Đề tài: Rèn kỹ năng nói viết trong mơn Tiếng Việt cho học sinh lớp 4
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.............................................................................................................................3
NỘI DUNG CHÍNH...........................................................................................................5
Chương 1: Cơ sở lí luận của đề tài....................................................................................5
1.1.
Kĩ năng nói...........................................................................................................5
1.2.
Kĩ năng viết..........................................................................................................6
1.3. Các phân môn trong môn Tiếng Việt................................................................7
1.3.1. Môn Đọc – hiểu............................................................................................7
1.3.2. Môn Tập làm văn.........................................................................................8
1.3.3. Môn Kể chuyện............................................................................................9
1.3.4. Mơn Tập viết – Chính tả...........................................................................10
1.4. Đặc điểm tâm lý của học sinh Tiểu học...........................................................10
1.4.1. Đặc điểm về mặt cơ thể..................................................................................11
1.4.2. Đặc điểm về hoạt động và môi trường sống.................................................11
1.4.2.1. Hoạt động của học sinh tiểu học.................................................................11
1.4.2.2. Những thay đổi kèm theo............................................................................12
1.4.2.3. Sự phát triển của quá trình nhận thức (sự phát triển trí tuệ).................12
1.4.2.4. Sự phát triển tình cảm của học sinh tiểu học............................................15
1.4.2.5. Sự phát triển nhân cách của học sinh tiểu học.........................................15
Chương 2: Cơ sở thực tiễn của đề tài..............................................................................16
2.1. Những thuận lợi và khó khăn của giáo viên và học sinh...................................16
2.2. Nguyên nhân của thuận lợi và khó khăn............................................................16
Chương 3: Biện pháp rèn kỹ năng nói viết trong môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 4. 16
3.1. Biện pháp rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 4....................................................16
3.1.1. Rèn KN phát âm.............................................................................................17
3.1.2. Rèn KN hội thoại (HT)...................................................................................17
3.1.2.1. KN sử dụng nghi thức lời nói.....................................................................17
1
3.1.2.2. KN đặt và trả lời câu hỏi, trao đổi, thảo luận...........................................18
3.1.3. Rèn KN độc thoại...........................................................................................19
3.1.3.1. KN kể chuyện đã nghe, đã đọc...................................................................19
3.1.3.2. KN kể lại hoạt động hoặc câu chuyện đã tham gia, chứng kiến.............20
3.1.3.3. KN nói theo chủ đề, phát biểu, thuyết trình.............................................20
3.2. Biện pháp rèn kỹ năng viết cho học sinh lớp 4...................................................21
3.2.1. Biện pháp thứ nhất: Tìm hiểu đề..................................................................21
3.2.2. Biện pháp thứ hai: Dạy Tập làm văn trong mối quan hệ mật thiết với
phân môn tập đọc.....................................................................................................22
3.2.3. Biện pháp thứ ba: Làm giàu vốn từ..............................................................25
3.2.4. Biện pháp thứ tư: Luyện viết câu văn sáng sủa, ngắn gọn, sử dụng các
dấu ngắt câu..............................................................................................................27
3.2.4.1. Luyện viết câu văn sáng sủa, ngắn gọn.....................................................27
3.2.4.2. Cách sử dụng các loại dấu câu...................................................................28
3.2.5. Biện pháp thứ năm: Tập diễn đạt cho câu văn sinh động, có hình ảnh....29
3.2.5.1. Dùng từ gợi tả màu sắc, âm thanh.............................................................29
3.2.5.2. Đưa nghệ thuật vào bài văn........................................................................31
3.2.6. Biện pháp thứ sáu: Dạy viết bài văn.............................................................32
3.2.6.1. Xây dựng nội dung......................................................................................32
3.2.6.2. Đưa cảm xúc vào bài văn............................................................................34
3.2.7. Biện pháp thứ bảy: Dạy tốt tiết trả bài Tập làm văn..................................34
KẾT LUẬN.......................................................................................................................36
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................37
2
MỞ ĐẦU
Chương trình ở bậc Tiểu học có nhiều mơn học với nội dung đa dạng và phong
phú. Song, chúng luôn tác động với nhau giúp học sinh phát triển tồn diện. Trong đó,
phân mơn, Đọc – hiểu, Kể chuyện và Tập làm văn chiếm một vị trí cực kì quan trọng. Nó
khơng chỉ cung cấp các kiến thức về "làm văn" mà cịn góp phần giáo dục tư tưởng, tình
cảm, phát triển tư duy và trí tưởng tượng của các em.
Mơn Tiếng Việt ở nhà trường phổ thơng nói chung và ở nhà trường Tiểu học nói
riêng có một vị trí vơ cùng quan trọng. Chương trình tiếng Việt tiểu học mới với chủ
trương: “Hình thành và phát triển học sinh các kỹ năng sử dụng tiếng Việt(Nghe, nói,
đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong môi trường của lứa tuổi”. Đây cũng chính là mục
tiêu cơ bản của mơn tiếng Việt. Mục tiêu đó coi trọng tính thực hành, thực hành các kỹ
năng sử dụng tiếng Việt trong những môi trường giao tiếp cụ thể. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã dạy “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng
ta phải giữ gìn nó làm cho nó ngày càng phát triển rộng khắp”. Muốn thực hiện lời dạy đó
trường Tiểu học cần có phương pháp, hình thức tổ chức dạy học hợp lý và tích cực nhằm
nâng cao chất lượng dạy học môn tiếng Việt, giúp học sinh sử dụng thành thạo tiếng Việt.
Đáp ứng nhu cầu phát triển giáo dục chương trình mơn tiếng Việt mới đã được triển khai
đại trà trên tồn quốc.
Phân mơn Đọc – hiểu và kể chuyện ở Tiểu học có vị trí quan trọng. Nó góp phần
bồi dường tâm hồn, đem lại niềm vui, trau dồi vốn sống và vốn văn học, phát triển tư duy
và ngôn ngữ cho học sinh. Ngồi ra nó cịn nhằm nâng cao năng lực trí tuệ, đồng thời rèn
luyện cho các em kĩ năng diễn đạt bằng ngơn ngữ. Chính vì vậy tiết kể chuyện đòi hỏi
giáo viên vừa biết kể chuyện hấp dẫn, vừa biết dạy cho học sinh tập nói, tập kể chuyện và
phát triển ngôn ngữ, bước đầu dùng ngôn ngữ của bản thân để diễn đạt (tập kể chuyện).
Qua mỗi tiết học học sinh được tiếp xúc với một văn bản truyện khá lí thú, cảm nhận
được nội dung và thu hoạch được những bài học bổ ích Nhưng quan trọng hơn là các em
học được cách dùng từ ngữ, câu văn để diễn đạt một ý, liên kết các ý trong một đoạn, một
bài. Đây chính là yêu cầu rèn kĩ năng nói cho học sinh. Do đó muốn rèn luyện kĩ năng
đọc trước tiên phải rèn luyện kĩ năng nói sao cho rõ ràng, khúc chiết, lưu lốt. Một yêu
cầu của kĩ năng kể chuyện là phải hấp dẫn, phải có sự truyền cảm. Người kể chuyện phải
thu hút người nghe vào câu chuyện, phải tạo cho người nghe cùng vui, buồn, giận dữ,
cảm thương với diễn biến của số phận nhân vật, với các tình huống và cảnh ngộ trong
truyện. Phân mơn kể chuyện có thể nói là một môn học gây được nhiều hứng thú với học
3
sinh. Hơn lúc nào hết, qua môn học này các em được thể hiện , được bộc lộ năng lực của
mình một cách tồn diện và hồn mĩ ở mọi góc độ: kiến thức, tài năng. Niềm say mê học
hỏi và hứng thú học tập của học sinh được tạo ra không chỉ nhờ những giờ học được tổ
chức một cách hấp dẫn và khác thường. Bí quyết làm nảy sinh hứng thú và niềm say mê
học tập của trẻ là phải làm cho các em đạt được thành công, cảm giác xúc động khi thành
công mới là nguồn gốc thực sự của ham muốn học hỏi và hiểu biết.
