Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Luận văn thạc sỹ thế giới biểu tượng trong điêu tàn của chế lan viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (689.17 KB, 104 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN

NGUYỄN QUỐC TOÀN

THẾ GIỚI BIỂU TƢỢNG
TRONG ĐIÊU TÀN CỦA CHẾ LAN VIÊN

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8222012

Ngƣời hƣớng dẫn: TS. Võ Nhƣ Ngọc


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa được ai cơng bố trong
bất kì cơng trình nào.
Ngƣời cam đoan

Nguyễn Quốc Toàn


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề .....................................................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................5
4. Phương pháp nghiên cứu .....................................................................................5
5. Đóng góp của luận văn ........................................................................................6


6. Cấu trúc luận văn .................................................................................................6
Chƣơng 1. VẤN ĐỀ BIỂU TƢỢNG VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH BIỂU TƢỢNG
TRONG ĐIÊU TÀN ..................................................................................................7
1.1. Vấn đề biểu tƣợng trong văn hoá và văn học ..............................................7
1.1.1. Biểu tượng - từ góc nhìn văn hóa ..............................................................7
1.1.2. Biểu tượng - từ góc nhìn văn học ............................................................11
1.2. Đặc trƣng và chức năng của biểu tƣợng trong văn học ............................17
1.2.1. Đặc trưng của biểu tượng trong văn học .................................................17
1.2.2. Chức năng của biểu tượng trong văn học ................................................21
1.3. Cơ sở hình thành biểu tƣợng trong Điêu tàn .............................................24
1.3.1. Hiện thực cuộc sống và dấu ấn Chiêm Thành .........................................24
1.3.2. Tư duy tôn giáo và cảm quan triết mỹ .....................................................27
Chƣơng 2. GIÁ TRỊ BIỂU TRƢNG CỦA BIỂU TƢỢNG TRONG ĐIÊU TÀN..... 31
2.1. Biểu tƣợng gắn với sự tàn vong của Chiêm Thành ...................................31
2.1.1. Tháp Chàm ...............................................................................................31
2.1.2. Chiêm nữ..................................................................................................36
2.2. Biểu tƣợng gắn với sự hủy hoại của con ngƣời ..........................................40
2.2.1. Xương - máu ............................................................................................41
2.2.2. Hồn - Mộ ..................................................................................................45
2.3. Biểu tƣợng gắn với những chiều kích của vũ trụ ......................................50
2.3.1. Trăng - Sao...............................................................................................50


2.3.2. Hương - Hoa ............................................................................................54
Chƣơng 3. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG BIỂU TƢỢNG TRONG ĐIÊU TÀN59
3.1. Xây dựng biểu tƣợng bằng ngôn ngữ nghệ thuật tân kỳ ..........................59
3.1.1. Ngôn ngữ nghệ thuật ám gợi ...................................................................59
3.1.2. Thủ pháp tạo nghĩa phong phú ................................................................65
3.2. Xây dựng biểu tƣợng bằng tƣ duy nghệ thuật mới lạ ...............................71
3.2.1. Tư duy nghệ thuật tương phản .................................................................71

3.2.2. Tư duy nghệ thuật tương hợp ..................................................................79
3.3. Biểu tƣợng trong không gian và thời gian nghệ thuật ..............................84
3.3.1. Biểu tượng trong không gian nghệ thuật .................................................84
3.3.2. Biểu tượng trong thời gian nghệ thuật .....................................................88
KẾT LUẬN ..............................................................................................................92
CƠNG TRÌNH ĐÃ CƠNG BỐ LIÊN QUAN TRỰC TIẾP ĐỀ TÀI .................95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................96
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI LUẬN VĂN THẠC SĨ (BẢN SAO)


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Biểu tượng có một vị trí vơ cùng quan trọng trong đời sống con
người. Biểu tượng xuất hiện trong phong tục, tập quán, tơn giáo, tín ngưỡng, các
loại hình nghệ thuật… Vì biểu tượng tồn tại quanh chúng ta, nên việc giải mã
những ẩn ngữ do biểu tượng đặt ra là vô cùng cần thiết. Trong văn học, biểu
tượng được sử dụng như một mã nghệ thuật quan trọng, thể hiện cái nhìn độc
đáo của nhà văn về thế giới. Bản chất của văn học là phản ánh cuộc sống bằng
hình tượng, nên hình tượng, mà cao hơn là biểu tượng ln dồn nén các tầng
nghĩa, mở ra khoảng không cho tác phẩm. Việc sử dụng biểu tượng trong thơ đã
có từ rất sớm trong văn học Đông - Tây. Trong văn học Việt Nam, từ thời trung
đại, các nhà thơ thường sử dụng hình ảnh ẩn dụ để hướng đến nguyên tắc diễn
đạt theo tinh thần “ý tại ngôn ngoại”. Đến Thơ mới, biểu tượng mở ra một
khoảng chân không, trống trải, mời gọi sự liên tưởng của người đọc và xem nó
như một phương thức nghệ thuật để thể hiện những vấn đề cuộc sống.
1.2. Trong phong trào Thơ mới, Chế Lan Viên với tập Điêu tàn đã băng
qua bầu trời thi ca Việt Nam với vừng sáng huy hoàng, rực rỡ và rợn ngợp. Vừa
xuất hiện trong phong trào Thơ mới, Chế Lan Viên đã khiến bao người kinh

ngạc bởi cách cảm nhận thế giới bằng ấn tượng và trực giác, chiêm nghiệm và
triết lý; bởi cách xây dựng các lớp hình tượng mới mẻ bằng một thứ ngơn ngữ
biến hóa, độc đáo, quái đản và tân kỳ; bằng lối diễn đạt mới lạ, ám ảnh, giăng
mắc và mê hoặc. Đến với thế giới Điêu tàn của Chế Lan Viên, chúng ta như
bước vào “cái tháp Chàm chắc chắn, lẻ loi, bí mật” (Hồi Thanh), bước vào một
lâu đài kỳ diệu và bí ẩn mà càng tìm tịi khám phá, chúng ta càng phát hiện thêm
nhiều giá trị có ý nghĩa lớn lao về nội dung cũng như hình thức nghệ thuật…
1.3. Thơ Chế Lan Viên là một thế giới nghệ thuật đặc sắc và một trong
những khía cạnh của sự đặc sắc ấy phải kể đến hệ thống biểu tượng. Biểu tượng


