TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ- ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
KHOA: TIẾNG ANH
~~~~~~*~~~~~~
Học phần: Cơ sở Văn hóa Việt Nam
ĐỀ TÀI: NGHỆ THUẬT MÚA RỐI NƯỚC Ở VIỆT NAM
Giảng viên:
Hoàng Thị Mai
Sa
Sinh viên: Nguyễn Thị Khánh Hòa
MSV:
411190112
Lớp:
19CNA04
Đà Nẵng, 2019
I. LỜI MỞ ĐẦU:
Múa rối là loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian truyền thống có từ lâu đời của các dân
tộc sinh sống trên đất nước Việt Nam, nó ra đời và tồn tại cùng với nền văn minh lúa
nước từ thời các vua Hùng dựng nước. Trong nền nghệ thuật sân khấu thế giới, múa rối
nước Việt Nam được biết đến là một loại hình nghệ thuật diễn xướng độc nhất vô nhị. Rối
nước là một đặc sản của văn hóa Việt, được sinh ra và lớn lên từ môi trường nước và đôi
bàn tay khéo léo cùng sự sáng tạo tài tình của những người nghệ sĩ - nông dân. Những tiết
mục rối nước phản ánh cuộc sống bình dị, dân dã cùng những nghi lễ, phong tục tập quán
nơi làng quê Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Múa rối nước là một di sản văn hóa phi vật thể
tiêu biểu của Việt Nam. Và vì thế, có thể nói rằng biết và hiểu về múa rối nước cũng
chính là biết và hiểu về văn hóa và con người Việt Nam.
Do tính đặc sắc của nó, nên từ nghệ thuật mang yếu tố dân gian Múa rối nước đã nhanh
chóng trở thành nghệ thuật truyền thống, có thể sánh ngang với Tuồng, Chèo là những bộ
môn nghệ thuật có vị trí cao trong nền sân khấu dân tộc. Tinh hoa Múa rối nước Việt Nam
đã được sự ngưỡng mộ trong làng bạn bè thế giới, sân khấu Múa rối nước được xem là bộ
môn nghệ thuật “Độc nhất vô nhị”. Tuy nhiên do
xuất hiện sau so với những môn nghệ thuật khác
nên Múa rối nước không tránh khỏi những hạn
chế, cộng với mục đích thương mại đã làm cho
loại hình nghệ thuật này ngày càng mai một và
bị lãng quên. Vì thế vấn đề đặt ra là làm thế nào
để từng bước khắc phục những tồn tại, giúp bảo
tồn và phát triển Múa rối nước dân gian.
Do điều kiện tự nhiên và công việc nông nghiệp của người dân Việt Nam gần gũi và gắn
bó với nước, chính những người nơng dân chân lấm tay bùn này đã sáng tạo ra nghệ thuật
Rối nước. Họ thường tổ chức diễn vào những ngày việc đồng áng tạm xong, ngày xuân,
những ngày mở hội. Người Pháp gọi môn nghệ thuật này với những con rối duyên dáng là
"Linh hồn của đồng ruộng Việt Nam" và đánh giá: "Với sáng tạo và khám phá. Rối n ước
đáng được xếp vào những hình thức quan trọng nhất của Sân Khấu Múa Rối".
Phương thức nhờ nước để con rối hoạt động, nhờ nước giấu đi bộ máy và cách điều khiển
là sáng tạo tuyệt vời. Nước làm cho con rối sinh động, làm cho chúng tươi tắn. Nước đã
tham gia cùng diễn với con rối như một nhận xét: "Nước cũng là một nhân vật của múa
rối". Mặt nước như êm ả với đàn vịt bơi, trở nên thơ mộng trong làn khói huyền ảo khi
bầy tiên nữ giáng trần múa hát. Nhưng mặt nước cũng sôi động trong những trận chiến
lửa, những con rồng vây vàng xuất hiện.
Báo Pháp viết: "Con rối được điều khiển bằng sự khéo léo khó mà tưởng tượng. Con rối
như có phép thuật điều khiển". Đấy chính là sự tài tình, là điều hấp dẫn và sáng tạo của
nghệ thuật Múa rối nước.
Trước kia, rối nước chỉ diễn vào ban ngày, ở ngồi trời. Khơng thấy sân khấu gắn bó hịa
quyện với phong cảnh thiên nhiên như rối nước. Giữa thiên nhiên thơ mộng, khán giả có
cơ hội chiêm ngưỡng một loại hình nghệ thuật trong đó có đất, nước, cây xanh, mây, gió,
có lửa, có khói mờ vương toả, có cả mái đình với những hàng ngói đỏ... Thật sự là một sự
hịahợp độc đáo của nghệ thuật, thiên nhiên và con người.
II.TÊN GỌI, NGUỒN GỐC VÀ SỰ RA ĐỜI MÚA RỐI NƯỚC Ở VIỆT NAM
1. Tên gọi
Theo P.L Mi-nhon (Mignon) trong cuốn Bách khoa - Phổ thông, từ Ma-ri-on-nét
(Marionnette - múa rối) là một từ giảm nhẹ của (Mariole) thời Trung cổ dùng để chỉ
những bức tượng Đức Mẹ đồng trinh nhỏ. Người ta không thấy từ này trong các ngôn ngữ
khác, từ pup-pê trong tiếng Đức và puppet (búp bê) trong tiếng Anh được dùng để gọi con
rối, vì về ngoại hình con rối trơng giống con búp bê. Từ đó, ta có thể định nghĩa như sau:
Con rối là những con búp bê, khơng giới hạn về kích cỡ, được cơ cấu, thiết kế sao cho các
bộ phận có thể cử động được bằng sức lực, sự điều khiển của con người, nhằm mục đích
diễn trị, đóng kịch.
