PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cấp thiết của vấn đề cần nghiên cứu
Theo thống kê của các chuyên gia kinh tế, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt
Nam năm 2011 vừa qua đạt 7.2%, đứng thứ 3 ở châu Á, cùng với Indonesia và Ấn
Độ, Việt Nam là một trong ba nước duy nhất có mức tăng trưởng năm 2011 cao
hơn 2010. Tổng cục thống kê cũng đưa ra mức tăng GDP của năm 2011 so với
năm 2010 là 5.89%, một con số khá cao trong tình trạng nền kinh tế thế giới đang
gặp khủng hoảng như hiện nay. Có được điều này là một sự nỗ lực của tất cả các
ngành kinh tế, trong đó phải kể đến sự đóng góp không nhỏ của ngành thương
nghiệp và các hoạt động kinh doanh thương mại.
Nghiên cứu tình hình hoạt động, cơ cấu, sự tham gia của thương nghiệp trong
nền kinh tế và đánh giá đúng tầm quan trọng của thương nghiệp là một việc làm
cần thiết nhằm đưa ra những giải pháp phù hợp, đáp ứng các yêu cầu cấp thiết
của nhà nước trong tăng trưởng kinh tế hàng năm. Do đó, nhóm chúng tôi quyết
định chọn đề tài “Phi thương bất phú”- quan điểm cũ trong nền kinh tế mới, để
cùng nhau nghiên cứu và thảo luận.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Làm rõ ý nghĩa của “Phi thương bất phú” trong chủ nghĩa trọng thương
- Vận dụng quan điểm ”Phi thương bất phú” vào nền kinh tế Việt Nam.
3. Đối tượng và pham vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những tác động của thương nghiệp tới
sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam
- Phạm vi nghiên cứu là nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2011.
4. Phương pháp nghiên cứu
Bài tiểu luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống của kinh tế
chính trị như phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương
pháp lịch sử và lôgíc, phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh được sử
dụng chủ yếu trong quá trình nghiên cứu.
+ Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp phân tích
và tổng hợp, phương pháp so sánh: khi phân tích thực trạng thương nghiệp
trong nền kinh tế Việt Nam, tác giả đã xem xét số liệu của các năm, qua đó tác
giả đã phân tích và so sánh sự tăng hay giảm về tình hình hoạt động của
thương nghiệp tư nhân của năm sau so với năm trước.
+ Phương pháp lịch sử và lôgic: khi nghiên cứu thực tiễn thương nghiệp và các
tác động tới kinh tế, tác giả đã đề xuất những phương hướng và các giải pháp
phù hợp để thực hiện những phương hướng trên.
Phần 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về chủ
nghĩa trọng thương - quan điểm “Phi
thương bất phú”
Phần 2: Thực trạng nền kinh tế Việt Nam giai
đoạn từ năm 2001đến năm 2011
Phần 3: Vận dụng “Phi thương bất phú” vào
thương mại Việt Nam
NỘI
DUNG
5. Kết cấu
Bài tiểu luận ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo, phần nội dung chính của luận văn được trình bày trong 3 phần:
Cơ sở lí luận và thực tiễn về
chủ nghĩa trọng thương - quan
điểm “Phi thương bất phú”
HOÀN CẢNH RA ĐỜI CNTT
1800
1400 1500 1700
1900
1600
2000
Giai đoạn chủ nghĩa trọng thương
•
Về lịch sử: Đây là thời kỳ sơ khai của chủ nghĩa tư bản
(phương thức sản xuất phong kiến tan rã, phương thức sản
xuất TBCN ra đời.)
•
Về mặt kinh tế: kinh tế hàng hóa phát triển, thương nghiệp có
ưu thế hơn so với sản xuất.(Thời kì tích lũy nguyên thủy của
CNTB)
•
Về chính trị: Giai cấp tư sản mới ra đời, là giai cấp tiên tiến
nhưng chưa nắm được chính quyền
•
Về mặt khoa học – kỹ thuật: những bước tiến vượt bậc trong
khoa học tự nhiên đặc biệt các phát kiến địa lý đã tạo điều kiện
cho kinh tế các nước châu Âu phát triển.