Phân mơn Tập làm văn lại có tính chất tổng hợp, vừa sử dụng các hiểu biết và kĩ
năng Tiếng Việt do các phân môn khác cung cấp, đồng thời phát huy những kết quả đó,
góp phần hồn thiện nhân cách cho học sinh. Ở lớp 4, các loại bài Tập làm văn đều được
gắn với các chủ điểm. Học các tiết Tập làm văn, khi nhận diện đặc điểm các loại bài miêu
tả, kể chuyện, viết thư,... các em có dịp tiếp cận với vẻ đẹp của con người, thiên nhiên
qua các bài văn, đoạn văn điển hình. Khi phân tích các đề Tập làm văn, học sinh lại
hướng tới cái chân, cái thiện, cái mĩ được hình thành trong các đề bài. Khi quan sát đồ vật
trong văn miêu tả, học sinh được rèn luyện cách nhìn đối tượng trong quan hệ gần gũi
giữa người với vật. Các bài luyện tập viết thư, trao đổi với người thân cũng tạo cơ hội cho
học sinh thể hiện mối quan hệ với cộng đồng. Những cơ hội đó làm cho tình cảm yêu
mến, gắn bó với thiên nhiên, với người và vật xung quanh của trẻ được nảy nở; tâm hồn,
tình cảm của trẻ thêm phong phú. Đó là những nhân tố quan trọng góp phần hình thành
nhân cách tốt đẹp của trẻ.
Trên thực tế, những nội dung yêu cầu về bộ mơn tập làm văn ở lớp 3 cịn q ít ỏi, do
vậy, khi lên lớp 4, đối với các em là một bước ngoặt lớn. Từ những dạng bài: Trả lời câu
hỏi, kể chuyện đơn giản, nay các em phải làm quen với các kiểu bài, thể loại nhất định
địi hỏi các em phải có năng lực quan sát, suy luận, tưởng tượng phong phú. Các em phải
biết vận dụng ngơn ngữ để diễn đạt ý nghĩ, tình cảm trong sáng, cảm xúc hồn nhiên, trí
tưởng tượng và những ước mơ bay bổng của mình một cách có thứ tự, có hệ thống, đúng
chính tả, đúng ngữ pháp. Từ đó, cho thấy đây chính là mơn học ứng dụng tổng hợp những
kiến thức của học sinh đã học trong các phân mơn Tập đọc, chính tả, Luyện từ và câu và
các hoạt động ngoại khóa. Chính vì vậy, tơi ln trăn trở, tìm mọi biện pháp để khơi dậy
những tiềm năng văn học trong mỗi học sinh. Những tiềm năng ấy là là mạch suối nguồn
tinh khiết tưới mát cho tâm hồn trẻ em hôm nay, giúp những mầm non văn học luôn xanh
tươi và sẽ nở hoa, kết trái. Giúp các em có điều kiện tiếp cận với vẻ đẹp của con người và
thiên nhiên đất nước, bộc lộ được cảm xúc cá nhân và phát triển nhân cách.
4
Trong khn khổ bài viết này, tơi sẽ trình bày về đề tài: “Rèn kỹ năng nói viết trong
mơn Tiếng Việt cho học sinh lớp”.
NỘI DUNG CHÍNH
Chương 1: Cơ sở lí luận của đề tài
1.1. Kĩ năng nói
“Nói” là một trong bốn kỹ năng quan trọng trong việc dạy tiếng Việt để học sinh
có khả năng thực hành giao tiếp nhanh và đạt hiệu quả cao nhất. Học sinh lớp 4 nhìn
chung đã có kỹ năng nói và tuy nhiên các em rất ngại nói trong các giờ học do nhiều
nguyên nhân khác nhau như: tâm lý ngượng ngùng, dè dặt, ngại các bạn cười khi mình
nói sai; do lớp học đơng, giáo viên ít có thời gian rèn luyện kỹ năng cho mỗi học sinh. Tổ
chức luyện nói tốt sẽ giúp khắc phục bớt những hạn chế trên. “Học thầy khơng tày học
bạn” Trong khi luyện nói học sinh có thể học hỏi lẫn nhau, sửa lỗi cho nhau, tự do nói
theo ý của mình mà khơng ngại thầy cơ giáo. Thơng qua thực hành nói học sinh tiếp thu
kiến thức một cách chủ động, khắc phục được sự ức chế khi trong lớp chỉ có một số học
sinh giỏi tham gia phát biểu, do vậy sẽ lôi cuốn được toàn thể học sinh trong lớp tham gia
hoạt động kể cả các em học trung bình hoặc yếu. Tăng cường khả năng ứng xử của học
sinh trong các tình huống khác nhau, gây hứng thú, tự tin mạnh dạn cho học sinh khi thực
hành giao tiếp, giờ học sẽ trở lên vui vẻ, sôi nổi và đạt hiệu quả cao.
Nói là kĩ năng quan trọng và nó góp phần vào quá trình giao tiếp của học sinh Tiểu
học. Rèn luyện kỹ năng giao tiếp, đặc biệt là kĩ năng giao tiếp với những người xung
quanh, cho học sinh tiểu học là một trong những hoạt động vô cùng cần thiết ngay khi các
em bắt đầu chuyển hoạt động chủ đạo từ vui chơi sang học tập. Bởi, tiểu học là lứa tuổi
hình thành những nét tính cách nền tảng, những thói quen trong học tập và thói quen làm
việc sau này.
Nhà trường và thầy, cô giáo cần quan tâm rèn luyện kỹ năng giao tiếp với những
người xung quanh cho học sinh hàng ngày để giúp các em nhận ra tầm quan trọng của
giao tiếp cũng như các mối quan hệ quanh mình, hiểu được ưu điểm của việc giao tiếp
tốt, để trở thành những đứa trẻ thân thiện, luôn biết quan tâm, chia sẻ, lắng nghe, biết tự
bảo vệ bản thân.
Kỹ năng giao tiếp với những người xung quanh tốt sẽ trang bị cho các em sự tự tin
ban đầu, là cơ sở để phát triển trí tuệ cùng sự sáng tạo.
5
Khơng những vậy, kỹ năng giao tiếp cịn giúp các em biết ứng xử với những người
xung quanh một cách tôn trọng, chân thành, tế nhị, thông minh; biết cách tự giải quyết
mọi vướng mắc, khó khăn trong cuộc sống của chính mình. Từ đó, hình thành nhân cách
cho bản thân.
1.2. Kĩ năng viết
Viết là một kĩ năng ngôn ngữ mà học sinh cần học tập và rèn luyện. Đồng thời,
viết cũng là một công cụ người học cần để chiếm lĩnh tri thức ở các môn học khác. Một
bài viết của người học phản ánh rất nhiều về kiến thức ngơn ngữ, kiến thức cuộc sống,
quan điểm, tình cảm, thái độ của chính họ. Để hình thành và phát triển năng lực viết cho
học sinh tiểu học, không dừng lại việc chương trình kết hợp được cả ba quan điểm dạy
viết mà quan trọng hơn là giáo viên cần thay đổi quan điểm và tích cực đổi mới phương
pháp dạy học. Thực tế, học sinh ít và khơng u thích việc viết, các em viết vì được u
cầu hơn là nhận thấy sự quan trọng và ảnh hưởng của nó đem lại cho cuộc sống. Cách
tiếp cận năng lực trong dạy viết sẽ giúp học sinh thấy viết là hữu ích, khơng chỉ là để giao
tiếp mà cịn để phong phú hơn đời sống văn hóa và tinh thần.
