Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

Bước đầu tìm hiểu và đánh giá những tác động của du lịch cộng đồng đến đời sống kinh tế và ý thức bảo vệ tài nguyên thiên nhiên của người dân chày lập đề tài sinh viên nghiên cứu khoa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (527.25 KB, 53 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

ĐỀ TÀI SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC EURÉKA NĂM 2011

ĐỀ TÀI:

BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU VÀ ĐÁNH GIÁ NHỮNG TÁC
ĐỘNG CỦA DU LỊCH CỘNG ĐỒNG ĐẾN ĐỜI SỐNG
KINH TẾ VÀ Ý THỨC BẢO VỆ TÀI NGUYÊN THIÊN
NHIÊN CỦA NGƯỜI DÂN CHÀY LẬP

GVHD: Th.S Trương Thị Thu Hằng
Chủ nhiệm: Lê Nhung


MỤC LỤC

TÓM TẮT ĐỀ TÀI ........................................................................................ 1
1.Đặt vấn đề .................................................................................................... 3
2. Mục tiêu và phương pháp nghiên cứu ....................................................... 9
3. Giải quyết vấn đề ...................................................................................... 12
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ ĐỊA BÀN VÀ TIỀM NĂNG DU LỊCH .. 12
1.1 Sơ lược về địa bàn nghiên cứu ............................................................ 12
1.2 Tiềm năng du lịch ................................................................................ 14
CHƯƠNG 2: SỰ THAY ĐỔI VỀ ĐỜI SỐNG KINH TẾ VÀ Ý THỨC
BẢO TỒN TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA DU
LỊCH CỘNG ĐỒNG .................................................................................... 18
2.1 Chày Lập trước khi có du lịch cộng đồng .......................................... 18
2.2 Chày Lập sau khi có du lịch cộng đồng.............................................. 27
CHƯƠNG 3: NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC TRONG ĐỊNH


HƯỚNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG TẠI CHÀY LẬP ........... 40
3.1 Những thế mạnh và cơ hội:................................................................. 40
3.2 Những hạn chế và thách thức của du lịch cộng đồng Chày Lập ....... 42
4. Kết luận và kiến nghị ............................................................................... 46


1

TÓM TẮT ĐỀ TÀI
Ngày nay, chất lượng cuộc sống được nâng cao cùng với sự lan rộng của
q trình tồn cầu hóa đã thúc đẩy sự giao lưu kinh tế văn hóa giữa các nước
trên thế giới. Bắt đầu từ việc đi chơi, trải nghiệm, những chuyến công tác,
thưởng ngoạn cảnh đẹp núi sơng, con người có nhu cầu nhiều hơn về những cái
mới để thỏa mãn tâm lý chuộng lạ. Tư tưởng muốn hưởng thụ và giải tỏa
những căng thẳng bằng việc đi chơi xa đã tạo điều kiện cho sự phát triển lớn
mạnh của ngành du lịch. Con người vượt khỏi những cấu trúc xã hội thường
ngày để tìm đến khơng gian mới với những nền văn hóa khác với văn hố của
họ. Khơng khí ồn ào náo nhiệt của những thành phố công nghiệp hiện đại khiến
con người muốn tìm về thiên nhiên, sống trong khơng gian xanh, trong lành,
thoáng đãng. Nắm bắt được thị hiếu của du khách, các nhà đầu tư đưa vào du
lịch mô hình Homestay (du lịch tại gia), vừa tận dụng lợi thế của địa phương có
nhiều tiềm năng về cảnh quan sinh thái, vừa tạo điều kiện để phát triển kinh tế
văn hóa cho những người dân trong vùng có dự án. Tại Việt Nam, du lịch
Homestay đã được triển khai và gặt hái nhiều thành cơng.
Sau một thời gian tìm hiểu, tôi ấp ủ việc thực hiện đề tài nghiên cứu về
loại hình du lịch này. Địa điểm tơi chọn là khu du lịch Chày Lập thuộc xã Phúc
Trạch huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.
Thời gian thực hiện đề tài kéo dài từ tháng 5 năm 2010 đến tháng 4 năm 2011.
Kết cấu gồm ba chương.
Chương 1: Khái quát đặc điểm tự nhiên, văn hoá, xã hội của địa bàn

nghiên cứu và tiềm năng du lịch sinh thái và nhân văn của vùng.
Chương 2: Sự thay đổi về đời sống và ý thức bảo tồn tài nguyên thiên
nhiên của người dân Chày Lập dưới tác động của du lịch cộng đồng.
Chương 3: Những kiến nghị về giải pháp phát triển du lịch bền vững tại
Chày Lập


2

Do thời gian nghiên cứu và triển khai dự án có hạn nên đề tài chỉ mang
tính phát hiện nêu vấn đề và đề xuất những giải pháp nhằm làm tư liệu cho các
nghiên cứu sau.


3

1.Đặt vấn đề
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Trái đất đang nóng dần lên. Bầu khí quyển xanh của nhân loại đang bị
đe dọa đến mức báo động. Sự phát triển của q trình cơng nghiệp hóa đem lại
lợi ích cho con người về kinh tế, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của cuộc
sống. Tuy nhiên chất thải từ những hoạt động công nghiệp đã làm cho môi
trường bị suy thối nặng nề. Vấn đề là cần tìm hướng giải quyết làm sao thỏa
mãn chất lượng cuộc sống, kinh tế nhưng vẫn đảm bảo sự sống của trái đất.
Ô nhiễm môi trường là mối lo ngại hàng đầu của các Quốc gia trên thế
giới, nó đặt ra nhiều thách thức đối với sự phát triển du lịch theo định hướng
bền vững. Du lịch văn hóa cộng đồng ra đời là một hướng giải quyết ưu việt,
vừa thỏa mãn sở thích của du khách muốn khám phá thiên nhiên, thích mạo
hiểm và tìm hiểu những nền văn hóa mới lạ. Đồng thời tạo ra nhiều thuận lợi
cho người dân bản địa, giải quyết phần nào cuộc sống tại chỗ cho người dân,

cải thiện đời sống của họ, mặt khác, bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên
nhiên. Du lịch cộng đồng đã được nhiều nước trên thế giới áp dụng thành công
như Thái Lan, Australia, Indonesia…Gần đây ở Việt nam, dự án du lịch cộng
đồng đã được thực hiện trên địa bàn nhiều Tỉnh. Một trong những khu du lịch
cộng đồng đang dần khẳng định tên tuổi của mình là khu du lịch cộng đồng
Chày Lập, xã Phúc Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.
Dự án được triển khai vào cuối năm 2009 với sự tài trợ của Bộ Nông
nghiệp Hoa Kỳ thơng qua chương trình “Lương Thực Vì Sự Tiến Bộ” của
Quảng Bình và tổ chức Counterpart International Vietnam cùng đối tác là Ủy
ban nhân dân huyện Bố Trạch với tổng số vốn tài trợ là 97.000 USD. Mô hình
du lịch Homestay đầu tiên tại Quảng Bình đã giúp cải thiện phần nào đời sống
cho hơn 22 trong số 193 hộ gia đình thất nghiệp tại thơn Chày Lập, giảm thiểu
mức độ xâm hại tài nguyên thiên nhiên, khai thác tài nguyên trái phép thuộc
khu vực Vườn Quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng. Nâng cao dân trí cho người dân
đồng thời giới thiệu đến du khách những nét văn hóa độc đáo và vẻ đẹp chất
phác của con người nơi đây. Du lịch cộng đồng đã làm thay đổi phần nào đời
sống kinh tế của người dân Chày Lâp và nhận thức của họ đối với việc bảo tồn


