Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Luận văn thạc sỹ vấn đề giới trong truyền kỳ mạn lục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 116 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN

PHAN NGUYỆT HẠNH

VẤN ĐỀ GIỚI TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8220121

Ngƣời hƣớng dẫn: TS. Nguyễn Đình Thu


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan cơng trình luận văn này là của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả được trình bày trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai
cơng bố trong bất kì cơng trình nào khác.
Tác giả luận văn

Phan Nguyệt Hạnh


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ................................................................ 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................. 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 7


5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 7
6. Đóng góp của luận văn .............................................................................. 8
7. Kết cấu của luận văn .................................................................................. 9
Chƣơng 1: VẤN ĐỀ GIỚI VÀ TÁC PHẨM TRUYỀN KỲ MẠN LỤC
CỦA NGUYỄN DỮ ....................................................................................... 10
1.1. VẤN ĐỀ GIỚI QUA CÁC DIỄN NGƠN ............................................ 10
1.1.1. Từ cái nhìn bất bình đẳng giới trong huyền thoại và các học
thuyết tơn giáo, chính trị, đạo đức … ....................................................... 10
1.1.2. … đến tiếng nói bình đẳng giới trong nữ quyền luận ..................... 13
1.2. VẤN ĐỀ GIỚI TRONG VĂN HÓA, VĂN HỌC VIỆT NAM THỜI
TRUNG ĐẠI ................................................................................................ 15
1.2.1. Cái nhìn về giới trong văn hóa Việt Nam thời trung đại ................ 15
1.2.2. Cái nhìn về giới trong văn học Việt Nam thời trung đại ................ 29
1.3. VẤN ĐỀ TÁC GIẢ NGUYỄN DỮ VÀ TÁC PHẨM TRUYỀN KỲ
MẠN LỤC ................................................................................................... 31
1.3.1. Tác giả Nguyễn Dữ ......................................................................... 31
1.3.2. Tác phẩm Truyền kỳ mạn lục ......................................................... 32
Tiểu kết chương 1 ........................................................................................ 34


Chƣơng 2: HỆ THỐNG CHỦ ĐỀ VỀ GIỚI TRONG TRUYỀN KỲ
MẠN LỤC ...................................................................................................... 36
2.1. GIỚI DƯỚI GĨC NHÌN VỀ NGOẠI HÌNH VÀ PHẨM CHẤT ........ 36
2.1.1. Giới dưới góc nhìn về ngoại hình ................................................... 36
2.1.2. Giới dưới góc nhìn về phẩm chất ................................................... 41
2.2. GIỚI DƯỚI GĨC NHÌN VỀ KHÁT VỌNG GIẢI PHĨNG TÌNH
CẢM BẢN NĂNG VÀ TÌNH U - HƠN NHÂN ................................... 50
2.2.1. Giới dưới góc nhìn về khát vọng giải phóng tình cảm bản năng ... 50
2.2.2. Giới dưới góc nhìn về tình u - hơn nhân ..................................... 57
2.3. GIỚI DƯỚI GĨC NHÌN VỀ TÀI NĂNG VÀ SỐ PHẬN ................... 60

2.3.1. Giới dưới góc nhìn về tài năng ....................................................... 60
2.3.2. Giới dưới góc nhìn về số phận ........................................................ 64
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 70
Chƣơng 3 : PHƢƠNG THỨC NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN VẤN ĐỀ
GIỚI TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC ................................................... 73
3.1. MIÊU TẢ NHÂN VẬT ........................................................................ 73
3.1.1. Ngôn ngữ nhân vật .......................................................................... 73
3.1.2. Tâm lý nhân vật .............................................................................. 80
3.1.3. Cách ứng xử, hành động của nhân vật ............................................ 82
3.2. SỰ KẾT HỢP GIỮA YẾU TỐ KỲ VÀ THỰC ................................... 87
3.2.1. Tình yêu giữa người và yêu ma ...................................................... 91
3.2.2. Người hóa thần................................................................................ 93
3.3. SỬ DỤNG ĐIỂN CỐ VÀ HÌNH ẢNH MANG TÍNH CHẤT ƯỚC
LỆ, TƯỢNG TRƯNG.................................................................................. 95
3.3.1. Điển cố ............................................................................................ 95
3.3.2. Hình ảnh mang tính chất ước lệ, tượng trưng ................................. 99
Tiểu kết chương 3 ...................................................................................... 100


KẾT LUẬN .................................................................................................. 102
DANH MỤC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC
GIẢ .............................................................................................................. 106
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 107
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI LUẬN VĂN THẠC SĨ (bản sao)


DANH MỤC VIẾT TẮT

Nxb :


Nhà xuất bản

Tp

:

thành phố

tr

:

trang


1

MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong lịch sử phát triển của nhân loại, nam giới và nữ giới có vai trò
quan trọng như nhau. Tuy nhiên, qua thực tế xã hội ở từng giai đoạn, vấn đề
giới không phải lúc nào cũng được mọi người nhìn nhận, ứng xử một cách
bình đẳng. Với quan điểm phân biệt giới, lấy đàn ông làm trung tâm đã khiến
việc xác lập lại quan hệ bình đẳng giới vơ cùng khó khăn, phức tạp. Vơ thức
cộng đồng có sức mạnh như một vật cản, ngay cả khi ý thức bình đẳng giới
hay phong trào giải phóng phụ nữ đã hình thành và đạt được nhiều thành quả.
Cả một thời kì lịch sử phong kiến lâu dài, xã hội Việt Nam vận hành theo chế
độ phụ quyền, người đàn ông đã thống trị nữ giới, áp đặt các chuẩn mực bất
lợi đối với người phụ nữ và có lợi cho nam giới. Chính vì thế, vấn đề giới gần
như đặt ra thường xuyên, ngấm ngầm, thường trực trong lịch sử và không

phải bao giờ việc thực hiện bình đẳng giới cũng diễn ra sn sẻ, thành công.
Sau các cuộc đấu tranh, các nhà nữ quyền luận chủ trương: trong cuộc cách
mạng về giới, chúng ta cần phải hiểu đúng mối quan hệ về giới, đặc biệt giới
nữ phải tự nhận thức đầy đủ về chính mình.
Trong các tác phẩm văn xi trung đại Việt Nam, nhân vật chiếm số
lượng lớn thường là nam giới, nếu có nữ giới thì lại được nhìn qua lăng kính
cảm quan của nam giới với tư tưởng nam quyền, Truyền kỳ mạn lục của
Nguyễn Dữ là một trong những tác phẩm như thế. Thế giới nhân vật trong tập
truyện khá phong phú, đại diện cho nhiều loại người trong xã hội phong kiến
đương thời như: vua chúa, quan lại, nho sĩ, thương buôn, nhà sư, phụ nữ, trẻ
em và cả những nhân vật tồn tại trong thế giới tinh thần con người như: ma
quỷ, thần tiên,…Nhà nghiên cứu Lã Nhâm Thìn đánh giá: “Đây cũng là lần
đầu tiên có một tác phẩm văn học Việt Nam xây dựng được nhiều kiểu loại