2. Nguồn gốc
Từ những con Rối riêng lẻ của một số các cá thể phát triển thành những Phường rối với
nhiều những tích trị hay, lạ, đẹp mắt rồi được đem ra biểu diễn, thi tài phục vụ nhân dân.
Từ đây nghệ thuật Múa rối đã trở thành thú chơi tao nhã của nhân dân đồng bằng sông
Hồng và đến nay đã trở thành một loại hình nghệ thuật truyền thống trong dân gian được
gìn giữ, bảo tồn và phát huy.
Như vậy có thể nói, Nghệ thuật Múa rối truyền thống của dân tộc Việt Nam ra đời vào
khoảng thế kỷ XI – XII khi phật giáo bắt đầu phát triển mạnh ở nước ta gắn liền với
những điều kiện tự nhiên, điều kiện sinh hoạt của người nông dân nông nghiệp trồng lúa
nước ở đồng bằng Bắc bộ. Với một trí tưởng tượng phong phú và óc sáng tạo thơng minh
của cha ơng ta đã góp phần hình thành nên nghệ thuật Múa rối. Đây là một nét văn hóa
truyền thống riêng biệt của dân tộc Việt Nam so với nền nghệ thuật Múa rối của các quốc
gia trên toàn thế giới.
2.1 Rối nước: Múa rối nước có giá trị đặc sắc và khác với tất cả các loại hình sân khấu
Việt Nam như rối cạn, chèo, tuồng, cải lương… ở chỗ dùng mặt nước làm nơi cho quân
rối diễn trò, đóng kịch. Đây là hình thức sân khấu mặt nước duy nhất trong các dạng thức
của nghệ thuật múa rối của nhân loại, khác biệt với rối tay, rối que, rối máy, rối bóng…
của sân khấu rối cạn.Việt Nam nói chung và vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng có diện
tích mặt nước lớn với nhiều ao, hồ... và chính điều này là cơ sở cho sự ra đời của rối
nước. Sân khấu mặt nước góp phần đắc lực tạo nên những bất ngờ, thú vị cho người xem.
Khán giả ngạc nhiên, ngỡ ngàng khi hàng cờ từ dưới nước bật lên mà vẫn khơ ngun,
thích thú khi những con rối đi xa hàng chục mét đến sát mép nước mời trầu, mời thuốc,
tặng hoa…Những con rối gỗ đơn điệu, dáng vẻ thơ sơ… đã trở nên biến hóa linh hoạt,
thoắt ẩn thoắt hiện…chinh phục khán giả của mọi lứa tuổi trên khắp năm châu. Có thể nói
đây chính là đặc trưng nổi bật nhất góp phần nhận diện múa rối nước. Khơng có yếu tố
mặt nước thì khơng có sự kỳ diệu, lơi cuốn, hấp dẫn của loại hình nghệ thuật múa rối
nước.
Tuy nhiên, múa rối nước trên thế giới, hiện chỉ còn tồn tại ở Việt Nam. Múa rối nước
(hình thức dùng con rối diễntrị, diễn kịch trên mặt nước) được coi là nét văn hóa phi vật
thể đặc sắc của dân tộc Việt Nam, một loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian truyền
thống lâu đời ở vùng châu thổ sông Hồng thường diễn ra trong các dịp lễ, hội làng, ngày
vui,ngày Tết.
2.2 Các giai đoạn của múa rối nước ở Việt Nam:
+ Thời kì 1: Ở thời kì này, múa nước chỉ là hình thức trị chơi của nông dân lao động,
không phổ biến rộng, hoạt động trong phạm vi nhỏ, một vài địa phương diễn ra ở TK XI
vào trước thời Lý
+ Thời kì 2: Đây là thời kì hình thành một nhóm nười chơi rối của nhân dân lao động, tiến
lên thành một phường, một gánh, diễn ra ở những địa điểm có nhiều người xem, lan rộng
ra xóm làng, được nhiều người, vùng lân cận, đình chùa biết đến
+ Thời kì 3: Phong trào lan rộng từ các vùng có nhiều cơ sở múa rối nước hoạt động, tiến
đến các địa phương xa hơn, lan rộng khắp đồng bằng miền Bắc nước ta.
+ Thời kì 4: Từ sau cách mạng tháng 8
+Thời kì 5: Giai đoạn lập lại hịa bình năm 1954
+Thời kì 6: Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc lần 2.