2
thể hiện sức nghĩ, sức cảm của một tâm hồn thơ khơng ngừng tỏa sáng, góp phần
tạo nên sự đa dạng cho bộ mặt văn học nước nhà. Chính điều này đã cuốn hút
chúng tôi nghiên cứu Thế giới biểu tượng trong Điêu tàn của Chế Lan Viên. Đề
tài của chúng tôi không chỉ cho thấy các lớp ý nghĩa đằng sau hệ thống biểu
tượng trong thơ ông, mà qua đó cịn cho thấy những nỗ lực tìm kiếm những
phương thức nghệ thuật phù hợp để thể hiện những vấn đề mới của cuộc sống và
con người hiện đại.
2. Lịch sử vấn đề
Với sự nghiệp thơ ca dày dặn mang đậm hơi thở, tinh thần thời đại, Chế
Lan Viên nổi lên trong nền thơ ca Việt Nam như là một trong những hiện tượng
thơ mang tầm thế kỷ. Từng chặng đường thơ của ơng ln được nhiều nhà phê
bình văn học uy tín theo dõi sát sao. Hầu hết các nhà nghiên cứu về Chế Lan
Viên đều đánh giá ông là nhà thơ tài năng về mọi phương diện và phân tích đúng
đắn q trình sáng tác: sự chuyển biến tư tưởng, quan niệm và thi pháp biểu hiện
qua từng thời kỳ và khẳng định sự đóng góp đáng kể của Chế Lan Viên vào tiến
trình hình thành và phát triển của thơ ca Cách mạng. Riêng tập Điêu tàn, các
cơng trình nghiên cứu cũng được tiếp cận ở nhiều góc độ: có bài viết về tập thơ,
có bài viết về bài thơ, có bài nghiên cứu về ngơn ngữ, hình ảnh, thể loại… Xuất

phát từ mục đích nghiên cứu, góc độ nghiên cứu khác nhau, họ đã khám phá
được nhiều giá trị của tập thơ này, khẳng định được tầm vóc, vị trí, vai trị của
Chế Lan Viên trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
Riêng vấn đề nghiên cứu hình tượng và biểu tượng trong thơ Chế Lan Viên
nói chung, trong Điêu tàn nói riêng, cũng có một số cơng trình nghiên cứu đề cập.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Bình nhận xét: “Thế giới hình ảnh thơ Chế
Lan Viên thật phong phú: có hình ảnh tả thực, có hình ảnh biểu tượng, ẩn dụ, có
hình ảnh thuộc cảm nhận mơ hồ của cõi tâm linh” [31, 239].
Đoàn Trọng Huy trong cơng trình Nghệ thuật thơ Chế Lan Viên đã chia
hình ảnh đặc trưng cho thơ Chế Lan Viên gồm ba loại: hình ảnh vừa thực vừa ảo,


3
hình ảnh biểu tượng - tượng trưng, hình ảnh liên kết hay hình ảnh chùm [49, 57].
Nguyễn Văn Long chỉ ra phương thức xây dựng thế giới hình ảnh thơ Chế
Lan Viên trong Điêu tàn: “Khả năng sáng tạo hình ảnh đã bộc lộ ngay từ tập thơ
đầu tay: Điêu tàn. Nhưng Điêu tàn nghiêng về tạo hình ảnh bằng tưởng tượng,
thậm chí sa vào những hình ảnh qi dị, có màu sắc siêu thực” [61, 91].
Huỳnh Văn Hoa có nhận xét về hình ảnh thơ trong Điêu tàn: “Trong thơ
Chế Lan Viên có hai loại hình ảnh: một loại hình ảnh có tính chất hiện thực và
một loại hình ảnh có tính chất ẩn dụ tượng trưng. Loại thứ hai này mới là những
gì tiêu biểu cho thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên (…). Hầu hết hình ảnh
trong thơ ông, kể cả trước và sau năm 1945, đều cơ bản tồn tại dưới dạng biểu
tượng, tượng trưng, khái quát. Những xương, sọ đầu lâu, thành quách tượng đài,
tháp, tháng ngày biền biệt, mùa xuân, mùa thu...và những hình ảnh về đất nước,
con người, nhân dân (sau 1945)...đều mang giá trị ẩn dụ. Nói thơ của Chế Lan
Viên là thơ của hệ thống những biểu tượng, ẩn dụ khơng có gì là q đáng”
[43,156].
Nguyễn Bá Thành cắt nghĩa phương thức tạo nên vẻ đẹp độc đáo của biểu
tượng trong thơ Chế Lan Viên: “Chế Lan Viên có một lối liên tưởng tạo những

hình ảnh, những biểu tượng tượng trưng vừa sinh động cụ thể, vừa trừu tượng,
vơ hình, khó nắm bắt” [73, 184].
Ngơ Thị Kết sau khi chỉ ra sự vận động của cái tơi trữ tình thơ Chế Lan
Viên trước và sau cách mạng đã nhận định: “Do quan điểm sáng tác và nội dung
phản ánh khác nhau dẫn tới ý nghĩa hình ảnh khác nhau. Hệ thống hình ảnh ở
Điêu tàn gợi liên tưởng đến đau thương, hoang phế, đổ nát gắn với hình ảnh của
quá khứ, hình ảnh phi hiện thực. Trái lại, ở tập Ánh sáng và phù sa do thi sĩ đã
được ánh sáng tư tưởng của Đảng, phù sa của cuộc đời bồi đắp nên hình ảnh thơ
biểu tượng cho niềm vui của cuộc sống mới, gắn với tương lai tốt đẹp và gần gũi
với cuộc sống đời thường” [54, 80]. Tác giả cũng chỉ ra sự vận động của biểu
tượng thơ từ Điêu tàn đến Ánh sáng và phù sa có mối quan hệ trực tiếp với cái