2

nhân vật đến như vậy” [30, tr.219]. Với giá trị trên nhiều phương diện,
Truyền kỳ mạn lục đã trở thành đối tượng nghiên cứu của bao thế hệ từ khi tác
phẩm ra đời đến nay. Tuy nhiên, vấn đề giới trong tập truyện vẫn chưa được
khám phá toàn diện, sâu sắc trên hành trình giải mã những giá trị cịn ẩn tàng
trong tác phẩm.
Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ được đánh giá là “tập đại thành”,
“áng thiên cổ kỳ bút”, thành tựu tiêu biểu của thể loại truyền kỳ trong văn
xuôi chữ Hán Việt Nam thời trung đại. Tập truyện có những thiên truyện đã
được đưa vào và giảng dạy trong chương trình Ngữ văn ở bậc phổ thơng. Bởi
vậy, nghiên cứu vấn đề giới trong Truyền kỳ mạn lục sẽ góp thêm cái nhìn
tham chiếu nhằm tiếp tục khẳng định giá trị tác phẩm cũng như vị thế tác giả
trong tiến trình vận động của văn học dân tộc, góp phần nâng cao hiệu quả
giảng dạy thể loại truyện truyền kỳ nói chung cũng như tác phẩm Truyền kỳ

mạn lục nói riêng.
Trên đây là những lý do để tác giả quyết định chọn “Vấn đề giới trong
Truyền kỳ mạn lục” làm đề tài nghiên cứu của luận văn.
2. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Về mặt lý thuyết lẫn ứng dụng, cho đến nay, vấn đề giới đã được
nghiên cứu sâu rộng ở nhiều quốc gia, dân tộc, trong đó có Việt Nam.
2.1. Các nghiên cứu về giới ở nƣớc ngoài
Ở Âu Mỹ, vấn đề giới được nghiên cứu cả về lý thuyết lẫn ứng dụng,
trên cả hai trục: lịch đại và đồng đại. Trên chiều lịch đại, các nghiên cứu dựa
vào huyền thoại, tôn giáo và các tài liệu nhân chủng; trên trục đồng đại, các
nghiên cứu đối chiếu, xem xét tâm lý, hành vi của con người đương đại so với
lịch sử và khái quát thành lý thuyết. Ban đầu là lý thuyết về nữ quyền với nhu
cầu hướng đến bình đẳng giới hay giải phóng phụ nữ, sau cịn tiến đến vấn đề
đồng tính hay giới tính thứ ba, và thậm chí là quyền chuyển giới. Chính tri


3

thức về giới đã buộc nhiều nhà nước phải luật hoá để đảm bảo các quyền của
giới lâu nay bị kỳ thị, phân biệt đối xử.
Các lý thuyết về giới đều thống nhất đi đến kết luận: giới là một kiến
tạo xã hội. Mọi kiến tạo dẫn đến kỳ thị giới đều do chế độ phụ quyền, bắt
nguồn từ trong huyền thoại, cố kết thành các diễn ngôn tôn giáo và nhà nước
có tính tơn giáo. Lý thuyết giới gắn liền với Phân tâm học, Cấu trúc luận và
sau đó là Giải cấu trúc. Tinh thần phản biện liên tục đã tạo ra một bức tranh
tương đối hoàn chỉnh về vấn đề giới.
Một số cơng trình tiêu biểu nghiên cứu về giới phải kể đến như:
Tác phẩm Căn phòng riêng (1929) của Virginia Woolf, Trịnh Y Thư
dịch (2009), được xem là một trong những cuốn sách khơi nguồn cho phong
trào nữ quyền, vốn khởi phát từ phương Tây và ngày càng có sức lan tỏa rộng

rãi, trở thành một khúc ngoặt văn hóa – khúc ngoặt nữ quyền.
Nghiên cứu về giới thì tác phẩm Giới nữ (1949) của Simone De
Beauvoir, Nguyễn Trọng Định và Đoàn Ngọc Thanh dịch (1996), được xem
là một trong những quyển sách hay nhất của thế kỷ XX, là một cuốn bách
khoa toàn thư về các giai đoạn của cuộc đời phụ nữ từ lúc sinh ra, dậy thì, lấy
chồng, làm mẹ; đồng thời vạch ra con đường giành quyền lợi cho nữ giới. Sự
thống trị của nam giới (1998) của Pierre Bourdieu, do Lê Hồng Sâm dịch
(2011). Trong cuốn sách này, Bourdieu đã phân tích các mối quan hệ giữa
nam giới và nữ giới, xuất phát từ việc nghiên cứu dân tộc học xã hội của
người Berbères tại Kabylie, và tìm hiểu những cấu trúc tượng trưng của vô
thức lấy nam giới làm trung tâm, hiện vẫn tồn tại ở nam giới và nữ giới ngày
nay. Tác phẩm Bí ẩn nữ tính của Betty Friedan, Nguyễn Vân Hà dịch (2015),
được đánh giá là quyển sách quan trọng nhất của thể kỉ XX. Trong tác phẩm
tác giả đi tìm nguồn gốc bí ẩn nữ tính, và ảnh hưởng của nó đối với người phụ
nữ sống vì nó, hoặc lớn lên dưới cái bóng của nó.