4

tài nguyên rừng và đa dạng sinh học. Từ một làng chủ yếu sống dựa vào nghề
rừng, khai thác trái phép tài nguyên rừng để kiếm kế sinh nhai đã trở thành một
làng du lịch đầy tiềm năng. Tuy nhiên do trong giai đoạn sơ khai nên dự án
chưa khai thác triệt để thế mạnh du lịch và còn nhiều hạn chế chưa tương xứng
với tiềm năng sinh thái của vùng. Liệu những tác động tích cực của du lịch có
hiệu quả dài lâu và giải quyết triệt để được vấn đề việc làm, thu nhập ổn định
cho người dân hay khơng? Người dân có trở lại hoạt động khai thác trái phép
tài nguyên thiên nhiên sau khi có hoạt động du lịch? Từ đó cần đánh giá đúng
những tiềm năng để nhận thấy tầm ảnh hưởng của du lịch cộng đồng ở Chày

Lập và có những quyết sách và định hướng phát triển phù hợp.
Vì những lí do trên, tôi quyết định chọn nghiên cứu về đề tài “Bước đầu
tìm hiểu và đánh giá những tác động của du lịch cộng đống đến đời sống
kinh tế và ý thức bảo vệ tài nguyên thiên nhiên của người dân Chày Lập” để
tìm hiểu rõ hơn về những tác động của loại hình du lịch này đối với người dân
một làng quê nghèo ở tỉnh Quảng Bình. Đồng thời cung cấp thêm một số thơng
tin và đóng góp vào định hướng phát triển bền vững du lịch Chày Lập.
1.2 Tổng quan
1.2.1 Khái niệm chung về các loại hình du lịch sinh thái
Trước hết đề tài dựa trên định nghĩa về du lịch sinh thái và du lịch cộng
đồng. Định nghĩa về du lịch sinh thái (ecotourism) là thuật ngữ được Hertzer sử
dụng lần đầu tiên vào giữa thập niên 60 của thế kỷ XX nhằm giải thích mối
quan hệ phức tạp giữa khách du lịch với môi trường tự nhiên và văn hóa địa
phương mà theo ơng chúng có sự tương tác với nhau để định hình nên một hiện
tượng gọi là eco-tourism (ecological tourism) – du lịch sinh thái. Hertzer đưa ra
bốn vấn đề được xem như những tiêu chí chính của loại hình du lịch sinh thái
bao gồm:
-

Sự tác động tối thiểu đến môi trường

-

Tác động tối thiểu và tối đa lên nền văn hóa của nước chủ nhà, địa

phương
-

Thỏa mãn nhu cầu tối đa đến người dân thường của nước chủ nhà, địa


phương


5

-

Thỏa mãn tối đa nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí của khách du lịch tham gia

vào tour du lịch1
Như vậy, phát triển du lịch cộng đồng vừa mang lại lợi ích trực tiếp cho
người dân địa phương về mặt kinh tế, vừa thỏa mãn nhu cầu nghỉ ngơi và sở
thích của du khách, đặc biệt là sự đảm bảo tính bảo tồn của văn hóa bản địa và
sự bền vững của môi trường. Một định nghĩa về du lịch sinh thái được tổ chức
bảo vệ thiên nhiên thế giới (IUCM) đưa ra khá đầy đủ: “Du lịch sinh thái là
tham quan và du lịch có trách nhiệm với mơi trường tại các đặc điểm văn hóa
đã tồn tại trong quá khứ hoặc đang hiện hành, qua đó khuyến khích hoạt động
bảo vệ, hạn chế những tác động tiêu cực do khách tham quan gây ra và tạo ra
lợi ích cho người dân địa phương tham gia tích cực”2
Du lịch sinh thái ngày nay được phổ biến một cách rộng rãi trên toàn thế
giới.Việt Nam cũng là một trong những nước nhiều tiềm năng phát triển loại
hình du lịch này. Luật du lịch Việt Nam năm 2005 cũng đưa ra một định nghĩa
về du lịch sinh thái: “Du lịch sinh thái là hình thức du lịch dựa vào thiên nhiên,
gắn với bản sắc văn hóa địa phương với sự tham gia của cộng đồng nhằm phát
triển bền vững”.
Từ việc nhận thức tầm quan trọng và lợi ích mà du lịch sinh thái đem
lại, các quốc gia trên thế giới đã tăng cường đẩy mạnh đầu tư và có những
chiến lược phát triển đúng đắn cho du lịch. Mặt khác, nhu cầu du lịch hịa mình
vào thiên nhiên hoang dã và sự tị mị về văn hóa những vùng đất mới lạ của du
khách ngày càng cao, làm nảy sinh thêm nhiều loại hình du lịch mới như du

lịch văn hóa, du lịch cộng đồng, du lịch mạo hiểm…Du lịch cộng đồng ngày
nay là một khái niệm khá mới mẻ. Dựa trên cơ sở về du lịch sinh thái, luật du
lịch Việt Nam năm 2005 đã đưa ra định nghĩa khái quát về du lịch cộng đồng
như sau: “Du lịch cộng đồng là hoạt động tương hỗ giữa các đối tác liên quan
nhằm mang lại lợi ích về kinh tế cho cộng đồng dân cư địa phương, bảo vệ

1
2

Dẫn theo Nguyễn Minh Mẫn,(2005), trang 19-20
Lê Huy Bá, (2005) , trang 1


6

được môi trường và mang đến cho du khách kinh nghiệm mới góp phần thực
hiện mục tiêu phát triển kinh tế của địa phương có dự án”.
1.2.2 Lịch sử nghiên cứu trên Thế giới và Việt Nam
Có thể nói, xu hướng phát triển văn hóa du lịch cộng đồng đang được
các nước trên thế giới đẩy mạnh, đặc biệt là những vùng có lợi thế về cảnh
quan thiên nhiên và có những nét văn hóa đặc sắc nhưng đời sống người dân
cịn gặp nhiều khó khăn. Nghiên cứu về du lịch cộng đồng không phải là một
vấn đề mới mẻ nhưng chưa thật sự phổ biến rộng rãi tại Việt Nam. Loại hình
du lịch Homestay (du lịch tại gia) đã sớm được thực hiện ở một số nước trên
thế giới và đã thu được nhiều thành cơng. Mơ hình du lịch bền vững có sự tham
gia của cộng đồng địa phương được thử nghiệm tại Mallorkia-một trung tâm du
lịch lớn nhất Châu Âu. Mơ hình gắn kết ba mục tiêu chính: bền vững về mặt
sinh thái, bền vững về văn hóa xã hội và kinh tế. Mơ hình được xây dựng trên
cơ sở đảm bảo thực hiện các nguyên tắc bền vững nhằm khắc phục tình trạng
suy thối mơi trường do các hoạt động du lịch ở Mallorkia gây nên3. Ở Nam