4
tơi trữ tình: “Từ cái tơi cơ đơn buồn đau, bế tắc gắn với hình ảnh giàu sức biểu
tượng trong Điêu tàn, tới cái tơi hịa hợp riêng chung, trở về với nhân dân, đất
nước gắn với hình ảnh chân thực, mĩ lệ ở Ánh sáng và phù sa và cả hai tập
“Điêu tàn” và “Ánh sáng và phù sa” đều xuất hiện những hình ảnh mang ý nghĩa
biểu tượng” [54, 81].
Nghiên cứu về biểu tượng trong Điêu tàn, đáng chú ý nhất là Chế Lan Viên
thi sĩ tiền chiến của Hồng Diệp. Cơng trình này, Hồng Diệp đã minh xác tương
đối thuyết phục những nguyên lý, những chứng giải đưa đến sự hình thành của
những biểu tượng: “ma Hời”, “Tháp Chàm”, “Gạch Chàm”, “thành Bình Định” và
cuộc sống của nhà thơ ở Bình Định. Đồng thời, Hồng Diệp cũng có đề cập đến thế
giới của Cõi Ta - Cái ta, của âm phủ, của àu sắc và âm thanh hiện diện trong Điêu
tàn. Tác giả đánh giá rất cao sự hiện diện của Điêu tàn trên thi đàn dân tộc lúc bấy
giờ: “Với Điêu tàn, nghệ thuật thi ca của Chế Lan Viên đã đạt tới cao độ, ngoài
nhãn tuyến của chúng ta. Nó tích luỹ được cái dạt dào của thác đổ, cái mênh mơng
của đại dương. Nó đượm vẻ oai linh của núi rừng. Nó nhuốm màu thần bí của cõi
chết” [36, 132]. Tiếc rằng, những vấn đề Hoàng Diệp đề cập mới chỉ là căn

nguyên, là tiền đề hình thành các biểu tượng trong thơ chứ chưa đi vào làm rõ ý
nghĩa của những biểu tượng ấy trong Điêu tàn.
Điểm qua lịch sử vấn đề, có thể thấy rằng, thơ Chế Lan Viên nói chung,
tập Điêu tàn nói riêng được giới nghiên cứu, phê bình đặc biệt quan tâm. Càng
về sau, các cơng trình nghiên cứu về thơ Chế Lan Viên càng chuyên sâu hơn, đề
cập đến nhiều vấn đề tinh vi và phức tạp trong thơ ơng, trong đó có biểu tượng
trong Điêu tàn. Tuy nhiên, đó hầu hết là những bài viết ngắn, đề cập đến từng
khía cạnh nhỏ của vấn đề, chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách tồn
diện. Luận văn của chúng tơi là một hướng nghiên cứu, một đóng góp mới trên
cơ sở tiếp thu thành tựu của những người đi trước để tìm hiểu, khám phá sâu sắc
hơn, biện chứng hơn Thế giới biểu tượng trong Điêu tàn của Chế Lan Viên.


5
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Mục đích của đề tài là tìm hiểu thế giới biểu
tượng trong Điêu tàn, vì vậy đối tượng chính để khảo sát là tồn bộ các bài thơ
trong tập Điêu tàn Chế Lan Viên. Những tập thơ khác sau Cách mạng và các tác
phẩm văn xuôi, tiểu luận, phê bình, tạp văn của ơng được xem là tài liệu tham
khảo quan trọng, soi sáng nhiều vấn đề trong quá trình nghiên cứu.
- Phạm vi nghiên cứu: Tuy tìm hiểu thế giới biểu tượng trong Điêu tàn của
Chế Lan Viên trong tính chỉnh thể giữa nội dung và hình thức, nhưng luận văn
chỉ tập trung nghiên cứu trên những phương diện nổi bật nhất. Đó là: vấn đề biểu
tượng và cơ sở hình thành biểu tượng trong Điêu tàn của Chế Lan Viên; giá trị
biểu trưng cùng nghệ thuật xây dựng hệ thống biểu tượng gắn với cảm quan triết
mỹ của nhà thơ.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp văn học sử: Nghiên cứu một tác giả cụ thể, chúng tôi
không tách rời, biệt lập mà đặt trong mối quan hệ với trào lưu cùng thời. Vì văn
học là một quá trình lịch sử - hiện thực, một quá trình lịch sử - sáng tạo, cho nên

mỗi hiện tượng văn học thường có định hướng của cả phong trào. Tìm hiểu thế
giới biểu tượng trong Điêu tàn của Chế Lan Viên, chúng tôi đặt trong mối quan
hệ giữa tác giả và trào lưu, tác phẩm và thời đại…
- Phương pháp thi pháp học: Luận văn sẽ đi vào khảo sát tần số xuất hiện
hệ thống biểu tượng trở đi trở lại như ám ảnh nghệ thuật trong Điêu tàn của Chế
Lan Viên, và hệ thống các phương thức, phương tiện tham gia cấu thành chỉnh
thể nghệ thuật đó.
- Phương pháp liên ngành: Luận văn vận dụng yếu tố hỗ trợ của các
phương pháp nghiên cứu văn học khác như: văn hóa học, tâm lý học, phê bình
văn học, so sánh văn học, ngơn ngữ văn học… từ đó phân tích, tổng hợp, so sánh
để thấy được giá trị biểu trưng và nghệ thuật xây dựng thế giới biểu tượng trong
Điêu tàn của Chế Lan Viên.


6
5. Đóng góp của luận văn
- Chế Lan Viên là nhà thơ lớn của dân tộc, là hiện tượng thi ca độc đáo của
thế kỉ XX. Nhiều người đã quan tâm nghiên cứu thơ Chế Lan Viên từ rất sớm,
trong đó có một số bài nghiên cứu biểu tượng nghệ thuật thơ ơng. Nhưng nhìn
chung đó là những bài viết ngắn, đề cập từng yếu tố cụ thể của từng tác phẩm,
chưa có cơng trình nào nghiên cứu tồn diện. Luận văn là cơng trình chun biệt
đầu tiên nghiên cứu thế giới biểu tượng trong Điêu tàn của Chế Lan Viên.
- Luận văn lý giải mối liên hệ hữu cơ của hệ thống biểu tượng trong Điêu
tàn, tìm hiểu các nghệ thuật xây dựng thế giới biểu tượng đó trong mối quan hệ
biện chứng với lịch sử, thời đại.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài các phần: Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Nội dung luận văn
được triển khai theo ba chương:
Chƣơng 1: Vấn đề biểu tượng và cơ sở hình thành biểu tượng trong Điêu tàn
Chƣơng 2: Giá trị biểu trưng của biểu tượng trong Điêu tàn