Trước tiên, viết là một kĩ năng ngôn ngữ, được xem là kĩ năng sáng tạo và mang
tính chất tổng hợp cao. Sáng tạo vì bài viết là sự thể hiện kinh nghiệm sống, quan điểm
sống, cách nhìn cuộc sống của người viết; là phong cách viết rất riêng của mỗi cá nhân.
Tổng hợp vì bài viết là sự thể hiện những kiến thức về ngôn ngữ như từ, câu, cấu trúc văn
bản; những tri thức về thế giới quan, nhân sinh quan mà người học đã được lĩnh hội. Như
vậy, với vai trị là một kĩ năng ngơn ngữ, viết đã bao hàm những ý nghĩa sau: - Là một
quá trình tư duy: “Khi viết, HS học cách “sưu tập” thông tin, lựa chọn chúng để phản ánh
những suy nghĩ và quan điểm của mình” [1; tr.171]. Để làm được điều này, người học
cần được rèn luyện tư duy hình tượng, óc quan sát, trí tưởng tượng; cần học cách sắp xếp
những điều thu nhận được thành một hệ thống; khả năng tái hiện thông tin và diễn đạt
chúng thông qua sự thông đạt kiến thức ngôn ngữ. Bên cạnh đó, người học cũng cần rèn
luyện kĩ năng tư duy như phân tích, tổng hợp, so sánh,... để có thể phân tích và thơng
hiểu đề bài thật tường minh.
- Là một quá trình tự nhận thức: Người viết cần phải suy nghĩ để khám phá những
ý tưởng, những quan điểm; sắp xếp và trình bày chúng theo một trật tự. Những việc làm
này đã tạo cho người viết khả năng tự nhận biết vấn đề, kích thích người viết tự trải
nghiệm để khám phá vấn đề và viết về chúng.
6
- Là một quá trình giao tiếp: Theo Donn Byrne (1998), “viết là dành cho người
đọc. Khi viết, chúng ta mã hóa những suy nghĩ thành ngơn ngữ. Vì người đọc không hiện
diện ngay lúc chúng ta viết nên chúng ta phải luôn lưu ý đến cách viết như sắp xếp ý, viết
câu, thông tin cần truyền đạt” . Cùng quan điểm này, Arthur Brookers & Peter Grundy
(2001) đã nêu: “Chúng ta viết khi muốn truyền thông tin đến người nào đó mà ta khơng
thể nói với họ được, viết cho phép chúng ta vượt qua thời gian (viết hôm nay nhưng có
thể đọc vào những ngày sau) và khơng gian (viết và chuyển nội dung đến một địa điểm
khác) để truyền tin”. Như vậy, mục đích của viết là nhằm chuyển tải một thông tin của
bản thân người viết đến một nhóm đối tượng, gọi là người đọc. Người đọc dùng hệ thống
ngôn ngữ cùng người viết để giải mã chúng, hiểu chúng và có hành động phản hồi (nếu
cần). Trong vài trường hợp, người viết cũng là người đọc, viết cho chính mình như: Nhật
kí, một bản kế hoạch cá nhân, danh sách những vật cần mua khi đi siêu thị,... Do đó,
người viết cần phải chủ động xác định đối tượng giao tiếp (ai sẽ là người đọc?), nội dung
giao tiếp (viết là cái gì?), mục đích giao tiếp (viết để làm gì?), cần viết như thế nào
(phong cách, thể loại của bài viết?).
Như vậy, có thể nhận thấy, viết là một kĩ năng ngôn ngữ phức tạp, rất khó để dạy
và học. Q trình hình thành kĩ năng viết cho HS tiểu học càng gian nan hơn vì những
đặc trưng về tâm lí và nhận thức của lứa tuổi này. HS tiểu học vừa tiếp nhận những kiến
thức ngơn ngữ, tìm hiểu thế giới xung quanh vừa học cách phản ánh lại chúng theo cách
nghĩ, cách làm của riêng mình.
1.3. Các phân mơn trong mơn Tiếng Việt
1.3.1. Môn Đọc – hiểu
Theo đặc trưng của môn Tiếng Việt tập trung vào sự hình thành và phát triển kĩ
năng: Nghe - đọc - nói - viết, góp phần vào quá trình hình thành các giá trị mới như:
Năng lực tự học, tự phát hiện và giải quyết vấn đề, tự chiếm lĩnh kiến thức và thực hành
vận dụng kiến thức đó theo năng lực bản thân.
Như chúng ta đã biết mơn Tiếng Việt ở trường tiểu học có nhiệm vụ hình thành
năng lực hoạt động ngơn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngơn ngữ đó được thể
hiện qua 4 kĩ năng: Nghe - đọc - nói - viết. Tập đọc là một phân môn của chương trình
Tiếng Việt bậc tiểu học. Đây là phân mơn có vị trí đặc biệt quan trọng trong chương
trình, vì nó đảm nhiệm việc hình thành và phát triển cho kĩ năng “đọc” nói chung và “đọc
hiểu” nói riêng. Một kĩ năng quan trọng hàng đầu của bậc tiểu học. Tập đọc là mơn học
cơng cụ, là chìa khố, là phương tiện để học sinh tiếp nhận tri thức loài người.
7
Tập đọc giúp các em hiểu được cái hay, cái đẹp tinh tế của nghệ thuật ngôn từ.
Tập đọc đặc biệt là đọc hiểu giúp các em học được cách nói, cách viết một cách
chính xác, trong sáng có nghệ thuật, góp phần khơng nhỏ vào việc rèn luyện kĩ năng đọc
mà còn phát triển cho học sinh vốn từ ngữ Tiếng Việt phong phú. Từ đó, các em sẽ học
tốt các môn học khác bởi đọc đúng, hiểu được chính xác nội dung một vấn đề nào đó. Từ
đó, các em sẽ làm Tốn đúng, viết đúng và nói đúng...
Với tư cách, nhiệm vụ là một phân môn thực hành Tiếng Việt, Tập đọc hiểu góp
phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển năng lực cho học sinh. Những bài tập
đọc trong chương trình sách giáo khoa lớp 1 mới là những bài văn, bài thơ hay trong kho
tàng văn học trong nước và nước ngồi. Chính vì thế mà các em có vốn văn học dân tộc,
hay trên thế giới khá lớn. Bên cạnh đó, có các bài tập đọc còn cung cấp cho các em vốcn
từ ngữ phong phú, thuộc nhiều chủ đề để sử dụng vào việc tập viết, tập chép đoạn văn,
bài thơ...
Khi học phân môn Tập đọc, đặc biệt là phần đọc hiểu giúp trí tuệ của các em ngày
càng được nâng cao, bồi dưỡng cho các em tình yêu, niềm tin trong cuộc sống. Dạy Tập
đọc nói chung và dạy Tập đọc ở lớp 1 nói riêng thì việc đọc hiểu sẽ giúp các em phát
triển tư duy logic, rèn luyện khả năng thông hiểu ngôn ngữ, khả năng suy nghĩ lo gic và
tổng hợp.
Vì thế, việc đọc hiểu từng bài tập đọc nhằm trau dồi lịng hướng thiện đạo lí,
truyền thống dân tộc...
1.3.2. Môn Tập làm văn
- Phân môn Tập làm văn sử dụng toàn bộ các kĩ năng được hình thành và phát triển do
nhiều phân mơn khác của môn Tiếng Việt đảm nhiệm (kĩ năng viết chữ, kĩ năng viết
chính tả, kĩ năng đọc, nghe, nói…). Khi sử dụng, phân mơn Tập làm văn cũng góp phần
phát triển và hồn thiện chúng.
- Phân mơn Tập làm văn cịn sử dụng kiến thức và kĩ năng do nhiều môn học khác trong
nhà trường cung cấp (ví dụ các hiểu biết do môn Tự nhiên và Xã hội, do môn Đạo đức,
pháp luật, do môn hát, vẽ… cung cấp).