Phi, nổi tiếng có mơ hình Homestay tại thị trấn Oudt Shoom tại Thái Lan với
điểm du lịch ở một ngôi làng nhỏ thuộc vùng nông thôn Isan (thuộc miền Đơng
Bắc Thái Lan). Ngồi ra cịn phải kể đến đất nước của loài Kanguru với
Angorichina Station- một trang trại cừu xa xôi hẻo lánh nằm ở trung tâm dãy
núi Flinders cách thành phố Adelaide nước Úc 300 dặm về phía Tây Bắc. Từ
năm 1990 trở lại đây, các cơng trình nghiên cứu du lịch sinh thái ngày càng
nhiều. Nổi bật có một số cơng trình nghiên cứu của Hiệp hội du lịch sinh thái
(1992-1993), chương trình mơi trường của Liên hợp Quốc (1997). Ngồi ra
phải kể đến cơng trình nghiên cứu “Du lịch sinh thái hướng dẫn cho các nhà kế
hoạch và quản lý” của Kreg lindberg (1999) và các chuyên gia của hội du lịch
sinh thái Quốc tế. Những nghiên cứu trên đã tạo cơ sở khoa học và mở hướng
cho du lịch Việt Nam.
Tại Việt Nam, vấn đề phát triển du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng
được khá nhiều người quan tâm. Từ năm 1997, loại hình Homestay đã được
3

Đồn Ngọc Như Tâm, (2008), trang 12


7

triển khai thực hiện tại Hà Giang, sau này là một số Tỉnh như Lào Cai, Hịa
Bình, Quảng Ninh, Huế…đã đạt nhiều thành cơng đáng kể. Du lịch cộng đồng
đóng một vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của Việt
Nam nên hiện nay ngày càng nhiều những cơng trình nghiên cứu khoa học,
những dự án quy mơ về vấn đề này. Nổi bật có cơng trình “Phát triển cộng
đồng- Lý thuyết và vận dụng” của các tác giả Tô Duy Hợp và Lương Hồng
Quang do nhà xuất bản văn hóa thơng tin xuất bản năm 2000. Cơng trình chủ
yếu tập trung vào việc hệ thống hóa các lý thuyết cộng đồng và phát triển cộng
đồng, vào năng lực tự quản – một tiềm năng để phát triển cộng đồng trong q

trình cơng nghiệp hố, hiện đại hoá. Đây là các cơ sở lý thuyết quan trọng để
giải quyết các vấn đề có tính thao tác kỹ thuật như dự án, quản lý dự án, triển
khai và đánh giá dự án. Mặt khác còn cung cấp một số ví dụ của các bước thực
hành trong các dự án phát triển cộng đồng với một sự phân tích về tính thích
hợp của chúng trong thực tiễn nước ta. Bên cạnh đó phải kể đến “Văn hóa du
lịch cộng đồng- Lý thuyết và ứng dụng” của Tiến sĩ Võ Quế do nhà xuất bản
khoa học kỹ thuật phát hành tháng 10 năm 2006. Đề tài đã đưa ra những mục
tiêu, ý nghĩa, điều kiện và nguyên tắc để phát triển du lịch cộng đồng. Nghiên
cứu mơ hình phát triển du lịch cộng đồng ở khu vực Châu Á và trong nước. Từ
đó đưa ra một số mơ hình phát triển du lịch cộng đồng của một số nước trong
khu vực và một số khu sinh thái trong nước. Một số cơng trình khác có thể kể
tên như: “Du lịch bền vững” của Ngơ Đình Hịe, Vũ Văn Hiếu đồng chủ biên
(nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội). Đề tài nghiên cứu về tương quan tác
động nhiều mặt hoạt động du lịch đối với môi trường (tự nhiên, xã hội nhân
văn và kinh tế), phân tích những tác động xấu do du lịch gây ra, từ đó đưa ra
những lợi ích của việc phát triển bền vững nhằm đảm bảo sự hài hịa giữa lợi
ích kinh tế và bảo vệ tính đa dạng của tự nhiên, bản sắc văn hóa cộng đồng bản
địa. Một số đề tài nghiên cứu cụ thể như “Nghiên cứu xây dựng mơ hình quản
lý mơi trường dựa vào cộng đồng đối với hoạt động du lịch tại vườn cây ăn trái
Lái Thiêu, huyện Thuận An, Tỉnh Bình Dương” của Đồn Ngọc Như Tâm cũng
trình bày về những kiến thức tổng quan về du lịch, du lịch bền vững, yếu tố cơ
bản của mơ hình quản lý mơi trường dựa vào cộng đồng. Đề tài đã nêu lên hiện


8

trạng môi trường và hoạt động bảo vệ môi trường, quy mô hoạt động du lịch
dịch vụ và tiềm năng phát triển hoạt động du lịch tại Lái Thiêu. Đồng thời dự
báo mức độ ô nhiễm môi trường và các vấn đề môi trường phát sinh do du lịch
dịch vụ. Qua việc nghiên cứu và tìm hiểu tác giả đưa ra những kiến nghị đề

xuất kế hoạch thực hiện công trình bảo vệ mơi trường.
Nhìn chung việc vận dụng ưu thế về mặt tự nhiên xã hội để định hướng
phát triển du lịch tại các địa phương có tiềm năng là điều hết sức cần thiết. Tuy
nhiên phát triển phải ln cân nhắc kỹ lưỡng bởi du lịch cũng có tính hai mặt
của nó. Làm sao để khơng ảnh hưởng tới môi trường sinh thái, không làm phá
vỡ cấu trúc xã hội và mai một văn hóa bản địa, mang lại lợi ích kinh tế cho địa
phương tại nơi có dự án. Đó cũng là thách thức đặt ra cho ngành du lịch nước
nhà hiện nay. Đây là vấn đề được nhiều người trong giới nghiên cứu quan tâm.
Đề tài “Phân tích tác động của du lịch đến đời sống dân tộc ít người huyện Lạc
Dương, tỉnh Lâm Đồng” của Phan Thị Hồng Dung đã tìm hiểu mối quan hệ
giữa các vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội với hoạt động du lịch, qua đó xác định
các tác nhân gây ra sự thay đổi các yếu tố liên quan đến đời sống dân tộc thiểu
số. Tác giả cũng đưa ra giải pháp nhằm kế thừa, bảo tồn và phát huy truyền
thống của các đồng bào dân tộc ít người trong hoạt động du lịch theo hướng
phát triển bền vững. Cũng nội dung nghiên cứu đó, nhiều chuyên đề trên tạp
chí Du lịch Việt Nam đã nêu rõ vai trị của phát triển du lịch bền vững. Trong
đó đáng chú ý là bài “Quy hoạch du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng” của
Nguyễn Quyết Thắng (số 11 năm 2004, trang 20). Qua việc tìm hiểu và kinh
nghiệm từ việc triển khai một số dự án phát triển du lịch sinh thái đã từng thất
bại trên Thế giới, tác giả chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến sự thất bại đó đồng
thời đưa ra những nguyên tắc phát triển du lịch sinh thái theo hướng bền vững
cũng như những quan điểm mới mẻ đóng góp vào định hướng phát triển du lịch
Việt Nam. Tuy nhiên bài viết chưa đi sâu phân tích và cụ thể hóa những ý
tưởng, áp dụng thực tế các nguyên tắc cho hoạt động du lịch cộng đồng tại
nước ta hiện nay. Bên cạnh đó cịn có các bài viết khá xuất sắc như “Phát triển
du lịch bền vững từ góc độ mơi trường” của Phạm Trung Lương (số tháng 10
năm 2004, trang 26-27 và số 11 năm 2004, trang 18,19,53) và bài “Môi trường