Rối là một loại hình văn hố truyền thống gắn bó chặt chẽ với cuộc sống tinh thần từ lâu
đời của nhân dân Việt Nam. Tuy có nhiều dạng hoạt động của loại hình này ở khắp mọi
liền đất nước, nhưng tập trung, hoàn thiện, phổ cập hơn cả ở vùng trung du và đồng bằng
phía Bắc. Ở đây nghệ thuật rối đã phát triển đa dạng, phong phú. Từ ngữ rốí trong ngơn
ngữ giao tiếp và thơ văn, thành tên gọi riêng của làng (làng rối ở ý Yên, Nam Định), của
chùa (chùa rối ở Phú Xuyên, Hà Tây), của ao (ao rối ở nhiều nơi)… Từ bao đời nay trị
“leo dây, múa rối” là nguồn vui chơi giải trí rất hấp dẫn bà con xa gần trẩy hội đình chùa
làng xã. Lòng mến yêu nghệ thuật này được thể hiện bằng thành ngữ, ca dao, dân ca, bằng
văn thơ, … Trị rối xưa gắn bó sâu xa với lễ nghi phong tục. Ngày hội làng Đông An
(Hưng Yên) diễn lại sự tích ơng Đùng, bà Đà bằng hai qn rối lớn (thân đan bằng nan tre
hoặc nứa, mặt phết giấy, quần áo giấy mầu), rước quanh làng và làm động tác tỏ sự vui
mừng. Loại quân rối này ở hội đền Bà Chúa Muối (Thái Bình) lại dùng nong đan làm mặt,
sào tre làm thân và buồm thuyền làm quần áo diễu hành như một lễ tiết. Tượng Lý Thần
Tông thờ ở chùa Thầy (Hà Tây) và tượng tháng Linh Lang thờ ở đền làng Hà Cầu (Hải
Phòng), đều được tạc các bộ phận cơ thể bằng gỗ rời nhau, rồi chắp lại có khớp lỏng để
làm cử động được, như kiểu con rối dây.
Ngoài đồng ruộng, nương rẫy, nhiều bù nhìn đứng ngày đêm xua chim, đuổi chuột đến
phá hoại hoa màu. Rằm tháng Bảy, Tết xá tội vong nhân hàng năm, nhân dân thường đốt
nhiều quân rối vàng mã cho người chết. Tết Trung Thu, Rằm tháng Tám, dành cho trẻ em
nhiều quân rối đồ chơi + con thú . Trò múa Rồng, múa Lân, múa Tứ Linh, múa ơng Địa
… là những trị hấp dẫn của hội hè đình đám. Ở đồng bào dân tộc ít người, cịn tồn tại
nhiều điệu múa đột lốt, múa hố trang hình chim gắn với tín ngưỡng vật tổ như múa chim
công (dân tộc Thái Đen), múa hạc ( DT Tày), múa chim phượng hoàng ( DT Dao), múa
chim câu ( DT Cao Lan), múa chim Grư (DT Êđê ), Kiểu “tượng quân rối” cũng thấy
dùng trong lễ nghi thờ cúng của đồng bào La Chí, Lơ Lơ, … Đồng bào Bana đã có nhiều
trị rối trong lễ bỏ mả khơng những để làm thoả lịng người chết mà cịn làm vui bà con
bn làng.Trong gia đình nhà rối cịn gặp trị múa sọ người ở Đơng Anh (Hà Nội), múa
đầu rối ở Vĩnh Phúc, múa mặt nạ ở Xuân Phả (Thanh Hoá), …
Đồng bào Khơme (Nam Bộ) có hẳn một loại hình sân khấu ” mặt nạ ” Tuồng rôbăm. Hiện
nay ở chùa Bi (Nam Định), chùa Keo (Thái Bình) vẫn lưu giữ các bộ quân rối chuyên
diễn thờ ngày hội hàng năm. Chùa Thầy (Hà Tây), đền Gióng (Hà Nội) cịn có nhà hát rối
nước xây dựng giữ ao hồ trước sân đình, cách ngày nay hàng thế kỷ
III. ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT MÚA RỐI NƯỚC Ở VIỆT NAM
1. Con rối
Con rối được các nghệ nhân làm bằng gổ, gổ tốt sẽ nặng và chìm, nên gổ sung là chất
liệu thông dụng để tạo con rối, loại gỗ này nhẹ,dai, rất dễ điều khiển trong khi biểu
diển dưới nước. Sau đó được sơn một lớp sơn khơng thấm nước. Để tạo một con rối hồn
chỉnh, các nghệ nhân phải trải qua nhiều giai đoạn tỉ mỉ, cơng phu từ đục cốt đến trang trí.
Con rối được tạo bởi hai phần chính, phần thân và phần đế. Phần thân là phần nổi bên
trên thể hiện nhân vật, cịn phần đế là phần chìm bên dưới là nơi lắp máy điều khiển
cho con rối cử động. Máy điều khiển và kỷ xảo điều khiển con rối là yếu tố chính để tạo
nên hành động của con rối. Phường rối Yên ở xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, tỉnh Hà
Tây dùng gỗ cây yến để làm rối. Con rối được sơn 4 hoặc 5 lần bằng một loại vecni
truyền thống có phủ lớp bạc, do vậy các con rối rất bền. Phường rối Ra ở huyện Thạch
Thất, tỉnh Hà Tây sơn rối theo 3 bước:
+Bước 1 : Sơn hom
Người thợ thủ công sơn phủ con rối bằng một lớp sơn ta trộn với đất sét, sau đó dùng một
viên cuội để đánh bóng rồi dùng đá màu cọ xát thân rối trong nước.
+Bước 2 : Sơn lót
Tiếp đó người thợ sơn con rối thêm vài lần nữa để lấp kín mọi vết nứt. Sau khi khơ,
cứ mỗi lớp sơn lại được người thợ dùng
một viên đá để đánh bóng
+Bước 3 : Thếp bạc
Lần này trong lúc sơn còn chưa khô, người
thợ dán lên các lá quỳ dày 3 cm, rộng 4 cm2,
do làng Kieu Kỵ, huyện Gia Lâm, Hà Nội
sản xuất. Người thợ có thể dán thêm một lớp
lá quỳ nữa trước khi sơn thêm 2, 3 lần nữa
bằng sơn trộn với nhựa cây mủ. Các thợ thủ
công dùng sơn ta để sơn các màu da cam
thẫm, nâu đậm, da cam nhạt, đỏ và đen, nhưng với các màu xanh lá cây và đỏ son thì
phải dùng sơn của Thái Lan hoặc của Nhật Bản.