CÁC TƯ TƯỞNG KINH TẾ CHỦ
YẾU CỦA CNTT
•
Luận điểm về tiền tệ: CNTT đánh giá cao vai trò của tiền, tiền
được coi là tiêu chuẩn căn bản của của cải. Tăng khối lượng tiền
trong nước.
•
Luận điểm về ngoại thương: CNTT đánh giá cao vai trò của
thương mại đặc biệt là ngoại thương. Sự phồn thịnh của một quốc
gia chính là nhờ thương nghiệp đặc biệt là ngoại thương chứ không
phải do sản xuất (trừ việc khai thác vàng).
•
Luận điểm về cơ chế kinh tế: Một nền kinh tế chỉ có thể phát triển
tốt đẹp nếu như có sự điều chỉnh và quản lý của nhà nước, khuyến
khích sự độc quyền trong ngoại thương. Một nền kinh tế chỉ có thể
phát triển có hiệu quả nếu chịu sự chi phối, quản lý của nhà nước.
Thương nhân cần dựa vào nhà nước và nhà nước phối hợp bảo vệ
thương nhân.
•
Luận điểm về lợi nhuận: CNTT cho rằng lợi nhuận là kết quả của
sự tro đổi không ngang giá do lĩnh vực lưu thông mua bán, trao đổi
sinh ra. Nó là kết quả việc mua ít bán nhiều, mua rẻ bán đắt
CHỦ NGHĨA TRỌNG THƯƠNG Ở ANH
Học thuyết tiền
tệ (thế kỷ XV –
XVI)
Đại biểu:
W.Staford
CNTT ở Anh
phát triển qua
2 giai đoạn
Học thuyết về
bảng cân đối
thương mại
(thế kỷ XVI –
XVII)
Đại biểu:
Thomas Mun
BẢNG CÂN ĐỐI TIỀN TỆ
•
Hoàn cảnh lịch sử: kinh tế trong nước kém phát triển,
sản xuất không đủ tiêu dùng nhập khẩu hàng suy
sụp kinh tế quốc gia.
•
Biện pháp kinh tế: Nhà nước độc quyền mua bán vàng
bạc, nhà nước quy định tỷ giá hối đoái bắt buộc, quy
định tập trung buôn bán, cấm xuất khẩu vàng, hạn chế
nhập hàng, thương nhân nước ngoài không được mang
vàng ra khỏi nước Anh.
BẢNG CÂN ĐỐI THƯƠNG MẠI
•
Tư tưởng: Nhà nước chỉ giàu mạnh khi mà chênh lệch
xuất nhập khẩu lớn (xuất siêu) Đẩy mạnh xuất nhập
khẩu.
•
Cách thức làm thương mại:
Xuất khẩu hàng hóa: H
1
-T-H
2
(H
2
<H
1
)
Thương mại gián tiếp:(nhập khẩu để xuất khẩu) T
1
-H-T
2
(T
1
<T
2
)
•
Giải pháp:
Nhà nước cần cho tự do buôn bán, tự do trao đổi giữa
các nước, thực hiện chiến lược hình đa giác.
Giải pháp nhằm tăng trưởng kinh tế: chính sách thuế
quan bảo hộ, mời thợ giỏi, bán nhiều hàng với giá rẻ.
ĐÁNH GIÁ CHUNG
Thành tựu:
•
Những luận điểm của chủ nghĩa trọng thương so sánh với nguyên lý
trong chính sách kinh tế thời kỳ Trung cổ đã có một bước tiến bộ rất
lớn, nó thoát ly với truyền thống tự nhiên, từ bỏ việc tìm kiếm công
bằng xã hội, những lời giáo huấn lý luận được trích dẫn trong Kinh
thánh.