9


xã hội-Nhân văn và vấn đề phát triển du lịch bền vững” của Trịnh Lê Anh (số
3.2005, trang 20-21 và số 4.2005, trang 10-11). Ngồi ra, Tạp chí du lịch cịn
phối hợp với Chương trình du lịch xóa đói giảm nghèo của Tổ chức Phát triển
Hà Lan tại Việt Nam giới thiệu những thông tin về các hoạt động du lịch xóa
đói giảm nghèo với mục tiêu: phát triển du lịch trên cơ sở tối ưu hóa các cơ hội
để đưa người nghèo tham gia vào du lịch với tư cách là đối tác, xem họ như là
tài nguyên cần được phát triển. Bài viết “Du lịch bền vững vì người nghèoNâng cao tiềm năng của mối quan hệ giữa du lịch và nghèo đói” của Douglas
Hainsworth (số 5.2005, trang 49-52) đã đem đến một khái niệm mới “du lịch
bền vững vì người nghèo” và đề ra những phương thức cụ thể để du lịch trực
tiếp mang lại lợi ích cho người nghèo, vận dụng phù hợp với điều kiện cũng
như tiềm năng phát triển của Việt Nam.
Vấn đề về du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái được rất nhiều nhà nghiên
cứu quan tâm nhưng do hạn chế về khả năng tiếp cận tài liệu và thời gian nên
đến thời điểm này tôi chưa khai thác hết nguồn tài liệu nước ngoài và trong
nước. Đề tài chỉ dừng lại ở việc tập hợp kiến thức từ những chương trình
nghiên cứu trước đây, tổng hợp từ một số bài báo, tạp chí Du lịch để có cái
nhìn khái qt nhất về vấn đề, nắm bắt vấn đề để từ đó nêu ra một số kiến nghị
đề xuất qua đề tài nghiên cứu ban đầu này.
2. Mục tiêu và phương pháp nghiên cứu
2.1 Mục tiêu của đề tài
-Tìm hiểu về loại hình du lịch văn hóa cộng đồng cũng như những ảnh hưởng
của nó đến sự thay đổi về đời sống và ý thức bảo vệ tài nguyên thiên nhiên của
người dân Chày Lập.
-Nắm bắt được tiềm năng của loại hình du lịch này để đưa ra những kiến nghị
cho định hướng phát triển du lịch bền vững Chày Lập.
-Quảng bá nét du lịch văn hóa cộng đồng Chày Lập nói riêng và khu sinh thái
Quốc gia Phong Nha- Kẻ Bàng đến du khách trong và ngồi nước.
-Tìm hiểu các nguồn đầu tư của các tổ chức, dự án.



10

2.2 Phương pháp nghiên cứu
Với đề tài này tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu mang tính
đặc thù của ngành Nhân học như sau:
Khi nghiên cứu điền dã tại thôn Chày Lập, tôi đã sử dụng phương pháp
quan sát tham dự để tự mình quan sát, cảm nhận và nắm bắt thông tin một cách
trực tiếp về cộng đồng dân cư bản địa bằng cách thực hiện ba cùng “cùng ăn,
cùng ở, cùng làm”. Phương pháp điền dã tại thực địa giúp cho những thông tin
của đề tài mang tính xác thực.
Phương pháp phỏng vấn sâu là phương pháp chính được sử dụng để thu
thập thơng tin cho đề tài. Trong q trình thực hiện, tơi đã tiến hành phỏng vấn
và ghi âm 4 người. Người đầu tiên tôi tiếp cận để lấy tài liệu thu thập là Giám
đốc Trung tâm du lịch Phong Nha Kẻ Bàng nhằm tìm hiểu sơ lược về tình hình
du lịch của khu di sản Phong Nha Kẻ Bàng hiện nay, thu thập thêm tài liệu về
tiềm năng phát triển của vùng và những liên kết đối với khu du lịch Chày Lập.
Tôi đã gặp trưởng thơn Chày Lập, đồng thời là phó ban quản lý hợp tác xã du
lịch cộng đồng Chày Lập. Cuộc phỏng vấn đem lại nhiều thông tin về tình hình
kinh tế, ý thức bảo vệ tài nguyên thiên nhiên của người dân Chày Lập trước và
sau khi có du lịch cộng đồng. Qua sự giới thiệu của trưởng thơn, tơi tiếp tục tìm
đến nhà của một cụ bà lớn tuổi trong thơn để tìm hiểu về lịch sử của làng.
Người tiếp theo mà tôi chọn để tiến hành phỏng vấn sâu là một thành viên của
hộ nhà nghỉ do trưởng thôn giới thiệu. Qua cuộc phỏng vấn, tôi đã thu thập
được nhiều thông tin để biết rõ hơn về tình hình kinh tế cũng như sự thay đổi
về ý thức bảo vệ tài nguyên của người dân khi tham gia du lịch cộng đồng.
Đồng thời tìm hiểu những thuận lợi và khó khăn người dân gặp phải khi làm du
lịch và những nguyện vọng của họ đối với việc phát triển du lịch bền vững.
Ngồi ra, tơi cịn thực hiện những cuộc phỏng vấn (không ghi âm) với những
nhân viên của tổ chức Counterpart để biết thêm thông tin về dự án du lịch cộng

đồng Chày Lập. Thông qua những cuộc phỏng vấn này tơi có thể làm rõ hơn
vấn đề đang nghiên cứu, từ đó phân tích và đưa ra quan điểm về đề tài.


11

Bên cạnh những phương pháp trên, tơi cịn sử dụng phương pháp tổng
hợp để thu thập tài liệu sách vở và những cơng trình nghiên cứu trước đó, chọn
lọc thơng tin làm tư liệu tham khảo cho đề tài.


12

3. Giải quyết vấn đề
 Phần nội dung

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ ĐỊA BÀN VÀ TIỀM NĂNG DU LỊCH
1.1 Sơ lược về địa bàn nghiên cứu
Thôn Chày lập xã Phúc Trạch nằm ngay cửa ngõ phía Tây của Di sản
Thiên nhiên Thế giới Vườn Quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng, cách thành phố
Đồng Hới Tỉnh Quảng Bình 60 km. Từ ngã ba Khe Gát-nơi đường Hồ Chí
Minh phân thành hai nhánh trước khi vào Nam, rẽ theo nhánh Tây của đường
mòn lịch sử này khoảng 5km du khách sẽ đến được khu du lịch Chày Lập.
Về khí hậu, thơn Chày Lập cũng chịu ảnh hưởng của loại khí hậu đặc
trưng của Quảng Bình là khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng và ẩm. Mùa mưa bắt
đầu từ tháng 9 đến tháng 3 năm sau. Riêng khu vực Phong Nha Kẻ Bàng thì
88% lượng mưa tập trung vào tháng 7-12 với độ ẩm tương đối là 84 %. Mùa
khô từ tháng 4 đến tháng 8 với nhiệt độ trung bình 24oC-25oC. Tháng có nhiệt
độ cao nhất là tháng 6,7 và 8. 4 Nhiệt độ cao nhất có khi lên tới 41oC vào mùa
Hè và mức thấp nhất là 6 oC vào mùa Đông.

