ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
………. oOo ……….
NGUYỄN HỒ ANH TÚ
ĐẠO PHẬT KHẤT SĨ
TỪ GĨC NHÌN VIỆT HĨA PHẬT GIÁO
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH VIỆT NAM HỌC
MÃ SỐ: 8310630
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2021
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
………. oOo ……….
NGUYỄN HỒ ANH TÚ
ĐẠO PHẬT KHẤT SĨ
TỪ GĨC NHÌN VIỆT HĨA PHẬT GIÁO
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH VIỆT NAM HỌC
MÃ SỐ: 8310630
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
PGS. TS. NGUYỄN CÔNG LÝ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2021
LỜI CẢM ƠN
Luận văn được hoàn thành ngoài sự nỗ lực học hỏi, nghiên cứu của bản thân,
chúng tơi cịn nhờ vào sự giúp đỡ, chỉ bảo, động viên của gia đình, nhà trường và bạn bè.
Trước hết chúng tơi xin chân thành bày tỏ lịng kính trọng, cảm niệm và tri ân sâu
sắc đến PGS. TS. Nguyễn Công Lý, người đã tận tâm hướng dẫn khoa học, định hướng và
truyền đạt cho chúng tôi những kiến thức vô cùng quý báu.
Chúng con xin chân thành cảm niệm và tri ân cơng đức HT. Giác Tồn, TT. Minh
Thành, TT. Giác Hoàng, NS. Tuệ Liên đã giúp đỡ, hướng dẫn, chỉ dạy những kiến thức
bổ ích để chúng con hồn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô trong Khoa Việt Nam Học, hướng dẫn, chỉnh
sửa và bổ sung nguồn tài liệu rất cần thiết cho đề tài nghiên cứu của chúng tôi.
Trân trọng!
Nguyễn Hồ Anh Tú
i
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn
của PGS. TS. Nguyễn Công Lý. Các số liệu, kết quả được nêu trong luận văn là trung
thực, đảm bảo chính xác. Các tài liệu tham khảo của các nhà nghiên cứu đi trước đều
được trích dẫn và xuất xứ rõ ràng.
Tơi chịu hồn tồn trách nhiệm về cơng trình nghiên cứu của mình.
Tác giả luận văn
Nguyễn Hồ Anh Tú
ii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 1
1.
Lý do chọn đề tài ................................................................................................. 1
2.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 2
3.
Phương pháp và lý thuyết nghiên cứu ................................................................. 2
4.
Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................... 4
5.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ............................................................. 9
6.
Đóng góp của luận văn ........................................................................................ 9
7.
Giới thiệu cấu trúc luận văn ................................................................................ 9
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ ĐẠO PHẬT KHẤT SĨ
VIỆT NAM ........................................................................................................................ 11
1.1 Quá trình du nhập Phật giáo vào Việt Nam ............................................................ 11
1.2 Tổng quan về Đạo Phật Khất Sĩ .......................................................................... 20
Tiểu kết chương 1 ...................................................................................................... 37
CHƢƠNG 2. VẤN ĐỀ VIỆT HĨA PHẬT GIÁO CỦA ĐẠO PHẬT KHẤT SĨ
NHÌN TỪ TƢ TƢỞNG GIÁO LÝ .................................................................................. 39
2.1 Sự dung hợp và Việt hóa hai hệ thống truyền thừa của Phật giáo Việt Nam ...... 39
2.2 Vấn đề Việt hóa về giáo lý .................................................................................. 64
2.3 Vấn đề Việt hóa về hệ thống Kinh văn ................................................................ 74
Tiểu kết chương 2 ...................................................................................................... 78
iii
CHƢƠNG 3. VẤN ĐỀ VIỆT HÓA PHẬT GIÁO CỦA ĐẠO PHẬT KHẤT SĨ
NHÌN TỪ NGHI LỄ VÀ CÁCH THỨC THỜ TỰ........................................................ 79
3.1 Thiết kế - trang trí trong khuân viên Tịnh xá ...................................................... 79
3.2 Kiến trúc chánh điện ............................................................................................ 86
3.3 Cách thức thờ tự trong chánh điện ....................................................................... 89
3.4 Nghi lễ hành trì .................................................................................................... 93
Tiểu kết chương 3 .................................................................................................... 102
KẾT LUẬN............................................................................................................... 104
CƠNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CƠNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ... 107
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 108
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 120
iv
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ĐĐ
Đại Đức
GĐ
Giáo đoàn
GHPGVN
Giáo hội Phật giáo Việt Nam
HĐTS
Hội đồng Trị sự
HPKS
Hệ phái Khất Sĩ
HT
Hòa Thượng
NS
Ni Sư
NXB
Nhà xuất bản
PG
Phật giáo
PGKS
Phật giáo Khất sĩ
PGVN
Phật giáo Việt Nam
TCN
Trước Công Nguyên
TG
Tác giả
TK
Tỳ Kheo
TP HCM
Thành phố Hồ Chí Minh
TT
Thượng Tọa
VNCPHVN
Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam
v
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Phật giáo ra đời từ thế kỷ thứ VI trước Công nguyên ở Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu) phía
Bắc Ấn Độ, nay thuộc Nepal. Đức Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni) là người sáng lập ra đạo
Phật. Từ lúc Tăng đoàn Phật giáo được thành lập đến khi Đức Phật nhập Niết bàn thì chưa có
sự phân chia bộ phái. Sau khi Đức Phật nhập Niết bàn khơng bao lâu thì Tăng đồn có nhiều
ý kiến khác nhau trong phương pháp hành trì giới luật và tu tập. Do đó, Tăng đồn chia thành
Thượng Tọa Bộ (Theravāda) và Đại Chúng Bộ (Mahāsaṅghika). Cũng từ 2 bộ phái chính
này, phân chia thêm nhiều bộ phái khác.
Đến thế kỷ thứ III trước Công nguyên, Phật giáo phát triển rộng khắp Ấn Độ và bắt đầu
truyền bá ra quốc tế thơng qua 9 phái đồn truyền giáo dưới thời Asoka đại đế qua hai con
đường: đường bộ (Bắc truyền) và đường biển (Nam truyền). Từ hai con đường truyền giáo
này, đến nay Phật giáo hình thành và phát triển trên thế giới với nhiều tông phái, hệ phái khác
nhau. Ở Việt Nam hội tụ sự truyền thừa của 2 con đường này.
Theo nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Phật giáo được truyền vào nước ta rất sớm là từ thế
kỷ thứ III trước Công nguyên, qua con đường biển dưới thời Asoka đại đế, mà thành Nê Lê ở
Đồ Sơn là chứng tích. Để sau đó hình thành trung tâm Phật giáo Luy Lâu (Thuận Thành –
Bắc Ninh ngày nay). Từ trung tâm Luy Lâu, Phật giáo truyền sang trung tâm Bành Thành và
trung tâm Lạc Dương ở Trung Hoa. Từ đó hình thành Phật giáo Nam truyền ở nước ta. Đến
thời nước ta bị Bắc thuộc thì Phật giáo Bắc truyền từ Trung Hoa truyền xuống với hệ thống
kinh văn Hán Tạng.
Từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV dưới thời Lý - Trần, Phật giáo Việt Nam phát triển rực rỡ.
Đặc biệt, Phật hoàng Trần Nhân Tông, thống nhất các hệ phái tạo nên Phật giáo nhất tông với
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, mang bản sắc văn hóa tư tưởng Việt Nam.
Sang thời hậu Lê (thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI), Phật giáo nhường chính trường cho Nho
giáo, lui về tự viện chỉ lo phần tâm linh cho nhân dân, tạo nên một màu sắc Phật giáo dân
gian.
Đến khoảng đầu thế kỷ XX, ý thức được sự tồn vong của Phật giáo, các vị cao Tăng ở
Sài Gòn – Gia Định khởi xướng phong trào Chấn hưng Phật giáo, bắt đầu từ những năm đầu
thập niên 20 thế kỷ XX đến những năm 40 của thế kỷ này.