Chƣơng 3: Nghệ thuật xây dựng biểu tượng trong Điêu tàn


7

Chƣơng 1
VẤN ĐỀ BIỂU TƢỢNG VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH BIỂU
TƢỢNG TRONG ĐIÊU TÀN
1.1. Vấn đề biểu tƣợng trong văn hố và văn học
1.1.1. Biểu tượng - từ góc nhìn văn hóa
Biểu tượng (tiếng Anh: symbol, tiếng Pháp: symbole) là một thuật ngữ
khoa học được sử dụng trong nhiều ngành với những nội hàm khác nhau. Khái
niệm này cũng được dùng rộng rãi diễn trình cuộc sống con người. Thời ngun
thuỷ, khi chưa có tư duy luận lí, con người tư duy thơng qua các biểu tượng.
Biểu tượng thời đó được dùng để chỉ một vật được cắt làm đôi: mảnh sứ, gỗ, kim
loại... Hai người (chủ - khách, người cho vay - người vay, hai kẻ hành hương,
hai người sắp chia tay lâu dài) mỗi bên giữ một phần. Sau này, ráp hai mảnh lại
với nhau, họ sẽ nhận ra mối dây liên hệ ngày trước. “Biểu tượng chia ra và kết
lại với nhau, nó chứa đựng ý tưởng phân li và tái hợp, mọi biểu tượng đều chứa
đựng dấu hiệu bị đập vỡ. Ý nghĩa của biểu tượng bộc lộ ra trong cái vừa gãy vỡ,
vừa là nối kết những phần của nó bị vỡ ra” [51, 23]. Điều này cũng có nghĩa là
với người xưa, biểu tượng là dùng để chỉ một vật, gọi tên một sự vật nào đó.
Biểu tượng là một trong những hình thức tín hiệu mà con người sử dụng để giao
tiếp. Như vậy, khi con người thốt thai khỏi lồi thú, cái gọi là biểu tượng đã tồn
tại như một bộ phận cấu thành đời sống tinh thần của con người. Về sau, khi tri
thức nhân loại đã đạt đến một trình độ nhất định để có thể ý thức được sự tồn tại
của biểu tượng và có nhu cầu khám phá nó, lúc đó biểu tượng được hiểu như là
những hình ảnh tượng trưng được cả một cộng đồng dân tộc (có khi hơn một dân
tộc) cùng chấp nhận và sử dụng rộng rãi trong một thời gian lâu dài.
Sự tạo thành biểu tượng trong tâm thức nhân loại là một q trình vơ thức,

nhưng tự bản thân chúng thể hiện nỗ lực của con người muốn xuyên qua bức
màn mờ mịt của hiện thực, vượt lên những kinh nghiệm cảm tính cá nhân đơn lẻ
để nhận thức về một thực tại siêu việt bị che lấp. Không phải ngẫu nhiên mà khát


8
khao khám phá những bí ẩn huyền nhiệm là khát vọng thường trực trong bản
tính con người.
Với con người hiện đại, thường xuyên sử dụng các biểu tượng, “chúng
khoác lên các ước mơ một diện mạo, chúng xúi giục một toan tính nào đó, chúng
nhào nặn một lối ứng xử, chúng khơi mào cho thành công hay thất bại” [51, 13].
Và biểu tượng trở nên quen thuộc trong đời sống hàng ngày cũng như trong
nghiên cứu khoa học. Khái niệm biểu tượng (symbole) xuất hiện lần đầu tiên
năm 1886 trong bài viết có tựa đề “Traitéduverbe” (khái luận ngơn từ) của René
Ghil và từ đó trở đi người ta bắt đầu quen dùng đến khái niệm này. Tuy nhiên,
khi bàn về khái niệm biểu tượng thì có rất nhiều cách hiểu, nhiều kiến giải khác
nhau, bởi chính khái niệm này có sự vận động, lại tồn tại trong những mơi
trường khác nhau và vai trị nó cũng khác “tại đây” và “lúc này”. Và các nhà
nghiên cứu đã cố gắng nhận ra được cái mẫu số chung và các sắc thái ý nghĩa
riêng của biểu tượng trong từng cách hiểu của mình.
Trong lĩnh vực văn hóa, C.G.Jung cho rằng: “Biểu tượng là hình ảnh thích
hợp để chỉ ra đúng hơn cả cái bản chất ta mơ hồ, nghi hoặc của tâm linh… Biểu
tượng khơng bó chặt gì hết, nó khơng cắt nghĩa, nó đưa ta ra ngồi chính nó đến
một ý nghĩa cịn nằm tận đến phía ngồi kia, khơng thể nắm bắt, được dự cảm
một cách mơ hồ và khơng có từ nào trong ngơn ngữ của chúng ta có thể diễn đạt
thỏa đáng” [51,198]. Biểu tượng vì vậy, đầy gợi cảm và sinh động, phong phú
hơn nhiều một dấu hiệu, ký hiệu đơn thuần. Hiệu lực của nó vượt ra ngồi ý
nghĩa, phụ thuộc vào cách giải thích, động lên các cấu trúc tinh thần làm phát lộ
những bí ẩn của vơ thức, của hành động, khai mở trí tuệ về cái chưa biết và cái
vơ tận.