•
Hệ thống quan điểm của chủ nghĩa trọng thương đã tạo ra những tiền
để lý luận kinh tế cho kinh tế học sau này, cụ thể:
Đưa ra quan điểm, sự giàu có không chỉ là những giá trị sử dụng mà
còn là giá trị, là tiền
Mục đích hoạt động của nền kinh tế hàng hoá là lợi nhuận;
Các chính sách thuế quan bảo hộ có tác dụng rút ngắn sự quá độ từ
chủ nghĩa phong kiến sang chủ nghĩa tư bản;
Tư tưởng nhà nước can thiệp vào hoạt động kinh tế là một trong
những tư tưởng tiến bộ.
Hạn chế:
•
Những luận điểm của chủ nghĩa trọng thương có rất ít tính chất lý luận và
thường được nêu ra dưới hình thức những lời khuyên thực tiễn về chính
sách kinh tế. Lý luận mang nặng tính chất kinh nghiệm (chủ yếu thông qua
hoạt động thương mại của Anh và Hà Lan).
•
Những lý luận của chủ nghĩa trọng thương chưa thoát khỏi lĩnh vực lưu
thông, nó mới chỉ nghiên cứu những hình thái của giá trị trao đổi. Đánh giá
sai trong quan hệ trao đổi, vì cho rằng lợi nhuận thương nghiệp có được
do kết quả trao đổi không ngang giá.
•
Nặng về nghiên cứu hiện tượng bên ngoài, không đi sâu vào nghiên cứu
bản chất bên trong của các hiện tượng kinh tế.
•
Một hạn chế rất lớn của chủ nghĩa trọng thương đó là đã quá coi trọng tiền
tệ (vàng, bạc), đã đứng trên lĩnh vực thô sơ của lưu thông hàng hoá để
xem xét nền sản xuất TBCN.
•
Trong kinh tế đề cao vai trò của nhà nước nhưng lại không thừa nhận các
quy luật kinh tế.
Quan điểm “Phi thương bất phú”
“Phi thương bất phú” là một quan điểm có thể hiểu theo nhiều cách.
Theo một cách sát nghĩa nhất, nó được hiểu là: Không đi buôn không thể nào
giàu có. Đứng trên quan điểm cá nhân, câu ngạn ngữ dùng để chỉ một phương
thức kiếm tiền, đề cao một cách rõ ràng vai trò của việc buôn bán, lưu thông
hàng hóa. Quan điểm này là một lập trường xác thực của chủ nghĩa trọng
thương ( thời kì đầu), cho rằng lưu thông hàng hóa là con đường ngắn nhất để
tiếp cận tới lợi nhuận.
Mặc dù là 1 câu ngạn ngữ cổ, mang màu sắc kinh nghiệm, đặc thù của
chủ nghĩa trọng thương, song ngày nay, quan điểm trên vẫn luôn minh chứng
được tính đúng đắn của nó, ngay cả khi gắn vào một nền kinh tế lớn như nền
kinh tế quốc dân ở nước ta.
Trong một nền kinh tế thị trường mới hội nhập với thế giới và khu vực
như của Việt Nam hiện nay, vai trò của thương nghiệp và các ngành thương
mại, nhất là ngoại thương ngày càng khẳng định được vị thế của mình. Vì lí do
đó, việc nhìn nhận, đánh giá đúng tầm quan trọng của thương mại và vận dụng,
chắt lọc các cơ sở lí luận phù hợp của chủ nghĩa trọng thương vào nền kinh tế
đang là một bài toán lớn cần sớm hoàn thành, nhằm duy trì và đẩy cao tốc độ
phát triển của nền kinh tế nước nhà.
Thực trạng nền kinh tế
Việt Nam giai đoạn từ năm
2001 đến năm 2011
Về “những thực tiễn biết nói” quan trọng hơn
nhưng khó thể hiện bằng con số như:
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế khá nhanh và hợp lý theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhạy bén trước thực tiễn biến
động, do đó có những đổi mới về chủ trương, cơ chế quản lý kinh
tế tạo điều kiện nhiều mặt cho tăng trưởng và phát triển kinh tế -
xã hội.
Sự nỗ lực vượt bậc của toàn Đảng, toàn dân ta gắn với sự hợp
tác quốc tế đã làm cho ta vượt bao gian nan cả về kinh tế, chính trị
- xã hội lẫn thiên tai dịch bệnh… có lúc tưởng chừng khó vượt
qua.