1
Trong thời gian này, ở Nam Bộ hình thành một số tơng phái mới mang tính bản địa mà
những tơng phái này ít nhiều có ảnh hưởng từ Phật giáo như Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân
Hiếu Nghĩa, Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài...
Trong bối cảnh này, hệ phái Đạo Phật Khất Sĩ đã ra đời do Tổ Sư Minh Đăng Quang
sáng lập vào năm 1944. Đến nay, Đạo Phật Khất Sĩ phát triển mạnh không chỉ ở Nam Bộ mà
còn lan tỏa, ảnh hưởng khắp cả nước và bước đầu truyền bá sang quốc tế như ở Châu Úc,
Châu Mỹ…
Đây là một hệ phái có sự dung hợp hai dòng truyền thừa của Phật giáo Việt Nam, mang
bản sắc văn hóa Việt, nhất là văn hóa bản địa Nam bộ. Đạo Phật Khất Sĩ đã Việt hóa hệ thống
giáo lý cùng pháp mơn hành trì, tu tập tạo nên một Phật giáo mang đậm bản sắc dân tộc Việt.
Chính vì thế, chúng tơi lựa chọn đề tài: “Đạo Phật Khất Sĩ từ góc nhìn Việt hóa Phật giáo”
để nghiên cứu làm luận văn Thạc sĩ ngành Việt Nam học.
2. ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tƣợng nghiên cứu
Luận văn này nhằm tìm hiểu Đạo Phật Khất Sĩ, một hệ phái Phật giáo chỉ riêng ở Việt
Nam mới có.
Từ đó, nghiên cứu sâu về hệ phái này, để thấy bản sắc văn hóa Việt, tức là vấn đề Việt
hóa của Hệ phái qua 2 phương diện về giáo lý và nghi lễ cùng cách thức thể hiện thờ tự nơi
không gian thiêng liêng.
Phạm vi nghiên cứu
Tìm hiểu bối cảnh xã hội Nam Bộ khi Hệ phái Đạo Phật Khất Sĩ ra đời, tìm hiểu quá
trình hình thành và phát triển của Hệ phái Đạo Phật Khất Sĩ, từ đó chỉ ra vấn đề Việt hóa của
Hệ phái này nằm trong lòng Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
3. PHƢƠNG PHÁP VÀ LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU
Để thực hiện luận văn này, người nghiên cứu sử dụng các lý thuyết sau:
-
Lý thuyết chức năng
Trong quan điểm trường phái chức năng, có 2 nhóm chính đó là: chức năng về tâm lý
(quan điểm của B. Malinowski) và chức năng xã hội (quan điểm của Emile Durkheim và
Radcliff - Brown).
2
Lý thuyết chức năng tâm lý của Malinowski, chú trọng đến chức năng tâm sinh lý của
nghi lễ và phong tục. Theo Malinowski thì mơi trường càng bất trắc, nguy hiểm, rủi ro, cuộc
sống khơng an ổn thì con người cần đến những nghi lễ để trấn an tinh thần của họ.
Lý thuyết chức năng xã hội (Radcliff - Brown): Khác với Malinowski, ông không nhấn
mạnh vào tâm lý cá nhân mà nhấn mạnh vào nhóm xã hội. Ơng quan tâm đến cách mà các thể
chế, gồm cả tôn giáo, thể hiện một bức tranh xã hội có tổ chức. Cuộc sống của người Việt tại
Nam Bộ vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX xảy ra loạn lạc, đau khổ, con người có xu hướng
dựa vào niềm tin từ tơn giáo để được bình an. Chính những điều bất trắc, nguy hiểm đang
diễn ra tại Nam Bộ đã đe dọa cuộc sống của người dân. Vì vậy, chúng tôi dựa vào trường
phái chức năng để nghiên cứu trong luận văn.
Lý thuyết giao lƣu và tiếp biến văn hóa
Đây là cơ sở của những nền văn hóa “Gặp nhau” và “Tiếp nhận” những giá trị văn hóa
khác. Sự tiếp nhận này làm nền tảng cho việc hình thành một nền tư tưởng, văn hóa mới. Tác
giả vận dụng lý thuyết vùng văn hóa và chủ yếu chọn khơng gian vùng văn hóa Nam Bộ để
khảo sát. Nam Bộ có quá trình lịch sử phát triển và những điều kiện tự nhiên riêng, có q
trình cộng cư của nhiều dân tộc khác nhau t ạo nên nét đặc trưng giao lưu về văn hóa. Bối
cảnh lịch sử Nam Bộ vào giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX có nhiều biến động như
chiến tranh, đói kém… dẫn đến người dân mất niềm tin, lúc đó các tơn giáo bản địa đã ra đời
tại Nam Bộ, một trong những Hệ phái Phật giáo đã ra đời là Đạo Phật Khất Sĩ. Dựa vào lý
thuyết này, người nghiên cứu nhận biết những yếu tố văn hóa truyền thống, giá trị tư tưởng
Phật giáo Bắc truyền và Nam truyền và những biểu hiện giao lưu văn hóa với người Việt
trong khơng gian văn hóa Nam Bộ.
Hƣớng tiếp cận nghiên cứu liên ngành (Interdisciplinary research)
Đây là sự kết hợp nhiều ngành khoa học xã hội để qua các lý thuyết và phương pháp của
những ngành đó làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu của đề tài. Trong hướng tiếp cận này chúng
tôi xác định, ngành Việt Nam học là ngành chính và các ngành bổ trợ là dân tộc học, nhân
học, văn hóa học, tơn giáo học.
Để giải quyết đề tài, chúng tôi sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau đây:
Phƣơng pháp quan sát - tham gia (Participant and observation)
Khi nghiên cứu đề tài này, chúng tôi nhiều lần quan sát và tham dự thời khóa tu tập tại
các Tịnh xá của Hệ phái Khất sĩ. Bên cạnh đó, chúng tơi kết hợp với việc quan sát, ghi chép
3
để ghi nhận những thông tin liên quan đến đề tài và xử lý các thơng tin đó để phục vụ cho nội
dung của luận văn.
Phƣơng pháp phỏng vấn sâu (In- depth interviewing)
Người nghiên cứu tổ chức phỏng vấn các thơng tín viên với những câu hỏi đã được
chuẩn bị sẵn. Những câu hỏi liên quan đến vấn đề nghiên cứu để thu thập những thông tin
liên quan đến đề tài. Từ đó, người nghiên cứu đưa ra những nhận định, đánh giá chính xác và
đảm bảo tính khoa học hơn.
Phƣơng pháp so sánh đối chiếu
Đây là phương pháp được thực hiện trong quá trình điền dã nhằm so sánh các mặt từ hệ
thống giáo lý, nghi lễ đến kiến trúc xây dựng cơ sở thờ tự của Hệ phái Khất Sĩ với Phật giáo
Bắc Truyền và Nam Truyền. Chúng tôi dựa trên kết quả nghiên cứu để chứng minh Hệ Phái
Khất Sĩ mang đậm văn hóa của người Việt.
4. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Đề tài “Đạo Phật Khất Sĩ từ góc nhìn Việt hóa Phật giáo”, từ trước đến nay được
nhiều học giả, giới nghiên cứu quan tâm ở nhiều khía cạnh khác nhau. Chỉ riêng vấn đề “Đạo
Phật Khất Sĩ” cũng nhận được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước.
Ngoài ra, vấn đề “Việt hóa Phật giáo” cũng có nhiều cơng trình nghiên cứu, chỉ ra bản sắc
văn hóa Việt trong tư tưởng Phật giáo ở Việt Nam. Vì vậy, với đề tài này, chúng tơi kế thừa
những thành tựu đã có trước đó, vận dụng hệ thống giáo lý của Đạo Phật Khất Sĩ trên 2
phương diện là tư tưởng giáo lý cơ bản, cách thức thờ tự không gian thiêng liêng và nghi lễ
hành trì để làm rõ hơn vấn đề Việt hóa của Đạo Phật Khất Sĩ.