Trong Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới, các soạn giả đã rất cố gắng
đưa ra cách hiểu về biểu tượng từ góc độ văn hố, trên cơ sở so sánh biểu tượng
với một số thuật ngữ mà hay bị lẫn lộn như: dấu hiệu (gồm biểu hiện, vật hiệu,
phúng dụ, ẩn dụ, loại suy, triệu chứng, dụ ngôn, ngụ ngôn luân lí) và kí hiệu. Từ


9
đó, họ đi đến kết luận: biểu tượng phong phú hơn một dấu hiệu, kí hiệu đơn
thuần. Và khi đề cập đến bản chất của biểu tượng thì họ cũng khẳng định “bản
chất khó xác định và sống động” bằng cách lần theo lịch sử và điểm qua một số
cách hiểu nổi bật về biểu tượng, chẳng hạn như cách hiểu của một số nhà phân
tâm học như S.Freud, C.G.Jung, R.de.Becker...
Theo Freud, “biểu tượng diễn đạt một cách gián tiếp, bóng gió và ít nhiều
khó nhận ra niềm ham muốn hay các xung đột. Biểu tượng là mối liên kết thống
nhất nội dung rõ rệt của một hành vi, một tư tưởng, một lời nói với ý nghĩa tiềm
ẩn của chúng” [51, 24]. Với cách hiểu này thì biểu tượng ln là những tiếng nói
của những ham muốn bị dồn nén (theo Freud, đó là những ham muốn tính dục),
những xung đột chìm sâu trong vơ thức của con người.
C.G.Jung, môn đệ xuất sắc của Freud, với hướng đi riêng của mình cũng
có rất nhiều đóng góp có giá trị trong kiến giải biểu tượng. Từ lí thuyết về vơ
thức tập thể, G.Jung cho rằng tất cả những biểu tượng của con người dù phong
phú đa dạng đến đâu, đều có cấu trúc là những mẫu gốc. Mẫu gốc là những vết
tích tâm lí hình thành từ thời ngun thuỷ, di truyền theo loài và tạo thành những
cấu trúc tâm thần gần như phổ biến của loài người. Biểu tượng mẫu gốc, do đó
nối liền cái phổ quát với cái cá thể. Và đây là cách định nghĩa của tác giả về biểu
tượng: “Biểu tượng là một hình ảnh thích hợp để chỉ ra đúng hơn cái bản chất ta
mơ hồ nghi hoặc của tâm linh... Biểu tượng không gắn bó chặt gì hết, nó khơng
cắt nghĩa, nó đưa ta ra bên ngồi chính nó đến một ý nghĩa cịn nằm ở tận phía
ngồi kia khơng thể nắm bắt, được dự cảm một cách mơ hồ và khơng có từ nào
trong ngơn ngữ của chúng ta có thể diễn đạt thoả đáng” [51, 24].

Cịn R.de.Becker thì lại “ví biểu tượng với một khối tinh thể phục nguyên
lại theo cách khác nhau, nguồn sáng tuỳ theo từng mặt tinh thể tiếp nhận ánh
sáng. Và ta cịn có thể nói nó là một thể sống, một mẫu của con người ta đang
chuyển động và biến đổi. Đến mức cứ nhìn ngắm nó, bắt nó như là đối tượng suy
ngẫm, thì cũng tức là ta đang nhìn ngắm chính cái quỹ đạo ta sắp lần theo, ta


10
nắm bắt cái hướng vận động đang lôi kéo con người ta đang đi tới” [51, 25]. Với
cách hiểu này, thì biểu tượng phụ thuộc vào chủ thể tiếp nhận, tức là nó chỉ tồn
tại ở bình diện chủ thể nhưng trên cơ sở bình diện khách thể. Và cũng do bản
chất sống động và biến đổi của biểu tượng, để nắm bắt được nó người đọc phải
tìm được “quỹ đạo” phải thực sự “sống” với nó thì mới có thể hiểu được nó.
Nghiên cứu biểu tượng văn hố khơng thể khơng bàn đến chức năng của
nó. Cũng trong cơng trình này, vấn đề chức năng của biểu tượng đã được
J.Chevalies đề cập đến một cách có hệ thống và tồn diện. Theo tác giả, biểu
tượng văn hố có các chức năng cơ bản sau: chức năng nhận thức (khám phá,
thăm dò, đưa dẫn đến cái chưa biết trong nhận thức về thực tại); chức năng biểu
hiện; chức năng trung chuyển (liên kết các yếu tố của đời sống văn hoá: con
người và vũ trụ, cái nội tại và cái siêu tại, giữa các góc độ tinh thần); chức năng
giáo dục và trị liệu (điều chỉnh và hoàn thiện nhân cách con người trong các mối
quan hệ nói trên); chức năng xã hội hoá (tạo ra đặc trưng của một thời đại, một
nền vă hoá, là cơ sở cho sự giao lưu, thẩm thấu của các nền văn hoá); chức năng
siêu nghiệm (thiết lập mối liên thông giữa các năng lực đối kháng tinh thần và từ
đó vượt lên mở đường cho sự tiến bộ của ý thức)... Chức năng của biểu tượng
thơ ca là sự hiện thực hoá các chức năng của biểu tượng văn hố thơng qua nghệ
thuật ngơn từ. Từ đó, họ khẳng định vai trị của biểu tượng “một thế giới khơng
có biểu tượng thì sẽ ngạt thở: nó sẽ tức thì giết chết đời sống tinh thần của con
người” [51, 32].
Trên đây là một số kiến giải về biểu tượng mà các soạn giả Từ điển biểu

tượng văn hố thế giới trích dẫn, những kiến giải này phần nào đã làm sáng tỏ
được bản chất của biểu tượng trong đời sống văn hoá. Tuy nhiên, họ cũng không
đưa ra được một định nghĩa, một khái niệm về biểu tượng mang tính cụ thể, xác
định, bởi họ quan niệm “khơng có cách gì định nghĩa được biểu tượng... Tự bản
chất của nó, nó phá vỡ các khuôn khổ định sẵn và tập hợp các thái cực lại trong
cùng một ý niệm” [51, 14]. Và họ còn khẳng định “việc hiểu biểu tượng phụ


