân chủ lập hiến”
và cho đến tháng 2 năm 1912 với việc ra đời của Việt Nam Quang phục hội:
“Đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục nước Việt Nam, thành lập nước Cộng hòa Dân
chủ Việt Nam” đã cho chúng ta thấy rằng tổ chức của cụ Phan đã tiến tới gần một
chính đảng thực sự. Đó là lý luận và thực tế của việc lập ra một đảng cách mạng
hiện đại, cương lĩnh về một nước Việt Nam độc lập, ban đầu theo chế độ quân
chủ, sau chuyển sang thành dân chủ dân tộc. Hai là, với phong trào Đông Du, đây
là một mốc quan trọng trong quá trình cứu nước của cụ Phan. Có thể nói rằng
Phan Bội Châu là người đầu tiên khơng bị bó hẹp như các thế hệ trước đó mà đã
mở tầm nhìn ra ngồi năm châu bốn biển, trước cả người thanh niên yêu nước
Nguyễn Tất Thành rời bến Nhà Rồng tháng 6 năm 1911. Thứ ba, phong trào Đông
Du, cho thấy Phan Bội Châu là người đầu tiên hướng tầm nhìn về nền văn minh
nhân loại, gắn cuộc vận động giải phóng dân tộc của Việt Nam với phong trào
cách mạng thế giới, mà sau này, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành
tiếp tục phát triển tư duy theo khuynh hướng này.

25
Tuân thủ Luật sở hữu trí tuệ và Quy định truy cập tài liệu điện tử. Ghi rõ nguồn tài liệu khi trích dẫn.



×