ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BÁO CÁO TỔNG KẾT KẾT QUẢ
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP ĐẠI HỌC QUỐC GIA
NGHIÊN CỨU HỆ THỐNG
NHỮNG VẤN ĐỀ NGUYÊN LÝ VĂN HỌC
Chủ nhiệm đề tài: PGS. TS. HUỲNH NHƯ PHƯƠNG
Mã đề tài: B2007-18b-03
Thời gian thực hiện: 24 tháng
TP. Hồ Chí Minh, tháng 11 - 2009
MỤC LỤC
DẪN NHẬP ................................................................................................................. 1
Chương 1 ..................................................................................................................... 5
VĂN HỌC, XÃ HỘI VÀ CON NGƯỜI ..................................................................... 5
1.1. KHÁI NIỆM “VĂN HỌC” ................................................................................... 5
1.2. TÍNH CHẤT XÃ HỘI CỦA VĂN HỌC..............................................................10
1.3. CHỨC NĂNG CỦA VĂN HỌC: .........................................................................14
1.4. GIÁ TRỊ CỦA VĂN HỌC....................................................................................24
Chương 2 ....................................................................................................................32
VĂN HỌC VÀ VĂN HOÁ.........................................................................................32
2.1. VĂN HỌC – MỘT BỘ PHẬN HỢP THÀNH CỦA VĂN HÓA ........................32
2.2. QUAN HỆ GIỮA VĂN HỌC VÀ NHỮNG BỘ PHẬN KHÁC CỦA VĂN HOÁ
......................................................................................................................................37
Chương 3: ...................................................................................................................51
VĂN HỌC VÀ ĐỜI SỐNG THẨM MỸ ...................................................................51
3.1. Ý THỨC THẨM MỸ TRONG VĂN HỌC: ........................................................51
3.2. VĂN HỌC VÀ SỰ KHÁM PHÁ THẨM MỸ .....................................................67
3.3. VĂN HỌC VÀ CÁC LOẠI HÌNH NGHỆ THUẬT............................................74
Chương 4 ....................................................................................................................88
VĂN HỌC VÀ NGƠN NGỮ......................................................................................88
4.1. NGƠN NGỮ VÀ LỜI NĨI...................................................................................89
4.2. NGƠN NGỮ THI CA VÀ CHỨC NĂNG THI CA CỦA NGÔN NGỮ .............93
4.3. NGÔN TỪ NGHỆ THUẬT VÀ NGHỆ THUẬT NGÔN TỪ .............................99
Chương 5 ..................................................................................................................113
NHÀ VĂN VÀ SÁNG TẠO VĂN HỌC ..................................................................113
5.1. PHẨM CHẤT TRÍ THỨC VÀ PHẨM CHẤT NGHỆ SĨ.................................113
5.2. TÂM LÝ SÁNG TẠO VĂN HỌC......................................................................118
5.3. LAO ĐỘNG NHÀ VĂN .....................................................................................127
Chương 6 ..................................................................................................................136
NGƯỜI ĐỌC VÀ TIẾP NHẬN VĂN HỌC............................................................136
6.1. TIẾP NHẬN VĂN HỌC – MỘT VẤN ĐỀ LÝ LUẬN......................................136
6.2. NGƯỜI ĐỌC VÀ “CHÂN TRỜI CHỜ ĐỢI”...................................................140
6.3. SỐ PHẬN LỊCH SỬ CỦA TÁC PHẨM VĂN HỌC QUA LĂNG KÍNH TIẾP
NHẬN.........................................................................................................................146
Chương 7 ..................................................................................................................153
NGHIÊN CỨU VÀ PHÊ BÌNH VĂN HỌC ............................................................153
7.1. LÝ LUẬN VĂN HỌC.........................................................................................154
7.2. LỊCH SỬ VĂN HỌC ..........................................................................................155
7.3. PHÊ BÌNH VĂN HỌC .......................................................................................163
7.4. PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU VĂN HỌC .......................................168
THƯ MỤC THAM KHẢO ......................................................................................171
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP ĐHQG - HCM
* TÊN ĐỀ TÀI: NGHIÊN CỨU HỆ THỐNG NHỮNG VẤN ĐỀ NGUYÊN LÝ VĂN HỌC
* MÃ ĐỀ TÀI: B2007-18b-03
* CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI: PGS. TS. HUỲNH NHƯ PHƯƠNG
Tel: 0918286219
E-mail:
* CƠ QUAN CHỦ TRÌ ĐỀ TÀI: TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN
VĂN – ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
10-12 Đinh Tiên Hồng, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh
*THỜI GIAN THỰC HIỆN:
24 THÁNG
MỤC TIÊU:
- Về mặt lý thuyết: Cơng trình này trình bày một cách hệ thống những vấn đề thuộc
nguyên lý văn học. Đề tài coi trọng việc kế thừa những ý kiến, luận điểm về văn học trong
di sản văn học cổ điển; đồng thời thể hiện tinh thần đổi mới trong nghiên cứu lý luận văn
học, tiếp thu có chọn lọc những thành tựu lý luận văn học ở nước ngoài trong những thập
niên gần đây.
- Về mặt thực tiễn: Đề tài cố gắng góp phần tác động nhất định vào sự đổi mới việc
nghiên cứu và phê bình văn học trong giai đoạn hiện nay. Trong phạm vi nhà trường, đề tài
thể hiện nỗ lực cải tiến nội dung và phương pháp giảng dạy lý luận văn học ở bậc đại học và
cao đẳng.
NỘI DUNG CHÍNH:
Sử dụng phương pháp hệ thống, đề tài này nhìn nhận và giải quyết những vấn đề
nguyên lý văn học như một hệ thống nhất quán, được liên kết chặt chẽ về khái niệm cũng
như luận điểm.
Đồng thời, những vấn đề nguyên lý văn học được soi chiếu dưới ánh sáng của kinh
nghiệm văn học, thực tiễn sáng tác và nghiên cứu, phê bình,
KẾT QUẢ CHÍNH ĐẠT ĐƯỢC:
Cơng trình đã giải quyết những vấn đề sau đây:
1. Văn học, xã hội và con người: Trình bày khái niệm văn học, tính chất xã hội, chức
năng và giá trị của văn học nhằm hướng tới mục tiêu phục vụ con người.
2. Văn học và văn hoá: Xác định văn học như một bộ phận cấu thành của văn hoá và
mối quan hệ giữa văn học với các thành tố khác của văn hoá (triết học, chính trị, tơn giáo,
giáo dục, phong tục…).
3. Văn học và đời sống thẩm mỹ: Nghiên cứu ý thức thẩm mỹ trong văn học; xem xét
văn học như một sự khám phá và sáng tạo thẩm mỹ; mối quan hệ giữa văn học và các loại
hình nghệ thuật khác (hội hoạ, âm nhạc, sân khấu, điện ảnh…).
4. Văn học và ngôn ngữ: Nghiên cứu đặc trưng của văn học với tư cách nghệ thuật ngôn
từ, khái niệm ngôn ngữ thi ca và chức năng thi ca của ngôn ngữ, đặc điểm của ngôn từ nghệ
thuật.
5. Nhà văn và sáng tạo văn học: Nghiên cứu phẩm chất trí thức và phẩm chất nghệ sĩ
của nhà văn; những yếu tố tâm lý sáng tạo văn học và đặc điểm của lao động nhà văn.
6. Người đọc và tiếp nhận văn học: Nghiên cứu lý thuyết tiếp nhận văn học, khái niệm
“chân trời chờ đợi” và số phận lịch sử của tác phẩm văn học qua lăng kính của sự tiếp nhận.