4

Những đóng góp trên như những phát súng đầu tiên nổ vào thành trì
của chế độ phụ quyền đã tồn tại và vấn vít hàng ngàn năm. Bên cạnh những
chuyên luận nghiên cứu về giới nhằm hướng tới sự công bình giữa giới
nam và nữ, cịn có sự xuất hiện nhiều những nghiên cứu về vấn đề đồng
tính và chuyển giới.
2.2. Các nghiên cứu về giới ở Việt Nam
Ở Việt Nam, giới cũng là đối tượng được sự quan tâm đặc biệt của
nhiều tổ chức, cá nhân như: Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, các nhà giáo dục,
các nhà tâm lý… Sự quan tâm ấy đóng góp một phần khơng nhỏ vào tiếng nói
địi bình quyền cho giới nữ, khơng những thế các cơng trình nghiên cứu về
giới ở góc nhìn giải cấu trúc và bản thể luận cũng được đề cập:

Từ góc độ định kiến giới, các tác giả Trần Thị Vân Anh (1999),
Nguyễn Thị Hòa (2002) đã nghiên cứu về những định kiến đối với những
người phụ nữ làm công tác lãnh đạo. Các kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng:
những định kiến với người phụ nữ đã làm cho họ trở nên tự ti, tự đánh giá
thấp về khả năng của mình, họ thường cho rằng mình kém hơn nam giới.
Trong nhiều trường hợp, nhiều người đàn ơng, người chồng có tâm lý khơng
muốn cho vợ hơn mình về mọi mặt, khơng tạo điều kiện giúp người phụ nữ,
tạo ra những áp lực cản trở sự tiến bộ của họ.
Trong ngôn ngữ và văn học, giới và giới tính cũng được nghiên cứu
tương đối nhiều. Những cơng trình tiêu biểu như: Sự kỳ thị giới tính trong
ngôn ngữ (2005) của Trần Xuân Điệp, trong đề tài nghiên cứu này Trần Xuân
Điệp đã trình bày trực tiếp về vấn đề kỳ thị giới tính trong ngơn ngữ. Trên cở
sở đó, tác giả cịn đề xuất hướng giải quyết vấn đề kỳ thị giới tính trong ngơn
ngữ theo góc độ cải cách ngơn ngữ và quy hoạch ngơn ngữ. Lịch sự trong
tiếng Việt và giới tính của Vũ Tiến Dũng (2007), trong cơng trình này, tác giả
đề cập vấn đề giới tính với những nội dung về cách xưng hô giữa phái nam và


5

phái nữ. Trong cuốn sách Định kiến giới và phân biệt đối xử theo giới: Lý
thuyết và thực tiễn (2011) của các tác giả Trần Thị Minh Đức, Hoàng Xuân
Dung, Đỗ Hoàng đã đề cập tới một số vấn đề lý luận liên quan đến định kiến
giới, các hình thức biểu hiện của định kiến giới trên phương diện lý luận và
thực tiễn ở nước ta. Tuyển tập giới và xã hội, số 2 – năm 2014, Trường Đại
học Hoa Sen - Trung tâm nghiên cứu giới và xã hội - phần quan trọng nhất
của tuyển tập là 12 bài nghiên cứu được sắp xếp theo ba chủ đề: Những
gương mặt nữ quyền, Nghiên cứu phụ nữ: một góc nhìn lịch sử, Giới và phát
triển: những vấn đề đương đại. Đặc biệt, tìm hiểu phụ nữ qua cách tiếp cận
các nhân chứng và lời chứng của người trong cuộc là một hướng nghiên cứu

mang lại những đóng góp quan trọng trong cơng trình này. Văn học và giới nữ
(2016) của Phùng Gia Thế - Trần Thiện Khanh biên soạn, cuốn sách này cung
cấp một số tri thức về nữ quyền luận trên thế giới, đồng thời đưa ra những
diễn giải bước đầu về vấn đề nữ giới trong diễn ngôn văn học. Về tổng thể
nhìn nhận cuốn sách hướng đến khẳng định vị thế ngày càng cao của nữ giới.
Ngoài ra, cịn có một số cơng trình tại trường Đại học Quy Nhơn cũng đã
nghiên cứu về giới như bài viết: “Kiến tạo giới trong huyền hoại và văn hóa
Chăm” của tác giả Châu Minh Hùng (2020), hay luận văn: Vấn đề giới trong ca
dao Việt của tác giả Nguyễn Thị Linh Huệ (2020). Trong những cơng trình này,
các tác giả không những đề cập đến những vấn đề lý thuyết về giới mà còn vận
dụng lý thuyết giới vào nghiên cứu những vấn đề văn hóa, văn học cụ thể.
Điểm qua một số cơng trình nghiên cứu trên cho thấy vấn đề về giới là đề
tài được quan tâm rộng rãi và đã đạt được những thành tựu nghiên cứu to lớn.
2.3. Nghiên cứu về giới trong Truyền kỳ mạn lục
Vấn đề giới trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục không phải chưa từng
được đề cập. Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm được quan tâm nghiên cứu từ khá
sớm, lịch sử nghiên cứu tác phẩm này cũng đạt được nhiều kết quả quan


6

trọng. Tuy vậy, theo sự tìm hiểu của chúng tơi, cho đến nay, vẫn chưa có một
cơng trình nghiên cứu nào về giới trong Truyền kỳ mạn lục một cách hệ
thống, chun sâu, hoặc nếu có thì hầu như chỉ nghiên cứu về giới nữ. Bùi Kỷ
có thể được coi là một trong những nhà nghiên cứu đầu tiên bàn luận về vấn
đề người phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục ở Lời giới thiệu Truyền kỳ mạn lục
(bản dịch của Trúc Khê), Nguyễn Phạm Hùng với "Tìm hiểu khuynh hướng
sáng tác trong Truyền kỳ mạn lục” (Tạp chí Văn học, số 2, 1987), cũng đề cập
đến một số nhân vật nữ trong Truyền kỳ mạn lục, phân loại họ vào nhân vật
của hai kiểu truyện là truyện kỳ quái và truyện diễm tình. Hay Kim Seona với