11
thuộc vào một sự tiếp nhận trực tiếp nào đó của ý thức nhiều hơn là vào các môn
học thuần lí... Lối phân tích bằng cách cắt vụn và đập nhỏ ra không thể nắm bắt
được sự phong phú của biểu tượng, trực giác không phải bao giờ cũng đạt được
điều đó; phải tổng hợp và đồng cảm hết mực nghĩa là chia sẻ và cảm nghiệm một
cách nhìn nào đó về thế giới... Mỗi biểu tượng là một vũ trụ vi mơ, một thế giới
tồn vẹn. Khơng thể nắm bắt được cái ý nghĩa tồn vẹn bằng cách tích luỹ các
chi tiết theo lối phân tích: cần có cái nhìn gần như là nhất lãm” [51, 27]. Như
vậy, ta cũng thấy rằng, để định nghĩa và hiểu thấu đáo được biểu tượng là điều
không phải dễ dàng.
Các ngành khoa học xã hội và nhân văn trong hành trình phát triển của
mình có sự gặp gỡ nhau ở biểu tượng. Biểu tượng là chiếc cầu nối văn hố, văn
học, tín ngưỡng, tơn giáo, tâm lí học..., bởi rằng đây là những lĩnh vực khác nhau
những hình thái khác nhau phản ánh thế giới tâm linh con người. Khó mà hiểu
sâu sắc biểu tượng trong riêng một lĩnh vực nào đó nếu khơng đặt nó trong mối
quan hệ liên tưởng đối chiếu rộng rãi với các lĩnh vực khác.
1.1.2. Biểu tượng - từ góc nhìn văn học
Thế giới biểu tượng trong văn chương vô cùng phong phú. Từ những sự
vật nhỏ như chiếc gương, ngọn đèn... cho đến những sự vật lớn như núi sơng,
biển...; từ cái bình thường nhất: khăn, nón, áo... cho đến cái sang trọng giá trị
nhất: ngọc, vàng, bạc...; từ thực vật: hoa sen, hoa lan, hoa huệ, cây liễu, cây đa...
cho đến các động vật: con cò, con kiến, con quạ...; từ những thi liệu văn học bình

dân: cái giếng, hạt mưa... đến những thi liệu văn chương bác học: phụng hoàng,
loan, phượng...; và những cái có thể xem là ghê rợn: sọ người, máu, hồn...; từ
những bộ phận thân thể của con người, kể cả những bộ phận kín đáo nhất... tất cả
đi vào văn chương một cách hết sức tự nhiên và đều có thể trở thành biểu tượng.
Những hình ảnh đó đều nhằm một mục đích: làm thế nào để thể hiện tốt nhất,
sâu sắc nhất tâm tư, tình cảm, thế giới tâm trạng của con người.


12
Như ta đã biết, chất liệu trực quan ban đầu của biểu tượng không phải là
ngôn từ mà là các vật thể, hành động, trạng thái cụ thể... nhưng có khả năng biểu
hiện một ý nghĩa rộng hơn chính bản thân nội dung trực tiếp của hình thức cảm
quan cụ thể ấy. Và khi đi vào văn học, chúng trở thành những hình ảnh, hình
tượng và cao hơn là những biểu tượng. Như vậy, hình tượng, biểu tượng trong
văn học chính là sự chuyển hố các hệ biểu tượng này vào hình thức âm thanh
ngơn ngữ. Chúng là phi vật thể nhưng lại có khả năng gợi ra cái bản thể sự vật
hiện tượng, hành động dựa trên sự kích thích của trí tưởng tượng độc giả. Nhưng
cũng dưới góc độ văn học, ta cũng cần thấy rõ được nét khác biệt giữa hình
tượng và biểu tượng.
Trong văn học, biểu tượng khơng đồng nhất với hình tượng. Hình tượng là
phương tiện cơ bản để khái quát hiện thực. Từ điển thuật ngữ văn học định
nghĩa: “Hình tượng nghệ thuật là sản phẩm của phương thức chiếm lĩnh, thể hiện
và tái tạo hiện thực theo quy luật của nghệ thuật... Bất cứ hiện tượng nào của đời
sống được nghệ sĩ tái hiện một cách sáng tạo trong tác phẩm nghệ thuật, đều là
hình tượng nghệ thuật” [42,122]. Tác giả Sơn Tùng trong bài viết Hình tượng
nghệ thuật trong văn học cũng khẳng định: “hình tượng nghệ thuật là một hình
thức đặc biệt phản ánh hiện thực khách quan, thể hiện cái bản chất, cái quy luật
trong những hình tượng cụ thể, những nhân vật cá biệt. Nó là một bức tranh sinh
động, tổng hợp hoàn chỉnh về đời sống và con người do nhà văn sáng tạo ra để
đem lại cho người đọc một ấn tượng và một cảm xúc sâu sắc về đời sống và con

người, làm cho người đọc nhận thức được chân lí của đời sống, nâng cao được tư
tưởng và tình cảm... [78, 74].
Như vậy, hình tượng là một hình thức, một phương tiện để phản ánh hiện
thực. Tuy nhiên, không thể đồng nhất một cách máy móc cái được thể hiện trong
tác phẩm với hiện thực khách quan. Bởi vì, khác với phản ánh thơng thường,
phản ánh nghệ thuật không phải là sự sao chép, chụp ảnh hiện thực mà là một sự
phản ánh năng động, sáng tạo đầy tính chủ quan. Và nghệ thuật cũng không thể


13
ơm trùm, chiếm lĩnh đời sống trong tồn bộ q trình của nó, vì hiện thực là cái
gì vơ cùng đa diện, phức tạp biến hố vơ cùng, ln vận động và biến chuyển.
Phản ánh nghệ thuật cũng chỉ chiếm lĩnh được vài khía cạnh nào đó của chân lí
khách quan, nhưng với vai trò sáng tạo cao độ của chủ thể, hiện thực được chiếm
lĩnh kia được nhào nặn tái tạo thành một sinh thể có sức sống nội tại, một “tiểu
vũ trụ” với chiều sâu vô tận những quy luật, những q trình sinh hố khơng
ngừng. Hiện thực trong tác phẩm khơng cịn là hiện thực khách quan nữa mà
thấm đẫm chủ quan nghệ sĩ. Và khi đó, người ta ngầm định mỗi tác phẩm là một
thế giới mang tính biểu tượng, chấp nhận những quy luật riêng, những ngun
tắc, những tỉ lệ riêng của cái mơ hình về đời sống đó. Chỉ với hình thức mang
tính biểu tượng như thế, văn học nghệ thuật mới có thể chiếm lĩnh được những
chân lí phổ quát ở dạng sinh động cụ thể, cảm tính. Như vậy, ở đây, tính biểu
tượng là một đặc trưng mang bản chất của hình tượng nghệ thuật làm cho hình
tượng là sự phản ánh hiện thực nhưng khơng bao giờ là chính bản thân hiện thực.
Vậy thì, giữa biểu tượng và hình tượng nghệ thuật có mối liên hệ gì với
nhau hay thực chất chúng là một? Trong giới nghiên cứu, có ý kiến cho rằng sự
khác nhau cơ bản giữa hình tượng và biểu tượng là ở tần số lặp lại, hình tượng
xuất hiện nhiều lần thì được gọi là biểu tượng, Hồ Lê đã cho rằng biểu tượng là
“tập hợp vững chắc của nhiều hình ảnh khác nhau” [47, 70]. Cũng có ý kiến
ngược lại, những hình tượng thể hiện chủ đề chính của tác phẩm thì gọi là biểu