7. Nghiên cứu và phê bình văn học: Trình bày đối tượng và nhiệm vụ của các bộ môn
hợp thành khoa nghiên cứu văn học: lý luận văn học, lịch sử văn học, phê bình văn học và
phương pháp luận nghiên cứu văn học.
PROJECT ABSTRACT
THE SCIENTIFIC AND TECHNOLOGICAL PROJECT
OF VIET NAM NATIONAL UNIVERSITY – HO CHI MINH CITY
* PROJECT TITLE: A SYSTEMATIC STUDY ON THE PRINCIPLES OF
LITERARY THEORY
* CODE NUMBER: B2007-18b-03
* PROJECT MANAGER: MR. HUYNH NHU PHUONG, ASSOCIATE PROFESSOR
& DOCTOR
Mobile No.: 0918 286 219
Email:
* PROJECT SPONSORSHIP ORGANIZATION: UNIVERSITY OF SOCIAL
SCIENCE AND HUMANITIES, VIETNAM NATIONAL UNIVERSITY - HO CHI
MINH CITY
10-12 Dinh Tien Hoang Street, District 1, Ho Chi Minh City
*
DURATION:
24 MONTHS.
OBJECTIVES:
Theoretical objective:
to give a systematic presentation of literary principal issues.
to inherit opinions and theoretical view points on literature from classical
foundation.
to build up the innovative spirit in literary theoretical research and accept foreign
achievements on literary theory in the last decades in a selective way.
Practical objective:
to contribute in the innovation of literary research and criticism nowadays.
to help improve the content and methods of teaching literary theory in colleges
and universities.
MAIN CONTENTS:
Based on the systematic method, this project conceives and resolves principles of
literary theory as a consistent system of closely united concepts and theoretical view
points.
Besides, in this project, principles of literary theory are viewed in the light of literary
experience and the practice of writing, research and criticism.
MAIN RESULTS OBTAINED:
This project has resolved following issues:
1. Literature, society and human: Defining the concept of literature and its social
characteristics, functions and values for the purpose of helping people.
2. Literature and culture: Defining literature as a component of culture and the
relationships between literature and other components of culture (philosophy,
politics, religion, education, customary…)
3. Literature and aesthetics: Studying the sense of aesthetics in literature; viewing
literature as an exploration and creation of beauty; the relationships between
literature and other forms of arts (painting, music, theatre, film…)
4. Literature and languages: Studying the special characteristics of literature as verbal
art, the concept of poetic language and poetic function of language, the
characteristics of artistic languages.
5. Writers and literary creations: Studying the intelligentsia and artistic quality of
writers; the psychological elements influencing literary creations and the
characteristics of writing work.
6. Readers and literature reception: Studying the theory of literature reception, the
concept of “promising horizon” and the historical destiny of literary works in
reception theory.
7. Literary research and criticism: Defining the objects and roles of subjects in literary
research faculty: literary theory, literary history, literary criticism and literary
research methodology.
DẪN NHẬP
0.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Sự chậm trễ và sơ lược trong việc nghiên cứu những vấn đề nguyên lý văn học là một
thực trạng đã được nhiều nhà khoa học ở nước ta báo động trong những năm gần đây. Các
cơng trình bàn về vấn đề này hầu hết đều được công bố vào những thập niên cuối thế kỷ
XX. Nhiều luận điểm khoa học, trải qua thử thách của thời gian, cần được điều chỉnh, luận
chứng bổ sung. Nhiều tư liệu và dẫn chứng khoa học cần được cập nhật. Lý luận văn học
cần được tăng thêm sức sống và góp phần tích cực định hướng cho đời sống văn học. Trong
nhà trường, nội dung giảng dạy những vấn đề nguyên lý văn học cần tăng thêm sức thu hút
đối với sinh viên đại học và cao đẳng. Khoảng cách giữa đại học Việt Nam và đại học thế
giới trong lĩnh vực này cần được thu hẹp.
Trong tình hình đó, đầu tư tâm huyết, thời gian và sức lực cho việc nghiên cứu những
vấn đề nguyên lý văn học là một yêu cầu cấp thiết đặt ra cho nhà trường đại học.
Trước yêu cầu đổi mới và giảng dạy, một số giáo sư và nhà khoa học ở Viện Văn học,
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn – Đại học
quốc gia Hà Nội đã triển khai một số đề tài nghiên cứu về những vấn đề nguyên lý văn học
nói riêng, những vấn đề lý luận văn học nói chung. Thiết nghĩ, Đại học quốc gia TP. Hồ Chí
Minh là một trung tâm đào tạo và nghiên cứu chất lượng cao của cả nước cũng cần phải có
tiếng nói của mình về vấn đề này. Vì vậy, chúng tôi mạnh dạn đăng ký và chịu trách nhiệm
tổ chức thực hiện đề tài “Nghiên cứu hệ thống những vấn đề nguyên lý văn học”.
0.2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Những vấn đề nguyên lý văn học là lĩnh vực lý luận văn học có một lịch sử nghiên cứu
rất lâu dài. Ở đây, chúng tôi chỉ xin nêu vắn tắt một số nét khái quát về tình hình nghiên
cứu:
-
Ở nước ngoài:
1
Nga là nước có thế mạnh về lý luận văn học, trước đây có nhiều cơng trình nghiên
cứu về những vấn đề nguyên lý văn học đã xuất bản, như các cơng trình của các giáo sư ở
Trường Đại học quốc gia Moskva (G. Pospelov, P. Nicolaiev, P. Rudneva…), các học giả ở
Viện Văn học thế giới (N. Ghei, G. Belaia, S. Botsharov…). Đầu thế kỷ XXI, các nhà khoa
học Nga đã nghiên cứu lại những vấn đề này và cho ra mắt các cơng trình mới của Yu.
Borev (chủ biên), V. Khalizev…
Trung Quốc cũng là nước có nhiều đổi mới trong việc nghiên cứu những vấn đề
nguyên lý văn học qua các cơng trình xuất bản gần đây của Lý Trạch Hậu, Đồng Khánh
Bính, Đồng Học Văn và Trương Vĩnh Cương.
Trong khi đó, ở các nước phương Tây, một số lượng rất lớn các cơng trình nghiên
cứu về những vấn đề nguyên lý văn học đã được xuất bản. Trong đó, có những cơng trình
thực sự có giá trị của Tzvetan Todorov, Terry Eagleton, Jonathan Culler, R. Wellek, A.
Warren, Robert Con Davis…Trong giai đoạn mở cửa và hội nhập quốc tế hiện nay, trên
quan điểm và phương pháp luận mác-xít, chúng ta có thể tiếp thu có chọn lọc các thành tựu
trong những cơng trình này để nâng cao chất lượng nghiên cứu và giảng dạy văn học ở nước
ta.
-
Ở trong nước:
Ở Việt Nam, từ đầu những năm 60 thế kỷ trước đến nay đã có hơn mười cơng trình
nghiên cứu về ngun lý văn học đã được cơng bố của Nguyễn Lương Ngọc (chủ biên),
Phương Lựu (chủ biên), Hà Minh Đức (chủ biên), Lê Đình Kỵ, Nguyễn Văn Hạnh, Lê Ngọc
Trà, Trần Đình Sử (chủ biên), Phùng Quý Nhâm, Lâm Vinh…Những cơng trình đó đã có
đóng góp to lớn vào sự nghiệp nghiên cứu, giảng dạy lý luận văn học và trong chừng mực
nhất định, có tác động tích cực vào đời sống văn học nói chung. Tuy nhiên, như đã nói,
những cơng trình đó được nghiên cứu cách nay ít nhất cũng vài thập niên, do đó cần được
bổ sung để theo kịp với sự phát triển của tư tưởng lý luận và thực tiễn sáng tác hiện nay.