Để làm ra được những “chú rối” phải trải qua rất nhiều cơng đoạn, địi hỏi sự tỉ mẩn, khéo
léo của những người nghệ nhân. Quân rối càng hoàn hảo, càng giúp cho kỹ xảo điều
khiển nâng cao, khả năng diễn đạt phong phú.
Nghệ nhân rối nước phải đứng ngâm nửa mình trong bùn nước sau mành của buồng trò
điều khiển quân rối… Xưa rối nước thường diễn ban ngày và chủ yếu với nhạc gõ như
trống, mõ, phèng la, não bạt, … và các âm thanh mạnh như pháo, ốc, tù. Lời giáo, lời trò
đều lấy từ ca dao, dân ca,… hay trích trong các vở kịch hát dân tộc. Sân khấu rối nước gọi
là Thủy đình , được dựng ngồi trời, gồm:
– Một: Buồng trò – dựng giữa ao, hồ, che kín, có mành treo cửa trước che nghệ nhân
đứng sau điều khiển.
– Hai: Sân khấu – khoảng mặt nước trước mành dài rộng 4m x 4m, hai bên có lan can
thấp kéo từ hai nhà nanh hai bên, nơi quân rối hoạt động.
– Ba: Nơi người xem – khoảng bờ, bãi, sân trước và hai bên sân khấu dưới bóng cây trồng
quanh ao, hồ…
2. Thủy đình là hình tượng đặc trưng
Nếu chú Tễu là một biểu tượng của Múa rối nước, thì chúng ta phải nói đến tịa thủy đình,
nơi biểu diễn Rối nước, như một yếu tố góp phần làm nên nét độc đáo trong giá trị thẩm
mỹ của Múa rối nước. Không biết từ khi nào, ở Múa rối nước có thủy đình? Trong thực
tế, đã có đến 28 phường hội rối nước dân gian ở 11 tỉnh của khu vực châu thổ sông Hồng
(theo thống kê của các nhà nghiên cứu Tô Sanh, Nguyễn Huy Hồng). Cho đến nay, dù
khơng có nhiều thủy đình cịn tồn tại, thực tế chứng tỏ không phải phường rối nào cũng có
nhà thủy đình và thủy đình khơng mang tính phổ biến như Tễu (phường, hội nào cũng
có), dầu vậy thủy đình vẫn trở thành một biểu tượng của Múa rối nước Việt Nam.
Thủy đình hay cịn gọi dân dã là buồng trò là đặc trưng tiếp theo của loại hình này. Thủy
đình là sự hiện diện của một vật chất chứa đựng nét thân thuộc đã nâng tầm rối nước
thành loại hình sáng giá, mang đậm yếu tố văn hóa Việt. Hình ảnh thủy đình mang dáng
dấp mái đình với kiến trúc chồng diêm hai tầng tám mái, nhẹ nhàng và thanh thoát với
đầu đao cong vút đã cho chúng ta hình ảnh cụ thể về một sân khấu rối nước.
Nếu như buồng trò của sân khấu rối
cạn, rối bóng, rối Nhật Bản... đều
dựng trên mặt đất thì trong rối nước,
buồng trị bắt buộc phải dựng trên
mặt nước (có thể là ao, hồ hay bể
chứa nước).Thủy đình chính là nơi để
các nghệ nhân hoạt động, với hai
kiểu: Thủy đình cố định bằng gạch
ngói và thủy đình dùng để đi biểu
diễn lưu động làm bằng phên tre,
khung ống nước.
Sự kết hợp giữa ao làng với thủy đình
đã tạo nên một không gian diễn
xướng rất đặc trưng, độc đáo của rối nước. Không gian vừa thiên tạo vừa nhân tạo, lại
mang đậm dấu ấn của văn hóa Việt là cội nguồn cho vẻ đẹp nghệ thuật lan tỏa.
3. Âm nhạc,ánh sáng, văn học
Trong nghệ thuật biểu diễn rối nước, âm nhạc là một phần khơng thể thiếu được. Nó
khơng chỉ đóng vai trị kết nối giữa tiết mục này với tiết mục khác, mà âm nhạc cịn tác
động đến khơng khí của cả chương trình diễn.Tiết tấu của nhạc tác động trực tiếp đến việc
điều khiển con rối của diễn viên. Âm nhạc đóng vai trị quan trọng trong việc thể hiện rõ
tính cách, hành động …của nhân vật rối, tác động gây sự hứng khởi, cuốn hút người xem.
Dàn nhạc trong biểu diễn rối nước là dàn nhạc của Chèo, môn nghệ thuật truyền thống
đặc thù ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Ngồi các nhạc cơng cịn có các ca sĩ hát chèo. Các bài
ca, lời thoại kết hợp với động tác của các con rối đã đưa người xem đến với những tích trị
, những truyền thuyết giàu tính nhân văn, những tập tục, lễ hội mang đậm bản sắc dân tộc
ở vùng châu thổ sông Hồng. Các nhạc cụ chủ yếu trong biểu diễn rối nước là: Trống, nhị,
sáo, bộ gõ, đàn tranh hoặc tam thập lục, đàn bầu.