Về thành phần dân cư, dân số của thôn có gần 1000 người thuộc 193 hộ
dân. Đây là vùng tập trung của người Kinh, chủ yếu là đồng bào công giáo di
cư từ vùng Quảng Trạch vào từ cuối thế thế kỷ XIX và sinh sống cho đến ngày
nay.
Dịch vụ y tế của thôn kém phát triển. Mọi hoạt động khám và chữa bệnh
cịn gặp khó khăn do ở khá xa trung tâm y tế của Huyện và Tỉnh, vùng chỉ có
trạm xá duy nhất của xã Phúc Trạch cách Chày Lập khoảng 5-7 km. Giáo dục
có nhiều bước phát triển hơn trước kể từ sau khi có con đường mịn Hồ Chí
Minh. Giao thơng thuận tiện hơn, con em trong thơn khơng cịn phải lội suối lội
khe để đến trường như trước nữa. Vì vậy học vấn cũng được nâng cao rõ rệt.
4

Nguồn://vi.wikipedia.org/wiki/V%C6%B0%E1%BB%9Dn_qu%E1%BB%91c_gia_Phong_Nha__K%E1%BA%BB_B%C3%A0nga.org- greatermekong


13

Nếu trước đây chỉ dừng tới lớp ba lớp bốn thì nay nhiều người học hết cấp hai,
cấp ba.
Kinh tế chính của vùng là nơng nghiệp. Thơn có 78ha đất canh tác chủ
yếu 1vụ. Cây trồng chủ yếu là ngô và lạc, năng suất bình qn 3,2 tấn ngơ/ha
và 1,6 tấn lạc/ha, không kể những năm mất trắng do thời tiết. Khoảng 90% có
mức thu nhập bình qn đầu người mỗi tháng khoảng 200,000VND trở xuống.
Gần đây, người dân tích cực tăng gia, nuôi thêm gia súc gia cầm nhưng thu
nhập vẫn cịn khiêm tốn. Hoạt động nơng nghiệp chịu nhiều ảnh hưởng của hạn
hán, mưa lũ. Mặt khác vị trí bất lợi về giao thương và thiệt hại do bệnh dịch
hồnh hành nên lợi nhuận từ chăn ni chưa đáng kể. Những ngành nghề thủ
công truyền thống như nghề nón, nghề mộc, đan lát cịn kém phát triển và chưa
mang tính chun nghiệp nên sản phẩm cịn hạn chế về cả số lượng và mẫu mã.
“Gia đình thu nhập chủ yếu dựa vào nghề nông, dựa vào nghề rừng mà

sống. Già rồi nên bữa nay cũng không đi rừng nữa. Thực ra bữa nay Vườn
Quốc gia kiềm chế nhiều, tài nguyên cạn kiệt. Đi rừng cũng may rủi, nếu trúng
H thì có ăn mà xây nhà cửa. Bình thường đi khơng trúng thì kinh tế khơng lệ
thuộc rừng, khơng sướng và khơng đầy đủ được. Nơng nghiệp thì lệ thuộc thiên
nhiên. Mưa thuận gió hịa thì có ăn. Khơng thì mất mùa. Làm nơng thì đất lúa
ít, khơng có nước. Chủ yếu là làm màu, làm ngô, làm đậu. Đây là vùng đất cằn,
đất xấu. Vùng ven ngồi sơng thì làm ăn ổn định hơn vì đất tốt. Nhưng người
đơng thì cũng được 5-7 thước gần một mẫu. Nhìn chung ngô lạc cũng không ăn
thua”. (ông Phạm Khai, chủ hộ nhà nghỉ)
Chày Lập nằm trong khu vực vùng đệm của vườn Quốc gia Phong Nha
Kẻ Bàng. Đời sống của người dân Chày Lập nói riêng và những xã vùng đệm
nói chung chủ yếu dựa vào rừng.
“Trước đây, những năm kháng chiến chống Pháp, những năm 70 trở về
trước thì chưa có đường mịn, dân thưa thớt hơn hiện nay. Đời sống độc canh,
độc cư và chủ yếu phụ thuộc vào rừng (hái lượm, săn bắt, bẫy bắt thú rừng…),
khai thác lâm sản.


14

Chính vì hoạt động khai thác rừng bừa bãi của người dân ở đây ngày
càng gia tăng dẫn đến nguy cơ cạn kiệt tài nguyên của khu vực vườn Quốc gia
Phong Nha Kẻ Bàng. Cuối năm 2009, dự án dịch vụ hỗ trợ kinh doanh của
Counterpart International Vietnam đã trực tiếp đầu tư xây dựng mơ hình du lịch
cộng đồng tại thôn Chày Lập (xã Phúc Trạch) nhằm tạo thêm kế sinh nhai cho
người dân và giảm thiểu sự tác động đến tài nguyên và cảnh quan của vườn.
Hợp tác xã du lịch cộng đồng xã Phúc Trạch là doanh nghiệp xã hội về du lịch
đầu tiên tại Việt Nam và đã có nhiều thành cơng trong bước đầu thực hiện.
1.2 Tiềm năng du lịch
1.2.1Tiềm năng về tài nguyên cảnh quan của Chày Lập

Tài nguyên du lịch sinh thái được đánh giá thông qua các chuẩn các giá
trị. Theo Piroginoic, tài nguyên du lịch sinh thái “là các thành phần và thể
cảnh quan và nhân sinh có thể dùng để tạo ra sản phẩm du lịch, thoả mãn các
nhu cầu của con người”. Tài nguyên du lịch sinh thái chính là các giá trị tự
nhiên thể hiện trong một hệ sinh thái cụ thể và các giá trị văn hoá bản địa tồn
tại và phát triển không tách rời hệ sinh thái tự nhiên đó.5
Có thể nói, vị trí địa lý là tiềm năng lớn nhất của khu du lịch Chày Lập.
Nằm ngay trong lòng di sản của vườn Quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng nên hiện
tại, hầu hết hoạt động du lịch tại Chày Lập trực tiếp sử dụng những tiềm năng
về sinh thái, cảnh quan của Phong Nha Kẻ Bàng để đưa vào tuyến du lịch sinh
thái. Có thể nhận diện tài nguyên du lịch sinh thái Phong Nha - Kẻ Bàng trong
các nhóm sau đây:
- Nhóm tài nguyên du lịch mạo hiểm chủ yếu là hệ sinh thái karst (vùng đá vôi,
đá vôi) trong khu vực Phong Nha - Kẻ Bàng với 2 hệ thống hang chính gồm
các hang lớn nhỏ khác nhau. Hệ thống hang động Phong Nha với tổng chiều
dài 5.076m. Hệ thống hang Vòm với tổng chiều dài 36.063m, hầu hết cịn
mang tính ngun sơ chưa chịu sự tác động của con người điều này đã làm tăng
thêm giá trị ngoại hạng của Di sản. Quá trình hình thành karst ở đây đã để lại
5

Nguyễn Khắc Thái,(2010), Báo cáo


15

những bằng chứng riêng biệt và đặc trưng như “sông ngầm”, “động khơ”,
“động nước”, “động treo”…có quan hệ với các giai đoạn tạo núi và các pha đứt
gãy kiến tạo.6Với tài nguyên kể trên, Chày Lập sẽ tận dụng để mở rộng dịch vụ
chèo thuyền kayak. Du khách sẽ tự mình cảm nhận sự hùng vĩ của núi non và
thả mình trước cảnh đẹp thần tiên của những dịng sơng khi đến với khu du lịch