0.3. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
- Về mặt lý thuyết: Cơng trình này trình bày một cách hệ thống những vấn đề thuộc
nguyên lý văn học. Đề tài coi trọng việc kế thừa những ý kiến, luận điểm về văn học trong
2
di sản văn học cổ điển; đồng thời thể hiện tinh thần đổi mới trong nghiên cứu lý luận văn
học, tiếp thu có chọn lọc những thành tựu lý luận văn học ở nước ngoài trong những thập
niên gần đây.
- Về mặt thực tiễn: Đề tài cố gắng góp phần tác động nhất định vào sự đổi mới việc
nghiên cứu và phê bình văn học trong giai đoạn hiện nay. Trong phạm vi nhà trường, đề tài
thể hiện nỗ lực cải tiến nội dung và phương pháp giảng dạy lý luận văn học ở bậc đại học và
cao đẳng.
0.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài này chủ yếu sử dụng phương pháp hệ thống, nhìn nhận và giải quyết những vấn
đề nguyên lý văn học như một hệ thống nhất quán, được liên kết chặt chẽ về khái niệm cũng
như luận điểm. Phương pháp hệ thống bảo đảm tính lơ-gích và mối liên hệ nội tại giữa các
vấn đề được trình bày.
Đồng thời, đề tài không xem nhẹ phương pháp lịch sử, qua việc soi sáng những vấn đề
nguyên lý văn học dưới ánh sáng của kinh nghiệm văn học, thực tiễn sáng tác và nghiên
cứu, phê bình. Đề tài có ý thức tránh cách nghiên cứu tư biện, thuần tuý lý thuyết, xa rời
thực tiễn.
0.5. CẤU TRÚC CƠNG TRÌNH
Cơng trình gồm có phần Mở đầu và bảy chương:
- Chương 1: Văn học, xã hội và con người: Trình bày khái niệm văn học, tính chất xã
hội, chức năng và giá trị của văn học nhằm hướng tới mục tiêu phục vụ con người.
- Chương 2: Văn học và văn hoá: Nghiên cứu văn học như một bộ phận cấu thành của
văn hoá và mối quan hệ giữa văn học và các thành tố khác của văn hố (triết học, chính trị,
tôn giáo, phong tục…).
- Chương 3: Văn học và đời sống thẩm mỹ: Nghiên cứu ý thức thẩm mỹ trong văn học;
xem xét văn học như một sự khám phá và sáng tạo thẩm mỹ; mối quan hệ giữa văn học và
các loại hình nghệ thuật khác (hội hoạ, âm nhạc, sân khấu, điện ảnh…).
3
- Chương 4: Văn học và ngôn ngữ: Nghiên cứu văn học với tư cách nghệ thuật ngơn từ,
kh niệm ngôn ngữ thi ca và chức năng thi ca của ngôn ngữ, đặc điểm của ngôn từ nghệ
thuật.
- Chương 5: Nhà văn và sáng tạo văn học. Nghiên cứu phẩm chất trí thức và phẩm chất
nghệ sĩ của nhà văn; những yếu tố tâm lý sáng tạo văn học và đặc điểm của lao động nhà
văn.
- Chương 6: Người đọc và tiếp nhận văn học: Nghiên cứu lý thuyết tiếp nhận văn học,
khái niệm “chân trời chờ đợi” và số phận lịch sử của tác phẩm văn học qua lăng kính của sự
tiếp nhận.
- Chương 7: Nghiên cứu và phê bình văn học: Trình bày đối tượng và nhiệm vụ của các
bộ môn hợp thành khoa nghiên cứu văn học: lý luận văn học, lịch sử văn học, phê bình văn
học và phương pháp luận nghiên cứu văn học.
4
Chương 1
VĂN HỌC, XÃ HỘI VÀ CON NGƯỜI
Văn học là một trong những lĩnh vực cho thấy sự có mặt trong những chiều kích cao
sâu nhất của con người xã hội, con người có trí khơn, homo sapiens. Trên tiến trình phát
triển của mình, văn học đã để những dấu mốc ghi lại những bước vận động của tư duy và
tâm hồn nhân loại, đồng thời lưu giữ những giá trị tinh thần và những kỷ niệm sáng tạo mà
con người đã dày công xây đắp qua bao thế hệ. Văn học cũng là nơi thể hiện những trăn trở,
băn khoăn của con người trong việc tìm kiếm một thái độ ứng xử đối với quá khứ và hiện
tại, cũng như mở ra những ý hướng đổi mới cho tương lai.
1.1. KHÁI NIỆM “VĂN HỌC”
“Văn học” là một khái niệm liên kết được lịch sử tinh thần của các nước Đông Á: Việt
Nam, Trung Quốc, Nhật Bản. Nằm trong hệ thống các thuật ngữ “văn”, “văn chương”, “văn
minh”, “văn hoá”, “văn hiến”, nghĩa của thuật ngữ “văn học” gắn liền với văn tự, chữ viết.
Thoạt đầu, “văn học” là thuật ngữ dùng để chỉ những tác phẩm, cơng trình được tạo tác bằng
chữ viết của một dân tộc.
Vào nửa cuối thế kỷ XIX, thuật ngữ này được người Nhật dịch từ littérature trong
tiếng Pháp, literature trong tiếng Anh, sau đó được du nhập vào tiếng Trung Quốc và đến
đầu thế kỷ XX thì được sử dụng rộng rãi ở nước ta.
Trong ngôn ngữ các nước Âu Tây, littérature, literature… đều phái sinh từ littera
trong tiếng la-tinh, có nghĩa là lettres, letter, văn tự, và rõ ràng là xuất phát từ chữ viết hay
chữ in. Tuy nhiên, trong truyền thống của nhiều nước phương Tây cũng như phương Đông,
một số lượng khơng ít tác phẩm văn học đã được truyền khẩu trước khi được ghi lại bằng
chữ viết. Chẳng hạn, Iliade và Odyssée của Homère, Kinh Thi của Trung Quốc, những
truyện thơ dân gian của Việt Nam… Dù sao, khởi điểm của khái niệm văn học cũng là bản
chất ngôn từ của nó.
5
Trong tiếng Việt, trước khi khái niệm “văn học” được sử dụng rộng rãi, người ta
thường dùng khái niệm “văn”, “thơ văn”, “văn chương”. Nhưng văn chương khơng chỉ có
nghĩa là sáng tác thơ văn. Phan Huy Chú viết: “Văn chương của cổ nhân thường chia ra hai
lối, mà người ta vẫn lo ít ai tài kiêm được cả hai. Người có cái học chun về trước thuật thì
phần lớn kém ở lời văn hoa mỹ; trái lại, người có tài ngâm vịnh thì nói chung lại thiếu sự
un bác. Có tài kiêm được cả hai phương diện ấy thực khó lắm thay”. Như vậy văn
chương, theo Phan Huy Chú, bao gồm cả văn trước thuật, uyên bác lẫn văn ngâm vịnh, hoa
mỹ.
Đến đầu thế kỷ XX, trong thiên “Tự ngơn”, sách Việt Hán văn khảo, Phan Kế Bính lại
hiểu văn chương theo nghĩa hình tượng: “Văn là gì? Văn là vẻ đẹp. Chương là gì? Chương
là vẻ sáng. Lời của người ta, rực rỡ bóng bẩy, tựa như có vẻ đẹp sáng, cho nên gọi là văn
chương.