- Phân mơn Tập làm văn cịn huy động tồn bộ vốn sống hoặc những mảnh vốn sống của
học sinh có liên quan đến đề bài. Tả một cây đang ra hoa hoặc quả, tả một con mèo bắt
chuột hoặc một con gà đang kiếm mồi… học sinh đâu có thể chỉ huy động vốn tri thức
qua các bài học mà còn phải huy động tất cả những tình cảm, ấn tượng, cảm xúc, những
8
kí ức cịn lưu giữ được về các con vật hoặc cây cối đó. Chỉ như vậy bài văn mới trở nên
sinh động và có hồn.
Bài văn, kết quả học tập của phân mơn Tập làm văn, phản ánh trình độ sử dụng
tiếng Việt, trình độ tri thức và hiểu biết đời sống của học sinh. Vì thế, khơng phải khơng
có lý do khi sản phẩm đó được sử dụng để đánh giá năng lực học tập môn Tiếng Việt qua
các kì thi.
Khi làm bài văn học sinh thực hiện một số hoạt động giao tiếp. Mỗi bài văn là một
sản phẩm không lặp lại của từng học sinh trước đề bài. Do đó có thể nói trong việc học
làm văn, học sinh được chủ động, tự do thể hiện cái "tơi" của mình một cách rõ ràng, bộc
bạch cái riêng của mình một cách trọn vẹn. Dạy tập làm văn là dạy các em tập suy nghĩ
riêng, tập sáng tạo, tập thể hiện trung thực con người mình.
1.3.3. Mơn Kể chuyện
Kể chuyện được coi là một bộ môn nghệ thuật có từ xa xưa. Nhiều thế hệ đã tiếp
nhận được trong tuổi thơ ấu của mình những ấn tượng không bao giờ phai nhạt về những
câu chuyện dân gian qua giọng kể của mẹ, của bà hoặc những người thân khác trong gia
đình. Trong trường tiểu học, kể chuyện là một kiểu bài học nhằm phát triển lời nói cho
học sinh, bồi dưỡng cho các em những cảm xúc thẩm mĩ lành mạnh, cung cấp những kiến
thức về vốn sống và văn học, nêu những tấm gương có tác dụng giáo dục. Vì vậy rèn kĩ
năng kể chuyện cho học sinh là một việc làm cần thiết của mỗi giáo viên. Trong mục tiêu
dạy học ở tiểu học đã khẳng định: Mơn Tiếng Việt có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh
bốn kĩ năng cơ bản: Nghe, nói, đọc, viết. Đây là môn học gồm nhiều phân môm: Tập làm
văn, tập đọc, chính tả, kể chuyện,Trong đó, kể chuyện được xem là nội dung quan trọng,
tạo cho học sinh tư duy, phân tích tổng họp, biết cách tóm tắt, diễn đạt; rèn kĩ năng nói
giúp học sinh mở rộng vốn từ; rèn kĩ năng kể rõ ràng, diễn cảm, nhập tâm vào nhân vật
khi kể, hiểu ý nghĩa nội dung từng câu chuyện. Những câu chuyện sẽ mở ra cho trẻ thế
giới tình cảm bao la, cho tre một tâm hồn trong sáng, hồn nhiên, cho trẻ tình yêu cuộc
sống và sự hiểu biết về thế giới xung quanh mn màu mn vẻ. Hơn thế nữa, kể chuyện
góp phần rất lớn vào việc phát triển trí tuệ, tình cảm, đạo đức, hình thành phẩm chất,
nhân cách cho trẻ. Mỗi tiết kể chuyện phải đi sâu vào tâm hồn ngây thơ của các em , thật
sự thu hút sự chú ý, lắng nghe , sự suy ngẫm hồn nhiên của học sinh tiểu học. Để làm
được điều đó, việc gây hứng thú cho các em sẽ say mê học tập, thích thú, chăm chú lắng
nghe. Tiết dạy nhờ đó đạt hiệu quả cao như mong muốn.
Đối với lớp 4 có ba kiểu bài kể chuyện :
9
- Kiểu bài 1: Kể lại câu chuyện vừa nghe thầy cô kể trên lớp
- Kiểu bài 2: Kể chuyện đã đọc, đã nghe theo chủ điểm
- Kiểu bài 3: Kể chuyện đã được chứng kiến hoặc tham gia
Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia là kiểu bài ở tuần thứ ba trong một chủ
điểm học tập. Kiểu bài này yêu cầu học sinh kể những chuyện người thật, việc thật có
trong cuộc sống xung quanh mà các em đã biết, đã nhìn, đã thấy. Có khi chính các em là
nhân vật trong câu chuyện. Kiểu bài này vốn nằm trong phân môn tập làm văn của sách
cải cách giáo dục, nay được chuyển sang phân môn kể chuyện (chương trình sau 2000) để
thực sự rèn kĩ năng nói. Các bài kể chuyện đã chứng kiến tham gia trong sách Tiếng Việt
4 rất đa dạng vì gắn với 10 chủ điểm của chương trình. Khơng đơn điệu như đề tài trong
sách lớp 4 cũ. Bên cạnh mục đích chung là rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh, kiểu bài
tập này cịn có mục đích rèn cho học sinh thói quen quan sát, ghi nhớ.
Kiểu bài này có vai trị vơ cùng quan trọng trong việc rèn luyện kỹ năng nói, nhằm
phát triển ngơn ngữ nói và viết của học sinh, là công cụ tư duy và giao tiếp, giúp cho học
sinh học tốt các phân môn của môn Tiếng Việt cũng như các môn học khác trong nhà
trường.
1.3.4. Mơn Tập viết – Chính tả
Mơn Tập viết – Chính tả là một trong những môn học quan trọng ở tiểu học. Nó
giúp trẻ rèn luyện kỹ năng viết và chính tả tiếng Việt, là nền tảng để trẻ phát triển ngôn
ngữ và tư duy logic sau này. Dưới đây là những nội dung cơ bản cần nắm về môn Tập
viết – Chính tả ở tiểu học:
Cách viết chữ cái: Trẻ cần học cách viết đúng các chữ cái, bao gồm cách viết chữ
hoa và chữ thường.
Cách viết chữ số: Trẻ cần học cách viết đúng các chữ số từ 0 đến 9.
Cách viết từ: Trẻ cần học cách viết đúng các từ trong tiếng Việt, bao gồm cách viết
các âm đầu, âm chính và âm cuối của từ.
Cách đặt dấu câu: Trẻ cần học cách đặt đúng các dấu câu trong câu, bao gồm dấu
chấm, dấu phẩy, dấu hỏi, dấu chấm cảm, dấu ngoặc, dấu gạch ngang và dấu gạch chân.
Cách phân loại từ: Trẻ cần học cách phân loại các từ trong câu, bao gồm danh từ,
động từ, tính từ, trạng từ và giới từ.
Cách viết đoạn văn: Trẻ cần học cách viết đoạn văn đơn giản với đầy đủ các yếu tố
như câu chủ đề, câu phụ đề, dấu câu và các từ liên kết.
10
Cách đọc và viết các từ ghép: Trẻ cần học cách đọc và viết đúng các từ ghép như
đồng ý, bàn ghế, giáo viên, bút chì...
1.4. Đặc điểm tâm lý của học sinh Tiểu học
Hiện nay, sự phát triển kinh tế thị trường cùng với xu hướng tồn cầu hố đã
"buộc" các bậc cha mẹ "phải làm việc quên mình" và dường như "quên luôn cả những
đặc điểm tâm sinh lý của con em mình". Dưới đây là những đặc điểm tâm sinh lý cơ bản
nhất của học sinh tiểu học và những điều cần lưu ý đối với các bậc cha mẹ và thầy cô
giáo:
1.4.1. Đặc điểm về mặt cơ thể
- Hệ xương cịn nhiều mơ sụn, xương sống, xương hông, xương chân, xương tay đang
trong thời kỳ phát triển (thời kỳ cốt hoá) nên dễ bị cong vẹo, gẫy dập,...Vì thế mà trong
các hoạt động vui chơi của các em cha mẹ và thầy cô (sau đây xin gọi chung là các nhà
giáo dục) cần phải chú ý quan tâm, hướng các em tới các hoạt động vui chơi lành mạnh,
an toàn.