Trong 10 năm thuyết pháp, Đức Tổ Sư tùy vào căn cơ và trình độ tiếp nhận của tín đồ
mà dùng nhiều phương tiện hướng dẫn khác nhau, những lời dạy của Ngài được kết tập thành
bộ Chơn Lý (Tổ sư Minh Đăng Quang, 2009). Bộ Chơn Lý gồm 60 bài giảng (ban đầu gồm
69 bài giảng, nhưng sau đó Hệ phái tách riêng ra bộ Chơn Lý gồm 60 bài và Luật nghi Khất sĩ
gồm 9 bài) bao hàm cả giáo lý Kinh – Luật – Luận được Ngài luận giải hết sức rõ ràng, dễ
hiểu, rất phù hợp với tâm lý của người dân Nam bộ. Tập Luật nghi Khất Sĩ được Đức Tổ Sư
dành riêng cho giới xuất gia, bao gồm 9 phần tóm tắt những điểm chính yếu về Giới luật, Đức
Tổ Sư nỗ lực Việt hóa, sử dụng ngôn từ dễ hiểu, rõ ràng để làm chỗ dựa cho hàng xuất gia tu
tập, hành trì nhằm đạt đến giác ngộ, giải thoát.
4
Tác giả Hàn Ôn (2001) biên soạn tác phẩm Minh Đăng Quang pháp giáo được xuất bản
lần đầu vào năm 1961 do nhà in Long Giang – Sài Gòn. Tác phẩm tóm tắt q trình hình
thành Đạo Phật Khất Sĩ qua 6 phần chính và 1 phần phụ. Tác giả tóm tắt tiểu sử của Đức Tổ
Sư Minh Đăng Quang, từ nhỏ đến khi thành đạo, sau đó là quá trình thành lập Tăng đồn
cũng như đến khi Đức Tổ Sư vắng bóng. Ngồi ra, tác phẩm cũng phân tích những nét nổi
bật, tinh hoa trong giáo lý Đạo Phật Khất Sĩ.
Tác giả Giác Toàn (1999) biên soạn tác phẩm Ánh minh quang, NXB Tổng hợp Thành
phố Hồ Chí Minh xuất bản. Tác giả trình bày những bài thi kệ của Đức Tổ Sư để lại, cũng
như trích dẫn một số bài trong Chơn Lý nói về phương pháp hành trì cho người đọc dễ hiểu
mà thực hành. Tác phẩm còn ghi lại một số bài thơ, kệ để cảm kích Tổ Sư trong lễ tưởng
niệm về Đức Tổ Sư.
Tác giả Thích Giác Trí (2001) với khóa luận Cử nhân Phật học, đề tài Sự hình thành và
phát triển của Hệ phái Khất Sĩ tại Học viện Phật giáo Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh
Khóa IV. Tác giả nêu lên sự hình thành và phát triển của Đạo Phật Khất sĩ qua 3 giai đoạn:
giai đoạn 1 từ 1944 - 1954, giai đoạn 2 từ 1954 – 1975 và giai đoạn 3 từ 1975 – 2000. Trong
khóa luận tác giả nêu ra một số hoạt động, thành tựu của Đạo Phật Khất sĩ như: hoằng pháp,
giáo lý, nghi lễ, kiến trúc… và chỉ ra những nét riêng biệt của Đạo Phật Khất sĩ. Tuy nhiên,
nội dung khóa luận là q trình hình thành và phát triển, do đó, tác giả tập trung phân tích vấn
đề các giai đoạn phát triển, nêu sơ lược về một số điểm chính trong nghi lễ và kiến trúc.
Năm 2002, Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức Hội thảo khoa học 300
năm Phật giáo Gia Định – Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh được NXB Thành phố Hồ Chí
Minh xuất bản. Hội thảo thu hút nhiều nhà nghiên cứu quan tâm về Đạo Phật Khất Sĩ. Trong
hội thảo nêu lên lịch sử hình thành và quá trình phát triển của Đạo Phật Khất sĩ: “Về mặt tổ
chức, Tăng sĩ hệ phái được tu học dưới sự hướng dẫn của Sư trưởng Minh Đăng Quang. Đến
ngày 1 tháng 2 năm Giáp Ngọ (1954), Sư trưởng bị ngoại đạo bắt và vắng bóng đến nay”
(trang 125). Vấn đề Việt hóa của Hệ phái Khất sĩ cũng được một số nhà nghiên cứu khái
qt, tóm tắt sơ lược những điểm chính yếu.
Tác giả Thích Hạnh Thành (2007) với cơng trình nghiên cứu Tìm hiểu Phật giáo Khất Sĩ
ở Nam Bộ Việt Nam (trong thế kỷ XX), được NXB Tổng hợp TP HCM xuất bản. Trong tác
phẩm này, tác giả nêu lên quá trình hình thành, tổ chức và phát triển của Đạo Phật Khất Sĩ.
Ngồi ra, tác giả cịn đề cập đến bối cảnh xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XIX đến nửa đầu thế
5
kỷ XX, đặc điểm Phật giáo ở Nam Bộ trước thời kỳ Đạo Phật Khất Sĩ ra đời. Như vậy, ta
thấy được hoàn cảnh xã hội và lịch sử giai đoạn trước khi Đạo Phật Khất Sĩ hình thành, tầm
ảnh hưởng của Đạo Phật Khất Sĩ đối với quần chúng nhân dân.
Trong luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Thị Thêm (2013) với đề tài Tính dung hợp của Phật
giáo người Việt ở Nam bộ, chuyên ngành Văn hóa học, bảo vệ tại Trường Đại học Khoa học
xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn đề cập đến sự dung hợp của Đạo Phật
Khất Sĩ Việt Nam trong vấn đề trang phục và lễ nghi. Tác giả cho rằng: “Điều này thể hiện sự
linh hoạt, đồng thời cũng là đặc trưng dung hợp riêng có của Phật giáo Nam bộ, từ dung hợp
trong hệ phái đến dung hợp với văn hóa dân tộc” (trang 88). Luận văn đi sâu vào phân tích
tính dung hợp trong văn hóa nhận thức, tổ chức và ứng xử của Phật giáo người Việt ở Nam
bộ.
Thích Giác Duyên (2014) biên soạn tác phẩm Tìm hiểu về Hệ phái Khất Sĩ, được NXB
Tơn giáo xuất bản. Tác giả tổng hợp nhiều nguồn tài liệu, một số văn bản hệ phái và Tăng
đoàn về lịch sử hình thành, phát triển của Đạo Phật Khất Sĩ. Tác phẩm mơ tả chân thực tồn
bộ q trình từ lúc Tổ Sư tầm sư học đạo đến khi Ngài thành lập Giáo đồn. Tác phẩm phân
tích tư tưởng chủ đạo của Bộ Chơn Lý cùng một số nét đặc trưng khác của Đạo Phật Khất Sĩ.
Phần cuối tác giả đề cập đến những hoạt động của Giáo đoàn từ khi Đức Tổ Sư vắng bóng.
Với mục đích phân tích q trình hình thành Hệ phái Khất sĩ là chính, do đó, tác giả chưa làm
rõ tính dung hợp của Hệ phái, mặc dù v ấn đề này được tác giả nhắc đến.
Thích Giác Nhường (2015) với tác phẩm Khất Sĩ Phật Việt được NXB Tổng hợp TP Hồ
Chí Minh xuất bản. Đây là tác phẩm tổng hợp một số bài viết của tác giả trong Hội Phật học
Vườn Tâm được thành lập năm 2005. Tác phẩm gồm 11 bài, viết về nhiều chủ đề khác nhau,
chẳng hạn như tư tưởng, văn hóa hay tưởng niệm về Đức Tổ sư. Tác phẩm với nhiều góc
nhìn khác nhau về Hệ phái Khất sĩ, nhưng nội dung chưa mô tả được ý nghĩa dung hợp 2
dòng truyền thừa của Đức Tổ sư. Mặc dù, tác phẩm không đi sâu vào phân tích tính dung
hịa, nhưng rải rác nội dung trong các chương mục, thể hiện tính Việt hóa và dung hợp của
Hệ phái Khất sĩ.