Người ta ai là khơng có tính tình, có tư tưởng. Đem cái tính tình tư tưởng ấy diễn ra
thành câu nói, tả ra thành đoạn văn, gọi là văn chương. Vậy thì văn chương tức là một bức
tranh vẽ cái cảnh tượng của tạo hố cùng là tính tình và tư tưởng của lồi người bằng lời nói
vậy”.
Đọc kỹ đoạn văn trên của Phan Kế Bính, ta khơng thấy ơng phân biệt văn chương với
văn học thuật; điều này cũng không mâu thuẫn với việc triển khai cuốn Việt Hán văn khảo
của ông: tác giả khảo sát không chỉ Kinh Thi mà cả Kinh Dịch, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu…
Ông xem Đại học, Luận ngữ, Trung dung, Mạnh tử… đều thuộc về “văn chương đời
Thượng cổ” và gọi đó là “văn chương kinh truyện”.
Thử so sánh với ý kiến của Nhan Chi Thôi trong thiên “Văn chương”, sách Nhan thị
gia huấn, chúng ta sẽ nhận ra sự gặp gỡ về quan niệm: “Văn chương vốn xuất phát từ ngũ
kinh: các thể chiếu, mệnh, sách, hịch được kinh Thư sinh ra; từ thuật, luận, nghị từ kinh
Dịch mà có; ca, vịnh, phú, tụng có gốc từ kinh Thi; tế, lễ, ai, lỗi xuất phát từ kinh Lễ; thư,
tấu, châm, minh theo gốc của kinh Xuân Thu”.
Một số nhà nghiên cứu nước ta có ý muốn phân biệt hai thuật ngữ “văn chương” và
“văn học” để chỉ một đằng là những sáng tác nghệ thuật bằng ngôn từ, và đằng khác là khoa
6
học nghiên cứu về các sáng tác đó. Có lẽ Nguyễn Văn Trung là một trong những người sớm
nhất đề ra sự phân biệt này. Trong Lược khảo văn học (tập 1), ông viết: “Nên dùng chữ văn
chương để chỉ định chính những tác phẩm do các nhà làm văn tạo thành: một cuốn tiểu
thuyết, một bài thơ, một vở kịch là văn chương. Nói cách khác, văn chương biểu lộ sinh
hoạt làm văn trên bình diện sáng tác. Văn chương là nội dung của ý hướng viết văn, là chính
thực tại văn khác với thực tại suy luận về văn. Suy luận về văn là văn học. Học là suy nghĩ,
nghiên cứu về một cái gì. Nhưng khơng phải suy nghĩ, nghiên cứu lung tung mà có phương
pháp, hệ thống mạch lạc, có cơ sở suy nghĩ và mục đích suy luận. Đó là một khoa theo
nghĩa khoa học (science). Vậy văn học là một khoa suy nghĩ, nghiên cứu về văn, cũng như
sử học là một khoa nghiên cứu về sử, chỉ định thực tại đó là sử. Như thế, đã rõ sáng tác
không phải bàn về sáng tác. Văn học biểu lộ sinh hoạt làm văn trên bình diện nghiên cứu,
phê bình, lý luận, giới thiệu văn chương”.
Về sau, Nguyễn Đức Nam cũng cùng một quan niệm như vậy, khi ông đề nghị: “Về
mặt thuật ngữ, nên phân biệt văn (hay văn chương) với văn học. Văn chương là cái di sản
tinh thần, bao gồm những tác phẩm văn, thơ, kịch đã được sáng tác ra trong những giai đoạn
lịch sử khác nhau. Văn học là khoa học về văn chương, khoa nghiên cứu văn chương, cũng
như ta nói về ngơn ngữ học, sử học, tốn học, sinh học…Khoa văn học là chiếc chìa khóa để
mở cái kho tàng nghệ thuật văn chương, nhằm lý giải và thấu đạt thơ văn, cảm thụ một cách
sâu sắc, đánh giá một cách đúng đắn, hướng tới những phẩm chất nhất định trong con
người”.
Sự phân biệt đó rõ ràng là có sự tiện lợi và hạt nhân hợp lý của nó. Tuy nhiên, như trên
kia đã nói, trong quá khứ, văn chương khơng chỉ có nghĩa là sáng tác, đối lập với khoa học,
và văn học không chỉ là trước tác, học thuật. Ngày nay, khi ta viết phê bình văn học, thì đó
khơng chỉ là phê bình tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ… mà cịn là phê bình các cơng trình
khảo cứu lý luận, văn học sử…
Mặt khác, nếu hiểu khoa học theo nghĩa rộng, thì trong văn chương hay sáng tác văn
học cũng có yếu tố khoa học, như khi M. Gorki nói “văn học là nhân học”. Chính Phan Kế
Bính cũng viết: “Văn chương là một thứ khoa học rất cao và rất khó”. Cho nên có thể nói,
sự phân biệt ranh giới giữa văn chương và văn học chỉ là tương đối.
7
Xét về cả khía cạnh lịch sử lẫn khía cạnh lý luận, có lẽ nên sử dụng hai khái niệm “văn
học” (littérature, literature) và “nghiên cứu văn học” (études littéraires, literary study hay
study of literature). Văn học là khái niệm có tính chất lịch sử và hiện nay vẫn được dùng
phổ biến để chỉ tồn bộ sáng tác ngơn từ đã diễn ra trong lịch sử; còn nghiên cứu văn học là
khoa học về văn học. Văn học là một loại hình sáng tạo nghệ thuật, cịn nghiên cứu văn học
là một ngành khoa học nhân văn, một lĩnh vực tri thức. Thuật ngữ “văn chương” có thể
được sử dụng để chỉ khía cạnh ngơn từ, nghệ thuật. Văn chương không chỉ là nghệ thuật của
tác phẩm văn học mà cịn là nghệ thuật diễn đạt trong cơng trình lý luận, phê bình, văn học
sử, chẳng hạn với giọng văn khúc chiết và giàu cảm xúc, vẻ đẹp của ngôn ngữ chính luận,
các lập luận hợp lơ-gích, các trích dẫn chính xác và tiêu biểu…
Đến đây, một vấn đề được đặt ra: vậy cái gì mới được gọi là văn học, và cái gì mới
đích thực là đối tượng của nghiên cứu văn học? Trả lời câu hỏi này, cần phải có cái nhìn lịch
sử, bởi văn học là một hiện tượng lịch sử, vận động và thay đổi theo thời gian. Trong văn
học cổ điển cũng như hiện đại, văn học Việt Nam cũng như thế giới, các tác phẩm thơ,
truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản… hẳn nhiên là sáng tác văn học và là đối tượng khảo sát
chủ yếu của nhà nghiên cứu văn học. Nhưng trong thời kỳ cổ điển, với quan niệm “văn triết
sử bất phân” nhiều tác phẩm triết học, sử học, chính trị, quân sự, hùng biện… cũng được
đưa vào lịch sử văn học. Trong lịch sử văn học Pháp, người ta bàn đến những bức thư của
bà De Sévigné... Trong lịch sử văn học Anh, người ta dành chỗ cho cả tác phẩm về triết học
của Berkeley, Hume, về kinh tế của Adam Smith… Trong lịch sử văn học Việt Nam, người
ta đề cập đến các thể cáo, hịch, chiếu: Bình Ngơ đại cáo của Nguyễn Trãi, Thiên đô chiếu
của Lý Thái Tổ, Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo… Những tác phẩm mà ngày nay gọi là
thơ Thiền, thực chất là những bài kệ như của Thiền sư Vạn Hạnh, Thiền sư Quảng Nghiêm,
Thiền sư Huyền Quang cũng thuộc về lịch sử văn học dân tộc. Như vậy, trong văn học cổ
điển, lịch sử văn học bao gồm cả những tác phẩm văn học chức năng có liên quan đến một
phạm vi rộng lớn của văn hóa, văn minh.