Nhân vật nữ trong thể truyền kỳ qua hai tác phẩm Truyền kỳ mạn lục và
Truyền kỳ tân phả (Luận văn thạc sĩ Ngữ Văn, Trường Đại học Khoa học xã
hội và Nhân văn, Hà Nội, 1995),. Khóa luận của Lê Thị Dung: Hình tượng
người phụ nữ trong Truyện kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ (Trường Đại học Quy
Nhơn, 2016), hay như bài viết của Hồng Thùy Dương: “Tiếp cận Truyền kì
mạn lục từ quan niệm vô thức cá nhân của Sigmund Freund” (Tạp chí Khoa
học Trường Đại học Cần Thơ, Tập 34, số 3C, 2018) cũng đã nhìn nhận đánh
giá về người phụ nữ từ góc nhìn về giới trong tập truyện.
Ngồi ra, cịn có thể kể đến một số cơng trình tại Trường Đại học Quy
Nhơn nghiên cứu về những phương diện nghệ thuật trong Truyền kỳ mạn lục
góp phần thể hiện vấn đề giới trong tập truyện tiêu biểu như luận văn của Lê
Thế Tạo: Không gian nghệ thuật trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ
(2013), khóa luận của Lê Thị Trường Giang: Hệ thống điển cố trong Truyền
kì mạn lục của Nguyễn Dữ (2014).
Từ thực tiễn nghiên cứu trên cho thấy: Vấn đề giới mà chúng tôi quan
tâm, trước đó vẫn chưa được khai thác triệt để hoặc ít có cơng trình đi sâu
nghiên cứu về giới một cách hệ thống trong Truyền kỳ mạn lục. Luận văn Vấn
đề giới trong Truyền kỳ mạn lục sẽ góp phần phân loại, phân tích các đặc


7

điểm, làm sáng rõ một số phương diện về vấn đề giới trong tập truyện để có
cái nhìn sâu sắc, tồn diện hơn về tác phẩm.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Thực hiện đề tài này, chúng tôi hướng đến mục đích và giải quyết một
số nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như sau:
- Tổng hợp những nghiên cứu về giới, làm công cụ lý giải vấn đề giới
trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục.
- Phân tích về giới trong tác phẩm là để người Việt hiểu chính mình

trong cuộc đấu tranh cho bình đẳng giới
- Làm sáng tỏ nguyên nhân tác phẩm đã có những sáng tạo thẩm mỹ
cao đẹp, tạo nên hệ thống giá trị văn hoá Việt.
- Luận văn cũng quan tâm chỉ ra một số biểu hiện của tư tưởng nữ
quyền, biểu hiện của tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa của Nguyễn Dữ, dù mới chỉ
là manh nha.
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề về giới trong
Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là 20 truyện trong tác phẩm Truyền kỳ
mạn lục của Nguyễn Dữ. Trong luận văn này, chúng tôi thống nhất sử dụng
tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ do Trúc Khê dịch, Nxb Hội Nhà
văn ấn hành năm 2016. Bên cạnh đó, để tạo tính chính xác và khoa học, trong
q trình thực hiện đề tài, chúng tơi cịn tham khảo và đối chiếu với một số
văn bản khác.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong q trình thực hiện đề tài, chúng tơi sử dụng các phương pháp
nghiên cứu chính sau đây:
- Phương pháp thống kê: Đây là phương pháp chủ đạo được sử dụng để giải


8

quyết các vấn đề chủ yếu của đề tài luận văn. Theo đó, dựa vào đặc điểm giới
trong tập Truyền kỳ mạn lục, chúng tơi tiếp tục tiến hành nhóm họp, phân
chia các vấn đề về giới thành những tiểu loại khác nhau. Đặc biệt trong
chương 2, sử dụng phương pháp thống kê, người viết đã gia tăng thao tác so
sánh giữa nam giới và nữ giới, cũng như so sánh nhằm làm rõ đặc điểm, đặc
sắc các vấn đề về giới trong tác phẩm.
- Phương pháp khảo sát văn bản: Đây là phương pháp cơ sở, ban đầu, cho

phép người nghiên cứu tiếp cận trực tiếp với văn bản tác phẩm Truyền kỳ
mạn lục. Với phương pháp này, chúng tôi đã tiến hành khảo sát 20 truyện
trong tập Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, khái qt hóa: Trong q trình thực hiện
luận văn, chúng tơi đã sử dụng phương pháp phân tích nhằm làm rõ những
biểu hiện đặc điểm, đặc trưng cụ thể của các biểu hiện về giới trong Truyền
kỳ mạn lục. Từ đó, tổng hợp, khái quát hóa lại vấn đề đã phân tích để có cái
nhìn tồn diện về các vấn đề về giới trong việc góp phần tạo nên giá trị của
tác phẩm cũng như vị thế của tác giả.
Những phương pháp nghiên cứu trên đây không phải được sử dụng một cách
độc lập, riêng lẻ. Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tơi đã kết hợp các
phương pháp nghiên cứu này để có thể đạt được hiệu quả nghiên cứu một
cách tốt nhất.
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- Một là, làm rõ một số vấn đề lý thuyết chung về giới, về thể loại
truyền kỳ và tác giả Nguyễn Dữ.
- Hai là, khảo sát về giới trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, tập
trung phân tích các biểu hiện về giới trong Truyền kỳ mạn lục.
- Ba là, làm sáng rõ một số phương thức nghệ thuật biểu hiện vấn đề
giới trong Truyền kỳ mạn lục.


9

Từ đó, luận văn chỉ ra những giá trị của tác phẩm cũng như vị trí của nó
trong tiến trình vận động, phát triển của thể loại truyện ký - văn xi trung đại
nước ta.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho học sinh, sinh
viên, học viên, các học giả trong việc nghiên cứu, giảng dạy tác phẩm Truyền
kỳ mạn lục nói riêng và thể loại truyện ký trung đại Việt Nam nói chung.

7.KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
được cấu trúc thành 03 chương chính, cụ thể như sau:
- Chương 1: Vấn đề giới và tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn
Dữ.
- Chương 2: Hệ thống chủ đề về giới trong Truyền kỳ mạn lục.
- Chương 3: Phương thức nghệ thuật thể hiện vấn đề giới trong Truyền
kỳ mạn lục.


10

Chƣơng 1: VẤN ĐỀ GIỚI VÀ TÁC PHẨM
TRUYỀN KỲ MẠN LỤC CỦA NGUYỄN DỮ
1.1. VẤN ĐỀ GIỚI QUA CÁC DIỄN NGƠN
Trước hết cần điểm qua đơi nét về khái niệm diễn ngơn. Theo từ điển
New Webster`s Dictionary thì diễn ngơn được định nghĩa gồm hai nghĩa:
một là sự giao tiếp bằng tiếng nói (trị chuyện, lời nói, bài phát biểu); hai là
sự nghiên cứu tường minh, có hệ thống về một đề tài nào đó (luận án, các
sản phẩm của suy luận). Cả hai nghĩa đó đều chỉ thực tiễn giao tiếp ngơn
ngữ, nhưng chưa nói đến nghĩa hiện đại là hình thức của ý thức hệ và
quyền lực. Cịn giới là một kiến tạo xã hội, cho nên diễn ngơn về giới là
tiếng nói của kẻ mạnh đè lấp lên kẻ yếu hoặc biến kẻ yếu thành kẻ ăn theo
nói leo hoặc khơng có tiếng nói. Trong lịch sử, diễn ngôn về giới nằm
trong tư tưởng của huyền thoại và tơn giáo trước khi xuất hiện tiếng nói
khác: tiếng nói đối kháng.
1.1.1. Từ cái nhìn bất bình đẳng giới trong huyền thoại và các học thuyết
tơn giáo, chính trị, đạo đức …
Trong huyền thoại, tôn giáo, diễn ngôn về giới có từ huyền thoại khai
thiên lập địa khi mượn chuyện thánh thần để xác lập trật tự đầu tiên của lồi