Trong năm 2016, Hội thảo về Đạo Phật Khất Sĩ được tổ chức ở Pháp viện Minh Đăng
Quang với chủ đề Hệ phái Khất Sĩ, Quá trình hình thành, phát triển và hội nhập, nhiều nhà
nghiên cứu dành những tham luận khác nhau về Hệ phái Khất Sĩ. Chẳng hạn như tác giả
Nguyễn Công Lý nghiên cứu về “Sức hấp dẫn của Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam”, tác giả đề
6
cập đến 6 điểm cho thấy Đạo Phật Khất Sĩ là một sáng tạo độc đáo của Việt Nam, xuất phát
từ Việt Nam và chỉ riêng Việt Nam mới có:
Một là, hình ảnh của đồn Du Tăng khất thực hóa dun, sống đời phạm hạnh. Hai
là, tơn chỉ và chí nguyện của Hệ phái. Ba là, về phương pháp tu tập. Bốn là tên gọi và
trú xứ. Năm là kiến trúc Chánh điện và Bảo tháp nơi tịnh xá. Sáu là nghi thức hành lễ,
kinh văn đọc tụng. (Thích Trí Quảng, Thích Giác Tồn, Nguyễn Quốc Tuấn, 2016, trang
286).
Trong hội thảo, các nhà nghiên cứu phân tích tính dung hợp và Việt hóa của Hệ phái
dưới nhiều phương diện khác nhau. Chúng tôi, so sánh, đối chiếu kết quả của một số nghiên
cứu trong tác phẩm này, từ đó tổng hợp, phân tích và đưa ra nhận định.
Luận văn Thạc sĩ của Bùi Trần Ca Dao (2014) với đề tài Pháp môn khất thực của Hệ
phái Khất sĩ tại Nam Bộ trong bối cảnh xã hội đương đại, bảo vệ tại Trường Đại học Khoa
học xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh. Tác giả trình bày bối cảnh ra đời và quá
trình hình thành Đạo Phật Khất Sĩ, dựa vào pháp môn Khất thực truyền thống, tác giả nêu bật
lên ý nghĩa của pháp môn này đối với Tăng đoàn thời hiện đại. Điểm sáng trong luận văn, đó
chính là làm nổi bật hình ảnh Tăng đồn thời Đức Tổ sư cịn tại thế: “Hình ảnh chư Tăng khất
thực gợi nhắc đến hình ảnh khất thực trì bình” (trang 118).
Luận văn Thạc sĩ của Trần Khánh Hưng (2015) với đề tài Tổ chức Phật giáo Hệ phái
Khất Sĩ qua góc nhìn diễn ngơn và quyền lực (Trường hợp Tu Sĩ và Phật Tử của Tịnh Xá
Ngọc Vân, Tỉnh Trà Vinh bảo vệ tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành
phố Hồ Chí Minh. Luận văn đi sâu phân tích q trình hình thành Đạo Phật Khất Sĩ và bối
cảnh lịch sử Nam bộ thời bấy giờ. Ngồi ra, luận văn cũng phân tích bài Kinh Sáu Sáu để
xem xét quá trình tu tập của Tăng đồn và Phật tử. Tác giả cũng có những nhận định, đánh
giá rất xác thực về cách thức tổ chức của Hệ phái Khất sĩ.
Năm 2016, Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam cùng với Trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức Hội thảo Giáo hội Phật giáo Việt Nam –
35 năm hình thành và phát triển. Nhà nghiên cứu Nguyễn Quốc Tuấn ở bài viết “Lịch sử và
đặc điểm của Hệ phái Khất Sĩ Việt Nam” có nhận xét:
Tư tưởng của toàn bộ các bài giảng là sự dung hòa của 2 trường phái Phật giáo
Nguyên thủy (Nam truyền) và Phật giáo Đại thừa (Bắc truyền). Tổ sư Minh Đăng
7
Quang đã phối hợp được tinh hoa 2 trường phái đó theo tơn chỉ “Việt Nam Đạo Phật
khơng phân thừa”. (Thích Nhật Từ - Nguyễn Cơng Lý, 2016, trang 320).
Mặc dù hội thảo nghiên cứu nhiều vấn đề khác nhau của Giáo hội, tuy nhiên lịch sử hình
thành và phát triển của Hệ phái Khất sĩ cũng đã nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên
cứu. Các nghiên cứu này chủ yếu đề cập đến tình hình phát triển của Hệ phái Khất sĩ sau khi
gia nhập Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Luận văn Thạc sĩ ngành Triết học của Phan Văn Dân (2018) với đề tài Tư tưởng về con
người trong tác phẩm Chơn lý của Minh Đăng Quang bảo vệ tại Trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn thể hiện nội dung, đặc điểm và giá trị
về tư tưởng của con người trong tác phẩm Chơn lý của Đức Tổ sư. Với cách nhìn từ quan
điểm về giải thoát và đạo đức trong tác phẩm, tác giả cho thấy tư tưởng mang tính thuần Việt
của Hệ phái Khất sĩ. Điểm nổi bật trong luận văn đó là phân tính được giá trị đạo đức trong
nội dung tác phẩm Chơn lý, thêm vào đó là mối liên hệ giữa tư tưởng con người trong tác
phẩm với tư tưởng con người trong đời sống hiện tại.
Tác giả Trần Hồng Liên (2019) với cơng trình Góp phần tìm hiểu Phật giáo Nam Bộ,
được NXB Văn hóa dân tộc xuất bản. Tác phẩm bao gồm nhiều bài viết của tác giả được
công bố trong một số sách, tạp chí, kỷ yếu hội thảo… Tác giả hệ thống những chủ đề khá
quan trọng đối với Phật giáo Việt Nam đặc biệt là Phật giáo Nam bộ. Với quan điểm nhìn bao
quát từ những vấn đề như lịch sử hình thành, phát triển của Phật giáo Nam bộ, cho đến những
dòng truyền thừa, hệ phái, chi phái khác nhau cũng được tác giả phân tích rất khách quan,
thực tế. Đặc biệt, tác giả đề cập, phân tích con đường du nhập của Phật giáo vào vùng đất
Nam bộ, đây là một trong những điểm mới được nhiều nhà nghiên cứu sau này kế thừa.
Sa mơn Giác Tồn (2020) diễn kệ Bộ Chơn Lý của Đức Tổ sư thành thơ 5 chữ, trong 69
đề tài được Đức Tổ sư giảng dạy, tác giả giữ nguyên 9 đề tài thuộc về Luật, còn lại 60 đề tài
chuyển thành 5 tập thơ với tựa sách Chơn lý - Thiền quang vi diệu, được nhà xuất bản Tổng
hợp Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản. Điểm nổi bật của tác phẩm chính là tóm tắt những nội
dung trong bộ Chơn lý thành thơ, thể hiện tinh thần Việt hóa của Hệ phái, với lối văn vần dễ
nhớ, tạo cảm giác hứng thú khi đọc. Không những thế, nội dung chính Đức Tổ sư từng giảng
dạy đều được tác giả giữ lại, được tô đậm và in nghiêng làm nổi bật lên ý nghĩa sâu xa của
từng đề tài.