Tình hình đó đã dẫn đến một quan niệm mở rộng biên độ của nội hàm khái niệm văn
học, như được thể hiện qua ý kiến của Edwin Greenlaw: “Khơng có điều gì liên quan đến
lịch sử văn minh mà xa lạ với chúng ta; trong nỗ lực để hiểu một thời đại hay một nền văn
8
minh, chúng ta không tự giới hạn ở mỹ văn (belles-lettres) cũng như những tài liệu đã ấn
hành hay các bản thảo, mà chúng ta ln ln hình dung nhiệm vụ của mình trong viễn
tượng một sự đóng góp vào lịch sử văn hóa”.
Quan niệm đó có thể đúng với việc nghiên cứu văn học cổ điển. Nó cũng có thể phù
hợp với việc nghiên cứu văn học hiện đại theo chừng mực đó là những tác phẩm cần khảo
sát để giúp người nghiên cứu nhận thức được hoàn cảnh văn hóa – lịch sử của sự phát triển
văn học, từ đó soi chiếu vào bản thân các hiện tượng văn học. Tuy nhiên, khơng thể dựa vào
quan niệm đó để mở rộng phạm vi của văn học như trong quá khứ.
Bởi vì, từ thế kỷ XIX ở phương Tây, và đầu thế kỷ XX ở nước ta, đã hình thành một
quan niệm mới về văn học. Đó là quan niệm phân biệt văn học với các lĩnh vực khác như sử
học, triết học, báo chí, khoa hùng biện…Văn học là hoạt động tinh thần thuộc loại hình sáng
tạo (type créatif), khác với những hoạt động tinh thần thuộc loại hình phản ánh (type
réflexif). Độc giả văn học khơng phải là cơng chúng nói chung mà là một loại cơng chúng
đặc biệt quan tâm đến thế giới nghệ thuật, không đối nghịch nhưng cũng không đồng nhất
với độc giả của báo chí, văn chính luận…
Trong tình hình đó, dù dưới áp lực ngày càng tăng của các phương tiện truyền thông
đại chúng, văn học hiện đại cũng phải để ở ngoại vi những lời hiệu triệu và diễn văn chính
trị, những thiên hồi ký và ký sự báo chí, dù chúng không thiếu sức hấp dẫn cả về nội dung
tư tưởng lẫn hình thức văn chương. Nói cách khác, cho đến nay, dù cho những tác phẩm phi
hư cấu (non-fiction) ngày càng thu hút đơng đảo bạn đọc và có vai trị ngày càng lớn trong
đời sống văn hóa, nó vẫn chỉ có thể được xem là thuộc các thể loại “cận văn học” (paralittérature) mà thơi.
Chính vì vậy, những tác phẩm đó chưa được xem là văn học – dưới góc độ đặc điểm
loại hình chứ khơng phải dưới góc độ giá trị - và chưa trở thành đối tượng trung tâm của
khoa nghiên cứu văn học hiện đại.
Với tư cách là một loại hình nghệ thuật, cùng với âm nhạc, hội họa, điêu khắc, sân
khấu, điện ảnh, múa…, văn học là một hoạt động sáng tạo tinh thần của con người theo quy
9
luật của cái đẹp. Khác với các loại hình đó, văn học sử dụng ngôn từ vừa như chất liệu để
sáng tạo, vừa như đối tượng thẩm mỹ để tái tạo.
1.2. TÍNH CHẤT XÃ HỘI CỦA VĂN HỌC
Văn học nói riêng, nghệ thuật nói chung, là sản phẩm tinh thần của con người, đồng
thời là một hiện tượng xã hội. Từ thời nguyên thủy, con người đã biết đến hoạt động nghệ
thuật mà dấu vết còn để lại trên những vách đá của các hang động. Cùng với sự phân cơng
lao động, qua một q trình hồn thiện dài lãu, nghệ thuật đã chuyển dần từ trạng thái
nguyên hợp sang trạng thái chức năng rồi đến trạng thái thuần túy. Nhưng dù ở trạng thái
nào, nghệ thuật, bao gồm cả văn học, cũng ln ln mang tính chất xã hội.
Từ thời Cổ đại, Démocrite đã đề xuất thuyết bắt chước, được Aristote kế thừa và phát
triển qua khái niệm Mimèsis. Theo hai ông, nghệ thuật là sự “bắt chước” tự nhiên, nghĩa là
sự mô phỏng, phản ánh thực tại. Nghệ thuật dựa trên một thiên hướng của con người là thiên
hướng về sự mô phỏng. Trong Thi pháp học, Aristote viết: “Nói chung, dường như có hai
nguyên nhân, hơn nữa, lại là hai nguyên nhân tự nhiên đã làm nẩy sinh ra nghệ thuật thơ ca.
Thứ nhất, sự mô phỏng vốn sẵn có ở con người từ thuở nhỏ, và con người khác giống vật
chính là ở chỗ họ có tài mơ phỏng, nhờ có mơ phỏng đó mà họ thu nhận được những kiến
thức đầu tiên; còn điểm thứ hai là; những sản phẩm của sự mô phỏng mang lại thích thú cho
con người”. Sở dĩ như vậy, theo Aristote, là vì sự mơ phỏng này được thực hiện nhờ ngơn
từ, nhịp điệu và hịa âm. Ngun tắc “mơ phỏng” được vận dụng khơng chỉ trong nghệ thuật
tạo hình mà cả trong thơ ca và âm nhạc. Với nguyên tắc này, Aristote nhận thức đầy đủ sự
phong phú của thế giới khả giác, của các sự vật và hiện tượng thực tồn. Cái đẹp thực hữu
của thế giới là cội nguồn của ý thức thẩm mỹ và nghệ thuật.
Cũng như các loại hình nghệ thuật khác, văn học khơng thể “tự trị” với xã hội mà luôn
gắn liền với những điều kiện xã hội nhất định. Trong Góp phần phê phán kinh tế học chính
trị, K. Marx viết: “Achille có cịn tồn tại nữa hay khơng bên cạnh thuốc súng và đạn chì?
Hay là nói chung, trường ca Iliade có thể tồn tại được nữa khơng bên cạnh bàn in hay hơn
thế nữa, bên cạnh máy in? Những bài ca, những điệu hát và những nàng thơ, do đó những
tiền đề tất yếu của loại thơ anh hùng ca, đã chẳng biến đi một cách tất yếu khi chiếc bàn in
10
xuất hiện hay sao?”. Đời sống xã hội với trình độ sản xuất vật chất, với những mâu thuẫn và
xung đột, với đặc điểm về nếp sống và phong hóa góp phần quy định điều kiện ra đời và
phát triển của văn học nghệ thuật.
Nhưng nói như vậy khơng có nghĩa là văn học chỉ đáp ứng nhu cầu tinh thần của một
thời đại nhất định và sức sống của nó bị giới hạn trong cái hồn cảnh sản sinh ra nó. Marx
nói thêm: “Sức hấp dẫn của nghệ thuật Hy Lạp đối với chúng ta không mâu thuẫn với tính
chất cổ xưa của cái xã hội đã sản sinh ra nghệ thuật đó. Ngược lại, sức hấp dẫn đó chính lại
là sản phẩm của hồn cảnh đó và nó gắn liền với sự kiện là những điều kiện xã hội chưa
chín muồi đã sản sinh ra nghệ thuật đó, và chỉ có trong những điều kiện đó nó mới sản sinh
ra được, - những điều kiện xã hội đã vĩnh viễn không bao giờ trở lại được nữa”.