người. Lúc bấy giờ, vai trị của nữ thần và nam thần tương đương nhau, chỉ
khác là ở chức năng tự nhiên. Trong thần thoại: Hy Lạp có mẹ Gaia, Ấn Độ
có Lajja Gauri - thần lực nữ tính (Shakti), người Hán có Nữ Oa, cịn Việt
Nam có mẹ Âu Cơ, … Ở họ đều có điểm chung là mang chức năng sinh sản
và nuôi dạy con cái, thậm chí mang cả chức năng khai thiên lập địa, lao động
và phân phối của cải như nam thần. Tuy nhiên, huyền thoại về nữ thần và nam
thần không ngang bằng nhau. Điều đó cũng có nghĩa là quyền lực của phụ nữ
mờ nhạt hẳn, trong khi quyền lực của đàn ông thì nổi bật lên thành kẻ thống


11

trị, dẫn đến sự bất bình đẳng dai dẳng suốt chiều dài lịch sử, đặc biệt khi các
tôn giáo lớn ra đời thì vị thế của nam nữ càng bị phân hóa rõ rệt.
“Nếu huyền thoại dẫn dắt con người đến vườn Eden, xác lập một niềm
tin về Đức Chúa Trời toàn thiện toàn mỹ sinh ra Adam giống như ngài, rồi
lấy sườn Adam tạo ra Eva đầy khiếm khuyết. Sự mặc khải này xác lập ngay
một trật tự đầu tiên cho lồi người: đàn ơng là hiện hữu của Thượng Đế, còn
đàn bà là cái khác (The Other), cái phụ thuộc của đàn ông. Cựu ước kế tiếp,
rằng việc vi phạm luật trời và rơi vào tội lỗi bắt đầu từ đàn bà. Eva nghe lời
kẻ xấu là con rắn, hiện thân của quỷ Satan đã dụ Adam ăn Trái Cấm, trái
sinh ra từ cây Trí tuệ đồng thời là cây Tính dục. Đây là mặc khải thứ hai về
thân phận người phụ nữ: Ngài phán cùng người phụ nữ rằng: ta sẽ thêm điều
khổ cực bội phần trong cơn thai nghén: người sẽ chịu đau đớn mỗi khi sinh
con; sự dục vọng người phải xu hướng về chồng, và chồng sẽ cai trị ngươi...”
[34, tr.115]
Chính niềm tin vào mặc khải này đã kéo theo hàng loạt các kiến tạo về
vai trị của người đàn ơng và thân phận phụ nữ [13, tr.80]. Sau Adam là tổ phụ
Abraham, và sau Abraham lại là Chúa con Jesus Christ. Ngay trong huyền
thoại đa thần trước tôn giáo độc thần, người đứng đầu các vị thần phải là đàn

ông. Trong huyền thoại Hy Lạp, các nữ thần hoàn toàn bị đưa xuống sau sự
thống trị của thần Zeus. Và những đứa con của thần linh trong cuộc hôn phối
với người trần như Heracles, Achilles... được ngợi ca trong các thiên sử thi
đều mang khuynh hướng ngợi ca vai trò của người đàn ông. Hay trong huyền
thoại sơ khai của Ấn Độ, vào cái giao điểm đạo Hindu lập ra tam thần tối cao
(Trimurti), gồm Barahma, Vishnu, Shiva như là sự chỉnh biên từ những câu
chuyện dân gian phổ biến vùng sông Ấn, sơng Hằng, vết tích một cuộc đảo
chính từ thần lực nữ tính sang phụ quyền vẫn cịn ngun vẹn[12, tr.11]
Trong huyền thoại của người Hán, “Huyền thoại Bàn Cố tồn tại gần


12

như song song với với huyền thoại Nữ Oa, trong trường hợp Nữ Oa là huyền
thoại độc lập trước khi gắn kết với Phục Hy thành cặp nhị nguyên. Bàn Cố là
vị thần nguyên thủy nhất, khi chết đi máu, thịt, xương biến thành núi sơng và
vạn vật, những lồi kí sinh trùng trong cơ thể ngài hóa thành con người.
Huyền thoại Nữ Oa nhào nặn đất sét để nắn nên con người - Nữ Oa sánh
tương đương với chúa trời trong Cựu ước. Điều đó chứng tỏ vai trị phụ nữ
từng được đề cao trước khi diễn ra cuộc “đảo chính” mang tên phụ quyền.”
[12, tr. 119].
Cịn trong tâm thức của người Việt, mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng
và từ trăm trứng ấy nở ra trăm con trai – đây là một kiến tạo phụ quyền nhưng
chúng ta khơng thể phủ nhận vai trị sinh nở và duy trì sự sống của Âu Cơ thiên chức của nữ giới. Chính Âu Cơ mang năm mươi con trai lên núi mới
dựng nên cơ nghiệp các vua Hùng, còn Lạc Long Quân mang năm mươi đứa
con trai về biển thì khơng được nhắc đến. Việc Âu Cơ hồn thành chức năng
sinh nở, bảo tồn sự sống và nhường phần xây dựng triều đại Hùng Vương cho
năm mươi đứa con trai cho thấy: Người phụ nữ là sức mạnh của hiện thân tự
nhiên, trong khi quyền lực đàn ông chỉ là một thứ được kiến tạo để hình thành
nên các quan hệ xã hội.