8
Nhìn chung, đến nay đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về lịch sử, quá trình hình thành
và phát triển của Đạo Phật Khất Sĩ. Mặc dù các nhà nghiên cứu đánh giá theo nhiều góc độ
khác nhau, nhưng vấn đề Việt hóa của Đạo Phật Khất Sĩ dường như chưa nhận được nhiều sự
quan tâm. Cho dù vấn đề Việt hóa của Phật giáo khơng phải là một vấn đề mới, vấn đề này
cũng nhận được nhiều cơng trình nghiên cứu khác nhau, đặc biệt là những cơng trình nghiên
cứu về Phật giáo thời Lý – Trần. Tuy nhiên, đối với vấn đề Việt hóa của Hệ phái Khất sĩ,
nhiều cơng trình nghiên cứu chỉ dừng lại ở mức độ phân tích tổng quát, sơ lược, chưa phân
tích sâu vào lý do Việt hóa, những điểm được Việt hóa. Do đó, chúng tơi một mặt thừa kế
những nghiên cứu trước, đồng thời cũng phải tự nghiên cứu điền dã, tìm hiểu, quan sát,
phỏng vấn để có thêm nguồn tài liệu mới nhằm phân tích rõ ràng và chính xác hơn về vấn đề
Việt hóa của Phật giáo Việt Nam đặc biệt là Hệ phái Khất Sĩ.
5. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
Về mặt ý nghĩa, có thể thấy luận văn đi sâu vào tìm hiểu – phân tích Đạo Phật Khất Sĩ với
vấn đề Việt hóa của Phật giáo.
Đây là hệ phái Phật giáo thuần túy của Việt Nam, với sự kết hợp 2 dòng truyền thừa Nam
truyền và Bắc truyền, nhưng vẫn giữ được bản chất giác ngộ - giải thoát của Đạo Phật
Nguyên Thủy.
6. ĐĨNG GĨP CỦA LUẬN VĂN
Góp phần làm phong phú thêm hệ thống giáo lý, tư tưởng về tôn giáo đặc biệt là Phật giáo
Việt Nam.
Phân tích, làm rõ tính dung hợp và vấn đề Việt hóa của Phật giáo nói chung và Hệ phái
Khất Sĩ nói riêng.
Luận văn lý giải những điểm nổi bật, thành tựu trong quá trình truyền bá giáo lý Phật giáo
đến đời sống quần chúng nhân dân.
Những nhận định, phân tích trong luận văn có thể sử dụng làm nền tảng kiến thức cơ sở
cho những nghiên cứu về tôn giáo, Phật giáo tại Việt Nam.
7. GIỚI THIỆU CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, trọng tâm của luận văn bao gồm 3
chương chính như sau:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và tổng quan về Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam
Chƣơng 2: Vấn đề Việt hóa Phật giáo của Đạo Phật Khất Sĩ nhìn từ tƣ tƣởng giáo lý
9
Chƣơng 3: Vấn đề Việt hóa Phật giáo của Đạo Phật Khất Sĩ nhìn từ nghi lễ và cách
thức thờ tự
Với kết cấu như trên, chương 1 là chương cơ bản với 3 vấn đề chính: vấn đề thứ 1:
luận văn tìm hiểu bối cảnh xã hội Tây Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX, vấn đề thứ 2 là tiểu sử
Đức Tổ Sư Minh Đăng Quang và vấn đề thứ 3 là quá trình truyền thừa - phát triển của Đạo
Phật Khất Sĩ.
Chương 2 và chương 3 là 2 chương trọng tâm của luận văn, cả 2 chương đều nghiên
cứu vấn đề Việt hóa Phật giáo của Đạo Phật Khất Sĩ trên 2 phương diện là nội dung tư tưởng
giáo lý và cách thức thờ tự.
10
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ ĐẠO
PHẬT KHẤT SĨ VIỆT NAM
1.1 Quá trình du nhập, phát triển Phật giáo ở Việt Nam
Trước khi phân tích quá trình du nhập của Phật giáo vào Việt Nam, chúng tơi cho rằng
cần phải phân tích tính Việt hóa của Phật giáo. Mặc dù, đây không phải là một khái niệm quá
mới, tuy nhiên để hiểu sâu về vấn đề này, chúng ta cần phải đi từ khái niệm Việt hóa cho đến
ý nghĩa của nó. Thứ nhất đối với khái niệm Việt hóa chúng tơi cho rằng đây là một yếu tố
quan trọng khi người Việt tiếp xúc với một nền tơn giáo mới. Có thể nói rằng Phật giáo
không phải là một tôn giáo bản địa của người Việt, tuy nhiên, vì thời gian du nhập vào Việt
Nam trải qua thời gian quá lâu dài, dẫn đến chúng ta đều xem đây như là một tôn giáo của
người Việt. Tuy nhiên, ngay từ lúc du nhập vào vùng đất mới, cũng có những thay đổi cho
phù hợp với quần chúng nhân dân. Chúng tôi cho rằng, sự thay đổi để phù hợp với hệ tín
ngưỡng, phong tục, tơn giáo của người Việt đó là vấn đề Việt hóa. Như vậy, điều đầu tiên để
chúng ta thấy rằng Việt hóa cần thiết để xây dựng, hình thành nên nền tảng ban đầu của tôn
giáo ở vùng đất mới. Thứ hai, ý nghĩa của vấn đề Việt hóa, chúng ta thấy rằng, để tơn giáo,
tín ngưỡng phát triển tại vùng đất mới thì cần phải có những thay đổi cho phù hợp với điều
kiện tại vùng đất đó, do vậy, yếu tố quan trọng là thay đổi để phù hợp.
Theo dịng lịch sử, khi một tơn giáo, tín ngưỡng ra đời đều chịu ảnh hưởng các điều kiện
địa lý, chính trị xã hội của đất nước hay khu vực đó. Vào thế kỷ thứ VI TCN, đây là một giai
đoạn có nhiều ý nghĩa đối với Ấn Độ và nhiều nước khác trên thế giới, thời điểm xuất hiện
nhiều tôn giáo, tư tưởng mới. Chẳng hạn Hy Lạp có Thales, Pythagoras … Trung Hoa có Lão
Tử, Khổng Tử … Tại Ấn Độ, Shakyamuni một bậc vĩ nhân sáng lập Phật giáo cũng xuất hiện
vào thời điểm lúc bấy giờ. Nhận định về xã hội Ấn Độ vào thời kỳ Phật giáo được thành lập,
tác giả Viên Trí (2005) trong tác phẩm Ấn Độ Phật giáo sử luận cho rằng: “Có thể nói rằng,
vào thời điểm này, tri thức nhân loại đã đạt đến một cấp độ rất cao khiến các hệ tư tưởng
thượng tầng trước đó khơng cịn khả năng kham lãnh vị trí hướng đạo” (trang 31). Như vậy,
từ nhận định về sự ra đời của Phật giáo cho thấy xã hội, chính trị Ấn Độ có những bước thay
đổi lớn, tạo điều kiện hình thành hệ tơn giáo, tín ngưỡng mới.
Khi nhắc đến Ấn Độ, chúng ta có thể cảm nhận vùng đất này được hình thành rất sớm và
là một trong những cái nôi của nền văn hóa phương Đơng. Với điều kiện thiên nhiên đầy
11
huyền bí, linh thiêng nhất là dãy núi Himalaya (Xứ Tuyết) ở phía Bắc và Đơng Bắc đất nước
càng tơ đậm thêm nét bí ẩn, nơi đây có nhiều sơng, Indus, Ganges (sông Hằng) …, các dãy
núi bao quanh như Himalaya, dãy núi cổ Aravalli…, phía tây có hoang mạc Thar, tạo cho Ấn
Độ có những vùng khí hậu rất khác biệt. Chẳng hạn vùng Punjab tiếp nhận phù sa từ những
con sông lớn, tạo nên vùng đất màu mỡ, tươi tốt. Trong khi đó phía Nam chịu ảnh hưởng của
vùng khí hậu nóng, khơ cằn. Như vậy, đánh giá một cách khái qt thì Ấn Độ có điều kiện tự
nhiên đa dạng và khắc nghiệt. Chính điều kiện tự nhiên như vậy, tạo sự đa dạng trong tín
ngưỡng, tơn giáo.
