Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Hướng dẫn học sinh lớp 5 phát triển kĩ năng đọc diễn cảm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.08 KB, 6 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
MÔ TẢ SÁNG KIẾN
Mã số: ……………………………………
1. Tên sáng kiến: Hướng dẫn học sinh lớp 5 phát triển kĩ năng đọc diễn
cảm
2. Lĩnh vực áp dụng: Nâng cao chất lượng dạy và học ở Tiểu học
3. Mô tả bản chất của sáng kiến
3.1. Tình trạng giải pháp đã biết
Mơn Tiếng Việt ở trường Tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt
động ngơn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ đựơc thể hiện trong
4 dạng hoạt động tương ứng với chúng là 4 kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết. Tập
đọc là một phân mơn có vị trí quan trọng trong chương trình Tiếng Việt vì nó
đảm nhiệm việc hình thành và phát triển cho học sinh kĩ năng đọc - một kĩ năng
quan trọng hàng đầu của học sinh ở bậc học đầu tiên này.
Năng lực học tập và khả năng nhận thức của các em có khác nhau, khả
năng đọc diễn cảm của các em cũng khác nhau. Việc đọc diễn cảm của học sinh
so với yêu cầu là chưa đáp ứng được. Đa số các em mới chỉ dừng lại ở việc đọc
đúng, đọc to, rõ ràng mạch lạc, số các em đọc diễn cảm chưa tốt, chưa đạt được
yêu cầu đề ra. Làm thế nào để học sinh có khả năng đọc diễn cảm tốt trong giờ
tập đọc để từ đó phát triển năng lực cảm thụ văn học cho học sinh, các em thấy
được cái hay cái đẹp của văn học, của cuộc sống xung quanh. Chính vì những
ngun nhân trên tôi đã lựa chọn giải pháp: “Hướng dẫn học sinh lớp 5 phát
triển kĩ năng đọc diễn cảm” để nâng cao hiệu quả giờ học tập đọc của lớp giảng
dạy.
Thực hiện các giải pháp trên trong thời gian qua, tôi đã rút ra được những
ưu điểm và hạn chế như sau:
* Ưu điểm
- Khi thực hiện dạy học Tập đọc, giáo viên đã chú trọng rèn đọc diễn cảm
cho học sinh. Qua đó bồi dưỡng khả năng cảm thụ các tác phẩm văn học cho
học sinh.


- Đa số các em u thích phân mơn Tập đọc vì nó cung cấp cho các em
nhiều kiến thức bổ ích, nhiều hành vi đạo đức đẹp, giờ học diễn ra nhẹ nhàng.
* Hạn chế
- Trong q trình đọc diễn cảm tơi thấy: các em đọc chưa trôi chảy, chưa
thể hiện đúng giọng đọc của nhân vật, chưa thể hiện cảm xúc khi đọc.
- Học sinh chưa phát huy hết khả năng đọc của mình.
* Nguyên nhân:


2
- Trong quá trình rèn đọc diễn cảm cho học sinh, đơi lúc chưa tổ chức các
hình thức thi đua trong khi đọc để tạo hứng thú rèn luyện cho các em.
- Khả năng đọc của các em không đồng đều, phát âm cịn sai, đọc chưa
nhanh, chưa hay. Đó cũng là một phần ảnh hưởng của cách phát âm ở địa
phương và do các em chưa hiểu kĩ về nội dung của bài văn, bài thơ.
3.2 Nội dung giải pháp đề nghị cơng nhận là sáng kiến
3.2.1. Mục đích của giải pháp
Hình thành cho học sinh cách đọc đúng và phát triển cho các em cách đọc
tốt kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú cho các em; giúp học sinh có khả
năng sử dụng, tiếp thu các nguồn thông tin, chiếm lĩnh được một ngôn ngữ để
cùng giao tiếp và học tập; học sinh hứng thú đọc và đọc tốt hơn, cảm thụ tốt
hơn; góp phần làm cho tiết học sinh động, học sinh tích cực, khơng nhàm chán;
giúp các em học tốt tất cả các môn, nâng cao chất lượng dạy và học.
3.2.2. Nội dung giải pháp
Để nâng cao hiệu quả phát triển kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh, tôi
thực hiện những biện pháp sau:
3.2.2.1. Luyện tập lấy hơi và tập thở.
Rèn cho học sinh biết thở sâu ở những chỗ ngừng nghỉ để lấy hơi khi đọc,
đặc biệt là ở những chỗ ngắt giọng biểu cảm, những chỗ lắng cần tạo ra sự im
lặng, có tác dụng truyền cảm “gây bão tố” góp phần tạo nên hiệu quả biểu hiện