Đất nước Ấn Độ, nơi mà đạo Hindu thống trị và duy trì lâu dài nhất, thì
bộ tam thần đứng đầu các vị thần: Brahma, Vishnu và Shiva lại gắn với cặp
Linga – Yoni. Cả ba đều được xem như là nam thần, nhưng có gì đó bất ổn
khi đặt trong quan hệ với cặp biểu trưng tính dục nam nữ mà người Ấn Độ tơn
thờ. Brahma, thần sáng tạo và sinh sôi, Vishnu, thần bảo hộ thuộc Yoni; trong
khi Shiva, thần hủy diệt lại thuộc Linga. Quan hệ tương ứng ấy cho thấy nền
tảng của sự sáng tạo và bảo hộ sinh sôi thuộc về nữ tính, trong khi hủy diệt và
cõi chết lại thuộc về nam tính. Lạm dụng bạo lực và tính dục dẫn đến chiến
tranh chỉ có thể là đàn ơng. Nhưng q trình kiến tạo văn hóa phụ quyền, mọi


13

tội lỗi trút hết đàn bà.
Còn Thánh Paul, người dựa vào Cựu Ước và Tân Ước, đã thiết lập nên
nguyên tắc: không phải người nam được sáng tạo ra cho người nữ mà trái lại,
người nữ được sáng tạo ra cho người nam.
Các quan điểm này đã che đậy hoàn tồn vai trị của người phụ nữ, điều
này cũng thể hiện rõ trong Nho giáo khi luận Kinh Dịch. Nho giáo xem đàn
bà thuộc Âm tính so với đàn ơng thuộc Dương tính, vì thế cái xấu dành cho
đàn bà. Luận ngữ viết: “Duy nữ tử dữ tiểu nhân vi nan dưỡng dã, cận chi tắc
bất tốn, viễn chi tắc oán” (Chỉ có phụ nữ và tiểu nhân là loại khó dạy, gần nó
thì nó vơ phép, xa nó thì nó ốn hận).
Tuy nhiên, con giun xéo mãi cũng quằn. Lịch sử đã chứng kiến tiếng
nói phản kháng, đấu tranh trong phong trào đòi nữ quyền của nữ giới. Khởi
đầu cho ngọn lửa đấu tranh ấy là vào tháng 10/1789, một nhóm phụ nữ Paris
xơng thẳng vào trụ sở Quốc dân đại hội để địi quyền bình đẳng nam nữ. Đây
chính là sự khởi đầu cho một phong trào đấu tranh chính trị trước khi chuyển
thành những vấn đề văn hoá lớn của cả thời đại văn minh.
1.1.2. … đến tiếng nói bình đẳng giới trong nữ quyền luận

Mặc cho tạo hóa ban tặng cho nữ giới nhiều thiên chức mà đàn ơng
khơng có được và có thể đảm nhiệm những vai trò như nam giới nhưng những
quan niệm hà khắc về người phụ nữ vẫn kéo dài ròng rã suốt nhiều thiên niên
kỉ. Những quan niệm: “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vơ”, “Nữ nhi thường
tình”, “Nữ nhi ngoại tộc”, … đã bám rễ sâu trong tiềm thức, phủ rộng trên
phạm vi không chỉ một dân tộc, một quốc gia, một vùng miền và trở thành cái
cùm để giam cầm nữ giới, là công cụ áp chế họ. Và như một lẽ tất yếu: có áp
bức thì tất yếu sẽ có đấu tranh, sự phản kháng ấy đã giáng một địn mạnh mẽ,
tấn cơng một cách tồn diện vào tình trạng bất bình đẳng của xã hội.
Nữ quyền luận (Feminism) ra đời trong những thập niên 1960, 1970, gắn


14

liền với phong trào giải phóng phụ nữ. Đó là một nỗ lực lý thuyết hóa vấn đề
nam - nữ trên tinh thần giải cấu trúc. Nó tự tạo ra chiến lược diễn ngôn chống lại
diễn ngôn nam quyền hay văn hóa duy dương vật (phallocentric culture).
Chủ nghĩa nữ quyền trên thế giới đã trải qua ba giai đoạn đấu tranh.
Giai đoạn thứ nhất khởi đầu từ nước Anh, sau đó lan ra các quốc gia
phương Tây từ nửa sau thế kỉ XIX đến nửa đầu thể kỉ XX. Đại diện của
giai đoạn này chính là Mari Wollstonerast được ví như mẹ đẻ của chủ
nghĩa nữ quyền với cuốn Bản chứng minh các quyền của phụ nữ (A
Vindication of de Rights of Women, 1792), bà cho rằng: phụ nữ không phải
thấp kém hơn đàn ông, chẳng qua là họ thiếu đi sự giáo dục. Theo bà, cả
đàn ông và phụ nữ phải được đối xử với nhau bình đẳng và mường tượng
về một trật tự xã hội dựa trên nguyên lý đó. Tiếp theo là Viginia Woolf nhà nữ quyền học đầu tiên của phương Tây - sáng lập ra bộ mơn phê bình
văn học cho nữ giới với tác phẩm Một căn phòng riêng (A Rom of One is
Own, 1929) được coi như “sách vỡ lòng” của nữ quyền.
Giai đoạn thứ hai, chủ nghĩa nữ quyền bắt đầu rầm rộ ở Tây Âu và
Bắc Mỹ sau đại chiến thế giới thứ hai và phát triển lên cao trào trong thập

niên 60 của thể kỉ XX. Đại diện tiêu biểu nhất của giai đoạn này là Simone
de Beauvoir (1908 - 1986), nữ nhà văn Pháp, trong cuốn Giới tính thứ hai
(The Second Sex). Theo nhận xét của các dịch giả tiếng Anh, Giới tính thứ
hai là một chuyên luận triết học và “là một trong những tác phẩm quan
trọng của thế kỉ XX làm cơ sở lý luận cho phong trào nữ quyền”. Beauvoir
cho rằng: “nữ tính” (femininity) được dùng với nghĩa là tập hợp những đặc
trưng về xã hội của nữ giới (không phải là những đặc trưng tâm sinh lý).
Theo bà, những đặc trưng xã hội này không phải là cái vốn có của phụ nữ,
mà chỉ là tư tưởng của nam giới gán cho phụ nữ nhằm mục đích chứng
minh rằng phụ nữ khơng có khả năng bình đẳng với nam giới. Bà cho