- Hệ cơ đang trong thời kỳ phát triển mạnh nên các em rất thích các trị chơi vận động
như chạy, nhảy, nơ đùa,...Vì vậy mà các nhà giáo dục nên đưa các em vào các trò chơi
vận động từ mức độ đơn giản đến phức tạp và đảm bảo sự an toàn cho trẻ.
- Hệ thần kinh cấp cao đang hoàn thiện về mặt chức năng, do vậy tư duy của các em
chuyển dần từ trực quan hành động sang tư duy hình tượng, tư duy trừu tượng. Do đó,
các em rất hứng thú với các trị chơi trí tuệ như đố vui trí tuệ, các cuộc thi trí tuệ,...Dựa
vào cơ sinh lý này mà các nhà giáo dục nên cuốn hút các em với các câu hỏi nhằm phát
triển tư duy của các em.
Chiều cao mỗi năm tăng thêm 4 cm; trọng lượng cơ thể mỗi năm tăng 2kg. Nếu trẻ
vào lớp 1 đúng 6 tuổi thì có chiều cao khoảng 106 cm (nam) 104 cm (nữ) cân nặng đạt
15,7 kg (nam) và 15,1 kg (nữ). Tuy nhiên, con số này chỉ là trung bình, chiều cao của trẻ
có thể xê dịch khoảng 4-5 cm, cân nặng có thể xê dịch từ 1-2 kg. Tim của trẻ đập nhanh
khoảng 85 - 90 lần/ phút, mạch máu tương đối mở rộng, áp huyết động mạch thấp, hệ
tuần hoàn chưa hoàn chỉnh.
1.4.2. Đặc điểm về hoạt động và môi trường sống
1.4.2.1. Hoạt động của học sinh tiểu học
- Nếu như ở bậc mầm non hoạt động chủ đạo của trẻ là vui chơi, thì đến tuổi tiểu học hoạt
động chủ đạo của trẻ đã có sự thay đổi về chất, chuyển từ hoạt động vui chơi sang hoạt
11
động học tập. Tuy nhiên, song song với hoạt động học tập ở các em còn diễn ra các hoạt
động khác như:
+ Hoạt động vui chơi: Trẻ thay đổi đối tượng vui chơi từ chơi với đồ vật sang các trò chơi
vận động.
+ Hoạt động lao động: Trẻ bắt đầu tham gia lao động tự phục vụ bản thân và gia đình như
tắm giặt, nấu cơm, qt dọn nhà cửa,...Ngồi ra, trẻ còn còn tham gia lao động tập thể ở
trường lớp như trực nhật, trồng cây, trồng hoa,...
+ Hoạt động xã hội: Các em đã bắt đầu tham gia vào các phong trào của trường, của lớp
và của cộng đồng dân cư, của Đội thiếu niên tiền phong,...
1.4.2.2. Những thay đổi kèm theo
- Trong gia đình: các em ln cố gắng là một thành viên tích cực, có thể tham gia các
cơng việc trong gia đình. Điều này được thể hiện rõ nhất trong các gia đình neo đơn, hồn
cảnh, các vùng kinh tế đặc biệt khó khăn,...các em phải tham gia lao động sản xuất cùng
gia đình từ rất nhỏ.
- Trong nhà trường: do nội dung, tích chất, mục đích của các mơn học đều thay đổi so với
bậc mầm non đã kéo theo sự thay đổi ở các em về phương pháp, hình thức, thái độ học
tập. Các em đã bắt đầu tập trung chú ý và có ý thức học tập tốt.
- Ngồi xã hội: các em đã tham gia vào một số các hoạt động xã hội mang tính tập thể
(đơi khi tham gia tích cực hơn cả trong gia đình). Đặc biệt là các em muốn thừa nhận
mình là người lớn, muốn được nhiều người biết đến mình.
Biết được những đặc điểm nêu trên thì cha mẹ và thầy cơ phải tạo điều kiện giúp
đỡ trẻ phát huy những khả năng tích cực của các em trong cơng việc gia đình, quan hệ xã
hội và đặc biệt là trong học tập.
1.4.2.3. Sự phát triển của q trình nhận thức (sự phát triển trí tuệ)
a. Nhận thức cảm tính
- Các cơ quan cảm giác: Thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác đều phát triển
và đang trong q trình hồn thiện.
- Tri giác: Tri giác của học sinh tiểu học mang tính đại thể, ít đi vào chi tiết và mang tính
khơng ổn định: ở đầu tuổi tiểu học tri giác thường gắn với hành động trực quan, đến cuối
tuổi tiểu học tri giác bắt đầu mang tính xúc cảm, trẻ thích quan sát các sự vật hiện tượng
có màu sắc sặc sỡ, hấp hẫn, tri giác của trẻ đã mang tính mục đích, có phương hướng rõ
ràng - Tri giác có chủ định (trẻ biết lập kế hoạch học tập, biết sắp xếp công việc nhà, biết
làm các bài tập từ dễ đến khó,...)
12
Nhận thấy điều này chúng ta cần phải thu hút trẻ bằng các hoạt động mới, mang
màu sắc, tích chất đặc biệt khác lạ so với bình thường, khi đó sẽ kích thích trẻ cảm nhận,
tri giác tích cực và chính xác.
b. Nhận thức lý tính
- Tư duy:
Tư duy mang đậm màu sắc xúc cảm và chiếm ưu thế ở tư duy trực quan hành
động.
Khả năng khái quát hóa phát triển dần theo lứa tuổi, lớp 4, 5 bắt đầu biết khái quát
hóa lý luận. Tuy nhiên, hoạt động phân tích, tổng hợp kiến thức cịn sơ đẳng ở phần đông
học sinh tiểu học.
- Tưởng tượng:
Tưởng tượng của học sinh tiểu học đã phát triển phong phú hơn so với trẻ mầm
non nhờ có bộ não phát triển và vốn kinh nghiệm ngày càng dầy dạn. Tuy nhiên, tưởng
tượng của các em vẫn mang một số đặc điểm nổi bật sau:
Ở cuối tuổi tiểu học, tưởng tượng tái tạo đã bắt đầu hồn thiện, từ những hình ảnh
cũ trẻ đã tái tạo ra những hình ảnh mới. Tưởng tượng sáng tạo tương đối phát triển ở giai
đoạn cuối tuổi tiểu học, trẻ bắt đầu phát triển khả năng làm thơ, làm văn, vẽ tranh,.... Đặc
biệt, tưởng tượng của các em trong giai đoạn này bị chi phối mạnh mẽ bởi các xúc cảm,
tình cảm, những hình ảnh, sự việc, hiện tượng đều gắn liền với các rung động tình cảm
của các em.
Qua đây, các nhà giáo dục phải phát triển tư duy và trí tưởng tượng của các em
bằng cách biến các kiến thức "khơ khan" thành những hình ảnh có cảm xúc, đặt ra cho
các em những câu hỏi mang tính gợi mở, thu hút các em vào các hoạt động nhóm, hoạt
động tập thể để các em có cơ hội phát triển q trình nhận thức lý tính của mình một cách
tồn diện.
c. Ngơn ngữ và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học
Hầu hết học sinh tiểu học có ngơn ngữ nói thành thạo. Khi trẻ vào lớp 1 bắt đầu
xuất hiện ngôn ngữ viết. Đến lớp 5 thì ngơn ngữ viết đã thành thạo và bắt đầu hồn thiện
về mặt ngữ pháp, chính tả và ngữ âm. Nhờ có ngơn ngữ phát triển mà trẻ có khả năng tự
đọc, tự học, tự nhận thức thế giới xung quanh và tự khám phá bản thân thơng qua các
kênh thơng tin khác nhau.