tượng... Nhìn chung, những ý kiến đó, chưa cho thấy rõ mối quan hệ giữa chúng,
và trong thực tế, nhiều khi các thuật ngữ này bị dùng lẫn lộn. Chúng ta có thể
hiểu “Biểu tượng và hình tượng là hai cấp độ khác nhau. Biểu tượng thuộc cấp
độ bản thể và hình tượng là cấp độ biểu hiện của biểu tượng ấy trong một ngữ
cảnh cụ thể... Biểu tượng là chung, là tiềm ẩn, hình tượng là cá thể, là biểu hiện...
Biểu tượng phổ biến, khả biến, hình tượng độc đáo đơn nhất, sống động không
lặp lại”. (Thái Thị Phương Chi). Tác giả Bùi Công Hùng không những chỉ ra
điểm khác nhau mà còn thấy được mối quan hệ giữa chúng: “biểu tượng có phần


14
mơ hồ biến đổi, một phần nào thuộc vào vô thức, tiềm ý thức, đến từ bản năng
của cơ thể con người. Biểu tượng cũng góp phần lớn chuyển sang hình ảnh. Hình
tượng định hình in trên bề mặt bài thơ, câu thơ. Muốn tìm hình tượng đó thì chỉ
cần đọc bài thơ, câu thơ là tìm được. Cịn biểu tượng có khi cịn lại, có khi đã
biến mất, hồ vào hình tượng rồi” [47, 70].
Quả thật, giữa hai cấp độ này vừa có điểm khác nhau, vừa có mối quan hệ
với nhau, biểu tượng sẵn có là tài sản chung của mọi người, hình tượng khai thác
biểu tượng trong nghệ thuật qua quá trình chuyển nghĩa, bổ sung ý nghĩa cho biểu
tượng. Hình tượng là biểu tượng từ bình diện văn hố chuyển sang bình diện chủ
thể, cá thể, hiện tại. C.Jung nhận xét: “Tác phẩm hiện ra trước mắt chúng ta là hình
tượng được chế tác theo nghĩa rộng nhất của từ này. Hình tượng này có thể phân
tích được chừng nào chúng ta có khả năng nhận biết biểu tượng trong nó. Ngược lại
khi ta khơng đủ sức khám phá ý nghĩa biểu tượng của nó, vậy là ta thừa nhận ít nhất
đối với chúng ý nghĩa tác phẩm chỉ là ở cái nó nói ra một cách rõ rệt, hay nói cách
khác nó đối với ta chỉ có thế” [65, 77]. Như vậy, những hình tượng nghệ thuật có ý
nghĩa tượng trưng thì cũng chính là biểu tượng.
Tuy nhiên, theo Trần Đình Sử, khơng phải hình tượng nghệ thuật thực sự
nào cũng có ý nghĩa tượng trưng. Hegel nói: “Hình tượng với tư cách là tượng
trưng mà biểu hiện ra là một tác phẩm nghệ thuật được sáng tạo, một mặt vừa

cho thấy đặc điểm của nó, mặt khác lại bộc lộ một ý nghĩa phổ biến sâu rộng hơn
cái sự vật cá biệt được miêu tả ra. Do đó... hình tượng tượng trưng giống như là
một câu đố địi hỏi chúng ta đi tìm kiếm cái ý nghĩa nội tại đằng sau hình tượng”.
Học giả Mỹ Laorenxơ Perine trong bài Âm thanh và ý nghĩa của thơ thì định
nghĩa gọn hơn: “Tượng trưng là cái vật nào đó có một ý nghĩa rộng lớn hơn
chính nó” [67, 60].
Như vậy, mặc dù ở hai cấp độ khác nhau nhưng những hình tượng nghệ
thuật nào có ý nghĩa tượng trưng vẫn được xem là biểu tượng. Biểu tượng là loại
hình tượng thiên về ý nghĩa tượng trưng, cái ý nghĩa vượt thốt ra ngồi mặt cảm


15
tính cụ thể của hình tượng. Nói cách khác, cái cảm tính, cụ thể ở đây đóng vai
trị “ám thị” gợi thức sự cảm nhận về một hiện tượng mang tầm phổ quát. Biểu
tượng là một sự khái quát đầy năng động cho ta chiếm lĩnh thực tại trong chiều
sâu bản chất của nó mà khơng làm mất đi sự cảm thụ sống động tinh tế như ấn
tượng tươi mới về hiện thực. Biểu tượng nghệ thuật phải trải qua sự nhào nặn,
tinh chế, mài giũa của người nghệ sĩ và phải đạt đến trình độ cao trong khái quát
hiện thực, chạm đến những miền mơ hồ sâu xa trong tâm thức nhà văn và gợi nó
ra dưới một hình thức cảm tính, nó phải có khả năng nhận thức, lây lan tạo cộng
hưởng mạnh mẽ trong lịng người đọc.
Ngồi ra, nét đặc trưng của biểu tượng còn thể hiện trong cấu trúc, trong
phương thức xây dựng nên nó. Khi ngữ cảnh trực tiếp của tác phẩm càng mơ hồ
thì ý nghĩa tượng trưng của hình tượng càng cao. Bởi vậy, so với các loại hình
tượng khác, biểu tượng được nuôi sống trong một “dung môi” đặc biệt. Ngữ
cảnh thường bị làm cho mờ nhoè, những chi tiết hình ảnh cụ thể được tổ chức
nhằm cố định hoá, vĩnh viễn hoá những ấn tượng của nhà văn về cuộc sống. Ở
đây, tính ước lệ ngay từ đầu đã được tơ đậm, được nhấn mạnh tạo nên một thế
giới mang tính biểu trưng cao độ. Có thể nói, biểu tượng là sự thể hiện rõ nhất
tính mơ hồ đa nghĩa của văn học, nó thu hút người đọc đi vào một cuộc tìm tịi