Ngồi vị trí địa lý, chúng ta có thể thấy chính trị và xã hội cũng ảnh hưởng lớn đến tư
tưởng của con người. Đến đầu thế kỷ thứ VI TCN, Ấn Độ hình thành nhiều tiểu quốc và về
cơ bản xã hội chia thành 4 giai cấp chính:
- Bà la môn (Brahmana), những người đứng đầu đất nước, thực hiện nghi lễ, cúng t ế.
- Sát đế lợi (Kshastriya), những bậc vua chúa, giáo sĩ, nắm quyền hành đất nước.
- Vệ xá (Vaisya), những người buôn bán, trồng trọt, thực hiện nhiệm vụ kinh tế.
- Thủ đà la (Sudra), những người nô lệ, là tầng lớp thấp nhất trong xã hội.
Như trên là 4 giai cấp chính, cịn một số giai cấp khác, thấp kém trong xã hội Ấn Độ. Một
điều quan trọng trong tư tưởng con người Ấn Độ chính là tính giai cấp, chẳng hạn người ở
giai cấp nào thì khi họ mới ra đời và đến khi chết đi đều phải mang thân phận của giai cấp đó,
khơng thay đổi. Chính việc phân chia giai cấp, đưa đến những mâu thuẫn gay gắt trong xã
hội, hình thành những tôn giáo mới và đây cũng là một trong những ngun nhân hình thành
Phật giáo.
Ngồi ra, Will đưa thêm lý do để Phật giáo được hình thành đó là: “Có lẽ chính sự hưng
thịnh của Ấn Độ đã tạo ra thuyết hưởng lạc và thuyết duy vật xuất hiện ở thế kỷ thứ sáu và
thứ bảy trước C.N” (Will Durant, 2014, trang 505). Như vậy, chính sự hưng thịnh kinh tế của
giai cấp cao đưa đến sự hưởng thụ dục lạc và cũng chính điều này làm giảm đi yếu tố thiêng
liêng của các tơn giáo đã có trong xã hội. Những tôn giáo hiện tại không đủ để đáp ứng nhu
cầu tâm linh của con người, buộc họ phải hướng đến cái mới, tìm một tơn giáo mới để đáp
ứng nhu cầu cá nhân.
Những yếu tố về tự nhiên, xã hội và chính trị Ấn Độ lúc bấy giờ là một trong những
nguyên nhân dẫn đến sự ra đời Phật giáo. Thái tử Tất đạt đa (Siddhartha) sau khi rời hoàng
12
cung, tu tập giác ngộ, lấy hiệu Đức Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni) và thành lập Tăng đoàn
Phật giáo. Như vậy, Đức Thích Ca Mâu Ni thành lập Tăng đồn Phật giáo vào khoảng thế kỷ
VI TCN tại kinh thành Ca tỳ la vệ (Kapilavatthu) phía Bắc Ấn Độ. Từ khi thành lập Tăng
đoàn cho đến ngày Đức Phật nhập Niết bàn vẫn chưa có sự phân chia bộ phái. Tuy nhiên, sau
khi Đức Phật nhập Niết bàn, Tăng đoàn Phật giáo đã có sự phân phái.
Sự phân chia bộ phái xuất hiện rõ nhất là sau kỳ kết tập kinh điển lần thứ 2, Tăng đoàn
chia thành 2 bộ phái là Thượng Tọa Bộ (Theravāda) và Đại Chúng Bộ (Mahāsaṅghika).
Thánh Nghiêm (2013) khi nghiên cứu về Lịch sử Phật giáo Ấn Độ cho rằng: “Truyền thuyết
rằng có sự kết tập riêng của đại chúng thuộc hệ phía Đơng. Cũng từ đó tách khỏi phái
Thượng tọa và trở thành hai phái” (trang 119). Sự khác biệt giữa Thượng Tọa Bộ và Đại
Chúng Bộ chủ yếu là sự khác biệt trong giáo lý và giới luật. Chúng ta có thể thấy Thượng Tọa
Bộ chủ yếu là những vị với tính bảo thủ, không chấp nhận bất kỳ một sự thay đổi nào trong
giáo lý và giới luật. Sau này, Thượng Tọa Bộ truyền bá ra các nước ở phía Nam và Đông Ấn
Độ, như Sri Lanka, Thái Lan, Miến Điện, Việt Nam…. Trong khi đó, Đại Chúng Bộ là những
vị tiếp thu những điều mới của xã hội và thay đổi một vài điều trong giáo lý và giới luật để
phù hợp với thời đại. Đại Chúng Bộ được truyền xuống các nước phía Bắc Ấn Độ, như Trung
Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam….
Sau khi Tăng đoàn Phật giáo chia thành 2 bộ phái thì tiếp tục có sự chia tách trong từng
bộ phái. Từ đó, chúng ta có thể thấy rằng sự phân chia bộ phái trong Tăng đoàn Phật giáo là
một bước tiến theo chiều dài lịch sử, từ chỗ chưa hoàn thiện sang mức hoàn thiện hơn và
cũng tạo ra hệ thống giáo lý phong phú cả về tư tưởng lẫn phương pháp tu tập. Chính vì thế,
mặc dù có sự phân chia bộ phái nhưng cốt tủy trong giáo lý Phật giáo vẫn được các Bộ phái
lưu truyền về sau.
Đến thời vua Asoka, vị đại đế mang ánh sáng Phật giáo truyền bá ra nhiều nước trên thế
giới thơng qua các phái đồn truyền giáo. Trong những phái đồn truyền giáo đó thì có 1 phái
đồn do Uttara và Sona hướng dẫn đến vùng “Đất vàng” (Suvarnabhumi). Tác giả Trần Trúc
Lâm (2006) khi nghiên cứu về Những hộ pháp vương của Phật giáo trong lịch sử Ấn Độ cho
rằng chính phái đồn này góp phần truyền bá Phật giáo vào Việt Nam:
Đoàn thứ tám do hai đại Tỳ kheo Sona và Uttara hướng dẫn đi hoằng pháp ở xứ
Suvarnabhumi, nay là Miến Điện, Thái Lan, Campuchia và có thể đã đến xứ Phù Nam
(Funan), ở châu thổ sông Cửu Long Việt Nam ngày nay. (trang 49).
13
Cùng với tài liệu trong Đảo sử Tích Lan (Dīpavaṃsa) nhiều nhà nghiên cứu cho rằng
Phật giáo có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, có thể trong thời Đại đế Asoka đã đưa Phật giáo
sang Việt Nam.
Trong các công trình nghiên cứu về quá trình du nhập Phật giáo vào Việt Nam, đều đề
cập đến 2 vấn đề; con đường và thời gian truyền giáo. Khoảng những năm 60-70 thế kỷ XX
trở lại đây, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Phật giáo được truyền bằng con đường biển từ
phương Nam và truyền trực tiếp vào Việt Nam trước hơn cả Trung Hoa.
Một số tác giả khác như Mật Thể (2004), Lê Mạnh Thát (2003), Nguyễn Lang (2012),
cũng đồng ý với Trần Văn Giáp về quá trình Phật giáo được truyền vào Việt Nam bằng con
đường biển và sau đó truyền sang Trung Hoa. Tác giả Nguyễn Lang (2012) cho rằng:
Trung tâm Luy Lâu được thành lập sớm nhất, và trung tâm này đã làm bàn đạp cho
sự thành lập các trung tâm Bành Thành và Lạc Dương ở Trung Hoa…Trung tâm Luy
Lâu được hình thành do sự viếng thăm của những Tăng sĩ Ấn Độ. Các Tăng sĩ này tới
Việt Nam bằng đường biển, theo các thuyền buôn người Ấn. (trang 16)
Theo chứng minh của tác giả Nguyễn Lang, sau khi Phật giáo truyền vào Việt Nam,
trung tâm Luy Lâu thành lập thể hiện sự phát triển rực rỡ của Phật giáo tại Giao Châu thời
bấy giờ. Không những Phật giáo phát triển mạnh mẽ trong khu vực mà còn truyền sang
những khu vực xung quanh và nhất là truyền sang Trung Hoa. Sau đó, Trung Hoa cũng hình
thành 2 trung tâm lớn là Bành Thành và Lạc Dương. Tuy nhiên, có thể lúc bấy giờ các Tăng
sĩ khơng phải đến Giao Châu vì mục đích xây dựng trung tâm Phật giáo, vì các Tăng sĩ này
“Theo các thuyền bn”, do đó, rất có thể hình thức ban đầu Phật giáo được truyền vào gần
giống với tín ngưỡng hơn là một tổ chức tôn giáo. Sau thời gian theo các thuyền bn, Phật
giáo hình thành thì lúc bấy giờ mới bắt đầu phát triển thành một tơn giáo có tổ chức, có hệ
thống.