Sự gắn liền tăng trưởng kinh tế với kết quả to lớn xóa đói, giảm
nghèo chủ yếu từ sản xuất và giải quyết việc làm để nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Lòng tin và sự phấn khởi
của đại đa số nhân dân ta đối với Đảng và Nhà nước, với chế độ
ta và công cuộc đổi mới ngày càng tăng.
Sự ổn định chính trị, trật tự và an ninh xã hội cùng với tăng
trưởng kinh tế… đã làm cho nước ta ngày càng là một môi trường
đầu tư - hợp tác kinh tế có sức hấp dẫn hơn; là một đối tác bình
đẳng, đáng tin cậy hơn; là một “điểm đến” an toàn, ưu ái và cuốn
hút quốc tế hơn
Những kết quả tích cực và các mặt hạn chế
của ngành thương mại Việt Nam
Những kết quả tích cực
Mở rộng thị trường xuất khẩu
Thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Đời sống dân cư được cải thiện
Những hạn chế và vấn đề đặt ra
Bên cạnh những thành tựu và khởi sắc nêu trên, tình hình kinh tế - xã
hội Việt Nam bộc lộ nhiều hạn chế và bất cập do chịu tác động của thị
trường thế giới và cả những yếu tố nội tại. Những vấn đề nổi lên là: tính
bền vững của tăng trưởng chưa cao; hiệu quả sử dụng đồng vốn đầu tư
thấp; năng suất lao động còn thấp; chất lượng hàng hóa và dịch vụ còn
hạn chế; tính cạnh tranh còn thấp.
Vận dụng “Phi thương
bất phú” vào thương mại
Việt Nam
1. GIẢI PHÁP CHO THƯƠNG NGHIỆP
VIỆT NAM
Một thành công mà không nhiều quốc gia làm được như Việt Nam là vẫn
đạt tốc độ tăng trưởng bình quân như dự kiến, ngay cả trước cuộc khủng
hoảng kinh tế hồi cuối năm 2008. Xét trên phương diện vĩ mô thì như vậy,
xong đối với các quy mô doanh nghiệp, hộ gia đình, khủng hoảng kinh tế thực
sự tác động rất mạnh mẽ tới cộng việc kinh doanh. Điều này cho thấy ngành
thương nghiệp cần đi vào 1 hệ thống chỉnh thế, dưới sự giám sát và hỗ trợ từ
phía nhà nước. Nhà nước dã có một số giải pháp sau:
Tái cấu trúc kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng
Quốc hội khóa XIII đã thông qua là Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
năm 2012 với mục tiêu tổng quát là “Ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định
kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý gắn với đổi mới mô hình
tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả và
sức cạnh tranh; bảo đảm phúc lợi xã hội, an sinh xã hội và cải thiện đời
sống nhân dân; giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, bảo đảm
an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, nâng cao hiệu quả hoạt động đối
ngoại và hội nhập quốc tế
2. Vận dụng “Phi thương bất phú” theo
quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin vào
nền kinh tế Việt Nam
•
Một là, bài học “làm theo quy luật khách quan” trong nhiều bài học mà Đại hội
VI - đổi mới - của Đảng ta rút ra. Những bài học đổi mới của ta hiện nay chủ yếu
là trở về vận dụng sáng tạo những luận điểm rất cơ bản và còn nguyên giá trị
mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ về kinh tế và thương mại trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Sự vận dụng sáng tao và đúng dắn đó đã giúp nước ta thực
hiện được bước đàu thực tế “dân càng giàu nước càng mạnh”, đay là bài học “phi
thương bát phú” đầu tiên cần rút ra.