Ngơn ngữ có vai trị hết sức quan trọng đối với q trình nhận thức cảm tính và lý
tính của trẻ, nhờ có ngơn ngữ mà cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng của trẻ phát triển
13
dễ dàng và được biểu hiện cụ thể thông qua ngơn ngữ nói và viết của trẻ. Mặt khác, thơng
qua khả năng ngơn ngữ của trẻ ta có thể đánh giá được sự phát triển trí tuệ của trẻ.
Ngơn ngữ có vai trị hết sức quan trọng như vậy nên các nhà giáo dục phải trau dồi
vốn ngôn ngữ cho trẻ trong giai đoạn này bằng cách hướng hứng thú của trẻ vào các loại
sách báo có lời và khơng lời, có thể là sách văn học, truyện tranh, truyện cổ tích, báo nhi
đồng,....đồng thời cũng có thể kể cho trẻ nghe hoặc tổ chức các cuộc thi kể truyện đọc
thơ, viết báo, viết truyện, dạy trẻ cách viết nhật kí,...Tất cả đều có thể giúp trẻ có được
một vốn ngôn ngữ phong phú và đa dạng.
d. Chú ý và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học
Ở cuối tuổi tiểu học trẻ dần hình thành kĩ năng tổ chức, điều chỉnh chú ý của mình.
Chú ý có chủ định phát triển dần và chiếm ưu thế, ở trẻ đã có sự nỗ lực về ý chí trong
hoạt động học tập như học thuộc một bài thơ, một cơng thức tốn hay một bài hát
dài,...Trong sự chú ý của trẻ đã bắt đầu xuất hiện giới hạn của yếu tố thời gian, trẻ đã định
lượng được khoảng thời gian cho phép để làm một việc nào đó và cố gắng hồn thành
cơng việc trong khoảng thời gian quy định.
Biết được điều này các nhà giáo dục nên giao cho trẻ những cơng việc hay bài tập
địi hỏi sự chú ý của trẻ và nên giới hạn về mặt thời gian. Chú ý áp dụng linh động theo
từng độ tuổi đầu hay cuối tuổi tiểu học và chú ý đến tính cá thể của trẻ, điều này là vơ
cùng quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả giáo dục trẻ.
đ. Trí nhớ và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học
Loại trí nhớ trực quan hình tượng chiếm ưu thế hơn trí nhớ từ ngữ - lơgic
Giai đoạn lớp 4,5 ghi nhớ có ý nghĩa và ghi nhớ từ ngữ được tăng cường. Ghi nhớ
có chủ định đã phát triển. Tuy nhiên, hiệu quả của việc ghi nhớ có chủ định cịn phụ
thuộc vào nhiều yếu tố như mức độ tích cực tập trung trí tuệ của các em, sức hấp dẫn của
nội dung tài liệu, yếu tố tâm lý tình cảm hay hứng thú của các em...
Nắm được điều này, các nhà giáo dục phải giúp các em biết cách khái quát hóa và
đơn giản mọi vấn đề, giúp các em xác định đâu là nội dung quan trọng cần ghi nhớ, các
từ ngữ dùng để diễn đạt nội dung cần ghi nhớ phải đơn giản dễ hiểu, dễ nắm bắt, dễ thuộc
và đặc biệt phải hình thành ở các em tâm lý hứng thú và vui vẻ khi ghi nhớ kiến thức.
e. Ý chí và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học
Đến cuối tuổi tiểu học các em đã có khả năng biến yêu cầu của người lớn thành
mục đích hành động của mình, tuy vậy năng lực ý chí còn thiếu bền vững, chưa thể trở
14
thành nét tính cách của các em. Việc thực hiện hành vi vẫn chủ yếu phụ thuộc vào hứng
thú nhất thời.
Để bồi dưỡng năng lực ý chí cho học sinh tiểu học địi hỏi ở nhà giáo dục sự kiên
trì bền bỉ trong cơng tác giáo dục, muốn vậy thì trước hết mỗi bậc cha mẹ, thầy cô phải
trở thành tấm gương về nghị lực trong mắt trẻ.
1.4.2.4. Sự phát triển tình cảm của học sinh tiểu học
Tình cảm của học sinh tiểu học mang tính cụ thể trực tiếp và luôn gắn liền với các
sự vật hiện tượng sinh động, rực rỡ,...Lúc này khả năng kiềm chế cảm xúc của trẻ còn
non nớt, trẻ dễ xúc động và cũng dễ nổi giận, biểu hiện cụ thể là trẻ dễ khóc mà cũng
nhanh cười, rất hồn nhiên vơ tư...
Vì thế có thể nói tình cảm của trẻ chưa bền vững, dễ thay đổi (tuy vậy so với tuổi
mầm non thì tình cảm của trẻ tiểu học đã "người lớn" hơn rất nhiều.
Trong quá trình hình thành và phát triển tình cảm của học sinh tiểu học luôn luôn
kèm theo sự phát triển năng khiếu: Trẻ nhi đồng có thể xuất hiện các năng khiếu như thơ,
ca, hội họa, kĩ thuật, khoa học,...khi đó cần phát hiện và bồi dưỡng kịp thời cho trẻ sao
cho vẫn đảm bảo kết quả học tập mà khơng làm thui chột năng khiếu của trẻ.
Chính vì thế, việc giáo dục tình cảm cho học sinh tiểu học cần ở nhà giáo dục sự
khéo léo, tế nhị khi tác động đến các em; nên dẫn dắt các em đi từ hình ảnh trực quan
sinh động, hấp dẫn và đặc biệt phải luôn chú ý củng cố tình cảm cho các em thơng qua
các hoạt động cụ thể như trị chơi nhập vai, đóng các tình huống cụ thể, các hoạt động tập
thể ở trường lớp, khu dân cư,...
1.4.2.5. Sự phát triển nhân cách của học sinh tiểu học
Nét tính cách của trẻ đang dần được hình thành, đặc biệt trong mơi trường nhà
trường cịn mới lạ, trẻ có thể nhút nhát, rụt rè, cũng có thể sơi nổi, mạnh dạn...Sau 5 năm
học, "tính cách học đường" mới dần ổn định và bền vững ở trẻ.
Nhìn chung việc hình thành nhân cách của học sinh tiểu học mang những đặc điểm
cơ bản sau: Nhân cách của các em lúc này mang tính chỉnh thể và hồn nhiên, trong q
trình phát triển trẻ ln bộc lộ những nhận thức, tư tưởng, tình cảm, ý nghĩ của mình một
cách vô tư, hồn nhiên, thật thà và ngay thẳng; nhân cách của các em lúc này cịn mang
tính tiềm ẩn, những năng lực, tố chất của các em còn chưa được bộc lộ rõ rệt, nếu có
được tác động thích ứng chúng sẽ bộc lộ và phát triển; và đặc biệt nhân cách của các em
cịn mang tính đang hình thành, việc hình thành nhân cách khơng thể diễn ra một sớm
một chiều, với học sinh tiểu học còn đang trong q trình phát triển tồn diện về mọi mặt
15
vì thế mà nhân cách của các em sẽ được hồn thiện dần cùng với tiến trình phát triển của
mình.
Hiểu được những điều này mà cha mẹ hay thầy cô giáo tuyệt đối không được
"chụp mũ" nhân cách của trẻ, trái lại phải dùng những lời lẽ nhẹ nhàng mang tính gợi mở
và chờ đợi, phải hướng trẻ đến với những hình mẫu nhân cách tốt đẹp mà khơng đâu xa,
chính cha mẹ và thầy cơ là những hình mẫu nhân cách ấy.