Nhà văn, chủ thể sáng tạo văn học, cũng là một sản phẩm xã hội, mang một thân phận
xã hội nhất định. Sống và làm việc trong một bối cảnh lịch sử cụ thể, nhà văn khơng thể
vượt thốt khỏi những tình thế chính trị, kinh tế, văn hóa của thời đại mình. Nhà văn có thể
chịu ảnh hưởng hoặc kháng cự lại những tình thế đó, nhưng khơng thể vơ can với nó. Quan
điểm nghệ thuật của Nguyễn Du khơng tách rời với thái độ xã hội của ông trong ứng xử với
triều đại Tây Sơn, với nhà Nguyễn và với nhân dân mình, điều đó đã để lại dấu vết không
chỉ trong bức tranh đời sống mà cả trong thế giới ước mơ và khát vọng của Truyện Kiều,
mặc dù tác phẩm này được gợi cảm hứng từ một cốt truyện của tác phẩm văn học Trung
Quốc.
Không phải ngẫu nhiên mà chương cuối sách Văn học là gì? của Jean-Paul Sartre
dành để nói về “Tình thế nhà văn năm 1947”. Đó là cái tình thế mà Sartre gọi là “tình thế
cực đoan” hay “tình thế giới hạn”, nó buộc các nhà văn phải chọn lựa để xác định cho mình
một thái độ. Khi nói về thái độ dấn thân của nhà văn, chính Sartre từng nhắc lại một câu nói
của B. Pascal: “Chúng ta đã xuống thuyền”. Sống và viết là cùng với nhân loại chia sẻ vị trí
trên một con thuyền, không thể giữ tư thế “chân trong, chân ngoài” hay dửng dưng, bàng
quan trước số phận dân tộc và thực trạng xã hội.
Nhà văn nào, văn học ấy. Nhà văn dấn thân thì văn học mang tính tích cực x hội. Nhà
văn thốt ly thì văn học viễn mơ. Những đại biểu ưu tú trong tầng lớp trí thức sáng tác của
11
một dân tộc ln nhìn thấy ý nghĩa của sự sáng tạo trong việc dùng ngòi bút để nâng đỡ
những người bị bách hại. Trái lại, im lặng với thái độ an tâm trước những bất công và đau
khổ mà đồng loại phải chịu đựng có thể khiến nhà văn trở thành người đồng lỗ với tội ác.
Sartre có lý khi cho rằng G. Flaubert và Goncourt phải liên đới chịu trách nhiệm trước vụ
đàn áp sau Công xã Paris, vì họ đã khơng viết một dịng nào để ngăn cản việc đàn áp đó.
Tương tự như vậy, R. Kipling đã ủng hộ chính sách thuộc địa của đế quốc Anh. Trái lại,
trong khi đó, E. Zola đã lên tiếng về vụ án Dreyfus, A. Gide về chính sách của Pháp ở
Congo, cũng như chính Sartre về cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam.
Dù có đứng trên lập trường phản ánh luận hay không, người ta cũng không thể phủ
nhận ánh phản chiếu của xã hội trong nội dung của tác phẩm văn học. Ánh phản chiếu đó có
thể đậm nét như trong những bộ tiểu thuyết trường thiên mang tính chất hiện thực của
Balzac, Tolstoi; có thể tinh vi như trong những thiên truyện kỳ ảo của Kafka, Agnon; có thể
bàng bạc như trong những bài thơ trữ tình của Tagore, Zymborska…Nhà văn chỉ có một
thời để sống và một thời để viết. Dù khi sáng tác, nhà văn đang ở giữa hoang đảo của lịng
mình, ông ta vẫn không thể không nghe thấy tiếng dội của sóng biển thời đại xơ vào vách đá
tâm hồn.
Sự lạm dụng thực tiễn văn học hiện thực chủ nghĩa để chứng minh cho giá trị tuyệt đối
của phản ánh luận dễ gây ra những phản ứng trái chiều trước sự bất công trong ứng xử với
những trào lưu văn học hiện đại chủ nghĩa. Nhưng một cách điềm tĩnh, đứng trên nguyên lý
mỹ học của sự sáng tạo, thì mọi sáng tác văn học, suy cho cùng cũng là sản phẩm của một
xã hội nhất định, tác giả của nó, ở mặt này hay mặt khác, cũng là đứa con của thời đại và
mang tâm thế của thời đại. Đó là chưa nói đến những nhà văn có ý thức tự giác trở thnh
“người thư ký trung thành của thời đại” và muốn tác phẩm của mình là “tấm gương di
chuyển trên đường phố”.
Tính chất xã hội của văn học càng được khẳng định khi ta tính đến một nhân tố cực kỳ
quan trọng đối với sự phát triển của nó: đó là độc giả. Mơi trường xã hội bao quanh văn học
khơng chỉ là thời tiết chính trị, cán cân của những lực lượng trong xã hội mà cịn là ảnh
hưởng của các tầng lớp độc giả ln chi phối, thậm chí gây áp lực lên đời sống văn học.
Cũng có thể nói độc giả nào, văn học ấy. Trong điều kiện kinh tế thị trường, văn học trở
12
thành một thứ hàng hóa và độc giả - với nhu cầu xã hội và thị hiếu thẩm mỹ của mình – trở
thành “người đặt hàng” trực tiếp hay gián tiếp cho nhà văn. Ngay cả khi nhà văn “tuyên
chiến” với thị hiếu của độc giả, thì thực sự ơng đã không thể bàng quan với thị hiếu ấy, đồng
thời vẫn hướng đến một thành phần độc giả khác với những thị hiếu khác.
Để văn học sống đời sống của mình và phát huy được chức năng xã hội, nó phải chịu
sự tác động của rất nhiều yếu tố, qua rất nhiều “cơng đoạn”. Đó là vai tró của người biên
tập, của cơ quan xuất bản và phát hành, của giới phê bình và dư luận xã hội, của các giải
thưởng văn học… So với những thế kỷ trước, hiện nay, nhờ các phương tiện truyền thông
đại chúng, nhờ internet, sự phản hồi của công chúng đối với một hiện tượng văn học thường
diễn ra rất nhanh chóng. Với cơng nghệ in ngày càng tân tiến, sự phổ biến văn học chưa bao
giờ thuận lợi như bây giờ. Một tác giả được nhận giải thưởng Nobel năm trước, năm sau đã
có thể có sách dịch sang tiếng Việt. Khơng hiếm những thí dụ chứng minh cho hiệu ứng xã
hội của văn học ở Việt Nam cũng như trên thế giới.
Nói điều đó để cho thấy rằng nhà văn ln phải nhận thức trách nhiệm tinh thần của
mình đối với xã hội. Điều nhà văn viết ra có thể đụng chạm đến thế giới tinh thần của hàng
vạn người, thậm chí hàng triệu người. Không một nhà văn lớn nào lại ở ngoại vi của những
biến động xã hội và không có tiếng nói, cả với tư cách cơng dân lẫn với tư cách nghệ sĩ, về
dân tộc và thời đại của mình. Sartre từng nói rằng trước một đứa trẻ em chết đói ở châu Phi,
cuốn Buồn nơn chẳng có giá trị gì cả. Ở đây có thể nhà văn muốn dùng ngoa ngữ để gây sự
chú ý, nhưng cái tinh thần đề cao sự dấn thân của người nghệ sĩ thì khơng ai có thể phủ nhận
được. A. Solzhenitsyn với Tầng đầu địa ngục, Khu ung thư, Một ngày trong đời I.