Chày Lập.
- Nhóm tài nguyên đa dạng sinh học với hệ núi đất và thảm thực vật rừng và
động vật hoang dã chứa đựng trong Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng.
Rừng nguyên sinh Phong Nha-Kẻ Bàng có hàng chục đỉnh núi cao trên 1.000
m, hiểm trở chưa từng có vết chân người, là các điểm hấp dẫn để leo núi và
thám hiểm mà Chày Lập có thể tận dụng để đem đến cho du khách cảm giác
thực của môn thể thao đầy mạo hiểm và phiêu lưu này.
Trong Vườn Quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng còn tồn tại một khu rừng
nhiệt đới nguyên sinh ít bị tác động với độ che phủ trên 96,2 % và có tính đa
dạng sinh học cao. Tại vùng này theo số liệu điều tra, bước đầu có nhiều lồi
thực vật đặc hữu của rừng núi đá vơi như Chị đãi, Chị nước, Trầm hương,
Nghiến, Sắng, Ba kích và Sao... Thực vật bậc cao có mạch gồm 876 lồi. Trong
đó có 38 lồi được ghi vào Sách Đỏ Việt Nam và 25 loài được ghi vào Sách Đỏ
của IUCN (Hiệp hội bảo tồn Thiên nhiên Thế giới) và 13 loài đặc hữu ở Việt
Nam. Gần đây, các nhà khoa học phát hiện thêm nhiều lồi thực vật q hiếm
có nguy cơ tuyệt chủng cao ngoài tự nhiên như Bách xanh đá, Lan hài đốm,
Lan hài xanh, Lan hài xoắn và nhiều thực vật quý hiếm khác cũng được ghi
nhận.
Ngoài tài nguyên thực vật đa dạng, đối với động vật đã xác định được
140 loài thú lớn, 356 loài chim, 99 lồi bị sát và lưỡng cư, 259 lồi bướm; 162
lồi cá, trong đó có 4 lồi đặc hữu đối với Quảng Bình; 47 lồi ếch nhái. Đặc
biệt, rừng trên núi đá vơi là nơi phân bố nhiều lồi Linh trưởng nhất Việt Nam,
gồm 10 loài được ghi nhận, chiếm khoảng 50% tổng số loài thuộc bộ Linh
6

Địa chất địa mạo của Vườn Quốc Gia. Nguồn: www.phongnhakebang.vn


16


trưởng ở Việt Nam, 7 loài Linh trưởng thuộc bộ Linh trưởng được liệt kê vào
Sách Đỏ Việt Nam và 3 lồi phụ có tính đặc hữu hẹp ở Việt Nam. So với các
khu bảo tồn và vườn quốc gia khác ở Việt Nam thì độ phong phú của các lồi
động vật ở Phong Nha-Kẻ Bàng cịn khá cao. Các lồi q hiếm, đặc biệt Linh
trưởng có số lượng cao nhất trong nước.
Với những tiềm năng về động thực vật của vườn Quốc gia Phong Nha
Kẻ Bàng, Chày Lập sẽ đem đến những chuyến du lịch sinh thái thú vị hơn, thơi
thúc trí tị mị và thích khám phá thiên nhiên của du khách. Dịch vụ xe đạp địa
hình kết hợp với thám hiểm rừng nguyên sinh sẽ tận dụng lợi thế về đa dạng
sinh học của Phong Nha Kẻ Bàng để tăng thêm tính hấp dẫn trong hành trình
du lịch.
- Nhóm tài nguyên cảnh quan bao gồm hệ thống hỗn hợp các cảnh quan karst
Khu Phong Nha - Kẻ Bàng có một quần thể hơn 300 hang động lớn nhỏ
phong phú, kỳ vỹ được mệnh danh là “Vương quốc hang động” và được đánh
giá là vùng Karst rộng nhất thế giới với diện tích trên 200.000 ha. Trong các
hang động thì Phong Nha thật sự nổi bật với chiều dài khảo sát gần 8 km, chủ
yếu với sông ngầm, chắc chắn là một hang tuyệt đẹp. Bên cạnh vẻ đẹp kỳ bí
của hệ thống hang động là sự hiền hịa thơ mộng của sơng Chày, sơng Trc,
sơng Son càng tôn thêm nét đẹp hoang sơ của Phong Nha Kẻ Bàng.
Bên cạnh đó, sự thống mát của các vườn hộ truyền thống cũng là một
trong những tiềm năng cảnh quan của khu du lịch Chày Lập. Khung cảnh thôn
quê thanh bình với những cánh đồng cũng khiến khách du lịch, đặc biệt là
khách nước ngồi thích thú vì được sống trong một không gian trong lành, khác
xa với sự ồn ào của những thành phố công nghiệp.
1.2.2 Tiềm năng về tài nguyên sinh thái nhân văn
Tài nguyên sinh thái nhân văn bản địa hội tụ nét đẹp mộc mạc, bình dị
tốt lên từ chính bản chất thật thà, siêng năng và đời sống thường nhật của


17


người miền Trung. Khu du lịch Chày Lập có thể tận dụng được ưu thế về mặt
đa dạng văn hóa tộc người, khai thác triệt để các loại hình văn hóa, lễ hội...của
đồng bào các dân tộc sống quanh khu vực Phong Nha Kẻ Bàng, tạo thêm
những tuyến du lịch tìm về bản sắc văn hóa vùng. Từ đó góp phần bảo tồn và
phát huy bản sắc văn hóa cộng đồng. Mặt khác, nét văn hóa ẩm thực với những
món ăn dân giã tại thôn quê Chày Lập sẽ khiến du khách có được sự gần gũi
thân thiện và dễ dàng hơn trong việc trải nghiệm và cảm nhận phần nào vẻ đẹp
văn hóa Việt Nam.


18

CHƯƠNG 2: SỰ THAY ĐỔI VỀ ĐỜI SỐNG KINH TẾ VÀ Ý THỨC
BẢO TỒN TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA DU
LỊCH CỘNG ĐỒNG
2.1 Chày Lập trước khi có du lịch cộng đồng
2.1.1 Đời sống kinh tế
Sử tích về làng này chỉ còn đọng lại trong những dòng hồi tưởng của
một số ít người cao tuổi trong thơn Chày Lập. Làng Chày trước đây khá biệt
lập. Đó là lúc chưa có con đường mịn Hồ Chí Minh lịch sử đi ngang qua. Mọi
hoạt động thông thương, chợ búa đều rất khó khăn. Người dân trong làng phải
đi bộ cả chục cây số, lội suối, vượt khe, băng qua lau lách mà đi mới đến được
chợ, gian nan và đầy nguy hiểm. Có nhiều người phải bỏ mạng lúc qua sông,
qua suối.
“Hồi trước chui rúc bụi bờ để đi cả 9 cây số mới đến được chợ Trc.
Khơng bn bán gì, chỉ bắt con ốc, con cua đi bán kiếm tiền mua muối, mua
mắm, hái rau rừng tạm ăn qua ngày. Trước trồng nhiều khoai chuối, khoai
gioong, trồng nhiều mía. Sau này có liên tổ, hội phụ nữ thì cũng tham gia cùng
nhau sản xuất. Địa chủ bỏ đi thì mình làm ăn rồi sau mới chia lại đất. Một tấn

thóc là nộp 6 tạ cho kho. Đi hái tàu bay về ăn. Do cơng việc làm ăn, có tiền thì
bảo gì làm nấy”. (Cụ Phan Thị Nghịa, 90 tuổi)
Theo lời kể, từ cuối thế kỷ XIX, những con chiên công giáo từ vùng
Quảng Trạch di cư vào sinh cơ lập nghiệp tại vùng Chày và sinh sống cho đến
ngày nay. Đời sống kinh tế của dân làng lúc này rất khó khăn. Người dân sinh
sống bằng nghề trồng rau màu, chủ yếu là trồng ngơ và đậu đỗ. Ngồi ra còn
trồng thêm khoai gioong, khoai chuối. Do đất đai khơ cằn nên rất khó để trồng
những loại cây khác. Lúa cũng có nhưng năng suất thấp. Lúc được mùa cũng
chỉ đạt khoảng một tấn. Người dân làng Chày cũng tìm kiếm kế sinh nhai bằng
cách chăn ni thêm trâu, bị, lợn, gà. Có những năm mất mùa họ phải lên rừng
đào củ sắn, củ mài để ăn qua ngày.