Chương 2: Cơ sở thực tiễn của đề tài
2.1. Những thuận lợi và khó khăn của giáo viên và học sinh
Khi tiếp cận với phương pháp dạy học mới giáo viên thường quan niệm: Trong các
tiết dạy phải có hệ thống câu hỏi và buộc học sinh trả lời các câu hỏi ấy. Như vậy yêu cầu
học sinh dùng một số phương pháp thực hành nhiều cho nhớ và giáo viên khi dạy ít quan
tâm đến đặc điểm tâm lý của học sinh lớp 4.
- Về phía giáo viên: Các phương pháp mà giáo viên sử dụng trong việc giảng dạy
phần này chưa khai thác hết nội dụng cần chuyển tải cho học sinh. Việc sử dụng đồ dùng
dạy học còn nhiều hạn chế, giáo viên còn dạy “Chay” chưa coi những phương tiện trực
quan là cần thiết trong việc luyện nói. Vì thế nên kỹ năng nói của các em học sinh cịn
nhiều hạn chế.
- Về phía học sinh: Học sinh lớp 4 gặp rất nhiều khó khăn trong việc luyện nói
xuất phát từ những nguyên nhân sau:
Thực tế cho thấy khả năng nói của học sinh mới bước vào lớp 4 cịn yếu. Đó là do
vốn từ của các em cịn q ít, do chưa có sự quan tâm chu đáo chặt chẽ của cha mẹ nên
các em khó hoặc khơng diễn đạt được khi nói, khi giao tiếp; các em phát âm không
chuẩn, phát âm khơng đúng; cịn rụt rè trong giao tiếp, giao tiếp kém hoặc có thì nói năng
cộc lốc, khơng biết cách diễn đạt hết ý nghĩa của mình.
2.2. Nguyên nhân của thuận lợi và khó khăn
Khả năng ngơn ngữ, vốn sống cịn ít.
Phương pháp hướng dẫn học sinh chưa đảm bảo
Do tâm lý rụt rè, e ngại. Như đã nói học sinh chưa có khả năng giao tiếp, giao lưu
trị chuyện với mọi người xung quanh cịn rất là ít do đó học sinh thường hay e ngại, rụt
rè. Mặt khác do tâm lý sợ nói sai ý của giáo viên, sợ bạn bè chê cười nên học sinh cũng
rất ít thể hiện mình, rất ít nói thậm chí tới giờ luyện nói các em khơng mở miệng.
16
Chương 3: Biện pháp rèn kỹ năng nói viết trong môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 4
3.1. Biện pháp rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 4
Việc rèn kỹ năng nói được phát triển qua nhiều phân mơn, tuy nhiên, trong đó,
mơn Kể chuyện được xem là mơn học quan trọng giúp phát triển kĩ năng nói cho học
sinh.
3.1.1. Rèn KN phát âm
Mỗi vùng, mỗi địa phương, thậm chí mỗi HS có những lỗi phát âm khác nhau.Do
đó, GV cần phát hiện lỗi riêng của từng HS để có biện pháp hỗ trợ phù hợp. Ví dụ: a)
Phát âm chuẩn để sửa cho những HS mắc lỗi về phát âm, yêu cầu HS quan sát khẩu hình
khi GV phát âm và nghe GV miêu tả cách phát âm.
Sau đó cho các em thực hành theo:
b) Khuyến khích HS đặt câu với âm - vần - thanh dễ lẫn;
c) Tổ chức trò chơi luyện phát âm vào những thời điểm thích hợp (tìm nhanh đọc đúng câu chứa âm - vần - thanh dễ đọc sai, lẫn);
d) Khuyển khích HS sưu tầm, ghi chép và học thuộc các bài, đoạn thơ có các âm vần - thanh dễ đọc sai, lẫn. Hiện tượng HS nói ngọng hoặc phát âm sai, lẫn do ảnh hưởng
của cách phát âm địa phương là hiện tượng phổ biến ở các trường TH, nhất là ở những
lớp đầu cấp. Để khắc phục hiện tượng này đòi hỏi GV cần thường xuyên uốn nắn, rèn
luyện cách phát âm cho HS. Vì nhận biết cách phát âm chuẩn sẽ giúp các em viết đúng
chính tả sau này.
3.1.2. Rèn KN hội thoại (HT)
3.1.2.1. KN sử dụng nghi thức lời nói
Để dạy các nghi thức lời nói, GV tổ chức cho HS đóng vai (nhập vai) nhân vật
trong các tình huống giao tiếp cụ thể để nói được lời đối thoại tự nhiên, sinh động. GV
cần:
- Tạo dựng các tình huống giao tiếp tương tự với những tình huống giao tiếp diễn
ra hàng ngày của HS (chào thầy, cô, các bạn khi vào lớp, lúc ra về...), hoặc tình huống giả
định (HS ngồi trong lớp nhưng đóng vai ông bà, cha mẹ, người lớn tuổi, các em nhỏ...
trong các khung cảnh không gian khác nhau) để luyện tập các nghi thức lời nói. Các buổi
sinh hoạt lớp, sinh hoạt Đội... là những lúc thích hợp cho việc rèn luyện các nghi thức lời
nói trong giao tiếp chính thức (nói lời bắt đầu, kết thúc cuộc họp, cách bày tỏ sự tán
thành, bác bỏ hay bảo vệ một ý kiến;
17
- Hướng dẫn HS xác định rõ vai giao tiếp và yêu cầu giữ đúng vai giao tiếp trong
cuộc HT. Nhận biết đúng vai giao tiếp sẽ giúp HS lựa chọn được cách xưng hơ thích hợp
và thái độ đúng mực khi nói. GV cần hướng dẫn HS nói mẫu trong một số tình huống cụ
thể để sau đó thực hành, luyện tập trong các tình huống tương tự.
Để giữ đúng vai trong giao tiếp, GV cần chú ý hướng dẫn HS xác định sự khác
biệt trong cách dùng từ xưng hơ và cách nói lời cảm ơn phù hợp với nhân vật trong mỗi
tình huống giao tiếp;
- Hướng dẫn HS xác định rõ mục đích giao tiếp. Các nhà ngơn ngữ học đã chỉ ra
ba đích của giao tiếp, đó là: đích thuyết phục, đích truyền cảm, đích hành động. Nhân vật
tham gia HT thường chủ động thực hiện cả ba đích giao tiếp, trong đó, có thể có đích
được ưu tiên hay chú trọng hơn. Khi hướng dẫn HSHT, GV phải giúp các em nhận ra
đích giao tiếp trong HT của các nhân vật tham gia HT. Chẳng hạn, trong tình huống nói
lời cảm ơn trên đây, GV cần giúp HS nhận rõ đích giao tiếp được chú trọng chính là đích
truyền cảm. Để HS tạo được lời cảm ơn tự nhiên, chân thành, GV có thể nêu câu hỏi hoặc
gợi ra các tình huống tương đồng hoặc đối lập, khích lệ HS suy nghĩ để chọn lựa cách nói
của mình;
- Định hướng HS lựa chọn ngơn ngữ giao tiếp phù hợp với nhân vật giao tiếp, nội
dung giao tiếp, tình huống giao tiếp,... Việc sử dụng ngơn ngữ, đặc biệt là ngơn ngữ nói,
gắn với văn hóa ứng xử bằng ngôn ngữ luôn được đề cập trong các tình huống luyện nói
ở mơn Tiếng Việt. Trong đó, có một hệ thống từ ngữ chức năng có tác dụng cấu tạo dạng
hỏi, dạng yêu cầu, mời mọc, đề nghị... và lời đáp tương ứng. Do đó, khi dạy các nghi
thức thuộc dạng nào, GV cần giúp HS nhận ra các sắc thái biểu cảm trong các từ ngữ đó
để HS có thể chủ động lựa chọn sao cho đúng nghi thức, phù hợp với tình huống, mục
đích và vai giao tiếp;
- Tổ chức cho HS thực hành HT theo hình thức đóng vai. Khi tổ chức cho HS
đóng vai, GV cần chú ý khai thác, phát hiện và phát triển NL sử dụng ngôn ngữ của mỗi
em, tạo cơ hội để các em tạo lập được lời nói tự nhiên và mang sắc thái cá nhân.