Denosevitch… đã gay gắt phê phán chế độ toàn trị cực quyền đến mức phải sống lưu vong ở
nước ngồi; nhưng khi Liên Xơ sụp đổ, trở về Tổ quốc, cũng chính ơng lên tiếng phê phán
mạnh mẽ “chủ nghĩa tư bản man dã” đã bào mòn những giá trị văn hóa của nước Nga.
Trong cả hai trường hợp, sự dũng cảm của nhà văn đều xuất phát từ tiếng gọi của lương tri
nghệ sĩ. Đó cũng là thái độ của M. Bulgakov, I. Zhoshenko, A. Rybakov…đối với chủ nghĩa
toàn trị; thái độ của A. Paton, N. Gordimer, J. M. Coetzee đối với chủ nghĩa phân biệt chủng
tộc.
13
Lịch sử văn học còn chứng kiến những trường hợp phức tạp và tế nhị hơn nhiều về
mối quan hệ giữa nhà văn và xã hội. John Steinbeck, tác giả Chùm nho uất hận, là một nhà
văn Mỹ có tinh thần nhân đạo; nhưng khi ông tỏ thái độ ủng hộ cuộc chiến tranh xâm lược
của Mỹ ở Việt Nam, ông đã đánh mất sự tôn trọng mà bạn đọc dành cho ơng vì một cách
nào đó, ơng đã chìa bàn tay ra với tội ác. Gunter Grass nổi tiếng và được giải thưởng Nobel
với tiểu thuyết Cái trống thiếc, một tác phẩm kết án sâu sắc chủ nghĩa phát-xít Đức; nhưng
khi bí mật về việc nhà văn tham gia đội qn SS mà ơng giấu kín lâu nay bị tiết lộ, uy tín xã
hội và văn học của ơng đã bị suy giảm.
Ngày hôm nay nhân loại phải đối mặt khơng biết bao nhiêu vấn đề nóng bỏng: cuộc
chạy đua vũ trang, chiến tranh khu vực, xung đột sắc tộc và tôn giáo, nạn ô nhiễm môi
trường sinh thái, sự bạo hành đối với phụ nữ và trẻ em… Trong khi đi tìm lời giải đáp cho
những vấn đề nóng bỏng đó, nhân loại xem văn học như một chỗ dựa tinh thần và chờ đợi
tiếng nói chính luận và nghệ thuật của nhà văn. Văn học là của con người và vì con người,
văn học làm sao có thể lảng tránh những vấn đề thiết thân với số phận và cuộc sống con
người như thế. Nhà văn thể hiện vai trị của mình trong thái độ đối với xã hội, với chính
quyền và cơng chúng, nhưng chủ yếu là trong tác phẩm của mình.
1.3. CHỨC NĂNG CỦA VĂN HỌC:
Bàn về chức năng của văn học nói riêng, nghệ thuật nói chung, các sách lý luận văn
học ở nước ta trước thời kỳ Đổi mới thường nêu lên ba chức năng chủ yếu: nhận thức, giáo
dục và thẩm mỹ. Bước sang thời kỳ Đổi mới, các nhà lý luận muốn mở rộng tính chất đa
chức năng của văn học, đã bổ sung thêm vào ba chức năng trên các chức năng khơng kém
phần quan trọng: giao tiếp, giải trí và cả dự báo nữa.
Đồng thời cũng có những tìm tòi trong việc diễn giải vấn đề chức năng cuả văn học.
Chẳng hạn có ý kiến cho rằng thực ra văn học chỉ có một chức năng bao trùm là truyền đạt
tình cảm: truyền tiếng nói từ trái tim này đến trái tim khác, từ nhà văn đến bạn đọc và từ bạn
đọc đến với nhau. Một ý kiến khác cũng đáng chú ý: văn học chỉ có hai chức năng là nhận
thức và giáo dục, còn thẩm mỹ là chất lượng của hai chức năng trên. Trong xu hướng đề cao
14
cái đẹp trong văn học, cũng có ý kiến muốn đưa thẩm mỹ lên thành chức năng hàng đầu
trong bản hệ thống các chức năng của văn học.
Nói đến chức năng của văn học là muốn tìm câu trả lời cho câu hỏi: “Văn học để làm
gì?”. Văn học bắt nguồn từ đời sống, nó chính là sự sống chất chứa trong ngôn từ. Văn học
“hành chức” như một cơ thể sống, một phương diện của đời sống. Mà đời sống thì đa dạng
khơn lường, nên văn học cũng mang nhiều chức năng khác nhau, tùy theo góc độ ta chọn để
nhìn về văn học. Chính vì vậy, khoa mỹ học và lý luận văn học Nga vốn để lại ảnh hưởng
khá sâu đậm trong lý luận văn học nước ta, thường chia nhỏ vấn đề chức năng thành nhiều
khía cạnh để khảo sát. Chẳng hạn, cơng trình Mỹ học (NXB Sách chính trị, Moskva, 1988)
của Yu. Borev đề xuất đến chín chức năng, căn cứ theo cách nhìn nhận về bản chất của
nghệ thuật, như sau:
- Chức năng cải tạo xã hội: nghệ thuật với tư cách là hoạt động.
- Chức năng nhận thức – giáo dục: nghệ thuật xem như một lĩnh vực nhận thức và giáo
dục.
- Chức năng quan niệm về nghệ thuật: nghệ thuật xem như sự phân tích trạng thái của
thế giới.
- Chức năng tiên báo: nghệ thuật như một lĩnh vực dự báo về tinh thần.
- Chức năng thông tin và truyền thông: nghệ thuật như là lĩnh vực thông báo và giao
tiếp.
- Chức năng giáo dục: nghệ thuật như một lĩnh vực thanh lọc tâm hồn, góp phần hình
thành phẩm cách cá nhân.
- Chức năng tác động: nghệ thuật như là sự tác động.
- Chức năng thẩm mỹ: nghệ thuật như là sự hình thành tinh thần sáng tạo và những
định hướng giá trị.
- Chức năng bảo tồn: nghệ thuật như là một di sản.
15
Trong cơng trình này, chúng tơi muốn lý giải vấn đề chức năng trong mối tương quan
với bản chất xã hội và thẩm mỹ của văn học, như một lĩnh vực hoạt động đặc thù của con
người và trong sự gặp gỡ giữa quan niệm ở phương Đông cũng như phương Tây.
Trước hết, có thể khẳng định chức năng hàng đầu của văn học và nghệ thuật là thanh
lọc và bồi dưỡng tâm hồn của con người. Aristote, nhà mỹ học Hy Lạp thời Cổ đại, đã diễn
đạt điều này bằng khái niệm Catharsis. “Sự thanh lọc” hay “sự thanh tẩy” vốn là một khái
niệm được sử dụng trong lĩnh vực tôn giáo, đạo đức, y học. Chẳng hạn, theo Cựu ước,
những người muốn thờ phụng, cầu nguyện và hiệp thơng với Thiên Chúa thì phải giữ mình
trong tình trạng được thanh tẩy, nghĩa là không được làm mất sự thanh khiết do ăn những
thức ăn bị cấm, tiếp xúc với những hiện tượng ô uế…
“Sự thanh lọc tâm hồn” được Aristote sử dụng đầu tiên trong các tác phẩm Thi pháp
học và Chính trị học, đã trở thành một khái niệm quan trọng trong mỹ học và lý luận văn
học. Theo Aristote, bi kịch và âm nhạc có khả năng gợi ra những trạng thái tình cảm như sự
lo âu, lịng trắc ẩn, niềm phấn khích…và từ đó sẽ thanh lọc, giảm trừ những tình cảm tiêu
cực như sự bàng quan, dửng dưng, vơ cảm…; nhờ vậy mà tình cảm của người tiếp nhận trở
nên thuần khiết, trong sáng.