Trong biểu diễn rối nước người ta còn sử dụng nhiều loại pháo như pháo nổ, pháo hoa,
pháo dây, pháo vịt nhằm tạo ra khơng khí sơi động và sự lung linh huyền ảo cho buổi diễn
thêm hấp dẫn.
Ánh sáng là yếu tố quan trọng làm tăng vẻ đẹp của phong cảnh trang trí, tăng tính hiệu
quả của các tiết mục. Nghệ thuật múa rối nước diễn với ánh sáng ban ngày đã đẹp, diễn
với các loại ánh sáng vào ban đêm càng lung linh, huyền ảo. Múa rối nước từ xưa đến nay
đã có nhiều buổi biểu diễn đêm với đủ loại ánh sáng: đuốc, đèn măng xông, đèn điện, hệ
thống đèn pha và máy điều khiển ánh sáng pha màu. Với ánh đèn pha hắt từ dưới lên, từ
trên xuống các con rối được khoang trong một vùng ánh sáng và mặt nước là một tấm
gương phản chiếu lung linh các loại màu sắc. Thủy khắc hỏa nhưng trên sân khấu rối
nước lại kết hợp vơ cùng hài hịa, khéo léo đem đến những tiết mục lôi cuốn người xem.
Bên cạnh âm thanh, ánh sáng, trị rối nước cịn có sự hỗ trợ của yếu tố văn học tuy rằng
văn học mới chỉ tham gia trong giai đoạn phát triển sau này. Lời trong rối nước giữ vai trò
giới thiệu trò, minh họa trò, chưa tham gia nhiều vào hành động nhân vật. Với các bài văn
vần, biền ngẫu mang tính phóng khống khơng thành một hình thức quy củ, mang tính
khoa trương, biểu tượng là chính đã ít nhiều làm cho rối nước thêm phần hấp dẫn.
IV.GIÁ TRỊ VĂN HĨA CỦA MÚA RỐI NƯỚC
Có thể khẳng định, nghệ thuật Múa rối nước Việt Nam là một văn phạm thị giác
được viết ra bởi những nhận thức tinh nhạy của con người. Đó là hình thức sân
khấu lý tưởng nhất, sự phát triển tư duy sáng tạo nghệ thuật, thể hiện tầm nhìn của
người nghệ sĩ ở mức độ cao. Bởi lẽ, Rối nước không chỉ là nghệ thuật riêng của
cộng đồng dân cư người Việt sau lũy tre làng, nó có thể đến với những cộng đồng
người ở khắp nơi trên thế giới, thuộc những nền văn hóa khác nhau, những ngơn
ngữ khác nhau, bởi chính ở đặc trưng khác biệt với tất cả các thể loại nghệ thuật
khác: Người xem có thể hiểu nội dung của trị diễn mà khơng cần phải hiểu về
ngơn ngữ, tiếng nói. Để từ đó, ai cũng nhận thấy, nội dung truyền tải qua ngơn ngữ
biểu hình có tính phổ qt rộng hơn so với sự diễn giải bằng lời nói.
1.Giá trị giải trí
Rối nước Việt Nam thuở ban đầu ra đời thuần t chỉ vì mục đích giải trí, bằng những nội
dung mang nặng tình yêu thiết tha với cuộc sống, và thấm đẫm tinh thần lạc quan của
người nông dân vùng Châu thổ sơng Hồng, đã góp phần đáng kể vào đời sống văn hóa
tinh thần vui tươi lành mạnh ở khắp mọi nơi. Giá trị giải trí của Múa rối nước Việt Nam
cịn thể hiện ở sự sang tạo thăng hoa của các nghệ nhân thủ công trong làng đã sáng tạo ra
những trị diễn mới, độc đáo cho chính cộng đồng mình.
2.Giá trị thẩm mỹ
Múa rối nước vùng Châu thổ sông Hồng mang tính ngun hợp cao, vì nó kế thừa được
giá trị văn hóa, văn minh lúa nước của người Việt vùng châu thổ sông Hồng. Hành động
đẩy thuyền, kéo thuyền của người Việt xưa trong các cuộc đua thuyền tại lễ hội chẳng
khác nào hành động đẩy sào, kéo dây trong Múa rối nước. Giá trị này làm nên giá trị thẩm
mỹ của Múa rối nước, của nghệ thuật dân gian Việt Nam. Khi nói tới giá trị thẩm mỹ,
khơng thể quên nhân vật Tễu, mang tính biểu tượng của múa rối nước, của văn hoá lúa
nước Việt Nam. Cùng một nhân vật Tễu, nhưng Tễu làng Đống to hơn và hoạt động linh
hoạt hơn so với các phường khác qua các động tác: gật đầu, đưa tay lên cao, xuống thấp,
xoay ngang, qua trái, qua phải, đi vòng khắp sân khấu, và thơng minh, hóm hỉnh, nghịch
ngợm, hết sức sinh động với lời giáo:
“Nay mừng vận mở thái hòa, Tễu tơi nhanh nhảu bước ra trình trị.
Bốn bề cơng chúng xem cho, Múa thuận, múa nghịch mọi trò mọi hay.
Chứ không phải cứng ngay như người gỗ...”
Chú Tễu, thủy đình, góp phần làm nên nét độc đáo trong giá trị thẩm mỹ của Múa rối
nước, tạo thành những biểu tượng đẹp của Múa rối nước Việt Nam.