Tác giả Nguyễn Cơng Lý (2002) nhận định về thời gian Phật giáo vào Việt Nam:
Có thể nói, đạo Phật từ Ấn Độ trực tiếp truyền sang Giao Châu bằng đường biển sớm
nhất là vào nửa cuối thế kỷ thứ I TCN và muộn nhất là vào nửa đầu thế kỷ I SCN. Từ
Luy Lâu (Giao Châu), Phật giáo truyền sang Bành Thành, Lạc Dương (Trung Quốc).
(trang 40).
Trong nhận định này, có 3 điểm mà tác giả muốn đề cập. Thứ nhất: con đường truyền bá
Phật giáo vào Việt Nam là con đường biển, hay nói rõ hơn là con đường của Phật giáo Nam
14
truyền được truyền từ Ấn Độ vào Giao Châu. Thứ hai là nhận định về 3 trung tâm Phật giáo
lớn thời bấy giờ, thể hiện Phật giáo từ Giao Châu truyền bá sang Trung Hoa. Thứ ba là thời
gian du nhập Phật giáo vào Việt Nam, trong khoảng thời gian từ cuối thế kỷ I TCN đến nửa
đầu thế kỷ I SCN.
Dựa trên bản đồ, chúng ta có thể thấy, đường bộ từ Ấn Độ và Trung Hoa được thiết lập
rất sớm để giúp ích cho việc giao thương bn bán. Từ đó, Ấn Độ và Trung Hoa có thể giao
thương thông qua 2 con đường vừa đường bộ và đường biển. Tuy nhiên, đường biển lúc bấy
giờ an toàn hơn đường bộ và mãi đến thế kỷ thứ 4 những vị Tăng sĩ Trung Hoa mới có thể đi
đường bộ để sang Ấn Độ. Do đó, chắc hẳn trước đó những vị Tăng sĩ Ấn Độ đi bằng đường
biển để truyền bá Phật giáo. Từ đó, chúng ta có thể tin tưởng rằng, Phật giáo được truyền bá
vào Việt Nam bằng đường biển và được truyền trực tiếp từ những nhà sư Ấn Độ. Sau khi
Phật giáo du nhập vào Việt Nam, hình thành nên trung tâm Phật giáo Luy Lâu, sau đó chính
trung tâm này truyền sang Trung Hoa và hình thành Phật giáo tại Bành Thành và Lạc Dương.
Như vậy, sau thời kỳ Phật giáo du nhập vào Việt Nam, Phật giáo chịu ảnh hưởng chủ yếu
là Thiền tơng và Mật tơng, trong đó phải kể đến những vị thiền sư nổi tiếng như Khương
Tăng Hội, Tỳ ni đa lưu chi…. Từ đầu kỷ nguyên đến thế kỷ X, những dòng thiền nổi tiếng
như Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi (Vinītaruci), Vô Ngôn Thông và Thảo Đường. Trải qua
thời gian dài tiếp xúc với văn hóa Việt Nam, tạo nên một màu sắc Phật giáo Việt Nam,
Nguyễn Công Lý (2002) nhận định rằng: “Thiền tông Việt Nam có sự kết hợp với Mật tơng
và Tịnh độ tông, tạo nên một thiền học mang đậm bản sắc dân tộc” (trang 41). Như vậy, sau
thời gian khoảng 10 thế kỷ, kể từ khi Phật giáo được truyền bá vào Việt Nam, nhiều tơng phái
hình thành và phát triển, được quần chúng nhân dân tiếp nhận. Tuy nhiên, phát triển hơn hết
vẫn là Thiền tông, những tông phái khác cũng có sự phát triển nhưng màu sắc mờ nhạt hơn
Thiền tông.
Với chiến thắng của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng vào năm 981, mở đầu thời kỳ độc
lập, tự chủ đất nước, Phan Huy Lê (2018) đánh giá: “Thực sự là một nhà nước tiêu biểu cho
chủ quyền đất nước” (trang 627). Từ nền móng nhà nước ban đầu, triều đại Lý – Trần phát
huy tinh thần tự chủ, tự cường đất nước lên vị trí cao nhất.
Tác giả Nguyễn Công Lý (1997) nhận định về Thiền phái Trúc Lâm giai đoạn Lý - Trần:
15
Tóm lại, do yêu cầu thời đại, thiền phái Trúc Lâm đã Đại Việt hóa, dân tộc hóa tư
tưởng Thiền tông và sáng tạo một số tư tưởng cụ thể, sắc bén, thích hợp với hồn cảnh
Đại Việt lúc bấy giờ, phần nào đáp ứng được yêu cầu của thời đại xã hội. (trang 52).
Như vậy, sau thời gian Phật giáo du nhập và đi sâu vào lòng người dân Việt, các Thiền
phái dần thay đổi và thích ứng với văn hóa, tín ngưỡng bản địa cộng đồng quần chúng nhân
dân, tạo nên màu sắc đạo Phật dân gian. Màu sắc riêng của Phật giáo Việt Nam bắt đầu được
hình thành, mang những dấu ấn riêng, một mặt kế thừa những tư tưởng Phật giáo Trung Hoa,
mặt khác giao thoa cùng văn hóa, tín ngưỡng người dân Việt mà hình thành nên một Phật
giáo Việt Nam.
Sau thời kỳ phát triển rực rỡ trong cả 2 triều đại Lý – Trần, Phật giáo Việt Nam song
hành cùng với sự thăng trầm đất nước. Bước sang giai đoạn Hậu Lê (từ thế kỷ XV đến đầu
thế kỷ XVI), Phật giáo chuyển sang một màu sắc mới là đạo Phật dân gian. Tuy nhiên, tác giả
Nguyễn Lang (2012) đánh giá rằng giai đoạn này Phật giáo nhường chính trường lại cho Nho
giáo, khơng có nghĩa Phật giáo suy tàn, đánh mất giá tr ị đạo Phật: “Suy đồi ở đây cũng
khơng có nghĩa là mất ảnh hưởng trong quần chúng” (trang 393). Như vậy, trong thời kỳ này,
số lượng Tăng sĩ và các ngôi tự viện vẫn tiếp tục phát triển, mặc dù không lớn mạnh như các
thời kỳ trước. Đến thời điểm này, có thể thấy Phật giáo du nhập vào Việt Nam hơn 15 thế kỷ,
hơn nữa 2 triều đại Lý – Trần vừa mới làm hưng thịnh Phật giáo, thì cho dù đến Hậu Lê có
suy đồi, nhưng chắc chắn sự suy đồi chỉ ở một khía cạnh nào đó trên vũ trường chính trị. Đối
với quần chúng nhân dân, Phật giáo vẫn luôn là một tôn giáo được đa số người dân ủng hộ.
Phật giáo từ những thời kỳ trước phát triển rực rỡ, đến thời kỳ này Phật giáo càng đi sâu
vào đời sống, tâm tư, tình cảm, tín ngưỡng quần chúng nhân dân. Tác giả Nguyễn Khắc
Thuần (1999) cho rằng Phật giáo thời nhà Lê vẫn luôn phát triển trong lòng người dân Việt:
“Phật giáo vẫn đang phát triển, nhưng chỉ phát triển trong lòng xã hội mà thôi” (trang 114).