•
Hai là, bài học “phi thương bất phú” của chúng ta hiện nay không còn trong
phạm vi hạn hẹp cổ xưa coi thương mại, buôn bán chỉ là việc của những cá nhân,
Trái lại, những quan hệ Thương mại, hoạt động thương mại ngày càng thể hiện
rõ vị trí, vai trò có ý nghĩa quyết định trong nền sản xuất xã hội và nền kinh tế hiện
đại; chẳng những của mọi quốc gia mà còn mang tính khu vực và toàn cầu. Chính
vì vậy chúng ta phải thường xuyên học hỏi - nâng cao nhận thức mới, đúng đắn,
cập nhật để có thể “dĩ bất biến, ứng vạn biến” ngay trong lĩnh vực Thương mại
đầy hấp dẫn này.
•
Ba là, bài học “phi thương bất phú” của ta hiện nay cần rút ra nữa là: Những
người trực tiếp làm thương mại ngày càng phải thể hiện bản lĩnh chuyên
nghiệp cao của những Thương gia xã hội chủ nghĩa thì mới góp phần thực
hiện tốt đường lối Đổi mới của Đảng ta được cô đúc trong câu: “Vừa mở rộng
hợp tác quốc tế có hiệu quả ngày càng cao, vừa giữ vững nền độc lập - tự chủ
theo mục tiêu xã hội chủ nghĩa”.
•
Bốn là, bài học “phi thương bất phú” của Thương mại ta qua 20 năm đổi
mới cũng xuất phát từ Bài học “lấy dân làm gốc”. Mà, dân ở đây trước hết và
chủ lực chính là công - nông - trí thức - nòng cốt của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, sau đó là các ngành, các cấp…
trong phát triển sản xuất và vật chất; tinh thần… mới tạo ra các thị trường
trong nước và tham gia chủ động hội nhập các thị trường quốc tế. Bài học này
trong 20 năm qua, đặc biệt trong năm 2005 càng thể hiện rõ trên mọi lĩnh vực
sản xuất - kinh tế nước ta, trong đó có thương mại nổi bật - cũng thực chất là
“vì dân và do dân”.
2. Vận dụng “Phi thương bất phú” theo
quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin vào
nền kinh tế Việt Nam
Đó là những minh chứng sống động của những Bài học từ thực
tiễn Thương mại và đất nước ta đang cất cánh và tăng tốc theo
đúng định hướng xã hội chủ nghĩa - thực chất là: xã hội hóa - của
dân, do dân, vì dân theo ánh sáng Mác - Lê nin, Hồ Chí Minh và
đường lối của Đảng ta.”
LỜI KẾT
“Phi thương bất phú” thể hiện sự coi trọng thương nghiệp , những vùng nào tăng
mạnh thương nghiệp thì kinh tế vùng đó tăng.
Trong điều kiện của nước ta hiện nay thì câu nói đó vẫn còn phù hợp
Xuất phát từ một nền kinh tế của nước ta còn lạc hậu, thương mại không tăng
(cả về nội thương lẫn ngoại thương ). Đã có thời kì chúng ta thực hiện chính
sách “bế quan toả cảng”để kìm hãm sự phát triển kinh tế, làm cho kinh tế thụt
lùi so với thế giới. Nếu kinh tế chỉ huy theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp
đã làm cho thương mại kém phát triển cả về nội thương và ngoại thương tạo
ra nền kinh tế yếu kém.
Đến đại hội Đảng VI, Nhà nước chuyển đổi cơ cấu kinh tế, chuyển sang nền
kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, đòi hỏi phải tăng mạnh thương mại cả về nội thương lẫn ngoại thương.
Sau 10 năm thực hiện, đất nước ta đã thu được nhiều thành tựu kinh tế quan
trọng, chứng tỏ quan điểm trọng thương là đúng dắn, phải có giao lưu với
nước ngoài mới có điều kiện sản xuất trong nước, tăng tích luỹ vốn.
Bên cạnh đó chúng ta cũng không coi thương mại là con đường làm giầu duy nhất,
vì quan điểm trọng thương chỉ quan tâm đến một lĩnh vực của kinh tế trong sản
xuất đó là lưu thông mà thôi. Mà ta cần phải biết kết hợp giữa tăng trọng thương
với tăng nền chủ nghĩa và Nhà nước trong nước, coi nhà nước là thế mạnh.