cao.
Ví dụ: Trong bài “Ê-mi-li, con…” khi hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm
khổ 3:
Ê-mi-li con ôi !
Trời sắp tối rồi…
Cha không bế con về được nữa !
Khi đã sáng bùng lên ngọn lửa
Đêm nay mẹ đến tìm con
Con sẽ ơm lấy mẹ mà hơn
Cho cha nhé
Và con sẽ nói giùm với mẹ:
Cha đi vui, xin mẹ đừng buồn.
Tôi đã hướng dẫn học sinh ngừng nghỉ sau mỗi câu thơ và nghỉ sau “Con
sẽ ôm lấy mẹ” để tạo ra một khoảng lặng, một khoảng nghẹn ngào trong cảm
xúc trước khi đọc tiếp “mà hôn cho cha nhé”. Nghỉ hơi lâu sau câu thơ “Và con
sẽ nói giùm với mẹ” để thể hiện sự xúc động của người cha là Mo-ri-xơn khi nói
lời từ biệt với gia đình yêu thương.
3.2.2.2. Rèn tốc độ đọc, luyện đọc to.
Việc rèn cường độ giọng đọc, đọc to học sinh đã được làm quen từ lớp 1.
Trải qua 4 lớp, đến lớp 5 học sinh đã có nền tảng khá vững. Khi dạy đọc diễn
cảm ở lớp 5 tôi chú trọng cường độ giọng đọc, tốc độ đọc, đọc to. Bằng nhiều


3
hình thức khuyến khích (khen, biểu dương, cổ vũ…), tổ chức thi đua cá nhân,
tạo cho học sinh tâm thế, sự hưng phấn, tự tin khi đọc bài. Học sinh lớp tôi đã
đọc to, rõ ràng, đủ lớn cho cả lớp nghe. Đầu năm có những học sinh nhút nhát
đọc q nhỏ, lí nhí, tơi đã gọi các em đứng trên bảng, hướng dẫn cho các em tư
thế đứng (đàng hoàng, thoải mái), tư thế cầm sách (mở rộng và cầm bằng hai
tay), yêu cầu các em đọc to chừng nào em ở xa nhất trong lớp nghe được mới

thôi. Cứ như thế, dần dần các em đọc được to, rõ, đúng yêu cầu. Đối với những
học sinh quá hứng thú, phấn kích đọc q to hoặc gào lên khơng cần thiết, tôi
nhắc nhở, yêu cầu các em đọc to vừa phải. Những học sinh sửa lại được đúng
yêu cầu được khen ngợi, cổ vũ.
3.2.2.3. Luyện đọc đúng
Muốn đọc diễn cảm hay, gây xúc động cho người nghe thì phải đọc đúng,
tái hiện mặt âm thanh của bài đọc một cách chính xác khơng có lỗi. Để giúp học
sinh đọc đúng khi dạy tập đọc tôi chú ý rèn học sinh các mặt sau:
+ Đọc đúng các phụ âm đầu.
Khi nhận thấy các học sinh trong lớp thường hay mắc lỗi phát âm phụ âm
đầu là l/n, tôi đã ghi những từ có các phụ âm này lên bảng, giúp các em phân
biệt hai phụ âm này.
L: Lưỡi cong lên chạm lợi, hơi đi ra phía hai bên rìa lưỡi, xát nhẹ
N: Đầu lưỡi chạm lợi, hơi thoát ra cả miệng lẫn mũi.
Đồng thời làm mẫu để các em có hình mẫu âm thanh, thường xuyên nhắc
nhở học sinh khi đọc bài, tạo cho các em ý thức phân biệt, từ đó mà khơng cịn
đọc sai.
+ Đọc đúng các âm chính.
Theo thói quen giao tiếp hàng ngày, do ảnh hưởng của phương ngữ địa
phương, một số em mắc lỗi khi đọc các âm chính như: ưu (iu), ươu (iêu)
Ví dụ: Các em đọc: Bầy cá heo đã cứu A-ri-ôn
 Bầy cá heo đã cíu A-ri-ơn
(Những người bạn tốt SGK TV5 tập 1/trang 64)
Để giúp các em đọc đúng tôi đã yêu cầu đánh vần phát âm lại các vần
trước khi đọc các tiếng chứa vần. Hầu hết các em đều sửa được và phát âm
đúng.
+ Đọc đúng các âm cuối và thanh điệu.
Học sinh ở trường chúng tôi không mắc các lỗi về đọc âm cuối và thanh
điệu nên việc luyện đọc đúng các âm cuối và thanh điệu hạn chế chỉ ở một vài
trường hợp các em đọc ngọng.