15

rằng:Là phụ nữ thì phải tỏ ra mình là người yếu đuối, vơ tích sự, thụ động,
ngoan ngỗn. Trong tác phẩm này, bà đã có một tun ngơn khuấy động tri
thức nhân loại đó là: người ta sinh ra khơng phải là đàn bà, mà trở thành
đàn bà”. “Trở thành” là kết quả giáo huấn từ gia đình, xã hội, văn hóa, đạo
đức… và cịn được hiểu là sự phụ thuộc vào đàn ông .
Với ba giai đoạn đấu tranh ở phương Tây như thế đã đưa các lý thuyết
tiếp cận gần hơn các vấn đề giới ngày càng sâu sắc, đa chiều. Ngày nay, vấn
đề nữ quyền đã thực sự có ảnh hưởng vào mọi lĩnh vực đời sống rồi tiếp tục
tác động mạnh mẽ sang các vấn đề khác trong mối tương quan, liên hệ với
những ngành khoa học khác như: phân tâm học, xã hội học, nhân chủng học,
văn học v.v…
Như vậy, điều cốt lõi của nữ quyền luận chính là xác nhận vai trị của
nữ giới với cái nhìn đánh giá thế giới qua đơi mắt của nữ giới, bằng cách giải
thích huyền thoại đàn ơng là trung tâm. Bởi lâu nay, những giá trị của phụ nữ
đều do xã hội nam quyền kiến tạo, xã hội ấy đã trùm lên phụ nữ những chuẩn
mực chỉ để có lợi cho nam giới. Những bản tính nữ được xem là vẻ đẹp vĩnh

cửu của nữ giới như giàu đức hy sinh, vị tha, đảm đang, tiết hạnh … đã trở
thành xiềng xích ngọt ngào, giam hãm nữ giới bao thế hệ. Đóng góp của nữ
quyền luận đã chỉ ra rằng: cái bóng của những giá trị truyền thống ấy thực
chất như những “vịng kim cơ” cầm tù và làm mòn bản ngã, biến người phụ
nữ trở thành công cụ trong tay nam giới.
1.2. VẤN ĐỀ GIỚI TRONG VĂN HĨA, VĂN HỌC VIỆT NAM THỜI
TRUNG ĐẠI
1.2.1. Cái nhìn về giới trong văn hóa Việt Nam thời trung đại
Nho giáo là học thuyết chính trị, đạo đức được nhà nước cơng nhận là
hệ tư tưởng chính thống, chi phối chủ yếu đến đời sống văn hóa Việt Nam
thời trung đại, trong đó có cái nhìn về giới.


16

1.2.1.1. Cái nhìn về nam giới
Đối với đấng nam nhi, bậc quân tử, trong tư tưởng chính trị của Nho
giáo, Khổng Tử đề ra thuyết Chính danh và Đức trị. Theo thuyết Chính danh,
mỗi sự vật phải được gọi đúng tên của nó, mỗi người phải làm đúng chức
phận của mình: “Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử” - Vua ra vua, tôi ra tôi,
cha ra cha, con ra con (Luận ngữ). Theo Khổng Tử, nguồn gốc của sự rối ren
trong xã hội là do nhà cầm quyền sa đọa, làm cho “danh” khơng được
“chính”: “Danh bất chính, ngơn bất thuận, sự bất thành, xã tắc loạn” - Danh
không chính thì lời khơng thuận, lời khơng thuận tất việc không thành, xã hội
tất loạn” (Luận ngữ). Thuyết Đức trị là tư tưởng cai trị đất nước, quản lý xã
hội trên cơ sở các chuẩn mực đạo đức. Theo đó, bậc quân tử phải “Thượng
hiền”, nghĩa là phải có đức, lấy đạo đức làm động cơ thúc đẩy nhân dân hành
thiện. Khổng Tử nói: “Dùng chính lệnh để dẫn dắt dân, dùng hình pháp để
giải trật tự, dân tránh khỏi tội nhưng chưa biết hổ thẹn. Dùng đức để dẫn dắt,
dùng lễ để giữ trật tự, dân biết hổ thẹn mà tiến tới chỗ tốt lành” (Luận ngữ).

Để thực hiện Chính danh thì đức là cơng cụ. Trong học thuyết của Nho giáo,
đạo đức là vấn đề được bàn luận nhiều nhất. Bởi đạo đức là công cụ, phương
tiện chủ yếu của giai cấp thống trị trong việc trị nước và quản lý xã hội; là
tiền đề, điều kiện quan trọng nhất để hình thành và hồn thiện con người, góp
phần vào việc củng cố, duy trì trật tự, kỷ cương, ổn định xã hội; đồng thời,
đạo đức và thực hành đạo đức đóng vai trị quyết định trong việc tạo lập hình
mẫu người lý tưởng (bậc quân tử) và góp phần tạo lập xã hội lý tưởng.
Theo quan điểm Nho giáo, các chuẩn mực đạo đức cơ bản mà người
quân tử cần phải có bao gồm: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín (ngũ thường). Các chuẩn
mực đạo đức này được đề cập trong Kinh thư, Kinh thi, đặc biệt là trong Luận
ngữ của Khổng Tử. Theo đó, nhân cách lý tuởng, “toàn đức” của bậc quân tử
phải là sự thống nhất và bổ sung lẫn nhau của “ngũ thường”.


17

Nhân là chuẩn mực đạo đức đầu tiên, cơ bản nhất trong đạo đức Nho
giáo. Tất cả các chuẩn mực đạo đức khác đều xoay quanh chuẩn mực trung
tâm này. Từ đức Nhân mà sinh ra các đức khác, các đức khác lại quy tụ về với
đức Nhân, là biểu hiẹn của đức Nhân. Theo Khổng Tử, Nhân là đạo lý làm
người, quy định bản tính của con người và mối quan hệ giữa người với người
trong đời sống xã hội. Theo đó, Nhân được nhìn nhận từ hai mặt: đối với
mình và đối với người. Đối với mình phải trong sạch, không nghĩ và không
làm điều xấu, điều ác, phải giữ đúng Lễ, phải “tu thân” theo các chuẩn mực:
nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, từ đó “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Đối với người,
phải thương u, khơng phân biệt giai cấp, địa vị xã hội; mình muốn lập thân
thì cũng giúp người khác lập thân, mình muốn thành đạt thì cũng giúp người
khác thành đạt (Phù nhân giảm kỷ dục lập nhi lập thân, kỷ dục đạt nhi đạt
nhân); điều gì mà mình khơng muốn thì cũng đừng đem áp dụng cho người
khác (Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân) (Luận ngữ). Có thể nói, Nhân là chuẩn