3.1.2.2. KN đặt và trả lời câu hỏi, trao đổi, thảo luận
Việc dạy HS KN đặt và trả lời câu hỏi, KN trao đổi, thảo luận cũng đặt ra yêu cầu
giúp HS hiểu mục đích HT, tình huống HT, vai HT, cách tổ chức lời thoại. Việc thực
hành trao đổi, trò chuyện với người khác là tình huống giao tiếp phức tạp. GV nên thay
đổi hợp lí các hình thức:
18
GV hỏi - HS trả lời, HS hỏi - HS trả lời hoặc HT theo nhóm lớn hơn (3-5 em). GV
cần hướng dẫn HS biết cách tranh luận khi nghe bạn phát biểu ý kiến. GV có thể gợi ý để
HS đặt ra các câu hỏi mở đối với người nói, tán thành hoặc khơng tán thành ý kiến người
nói, phát triển ý của người nói theo các hướng mới... Trong các cuộc tranh luận, GV chỉ
đóng vai trị hướng dẫn, gợi mở, không làm thay việc của HS hoặc áp đặt ý kiến chủ quan
của GV cho HS. Các cuộc tranh luận nên xoay quanh các vấn đề gắn với cuộc sống thực
của HS ở trường và ở nhà. Khi hướng dẫn HS trao đổi, thảo luận, GV cần:
- Giúp HS nhận biết thế nào là sự luân phiên lượt lời, sự đổi vai từ người nói sang
người nghe và ngược lại trong quá trình HT, tránh tình trạng thụ động, máy móc trong
việc đưa ra các lời thoại;
- Dành thời gian hoặc nêu các câu hỏi để HS suy nghĩ hoặc tranh luận để dự
đoán/phán đoán câu đáp của người HT và dự kiến lời thoại tiếp theo của mình, lưu ý HS
khi tạo ra các lượt lời luân phiên sau mỗi cặp trao - đáp cần luôn có ý thức hướng vào
thực hiện được đích giao tiếp;
- Tổ chức cho HS đóng vai thực hiện HT có sự luân phiên lượt lời. Để HS có thể
tạo ra các lượt lời trao - đáp một cách tự nhiên, chủ động, ln hướng vào đích giao tiếp,
GV cần tạo ra môi trường HT thoải mái, cởi mở sao cho HS cảm thấy tự tin và mạnh dạn
vận dụng Kỵ và kinh nghiệm giao tiếp sẵn có của mình. GV nhắc HS tập trung lắng nghe
lời trao của người HT để có thể đưa ra lời thoại thích hợp;
- Tổ chức cho HS góp ý, nhận xét, đánh giá lẫn nhau và đề xuất cách khắc phục.
GV khuyến khích HS chia sẻ kinh nghiệm giao tiếp với nhau trong quá trình HT, qua đó,
sẽ giúp HS học hỏi lẫn nhau và tự làm giàu vốn kinh nghiệm HT của mình.
3.1.3. Rèn KN độc thoại
3.1.3.1. KN kể chuyện đã nghe, đã đọc
Kiểu bài kể lại câu chuyện được nghe thầy, cô kể trên lớp đã rất quen thuộc với
HS.Đây là kiểu bài rèn luyện ở HS các KN: nghe - ghi nhớ - kể lại câu chuyện. Để giúp
HS kể lại được câu chuyện vừa được nghe, GV cần có biện pháp kể chuyện lôi cuốn, hấp
dẫn, thu hút sự chăm chú lắng nghe của HS. Cần hướng dẫn HS ghi nhớ diễn biến câu
chuyện với các tình tiết, sự việc chính để các em có thể kể lại được câu chuyện ngay
trong giờ học.
Ví dụ:
- GV vừa kể chuyện vừa kết hợp ghi lên bảng những tình tiết, sự kiện chính theo
hình thức sơ đồ để giúp HS dễ nhớ nội dung câu chuyện;
19
- Cho HS ngồi thành vòng tròn để nghe. Khi kể, GV kết hợp làm động tác, điệu
bộ, nét mặt và sử dụng tranh ảnh... để miêu tả, HS vừa lắng nghe, vừa quan sát, vừa làm
động tác theo GV;
- Trong quá trình kể, nên kết hợp nếu các câu hỏi để thu hút HS nghe một cách
chủ động sáng tạo, ví dụ như: u cầu HS phán đốn sự việc sắp diễn ra sẽ như thế nào;
kiểm tra trí nhớ của HS về các sự kiện đã kể có liên quan đến tình tiết, sụ kiện đang nói
tới; u cầu HS đưa ra nhận xét, đánh giá về nhân vật, sự kiện;...
- Tổ chức cho HS diễn lạ câu chuyện vừa nghe như một vở kịch. Có thể chia HS
thành các nhóm nhỏ để miêu tả lại các nhân vật (vẽ hình nhân vật, chuẩn bị phục
trang,...), một số nhóm khác thì chuẩn bị hoặc làm những vật dụng có trong câu chuyện...
Cách làm này khiến câu chuyện đi ra đời sống thực, đồng thời giúp HS tự tin hơn. Kiểu
bài kể lại câu chuyện đã nghe, đã đọc (ở lớp 4) địi hỏi HS huy động trí nhớ hoặc phải
sưu tầm, tìm đọc các câu chuyện có liên quan đến chủ điểm được học, qua đó các em
được rèn KN nghe (hoặc đọc), ghi nhớ và kể lại câu chuyện đã nghe hoặc đã đọc theo
cách hiểu của riêng mình. Điều khó khăn đối với HS khi học kiểu bài này là phải nhớ
được hoặc tìm được câu chuyện phù hợp chủ điểm. Việc nhớ và tìm được các câu chuyện
thuộc một chủ điểm học tập nào đó khơng đơn giản đối với HS TH. HS chỉ có thể thực
hiện tốt nhiệm vụ khi GV giúp các em triển khai phân tích triệt để các khía cạnh, tầng bậc
nội dung của chủ điểm.
3.1.3.2. KN kể lại hoạt động hoặc câu chuyện đã tham gia, chứng kiến
Đây là kiểu bài đòi hỏi sự sáng tạo ở HS. HS phải nhớ lại những câu chuyện mình
đã chứng kiến hoặc tham gia có nội dung gắn với chủ điểm yêu cầu, sắp xếp lại các chi
tiết sao cho có đầu có cuối rồi kể lại trước lớp. Để giúp HS thực hiện được yêu cầu của
loại bài học này, GV cần:
- Giúp HS tìm hoặc lựa chọn được “vấn đề có thực trong đời sống” để sắp xếp,
xây dựng thành câu chuyện. Các em được rèn KN phát hiện, chọn lựa trong vô vàn những
chuyện thường ngày, những sự việc nào có thể kể lại thành một câu chuyện có nhân vật,
có sự kiện, có diễn biến, có mở đầu và kết thúc, gắn với chủ điểm yêu cầu. GV chú ý
luyện cho HS KN quan sát, nhận xét, ghi nhớ các sự việc diễn ra với mình hoặc xung
quanh mình và kể lại được một cách trung thực những điều mắt thấy tai nghe đó; Khuyến khích HS kể được những câu chuyện có thật, dù cịn đơn giản, ít tình tiết
thậm chí cũng chưa có yếu tố “chuyện” trong đó. Vì như vậy, giờ học sẽ thực sự thú vị
bởi các câu chuyện HS kể sẽ mang đậm dấu ấn cá nhân, từ cách sắp xếp các sự kiện, cách
20