Aristote cho rằng nghệ thuật liên quan mật thiết với đời sống con người, nó đem lại
cho con người “niềm vui của sự nhận thức” và góp phần hồn thiện con người về mặt tình
cảm. Tác phẩm nghệ thuật nâng cao phẩm giá con người, vì thơng qua “sự thanh lọc về tâm
hồn”, nó giải phóng con người khỏi những dục vọng xấu xa.
Như vậy, thanh lọc tâm hồn là hiệu quả của sự liên kết giữa những trạng thái tình cảm
tự nhiên có sẵn của một người với những trạng thái tình cảm mới nẩy sinh trong quá trình
thưởng thức, cảm thụ một tác phẩm nghệ thuật. Nhờ quá trình tiếp nhận này mà tâm hồn con
người trở nên tinh tế, phong phú và biết rung động trước cái đẹp cũng như trước nỗi đau của
đồng loại.
Văn học là một thứ dưỡng chất tinh thần của nhân loại, giúp tăng cường tính người của
con người. Thơng qua việc tái hiện và sáng tạo cái đẹp, văn học gợi lên trong ta những cảm
16
xúc về thẩm mỹ, niềm rung động, tính nhạy cảm đối với nỗi đau và niềm vui, sự tinh tế, tình
u thương, lịng trắc ẩn và sự hướng thiện.
Theo Khổng Tử, thơ, nhạc, vũ có khả năng cảm hóa nhân tâm, bồi đắp tinh thần, di
dưỡng tính tình. Trong Luận ngữ, thiên “Dương hóa”, ơng viết: “Thơ có thể giúp cho việc
tạo hứng khởi, việc xem xét, việc đoàn kết, việc căm ghét. Gần có thể giúp cho việc thờ cha,
xa giúp cho việc thờ vua, lại biết được nhiều tên các lồi chim mng cây cỏ” (Thi khả dĩ
hứng, khả dĩ quan, khả dĩ quần, khả dĩ oán. Nhĩ chi sự phụ, viễn chi sự quân, đa thức vu
điểu thú thảo mộc chi danh).
Chu Hy, người đời Tống, giải thích “hứng” là tình cảm nảy nở ảnh hưởng tới ý chí
(cảm phát ý chí); “quan” là xem xét phong tục thịnh suy (quan phong tục chi thịnh suy),
khảo cứu xem việc được mất (khảo kiến đắc thất). Còn theo Khổng An Quốc, “quần” là
sống quây quần thân thiết với nhau (quần cư tương thiết tha), nghĩa là “cộng minh” tình
cảm, bồi dưỡng tư tưởng hợp quần; “ốn” tức là oán giận chính trị của bề trên (oán thích
thượng chính).
Những giải thích của người đời sau này có thể khơng hồn tồn đúng ý Khổng Tử,
thậm chí trái ngược với tín niệm của ơng, chẳng hạn trong mối liên quan giữa khái niệm
“oán” và “thờ vua”. Tuy nhiên, trong bốn phương diện chính là tạo hứng khởi, quan sát
phong tục, hòa hợp với mọi người và bày tỏ nỗi sầu ốn, thì yếu tố tình cảm vẫn ở vị trí
hàng đầu và cốt lõi, mặc dù tư tưởng Khổng Tử gần với phái “thi ngơn chí” hơn là phái “thi
dun tình”.
Chính vì vậy, khơng có gì khó hiểu khi Khổng Tử dành nhiều công phu san định Kinh
Thi và Kinh Nhạc để làm nội dung dạy học. Ông cho rằng người qn tử phải học Kinh Thi,
vì “khơng học Kinh Thi, thì khơng có gì để ăn nói” (Bất học thi, vô dĩ ngôn). Theo nhận
định của Khổng Tử, nhạc Thiều đời vua Ngu - Thuấn là tận mỹ, tận thiện (tận mỹ hĩ, hựu
tận thiện dã); nhạc Vũ của đời vua Vũ Vương là tận mỹ nhưng chưa tận thiện (tận mỹ hĩ, vị
tận thiện dã). Nghệ thuật có tận mỹ, tận thiện thì mới có tác dụng “hứng, quan, quần, ốn”.
Điều này cũng có liên quan đến ý kiến của ông về mối quan hệ giữa “văn” và “chất”: “Chất
nhiều hơn văn thì khơng tránh khỏi thơ thiển, văn nhiều hơn chất thì khơng tránh khỏi hư
17
rỗng. Văn và chất phối hợp thích đáng thì đó mới là người quân tử vậy” (Chất thắng văn tất
dã, văn thắng chất tất sử, văn chất bân bân, nhiên hậu quân tử). (Trích Khâu Chấn Thanh).
Thứ hai, đồng thời với việc thanh lọc và bồi dưỡng tâm hồn, nghệ thuật nói chung, văn
học nói riêng cịn có tác dụng làm phong phú trí tuệ của con người. Văn học chân chính
giúp cho người đọc hiểu biết cuộc sống, từ quá khứ, hiện tại đến tương lai, từ những hiện
tượng đến quy luật, một cách sâu sắc. Qua sự khám phá của nhà văn về con người và thế
giới như thể hiện trong tác phẩm, ta có thể rút ra những khám phá của chính mình về con
người và thời đại mà chúng ta đang sống và dự báo cho tương lai. Và như vậy, trí tuệ của ta
được văn học đánh thức. Tất nhiên đây là nói văn học có chiều sâu tư tưởng chứ khơng phải
các loại hư văn.
Văn học khai mở cho trí tuệ con người bằng cách giúp độc giả nhận chân sự thật của
đời sống ở chiều sâu của nó cùng với sự nhận thức về tâm hồn và thế giới tình cảm của nhân
loại và của chính mình. Đặc biệt, ở những thế kỷ trước, khi khoa học, cơng nghệ và báo chí
chưa có nhiều thành tựu, thì văn học là kho tàng lưu giữ vốn sống, sự hiểu biết và kinh
nghiệm xã hội của con người. Ngày nay, cuộc cách mạng trong lĩnh vực công nghệ thông tin
đã cung cấp cho nhân loại những phương tiện tối ưu để lưu giữ, truyền bá kiến thức và
thông tin, do vậy văn học càng phải đặt ưu tiên cho việc đi sâu khám phá và tái hiện thế giới
tâm tư tình cảm và những quy luật của tâm hồn con người trong những bước chuyển biến
của thời đại.
Mỹ học phương Tây thế kỷ Ánh sáng rất coi trọng yếu tố trí tuệ trong việc nhận thức
chân lý và thể hiện cái đẹp. D. Diderot quan niệm “cái thật, cái tốt và cái đẹp có quan hệ rất
mật thiết với nhau”. Theo ông, cơ sở của nghệ thuật là việc tái hiện chân lý cuộc sống, bắt
chước thiên nhiên và cái đẹp của thiên nhiên. Ông viết: “Người ta chỉ thấy được giá trị của
tác phẩm bằng cách quy nó về tự nhiên”; và “các sản phẩm của nghệ thuật sẽ tầm thường,
khơng hồn hảo, ít giá trị chừng nào người ta chưa có ý định mơ phỏng tự nhiên một cách
hết sức chính xác”. Ở một chỗ khác, ông khẳng định: “Chỉ những cái đẹp nào dựa trên sự
liên hệ với những tạo vật của thiên nhiên thì mới sống lâu. Cái đẹp trong nghệ thuật có cơ sở
giống in như chân lý trong triết học. Chân lý là gì? Là sự phù hợp của những xét đoán của
18