3.Giá trị giáo dục
Múa rối nước giáo dục cho con người về lòng yêu lao động, yêu thiên nhiên, yêu quê
hương, yêu đất nước và tinh thần tự hào dân tộc, cố kết cộng đồng trong sự nghiệp “chống
thiên tai địch họa, chống ngoại xâm” để hướng tới cái đẹp “tình làng nghĩa xóm” trong
văn hóa làng vùng châu thổ sơng Hồng. Giống với Chèo, Múa rối nước cũng là sự thể
hiện một phần của văn hố đạo đức Việt Nam. Tính khuyến giáo đạo đức trong Múa rối
nước tồn tại ở dạng giản dị, hồn nhiên, rõ ràng và nhân văn, gieo vào lịng người tình u
thương con người, đồng loại, khơi gợi những ước mơ, khát vọng cao cả, nâng tâm hồn,
giá trị tinh thần của con người, đưa con người vươn tới quyền dân chủ, làm chủ cuộc
sống, làm chủ thiên nhiên. Có lẽ, chính những thơng điệp mang giá trị đạo đức hết sức
nhân văn làm cho nghệ thuật Múa rối nước trở nên mang tính nhân loại. Giá trị đạo đức
trong Múa rối nước chính là giá trị lý tưởng mà cả nhân loại chúng ta ngày nay theo đuổi,
xây dựng.
4.Giá trị nhận thức
Múa rối nước là những bức tranh phản ánh chân thực về cuộc sống của những người nơng
dân trong sinh hoạt đời thường, từ đó, chúng ta nhận thức được mối quan hệ giữa con
người với con người, giữa con người với thế giới thiên nhiên, hiểu được lao động, sinh
hoạt, khát vọng và ước mơ về cuộc sống ấm no, hạnh phúc của người nơng dân vùng châu
thổ sơng Hồng trong tiến trình phát triển của lịch sử. Múa rối nước vùng châu thổ sông
Hồng mang giá trị cộng cảm, công mệnh của văn hóa cộng đồng, được cộng đồng ni
dưỡng, gìn giữ và phát triển. Múa rối nước trong lễ hội cũng hướng tới mục đích phản ánh
nội dung, ý nghĩa, giúp nhận thức rõ giá trị văn hóa ẩn sâu trong đời sống tâm linh của
mỗi cư dân nông nghiệp lúa nước. Mặc dù quân rối nước là sáng tạo của người thợ thủ
cơng làm chùa, tạc tượng… Tuy nhiên, các trị diễn của Rối nước không bị ảnh hưởng
trực tiếp từ tơn giáo, tư tưởng chính trị. Hiện thực cuộc sống ở Múa rối nước được nghệ
nhân phản ánh không bằng tư duy hiện thực mà bằng tư duy lãng mạn – dân gian. Ta thấy
một thế giới mà ở đó, người nơng dân là một tạo hóa tạo ra một thế giới của riêng mình,
làm cho quân rối – bất động vật trở thành một sinh thể, sống trong một thế giới hịa bình,
tự do, tự sáng tạo và không bị lệ thuộc, không có quyền lực của Vua chúa, khơng có giáo
huấn của đạo, mà Tễu là nhân vật điển hình.
V.MÚA RỐI NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
5.1 Thực trạng rối nước
Tại Ấn Độ và các nước Đơng Nam Á, chỉ có rối tay, rối que và rối dây. Cịn múa rối nước
thì chỉ gặp ở Việt Nam và Trung Quốc. Theo giáo sư J. Pim-pa-ne-au, múa rối nước đã
biến mất ở Trung Quốc và ngày nay “chỉ còn tồn tại ở Việt Nam”.
Đồn múa rối Trung ương khơng những chỉ giới thiệu các chương trình múa rối tay, múa
rối que và múa rối nước mà còn động viên việc sáng tác các tiết mục mới cũng như việc
nghiên cứu về lịch sử múa rối nước.
Năm 1992, Nhà hát Múa rối Thăng Long phục hồi 17 trò rối nước làm sống dậy trò rối
nước trên toàn quốc gồm: Bật cờ, Chú Tễu, Múa rồng, Em bé chăn trâu, Cày cấy, Cậu
ếch, Bắt vịt, Đánh cá, Vinh quy bái tổ, Múa sư tử, Múa phượng, Lê Lợi trả gươm, Nhi
đồng vui chơi, Đua thuyền, Múa lân, Múa tiên, Tứ linh.
Hiện nay, ở Việt Nam có 6 đồn nghệ thuật múa rối chun nghiệp ở trung ương, Hà Nội,
Hải Phịng, Thành phố Hồ Chí Minh, Đắk Lắk và Quảng Trị. Ngồi ra cịn có hàng chục
phường múa rối nước ở nhiều địa phương của vùng đồng bằng sông Hồng.
Qua điều tra trên diện rộng ở các phường Múa rối nước dân gian, cũng như qua các kỳ
liên hoan Múa rối nước toàn quốc, cùng việc xem xét hoạt động biểu diễn Múa rối nước
của các đơn vị, cho ta thấy rõ phong trào biểu diễn Múa rối nước dân gian và ảnh hưởng
của nó đang được duy trì ở nhiều tỉnh thành trên miền Bắc. Những địa phương vốn khơng
có Múa rối nước như ở miền Trung và Nam Bộ thì giờ đây cũng tổ chức biểu diễn Múa
rối nước. Đó là một biểu hiện đáng mừng trong việc phát huy vốn văn nghệ cổ truyền
trong đơng đảo người xem. Có điều cần cảnh báo là mục đích của một số tổ chức Múa rối
nước không hẳn để nối tiếp truyền thống, bảo tồn vốn nghệ thuật truyền thống và phục vụ
cho nhân dân, mà chủ yếu phục vụ khách du lịch nước ngoài để thu lợi. Sử dụng nghệ
thuật truyền thống vào quảng bá du lịch là việc nên làm, song nếu đặt sai mục đích sẽ có
tác dụng ngược. Du khách cần biết cái tinh hoa, đặc điểm của văn hóa nghệ thuật Việt
Nam, chứ không phải cấn đến những yếu tố vụ lợi.