Từ nhận xét trên, chúng ta thấy rằng trong giai đoạn trước, Phật giáo được xem là quốc giáo,
tuy nhiên đến giai đoạn này Phật giáo lui về phần tự viện, chăm lo đời sống tâm linh. Như
vậy, có một sự chuyển giao giữa Phật giáo và Nho giáo trên vũ trường chính trị, sự chuyển
giao diễn ra một cách nhẹ nhàng, khơng có biểu hiện chiến tranh tôn giáo và đây là một sắc
thái rất đẹp của các tơn giáo ở Việt Nam.
Chúng ta có thể nhận xét Phật giáo xuất hiện từ thế kỷ VI TCN tại Ấn Độ, Đức Thích Ca
Mâu Ni Phật thành lập Tăng đoàn Phật giáo. Đến thế kỷ III TCN, thời kỳ Asoka đại đế, Phật
16
giáo một lần nữa phát triển rực rỡ và truyền bá ra nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới. Việt
Nam trực tiếp chịu ảnh hưởng Phật giáo từ Ấn Độ bằng con đường biển. Từ đó tạo nên Phật
giáo Việt Nam một diện mạo, sắc thái vô cùng đặc biệt.
Xét đến phương diện Phật giáo du nhập vào vùng đất Nam bộ. Theo dòng lịch sử Nam
tiến, Phật giáo tiếp tục đồng hành cùng quần chúng nhân dân chinh phục mảnh đất phương
Nam. Tuy nhiên, đây là vùng đất với nhiều dân tộc, văn hóa, tín ngưỡng khác nhau đang tồn
tại và phát triển. Vì thế, để Phật giáo đi vào lòng nhân dân vùng đất này là một thử thách khá
lớn. Tác giả Hà Văn Tấn (1993) nhận định: “Sau một thời kỳ suy thoái vào thế kỷ XV, Phật
giáo bắt đầu phục hồi vào cuối thế kỷ XVI và phát triển qua các thế kỷ XVII, XVIII” (trang
92).
Đàng Trong được hình thành như một tiến trình lịch sử, sự suy giảm giá trị đạo đức của
Nho giáo, thêm vào đó là sự tín nhiệm các vị Chúa Nguyễn đối với Phật giáo ngay từ buổi
đầu thành lập, vì thế Phật giáo tạo được niềm tin đối với các bậc vua, quan và nhân dân.
Ngay trong tên gọi các vị chúa cũng thể hiện lòng mến mộ Phật giáo, chẳng hạn Nguyễn
Phúc Nguyên (1562 - 1635) còn gọi Chúa Phật hay Chúa Sãi…. Sau khi Chúa Nguyễn Hoàng
vào Thuận Hóa (Thừa Thiên Huế ngày nay), nhìn thấy địa thế núi sông linh thiêng nên Chúa
xây chùa Thiên Mụ.
Khi nghiên cứu vấn đề du nhập Phật giáo vào Nam bộ, tác giả Nguyễn Hiền Đức (1995)
cho rằng: “Dân Việt tiến đến đâu thì Phật giáo xuất hiện theo đó, nơi đâu có dân Việt thì có
đình, chùa, đền, miếu, có Tăng sĩ hoằng dương Phật pháp” (trang 5). Từ nhận định này, Phật
giáo cùng với bước chân Nam tiến của Chúa Nguyễn, các dòng thiền phái Đại Việt lúc bấy
giờ trở thành chỗ dựa tinh thần cho người dân. Không chỉ Phật giáo được vua quan xem trọng
mà trong lịng quần chúng nhân dân đều cần có điểm tựa tâm linh. Phật giáo chính là lựa
chọn của nhân dân, khi đến mỗi vùng đất mới, với những khó khăn trong cuộc sống, con
người hướng đến một niềm tin tôn giáo và dường như Phật giáo đáp ứng nguyện vọng của
nhân dân.
Khi các truyền thống Phật giáo được tiếp nhận tại cùng một vùng đất, tạo nên một sắc
màu mới cho vẻ đẹp tôn giáo. Ở đây, vấn đề giao thoa giữa các dòng truyền thừa xuất hiện,
mỗi truyền thống đều cố gắng đề cao vẻ đẹp, điểm sáng của mình. Do vậy, các dịng truyền
thừa đều có thể tiếp thu tinh hoa của nhau, như thổi một luồng gió mới vào diện mạo của Phật
giáo: “Hai hệ phái Phật giáo Bắc Tông và Nam Tông với những ngôi chùa mang nhiều vẻ
17
phong phú, đa dạng, xây dựng rải rác ở các tỉnh Nam Bộ đã chan hòa trong cuộc sống của
dân chúng” (Nguyễn Quảng Tuân - Huỳnh Lứa và Trần Hồng Liên, 1994, trang 7).
Đánh giá về con đường đưa Phật giáo vào vùng đất Nam bộ, chúng ta có thể thấy có các
con đường chính như sau:
- Du nhập Phật giáo bằng đường bộ, các vị Tăng sĩ từ Trung Hoa hay miền Trung vào
miền Nam cùng với quá trình di dân của Chúa Nguyễn. Hiện nay vẫn còn một số chùa cổ do
các vị Thiền sư từ miền Trung vào: “Vào thế kỷ XVII, Thiền sư Nguyên Thiều (1648 - 1728)
cùng đệ tử là Ngài Minh Vật Nhất Tri kiến lập ngơi Tổ đình Quốc Ân Kim Cang” (Thích
Nhật Từ (chủ biên), 2021, trang 173)
- Một nhánh khác đưa Phật giáo vào Nam bộ bằng con đường biển. Một số Tăng sĩ Trung
Hoa bằng đường thủy vào Mỹ Tho, Đồng Nai…. Các vị Tăng sĩ đó có thể theo các tướng
Trần Thượng Xuyên, Dương Ngạn Địch, Mạc Cửu… đến Nam bộ: “Trên dải đất Đàng Trong
từ đầu thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XVIII, đoàn quân người Hoa di cư đến đâu, các ngôi chùa
cũng được xuất hiện ở đó” (Trần Thuận, 2019, trang 79).
- Phật giáo Theravada người Khmer (cịn gọi là Phật giáo Nam tơng Khmer) lúc bấy giờ
vẫn đang tồn tại ở miền Nam. Chính nền tảng Phật giáo Nam tông Khmer tạo một màu sắc vô
cùng phong phú của Phật giáo Nam bộ: “Chùa đối với người Khmer mang một tình cảm sâu
sắc” (Viện Văn Hóa, 1993, trang 63).
- Ngồi ra, một hướng khác đó là sự du nhập Phật giáo Campuchia vào Nam bộ, hình
thành nên Phật giáo Nam tơng Kinh vào năm 1938: “Năm 1938…xác lập chính thức Phật
giáo Nam tơng Kinh có mặt tại Việt Nam” (Thiện Hậu Kusalapaccha, 2017, trang 19).
Nhận định về con đường du nhập Phật giáo vào Nam bộ, tác giả Trần Hồng Liên (2000)
cho rằng Phật giáo lúc bấy giờ nhận được sự tiếp nhận của quần chúng nhân dân: “Như vậy
có thể thấy vào giai đoạn của cuộc khẩn hoang ở miền Nam, trong chừng mực nhất định, đạo
Phật đã tạo được thế đứng trong nhân dân.” (trang 40). Mặc dù, buổi đầu khai hoang vùng đất
mới, nhưng Phật giáo đã tạo được chỗ đứng trong lịng người dân. Tuy nhiên, hình thức cúng
tế hay nghi lễ vào thời kỳ này chưa rõ nét, nhưng đây vẫn là dấu ấn, nền móng để hình thành
nên một Phật giáo Nam bộ.
Đối với Phật giáo Nam bộ, sau thời gian du nhập và phát triển đã tạo ra những nét riêng
biệt. Những nét riêng này không phải tự nhiên mà có, mà do điều kiện địa lý, lịch sử nhất
định. Khi Phật giáo từ ngoài Bắc truyền xuống miền Trung và sau đó vào Nam bộ, với sự
18