19

“Thời chống Pháp, chống Mỹ thì cũng đi sơ tán vào trong hang, trong
lèn, đời sống cực khổ. Ví dụ, những mùa lũ lụt thì lúc tháng mười mất trắng,
phải vô rừng đào củ mài để ăn. Trước đây rau má mà cũng hái không ra, phải
đi vay địa chủ. Họ cho vay một thúng, đến mùa phải trả hai thúng. Khoảng 15
tuổi là rất khổ, cha con phải vô rừng ở lại một đêm để đào củ mài, hái rau rễ
mà ăn. Cũng có chăn ni làm mùa nhưng không được như hồi nay. Trước vãi
lúa tháng Mười không được mấy, hai sào may ra cũng được vài yến gạo.(Cụ
Phan Thị Nghịa, 90 tuổi)
Vào thời điểm này rừng là một nguồn thức ăn dồi dào cho cả làng.
Người ta lên rừng lấy gỗ về làm nhà, hái lượm củ quả, bẫy bắt thú rừng làm
thức ăn. Vào thời đó, gia đình nào nhiều đất đai, được mùa thì nhiều thóc lúa,
lâu dần trở nên giàu có, trở thành địa chủ trong vùng. Nhà giàu có tiền thì th
người lên rừng lấy gỗ đẹp gỗ to về làm nhà. Nhà địa chủ là những căn nhà
rường toàn được dựng bẵng gỗ q và có nhiều gian. Dân nghèo thì làm bữa
nay lo bữa mai sống tạm bợ trong những căn nhà nạng được dựng bằng loại gỗ

nhỏ, lợp bằng mái tranh và xung quanh được che bởi cây lau. Đất đai ít nên
được lúa tháng mười thì nhiều lúc đủ ăn, khơng đủ thì phải vay mượn. Cứ mỗi
độ tháng giêng về, người nghèo phải đi vay thóc của địa chủ để có ăn và sản
xuất. Đến mùa thu hoạch thì trả lãi gấp đơi. Cứ như vậy, người giàu lại càng
giàu thêm, người nghèo thì cứ khốn khó trong vịng luẩn quẩn của nghèo đói,
bệnh tật.
Những năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, mất mùa kéo
dài khiến đời sống đã khó lại càng khó hơn. Bệnh dịch hồnh hành mà bệnh
viện thì khơng có, bác sĩ cũng không. Người dân Chày Lập chỉ biết trông cậy
vào những bài thuốc nam gia truyền, kiếm lá rừng chữa bệnh.
“Thời chống Mỹ, hịa bình lặp lại, có đợt sốt rét, có một ơng ở địa
phương cũng đi sơ tán, ơng khám bệnh cho nói chết là chết, chữa được là chữa
được. Trước làm gì có bệnh viện như bây giờ”. (Cụ Phan Thị Nghịa, 90 tuổi)


20

Người dân trong làng lúc này phải sống chủ yếu dựa vào rừng. Đời sống
độc canh độc cư, người dân chỉ biết mị cua bắt ốc ven sơng ven suối để đổi lấy
đến mắm muối ăn qua ngày. Lúc này, rừng ra sát tận đường nên thú rừng hay
về. Thỉnh thoảng hổ rừng (người dân địa phương gọi là con khái) về bắt trâu
bị, có khi bắt cả người. Người dân làng phần vì tự bảo vệ mình, phần cũng
muốn lấy thịt thú rừng làm thức ăn nên vây bắt, gặp con gì là bắt con đó, từ thú
lớn như hươu, nai, hổ, gấu cho đến những con thú nhỏ như voọc, nhím, thỏ,
khỉ…Vào thời điểm đó, việc bn bán gỗ và thú rừng chưa nhiều nên hầu như
người dân Chày Lập chỉ lên rừng để kiếm gỗ làm nhà và kiếm thức ăn trang
trải trong gia đình. Mặt khác do giao thơng khơng thuận lợi nên người ngồi ít
biết đến Chày Lập như bây giờ. Người ta ra vào làng bằng con thuyền độc mộc
xuôi từ Xuân Sơn (Bố Trạch) vào.
Đến thời kỳ chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược, người ta làm một

con đường giao liên sát sông cho bộ đội hành quân ra Bắc, vào Nam và sang
Lào. Người dân trong làng cũng đỡ vất vả hơn, đi lại cũng thuận tiện hơn trước.
Đời sống kinh tế của người dân cũng khá hơn. Làng Chày có thêm nghề đan
nón thủ cơng của những người dân từ Quảng Thuận, Quảng Văn (Quảng
Trạch) di cư tới làng Chày sau này. Nhiều gia đình cũng kiếm thêm thu nhập
nhờ nghề đan lát mây tre. Lúc này hiện tượng buôn bán gỗ xuất hiện, tuy nhiên
cũng rất khó khăn.
Vào khoảng những năm 1972, 1973, binh đoàn 559 bắt tay vào làm con
đường mịn Hồ Chí Minh nhưng sau đó vào năm 1975, lúc con đường cịn dở
dang thì đất nước giải phóng, cơng trình tạm ngưng. Dù chưa hồn thành
nhưng người dân Chày Lập rất phấn khởi vì có được con đường để đi bộ. Mãi
cho đến năm 2003, con đường mịn lịch sử này mới chính thức hồn tất và
thơng suốt. Kể từ đó, diện mạo và đời sống của người dân làng Chày cũng có
nhiều đổi thay. Người dân Chày Lập vẫn bám trụ nghề nông để sinh sống. Tuy
càng về sau, khoa học càng phát triển, năng suất lúa, ngô, đậu đỗ cũng tăng lên
nhưng không đáng kể. Mất mùa vẫn xảy ra triền miên. Đất đai vốn không màu
mỡ, nay lại thiếu nước canh tác. Nguồn nước chính từ hai bàu nước lớn của


21

vùng đã cạn dần. Nông nghiệp quá lệ thuộc vào thiên nhiên nên thu nhập rất
thất thường. Người dân không đủ sống nên buộc phải lên rừng để có thêm cái
ăn cái mặc. Người ta sinh con ra chỉ mong con khỏe mạnh để đi rừng kiếm ăn.
Khai thác rừng vẫn là kinh tế chính của đại đa số dân cư trong làng. Con đường
thơng suốt đem lại nhiều ích lợi cho người dân nơi đây nhưng cũng gây ra
không ít những tác động ngược.
“Thanh niên trong làng là rường cột nhưng mà tệ nạn hiện nay rất
nhiều. Rượu trà, đánh đập nhau. Trước đây thì khơng có, thanh niên sinh hoạt
Đoàn đều đặn. Từ mấy năm nay trở lại đây khơng có lề lối, khn phép gì