Cũng vì mục đích thương mại đó mà vốn nghệ thuật dân gian tiềm ẩn trong nhân dân
ngày bị mai một, bị lãng quên, bị sử dụng sai mục đích dẫn đến tình trạng ngày một nghèo
đi. Điều này rất dễ thấy là gần như hầu hết các phường Múa rối nước trên tồn miền Bắc
đều diễn một chương trình gần giống nhau. Đó là 16 trị Múa rối nước dân gian được rút
ra từ phường Nguyên Xá ở Thái Bình và phường Nam Chấn ở Nam Định từ cách đây gần
30 năm. Rất ít phường có những tiết mục mới (do sưu tầm từ vốn cổ, chứ không phải mới
sáng tác). Có nơi phục hồi được một số trị nhưng diễn chưa điêu luyện, vì hầu hết là diễn
viên trẻ mới đào tạo ngắn ngày chưa vững tay nghề. Lại có nơi chạy theo đề tài thời sự,
viết kịch bản mới, dàn dựng mới nhưng khơng hấp dẫn vì chạy theo tích (chuyện) mà
qn trị là yếu tố quan trọng nhất của nghệ thuật sân khấu dân gian. Thực chất Múa rối
nước dân gian chỉ diễn trò là thuận hơn tích, bởi nó xuất xứ từ trị chơi dân gian hay nghi
lễ.
Thực tế, Múa rối nước dân gian Việt Nam đang có xu hướng hiện đại hóa và đang mờ dần
bản sắc, vì nó bị tác động bởi cơ chế thị trường, đồng thời khơng được quản lý có định
hướng rõ ràng. Cũng cần nhận thức rằng, khơng có nghệ thuật truyền thống nào không
được cải tiến và nâng cao mà có tác động trong thời hiện đại, nhưng mọi cải tiến và nâng
cao phải đảm bảo đặc tính tinh hoa của nó trong mối quan hệ với bản sắc dân tộc, theo
định hướng văn hóa của ta. Cũng như các loại hình sân khấu truyền thống (Tuồng, Chèo,
Ca trù, quan họ), nghệ thuật Múa rối nước dân gian hiện không được đông đảo công
chúng Việt Nam mặn mà lắm do không thay đổi trị diễn và khơng nâng cao mỹ thuật
qn rối và nghệ thuật biểu diễn… Một nguyên nhân khác là việc tuyên truyền, giáo dục
thẩm mỹ dân tộc cho công chúng về Múa rối nước cũng chưa được quan tâm đúng mức,
chưa làm cho người ta thấy hết cái hay, cái đẹp, cái độc đáo của Múa rối nước dân gian.
Bảo tồn và phát huy Rối nước thích hợp nhất là tồn tại trong cộng đồng, tại các làng quê,
nông thôn, đặt trong bối cảnh hiện nay khi cấu trúc văn hóa làng truyền thống châu thổ
sơng Hồng đã có những chuyển đổi. Nhận thức đầy đủ những giá trị văn hóa của Múa rối
nước trong q trình tiếp nhận, chọn lọc yếu tố ngoại sinh để sáng tạo giá trị mới, tránh
nguy cơ lai căng, đánh mất bản sắc vốn có của nghệ thuật.
5.2 Giải pháp bảo tồn và phát huy Múa rối nước Việt Nam
- Về nhận thức
Nhận thức về đổi mới trong mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển: Bảo tồn, phát triển
Múa rối nước Việt Nam phải được đặt trong động lực phát triển kinh tế - xã hội. Nhận
thức về văn hóa nghệ thuật trong định hướng của Đảng: Đổi mới là quy luật khách quan.
Nhận thức về văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội: Bảo tồn, phát triển Múa rối nước
phải luôn luôn gắn liền với những giá trị văn hóa của chính Múa rối nước Việt Nam.Nhận
thức về văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc: Bảo tồn và phát huy văn hóa Múa rối
nước phải theo quy luật: Vận động và phát triển, chú ý đến kế thừa, tạo thành “truyền
thống”.Nhận thức về kế thừa và phát triển.Mọi sự sáng tạo của nghệ sĩ không thể tách rời
những giá trị vănhóa, giá trị thẩm mỹ cội nguồn của Múa rối nước truyền thống.
- Về tổ chức
Hoạt động Múa rối nước được chia theo ba mơ hình hoạt động:
+Nhà hát bảo tang là nơi giữ gìn, bảo tồn, trưng bày nghệ thuật Múa rối nước, nguyên bản
bằng nghệ sĩ biểu diễn trước khán giả, phục hồi các trị cổ.Thể hiện ngun vẹn giá trị vốn
có của Múa rối nước truyền thống.
+ Nhà hát cách tân: Mơ hình này, Múa rối nước sáng tạo các tiết mục mới mang tính thời
sự, thời đại, phù hợp với nhu cầu thẩm mỹ của khán giả đương thời.
- Nhà hát thử nghiệm:
Nhà hát thử nghiệm - là nơi để các nghệ sĩ tiến hành những tác phẩm - cơng trình làm thử.