Ví dụ: Có em ngọng thanh ngã
Ánh nắng ban mai nhạt lỗng rải trên vùng đất đỏ cơng trường tạo nên
một hồ sắc êm dịu.
Các em đọc lỗng  lống


4
Đối với những trường hợp này ngoài việc rèn đọc trên lớp, thường xun
nhắc nhở tơi cịn u cầu các em luyện đọc ở nhà. Trong giao tiếp hàng ngày tôi
cũng chú ý rèn cho các em ý thức tự sửa những lỗi mà các em hay mắc phải.
+ Đọc đúng tiết tấu, ngắt hơi, nghỉ hơi, ngữ điệu câu.
Để đọc đúng cần dựa vào nghĩa, vào quan hệ ngữ pháp giữa các tiếng, từ
để ngắt hơi cho đúng. Khi rèn đọc học sinh tôi lưu ý các em cách để đọc đúng
nhịp, tiết tấu:
+ Không tách một từ ra làm hai:
VD: Khơng ngắt hơi
Đó là một buổi / sáng đầu xuân
+ Không đọc tách từ chỉ loại với danh từ mà nó đi kèm
VD: Khơng đọc
Con / thác réo ngân nga
Đàn / dê soi đáy suối
(Trước cổng trời SGK TV5 tập 1/ trang 80)
+ Không đọc tách giới từ với danh từ đi sau nó.
VD: Khơng đọc
- Những năm bom Mĩ
Trút trên / mái nhà
- Nối rừng hoang với / biển xa
+ Không tách động từ, hệ từ “là” với danh từ đi sau nó.
VD: khơng đọc
- Ngơi nhà giống bài thơ sắp làm xong

Là / bức tranh còn nguyên màu vôi gạch
- Không gian là / nẻo đường xa
Thời gian vô tận mở ra sắc màu
* Lưu ý học sinh dựa vào quan hệ ngữ pháp để xác định cách ngắt nhịp cho
đúng.
Ví dụ: Phải ngắt nhịp
Trải qua / mưa nắng vơi đầy
Men trời đất / đủ làm say đất trời
Không ngắt:
- Trải qua mưa / nắng vơi đầy
Men trời / đất đủ / làm say / đất trời
Không ngắt: Con chim sẻ / nhỏ chết rồi
* Lưu ý ngắt hơi phù hợp với dấu câu: Nghỉ ít ở dấu phẩy, nghỉ lâu ở dấu
chấm, đọc đúng các ngữ điệu câu, lên giọng ở cuối câu hỏi, hạ giọng ở cuối câu
kể, thay đổi giọng phù hợp với tình cảm cần diễn đạt trong câu cảm…
Luyện cho học sinh đúng cũng đã rèn cho học sinh kỹ năng đọc diễn cảm. Mỗi
giờ lên lớp tôi đều phải dự tính trước để ngăn ngừa các lỗi khi đọc cho học sinh.
Khi lên lớp tôi kết hợp nhiều biện pháp để rèn đọc đúng: đọc mẫu, phân tích sự
khác biệt, cho đọc cá nhân, đọc đồng thanh… Với những câu tơi dự tính học
sinh đọc sai phách câu (ngắt nghỉ khơng đúng) tơi cũng tìm hiểu và áp dụng


5
những biện pháp khắc phục. Cuối cùng mới luyện cho các em đọc đoạn, đọc cả
bài.
3.2.2.4. Luyện đọc tổng hợp (diễn cảm)
Tổ chức cho học sinh đàm thoại để tìm hiểu ý đồ của tác giả và tìm cách
đọc, đọc phân vai với các văn bản truyện có nhiều lời thoại.
Đối với những bài mà nội dung và cách đọc của từng đoạn trong bài có sự
khác biệt. Tơi giúp học sinh hệ thống lại bài bằng cách lập dàn ý cho bài đọc.