hết”(Cụ Phan Thị Nghịa, 90 tuổi).
Nghề rừng của người dân Chày Lập đã được nhiều người trong giới kinh
doanh biết đến. Đường Hồ Chí Minh đã trở thành điều kiện vơ cùng thuận lợi
cho việc chuyên chở gỗ và thú rừng trái phép. Ngày càng nhiều người vào
Chày Lập hỏi mua gỗ và các loại lâm sản, thú rừng quý hiếm. Rừng dần bị
thương mại hóa. Người giàu kẻ nghèo đều đua nhau lên rừng. Người nghèo thì
đi theo hộ gia đình, theo nhóm. Người giàu thì th người vào rừng. Cách đây
vài chục năm, người dân chủ yếu dùng rìu, dùng cưa để đốn cây, đẽo thành gỗ
rồi dùng trâu, bò kéo gỗ về. Một chuyến đi cũng mất cả chục ngày trời nhưng
chỉ lấy được số lượng ít nên chỉ đủ ăn trong tuần. Kiểm lâm thời đó mỗi xã chỉ
có một người. Dù làm việc đúng quy định nhưng do lực lượng cịn q mỏng
nên kiểm lâm khơng thể kiểm soát được việc ra vào rừng của người dân.
“Kiểm lâm hồi đó mỗi xã chỉ có một người. Mặc dầu dân thưa thớt hơn
hiện nay nhưng số lượng cũng nhiều. Kiểm lâm rất chấp hành và kiểm soát
được người dân. Số lượng kiểm lâm ngày một tăng. Tuy nhiên thực tế thì người
dân sống ở rừng thì phải dựa vào rừng. Cũng hiểu hồn cảnh người dân khơng
có cơng ăn việc làm, sản xuất nông nghiệp phụ thuộc thiên nhiên hoàn toàn.
Nắng hạn, lũ lụt là mất mùa nên đời sống của họ chỉ có rừng. Trách nhiệm
kiểm lâm là bảo vệ rừng nhưng cũng có cảm thơng cho người dân. Ai ở đây thì
cũng vậy thơi. Bây giờ người khó khăn thì cũng vào rừng để kiếm được miếng


22

ăn. Người giàu có khi người ta khơng vào rừng nhưng người ta bỏ tiền ra để
khuyến khích người vào rừng. (ông Võ Xuân Thái, trưởng thôn Chày Lập).
Rừng là nguồn thu nhập chính nhưng khơng phải gia đình nào cũng giàu
có nhờ rừng. Thực tế, chỉ những người có sức khỏe, cộng thêm một chút may
mắn thì thu nhập đủ sống, nếu trúng thì giàu có, có tiền trang trải cho sinh hoạt
gia đình, mua xe, xây nhà. Số cịn lại đi rừng về thì đổ bệnh, nợ nần chồng

chất. Có những người vào rừng và khơng bao giờ trở về, khơng bị gỗ đè thì
cũng làm mồi cho thú dữ. Tỷ lệ đó cũng chiếm khoảng 45-50% dân cư trong
làng. Nhiều lúc vất vả bao nhiêu ngày trời nhưng bị kiểm lâm bắt phạt thì cũng
thành cơng cóc. Tiền phạt đơi khi cao hơn cả những gì họ kiếm được, vậy là
vừa mất cả chì lẫn chài.
“Cũng có bắt thú rừng. Có lúc bị tịch thu, bị phạt. 3-4 yến gỗ thì phạt
200.000 đồng. Được nhiều thì phạt nhiều, được ít thì phạt ít. Có khi thì bị thu
nhưng nếu 1-1,5 yến thì người ta cũng cho đi.”(Cụ Phan Thị Nghịa, 90 tuổi).
Vào khoảng năm 2007, 2008, đây là thời điểm gỗ Huê “sốt giá”. Vùng
rừng thuộc khu vực vườn Quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng là nơi rất giàu gỗ Huê.
Theo lời kể của những người dân trong làng, khoảng hai mươi năm trở về
trước, hầu như họ chưa biết khai thác gỗ Huê mà chủ yếu là gỗ lim, gỗ táu,
sến…Người ta chỉ chặt Huê về để sưởi ấm vì gỗ H rất cứng nên khơng thể
làm nhà. Từ năm 1994 bắt đầu xuất hiện những người khách lạ mặt đến đặt
mua gỗ cây. Người ta khơng gọi đó là H mà gọi là cây ổi rừng. Những lái
bn người Trung Quốc chụp lại hình ảnh, mô tả đặc điểm nhận dạng rồi người
dân cứ theo đó đi tìm. Cả làng đổ xơ nhau vào rừng kiếm gỗ. Hồi đó giá Huê
chỉ khoảng 500-1000 đồng. Bỏ công cả mấy ngày trời, lặn lội rừng sâu, khuân
vác từng khúc gỗ khoảng 5-7 cây số mà cũng chỉ đủ ăn trong ngày. Lúc H
cịn dồi dào thì bán rẻ như cho khơng. Một khi đã cạn kiệt thì giá cả lại biến
động bất thường. Thời điểm diễn ra Olympic Bắc Kinh là lúc mà gỗ Huê lên
đến đỉnh điểm. Các lái bn gần xa tìm đến Chày Lập ngày một đông hơn. Giá
gỗ Huê lên tới 4-5 triệu đồng một kilôgam.


23

“Người dân vô rừng ngày độ 2-3 chuyến, vác về khoảng 5-7 cây số. Nơi
tiêu thụ giá bao nhiêu không biết nhưng người ta đến người ta mua tất, người
ta chọn mua cho đẹp. Mình thì cũng chỉ đủ ăn.”(ơng Võ Xuân Thái, trưởng

thôn Chày Lập).
Ai đi rừng trúng Huê thì giàu lên nhanh chóng. Có khi trúng cả vài trăm
triệu. Nhà cửa khang trang hơn, sắm sửa được đồ đạc, xe cộ…Thấy người này
giàu người kia cũng gắng lên rừng để mong đổi đời.
“Đợt gỗ Huê lên cao là có nhiều lái người Việt mua, chuyển sang cho
lái Trung Quốc. Chủ yếu là người Việt mua bán lại cho người nước ngồi. Đợt
đó bác khơng thu được lợi nhuận. Bác chỉ làm được một đợt, khơng đủ sức
khỏe thì về. Mấy đứa con hồi đó cịn nhỏ, đến khi lớn lên thì lúc đó H cũng
cạn kiệt rồi. Xung quanh có nhiều nhà trúng lớn, những gia đình đi trúng thì về
xây nhà, mua xe, giàu có lên.”(ơng Phạm Khai, chủ hộ nhà nghỉ).
Cuộc sống bấp bênh lúc được lúc mất của nghề nông khiến người dân
nơi đây càng nóng lịng muốn làm giàu. Vậy là cả làng nhà nào cũng có người
đi rừng kiếm gỗ. Bất chấp pháp luật, không kể hiểm nguy, người dân vẫn chen
nhau vào rừng. Rừng gần khơng có thì kiếm rừng xa, có khi phải đi cả tháng
trời, qua tận bên Lào để mong kiếm được gỗ H. Khơng có gỗ thì kiếm sụn,
kiếm gỗ vụn hay may mắn cũng gặp lại những gốc cây trước đây đã chặt, về
bán cũng được khá tiền. Nhờ bán gỗ huê mà nhiều gia đình cũng có điều kiện
cho con cái học hành. Cứ như vậy nghề rừng vẫn được người dân Chày Lập
tiếp diễn từ thế hệ này qua thế hệ khác. Đối với họ, chỉ có nghề rừng mới hy
vọng thốt nghèo. Tất cả đều dựa vào rừng. Họ khơng cịn sự lựa chọn nào
khác mặc dù biết rằng tính may rủi của nghề rừng khá cao.
2.1.2 Ý thức bảo tồn tài nguyên thiên nhiên
Có thể nói, miếng cơm manh áo đã khiến con người khai thác tự nhiên
quá mức cho phép. Vì nhu cầu sinh kế, người dân Chày Lập chỉ biết lấy đi
những gì sẵn có của tự nhiên mà khơng quan tâm đến sức chịu đựng của nó,
thờ ơ trước hệ sinh thái đang ngày càng cạn kiệt và nhiều chủng lồi có nguy


×