Ba mơ hình nhà hát có đội ngũ nghệ sĩ khác nhau, có chương trình và khán giả riêng biệt,
có thể là tổ chức độc lập, hoặc cũng có thể được tồn tại trong một tổ chức mới: Liên đoàn
Múa rối nước Việt Nam.
- Về quảng bá, tuyên truyền Múa rối nước
Xây dựng chiến lược hợp tác quốc tế, kế hoạch cụ thể từng năm
Để nghệ thuật Múa rối nước dân gian có thể tồn tại và phát triển theo định hướng mà
Nghị quyết 05 về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc, Nhà nước cần quan tâm và đầu tư thêm tài chính để nghệ thuật Múa rối nước có
sức tồn tại tự thân ngay ở trong làng, xã. Cuộc sống của những người hoạt động Múa rối
nước dân gian ở tình trạng bấp bênh thì họ khơng thể yên tâm ngồi cạnh những cái ao
làng lạnh lẽo với những con rối vô hồn mà họ phải bươn chải, phải tự vận động theo cơ
chế thị trường để tồn tại. Bên cạnh sự quan tâm, tài trợ của Nhà nước, chúng ta phải thực
hiện chính sách xã hội hóa đối với Múa rối nước, để phục hồi những trò diễn cổ – vốn quý
do nhiều thế hệ nghệ nhân tài hoa sáng tạo ra và tiếp tục cho xây thêm một số Thủy đình
biểu diễn Rối nước ở địa phương.
Với Múa rối nước hồn cảnh và mơi trường có khác với Tuồng, Chèo, bởi Múa rối nước
chỉ tồn tại ở làng quê với những ao hồ, lại phân tán trên một diện rộng gần khắp miền
Bắc. Do đó, việc tập trung lại để khai thác vốn cổ có phần khó khăn hơn. Cho đến thời
điểm này, số nghệ nhân Múa rối dân gian thực thụ cịn lại rất ít. Bên cạnh đó, nghệ nhân
lại tuổi cao, sức yếu, bỏ nghề đã quá lâu, nên vốn truyền thống được bảo lưu trong họ
mỏng manh, vừa tản mạn và dễ tam sao thất bản. Tuy vậy, nếu có quyết tâm và có sự đầu
tư đúng mức của Nhà nước có kế hoạch khai thác vốn truyền thống chặt chẽ, chúng ta vẫn
có thể làm được, nhưng phải xúc tiến nhanh, nếu khơng thì sẽ q muộn.
Cùng với việc khai thác, phục hồi và biểu diễn những tích trị cổ, ngành Múa rối nước
cũng cần đẩy mạnh quá trình xây dựng những tiết mục biểu diễn hồn tồn mới. Hai q
trình này nên tiến hành song song, đồng thời. Kinh nghiệm rút ra từ lịch sử nghệ thuật
trong nước cũng như trên thế giới đã cho thấy rằng, sức sống của một bộ môn nghệ thuật
không chỉ thu lại ở phương diện bảo tồn và tiếp thu tinh hoa của quá khứ mà còn thể hiện
ở phương diện phát huy và phát triển loại hình nghệ thuật đó trong thời đại mới. Nếu chỉ
khoanh việc biểu diễn Múa rối nước trong 16 trị quen thuộc thì đến một lúc nào đó sẽ trở
nên nhàm chán cho người xem và cả cho người tổ chức. Và như thế, vơ tình trong ta làm
xơ cứng, nghèo nàn một di sản nghệ thuật truyền thống đặc sắc. Làm mới nghệ thuật Múa
rối nước đòi hỏi một tinh thần sáng tạo nghiêm túc và kiên trì. Mới nhưng vẫn mang đặc
trưng nghệ thuật Múa rối nước và phong cách dân gian truyền thống. Công việc này trước
tiên đặt lên vai các đoàn nghệ thuật múa rối chuyên nghiệp như là bước đột phá mở
đường để các phường rối dân gian học tập.
VI. KẾT LUẬN
Trong số các di sản văn hoá phi vật thể của Việt Nam thì múa rối nước là một trong
những loại hình đặc sắc và tiêu biểu của người Việt đồng bằng Bắc Bộ. Nghệ thuật múa
rối nước ở vùng đồng bằng Bắc Bộ với 15 phường rối dân gian gặp nhau ở nhiều điểm:
mặt nước làm sân khấu, thủy đình, nhân vật Tễu… tạo nên đặc điểm chung của rối nước
Việt Nam. Ngày nay có sự cởi mở trong trao đổi, giao lưu giữa các phường rối dân gian
song mỗi phường đều ít nhiều vẫn có nét riêng đã góp phần tạo nên bức tranh màu sắc
nhưng thống nhất của nghệ thuật rối nước Việt Nam.
Thơ:
Thời con nít, mê trị rối nước
Reo ầm lên: Giỏi q ! Tài ghê!
Các chú rối úp nơm, bắt cá
Các cô rối múa đều, hết chê!
Xem, cứ tưởng Trời ban phép lạ
Biến đất thó, gỗ vụn thành người
Nghĩ, càng thấy lắm điều bí ẩn
Lại reo toáng: Tuyệt vời! tuyệt vời!
*TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Lê Thị Thu Hiền (2014), “Múa rối nước Việt Nam - Một di sản văn hóa độc đáo”
- Hồng Chương (ch.b), Đồn Thị Tình, Đặng Ánh Ngà, Phan Thanh Liêm (2012),
Nghệ thuật múa rối nước Việt Nam, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội
- />- />- />- />