Dựa vào dàn ý các em tìm ra những điểm cần lưu ý để lựa chọn cách đọc cho
phù hợp.
Một điều rất quan trọng, nó tác động trực tiếp tới thính giác của các em đó
là việc đọc mẫu của giáo viên. Giọng đọc mẫu của giáo viên chính là cái đích, là
hình mẫu kỹ năng mà học sinh cần đạt được. Chính vì thế tơi ln chú trọng
việc rèn đọc của bản thân để đem đến cho các em một hình mẫu chuẩn: đọc
đúng, rõ ràng, trôi chảy, đọc đủ lớn, nhanh vừa phải và diễn cảm. Chuẩn bị bài
chu đáo, tìm hiểu cảm nhận nội dung của bài đọc, đọc nhiều lần trước khi đến
lớp đã tạo ra cho tôi sự tin trong mỗi giờ tập đọc. Trước khi làm mẫu tôi luôn
chú trọng ổn định trật tự, tạo cho học sinh tâm thế nghe và yêu cầu học sinh đọc
thầm theo. Khi đọc tôi chú ý bao quát cả lớp, đọc đủ lớn cho tất cả các em đều
nghe được.
Tôi cũng chú trọng phát triển những em có khả năng đọc tốt và tận dụng
giọng đọc của các em làm giọng đọc mẫu. Việc làm đó rất có hiệu quả, nó kích
thích học sinh thi đua với nhau rèn đọc tốt, đọc hay.
3.2.2.5. Luyện đọc cá nhân.
Sau khi hướng dẫn cụ thể cách đọc, tổ chức cho học sinh đọc trong nhóm,
tơi thường tổ chức cho các em đọc cá nhân, bình chọn người đọc hay nhất. Học
sinh tôi rất hứng thú, hăng hái tham gia. Sau mỗi giờ học bao giờ tôi cũng yêu
cầu các em luyện đọc trong giờ tự học. Sau đó tơi kiểm tra việc rèn đọc, tập
trung vào các em đọc chưa tốt để các em ln có ý thức phấn đấu, rèn luyện.
Việc tổ chức cho học sinh tìm đọc sách ở thư viện trường cũng được tiến hành
thường xuyên nhằm tạo điều kiện cho các em tiếp xúc nhiều hơn với văn bản
đọc.
3.3. Khả năng áp dụng của giải pháp
Giải pháp trên đã áp dụng tốt cho học sinh trường tơi và có thể áp dụng
cho đối tượng học sinh lớp 5 ở các trường trong và ngồi huyện.
3.4. Hiệu quả, lợi ích thu được do áp dụng giải pháp
Qua thời gian thực hiện giải pháp “Hướng dẫn học sinh lớp 5 phát triển kĩ
năng đọc diễn cảm” tôi nhận thấy học sinh đạt được những kết quả sau:

+ Biết đọc theo điệu ngữ từng loại câu (cất cao giọng hoặc hạ giọng, theo
câu kể, câu cảm, câu cầu khiến)


6
+ Biết nhấn mạnh những từ ngữ gợi tả, gợi cảm trong câu văn, nhấn giọng
(cao hay thấp) các tiếng gieo vần trong thơ.
+ Tuỳ theo nội dung bài hoặc đoạn văn mà có giọng đọc phù hợp, linh
hoạt: buồn, vui, trang nghiêm,...
+ Biết đọc phân biệt lời tác giả với lời nhân vật.
+ Trong bài có nhiều nhân vật, các em đã biết căn cứ vào tính cách của
từng nhân vật để chuyển giọng đọc phù hợp tính cách nhân vật, diễn biến nội
dung bài.
So với đầu năm học, tỉ lệ học sinh ham thích học mơn Tập đọc tăng lên.
Các em tiếp đọc bài tốt, phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh,
giúp các em học tập một cách tự nhiên, nhẹ nhàng và hiệu quả. Tạo được một
môi trường học tập thân thiện, vui vẻ, thoải mái. Chất lượng học tập ngày càng
cao.
3.5. Tài liệu kèm theo gồm: Khơng có.
Mỏ Cày Bắc, ngày 30 tháng 1 năm 2023



×