mực đạo đức chi phối mọi hoạt động, tính cách của con người. Do đó, con
người cần rèn luyện để có được đức Nhân trong mối quan hệ với chính mình
và với người khác.
Lễ là một chuẩn mực đạo đức gắn liền với Nhân. Lễ là gốc của Nhân,
Nhân là nội dung, Lễ là hình thức thể hiện của Nhân. Truớc hết, Lễ là những
chuẩn mực, quy tắc, yêu cầu có tính bắt buộc và ràng buộc đối với mọi hành
vi, ứng xử của con nguời trong các mối quan hệ xã hội cũng nhu trong các
hoạt động khác. Hơn nữa, Lễ còn là phạm trù chỉ trật tự, kỷ cuong của xã họi
mà mọi cá nhân, mọi giai cấp trong xã hội đều phải tuân theo. Nhấn mạnh vai
trò của Lễ trong viẹc trị nuớc, Khổng Tử cho rằng: Dẫn dắt dân bằng chính
pháp, sửa trị dân bằng hình phạt, thì dân chỉ tạm tránh khỏi tội lỗi, chứ khơng
có lịng hổ thẹn. Nếu dẫn dắt dân bằng đạo đức, sửa trị dân bằng lễ giáo thì
dân khơng những có lịng hổ thẹn mà cịn cảm hóa quy phục. Nhu vậy, Lễ


18

không chỉ là thước đo đánh giá đạo đức của con nguời mà Lễ cịn có tính
khun ran, ràng buọc con nguời; thực hành Lễ thường xuyên, hằng ngày để
trở thành thói quen đạo đức của cá nhân và xã hội sẽ góp phần giúp xã hội trật
tự, ổn định.
Nghĩa là việc nên làm hay việc phải làm là theo đúng lẽ phải, đạo lý,
lương tâm và bổn phận. Khổng Tử cho rằng, nguời ta hành đọng phải dựa vào
Nghĩa, phải vì Nghĩa, có nghĩa là điều gì nên làm thì làm, điều khơng nên làm
thì khơng làm. Với Khổng Tử, hành động theo Nghĩa thực chất là hành đọng
theo Nhân - Nghĩa là mọt biểu hiẹn của đức Nhân. Nói cách khác, trong đức
Nhân của Khổng Tử bao hàm cả đức Nghĩa. Nghĩa là tiêu chuẩn của hành vi
và cũng là kỷ cương khi thực hiện mọi việc. Nếu đức Nhân thể hiện trong mối
quan hệ với người khác thì đức Nghĩa thể hiện trong sự tự vấn lương tâm.
Trí theo quan điểm của Nho giáo là sự hiểu biết của con người về muôn

việc, muôn vật trong thiên hạ. Nói cách khác, Trí thể hiện ở chỗ biết phân biệt
một cách đúng đắn, rõ ràng điều phải - trái, đúng - sai. Theo Khổng Tử, nguời
có Nhân phải có Trí, vì có sáng suốt mới biết cách giúp ngu ời mà khơng hại
cho nguời, cho mình; mới biết phân biệt nguời chính trực và người bất liêm;
biết trọng dụng hiền tài. Để có Trí, Nho giáo khun con nguời cần phải học
tạp để hoàn thiẹn sự hiểu biết và nhân cách của bản thân. Mạnh Tử khẳng
định: học chẳng chán là Trí, dạy dỗ khơng mỏi là Nhân.
Tín là sự thành thực, thống nhất giữa lời nói và viẹc làm, góp phần
củng cố lịng tin giữa nguời với nguời. Đối với người cầm quyền, Tín có vai
trị đặc biệt quan trọng. Muốn đuợc dân tin thì nguời cầm quyền phải giữ chữ
Tín, phải thạn trọng trong lời nói và việc làm, lời nói phải hợp với hành động.
Theo Khổng Tử: Bậc quốc trưởng cai trị một nước có ngàn cỗ xe, làm việc gì
cũng phải kính cẩn mà giữ chữ tín thật, của cải dùng tiết kiệm và thương yêu
tất cả mọi người, khiến dân chúng phải đúng thời, đúng lúc (Luận ngữ).


19

1.2.1.2. Cái nhìn về nữ giới
Đối với nữ nhi, học thuyết Nho giáo cũng có nhiều quan niệm quy
định, chi phối đến cách nghĩ, cách ứng xử của con người đương thời, cụ thể
như về các vấn đề: tam tòng, tứ đức, trinh tiết, nữ sắc,…
* “Tam tòng”, “Tứ đức” là những chuẩn mực được đề cao
Nguồn gốc quan điểm này có từ trong học thuyết Nho giáo của Trung
Hoa cổ đại. Kể từ khi du nhập vào Việt Nam, tư tưởng “Tam tòng” đã thực sự
trở thành nghiêm lệnh gây ra nhiều bất lợi cho nữ giới. Trong Gia ngữ, tư
tưởng này được giải thích như sau: “Người phụ nữ là những người nghe theo
sự dạy bảo của người đàn ơng. Bởi vậy, đối với họ, khơng có sự tự chủ vốn có
mà chỉ có đạo “Tam tịng”. Khi còn nhỏ theo cha và những người anh trai
trong gia đình, khi đã kết hơn họ đi theo chồng và khi chồng chết họ đi theo

con trai của mình mà khơng tái giá”. Trong Lễ ký, “Tam tịng” được nói đến
với nội dung tương tự: “Người phụ nữ là những người đi theo người đàn ơng
suốt cuộc đời của mình: Khi còn nhỏ theo cha và những người anh trong gia
đình, khi đã kết hơn họ theo chồng, và khi chồng chết họ theo con trai của
mình. Người chồng ở đây có nghĩa là người chu cấp. Anh ta sử dụng sự hiểu
biết của mình để chỉ đạo dẫn dắt những người khác”. Như vậy, tư tưởng “Tam
tòng” thực chất là luật lệ nhằm bó buộc người phụ nữ, địi hỏi sự phục tùng
của người phụ nữ đối với đàn ông trong suốt ba giai đoạn của cuộc đời. Nó là
tư tưởng thể hiện đậm đặc địa vị thấp hèn và thân phận phụ thuộc của người
phụ nữ trong xã hội nam quyền.
Ở Việt Nam thời trung đại, tư tưởng “Tam tịng” đã ăn sâu vào tiềm
thức của tồn xã hội. Ngồi phần tích cực là giúp người phụ nữ tự rèn mình
theo tiêu chuẩn để hướng tới cái đẹp thì “Tam tịng” đã tạo ra áp lực buộc chặt
người phụ nữ vào những khuôn phép khắc nghiệt, khiến họ phải chịu nhiều
khổ đau, bất hạnh.


×