bất tận về ý nghĩa cuộc đời.
Biểu tượng cũng khác với ẩn dụ. Cùng là giá trị nhận thức cảm tính nhưng
sự tồn tại của ẩn dụ thường chỉ tồn tại trong một hình thức biểu đạt cụ thể, trong
một văn cảnh nhất định, trong khi biểu tượng lại vượt qua khuôn khổ của sự biểu
đạt, biểu nghĩa. Rất nhiều nhà nghiên cứu văn học dân gian dựa vào những đặc
trưng biểu hiện cơ bản của biểu tượng và ẩn dụ để phân biệt chúng với nhau:
I.Êrêmina cho rằng: “Ẩn dụ là thơ ca dân gian được sinh ra tức thời và mất đi
khá nhanh. Biểu tượng được hình thành trong q trình lâu dài và sau đó sống
hàng trăm năm. Ẩn dụ là yếu tố biến đổi, cịn biểu tượng thì khơng đổi, bền
vững. Ẩn dụ là một phạm trù thẩm mĩ và phần lớn tự do tách khỏi phong cách


16
ước lệ. Biểu tượng thì ngược lại, được giới hạn nghiêm túc bởi hệ thống thơ ca
xác định” [80,11]. Phạm Thu Yến dựa trên ý kiến của V.I. Êrêmina và bổ sung
làm rõ thêm sự khác nhau giữa biểu tượng và ẩn dụ: “Biểu tượng mang tính ký
hiệu, tính quy ước, nghĩa là chỉ cần nêu hình ảnh biểu tượng lên người đọc đã
hiểu cái mà nó biểu trưng, cịn ẩn dụ tự do hơn, thường được tạo ra không phải
chỉ bằng một hai hình ảnh mà phải bằng vài ba hình ảnh. Vì thế, các yếu tố phải
dựa vào nhau để giải mã ẩn dụ. Ẩn dụ linh hoạt nhưng không bền vững bằng
biểu tượng” [80, 13].
Trong tác phẩm văn học, biểu tượng được chuyển hóa thành hình tượng nghệ
thuật cụ thể thơng qua ẩn dụ, hốn dụ, tượng trưng. Tuy nhiên, khơng phải những
ẩn dụ, hốn dụ nào đó cũng có tính biểu tượng, ở cấp độ biểu hiện của biểu tượng
(những ẩn dụ, hoán dụ, so sánh chỉ là sản phẩm riêng của cá nhân, của một tác giả).
Vũ Thị Ngọc Điệp cho rằng: xét về tu từ học, biểu tượng là những hình ảnh ẩn dụ
hay những tượng trưng. Người ta quy ước ngầm với nhau: từ ngữ này có thể được
dùng để biểu thị một số đối tượng khác ngồi nội dung ngữ nghĩa thơng thường của
nó. Trong ca dao, biểu tượng chủ yếu được tạo nên bởi các biện pháp tu từ: ẩn dụ,
so sánh, hốn dụ. Những hình ảnh được sử dụng trong phép tu từ được xuất hiện

nhiều lần đến mức khi thoát khỏi các văn cảnh cụ thể người ta vẫn cảm nhận được ý
nghĩa biểu trưng của nó. Lúc đó ta có biểu tượng .
Như vậy biểu tượng và một số biện pháp tu từ tiếng việt (ẩn dụ, hoán dụ) có
những điểm giống, bởi nó đều là những phương thức biểu hiện ý nghĩa tượng
trưng nhưng biểu tượng rộng lớn và có ý nghĩa khái quát hơn so với các biện
pháp tu từ. Các biện pháp tu từ chỉ mang ý nghĩa tượng trưng trong những văn
cảnh cụ thể. Một biểu tượng có thể có một hoặc nhiều tầng nghĩa. Nghĩa của
biểu tượng nhiều tầng bậc khó nắm bắt, mặt khác những lớp nghĩa này thường
đan xen và tồn tại trong nhiều hướng vừa biểu hiện vừa phát sinh, cấu thành
hướng nghĩa mới. Nhiều khi mỗi nét ý nghĩa trong một hướng nghĩa lớn của một
biểu tượng chính là một ẩn dụ hay là một hoán dụ trong những văn cảnh nhất
định. Vì vậy, mỗi biểu tượng có thể là một hoặc nhiều ẩn dụ, hay hoán dụ
(nhưng mỗi ẩn dụ, hốn dụ khơng phải lúc nào cũng là một biểu tượng).


17
Khi nói đến tính mơ hồ đa nghĩa, cái tính chất tạo nên sự mê hoặc, sức thu
hút kì lạ của văn học, nói đến tính nghệ thuật của một tác phẩm văn học, cái địa hạt
riêng của cuộc sống mà chỉ văn học mới chạm tới được, thì chúng ta không thể
không xét đến biểu tượng như một phương thức biểu hiện đặc biệt của văn học.
Cuộc sống với muôn vàn sắc thái, trạng huống, là nguồn cảm xúc vô tận
ùa phả vào tâm hồn nghệ sĩ vốn dĩ nhạy cảm tinh tế. Thế giới khách quan rộng
lớn bao nhiêu thì đời sống sáng tác của người nghệ sĩ phong phú, đa sắc bấy
nhiêu. Hơn nữa, lăng kính nghệ thuật của người nghệ sĩ không lặp lại, họ là
những cá thể riêng, những cá tính riêng. Và cách nhìn, cách cảm cách xử lí ngơn
ngữ của họ cịn bị chi phối, ảnh hưởng mạnh mẽ từ văn hoá dân tộc. Điều này
phần nào lí giải vì sao cùng một biểu tượng lại có cách hiểu khác nhau ở từng đất
nước, ở từng người nghệ sĩ.
Biểu tượng là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của các ngành
khoa học khác nhau như tâm lý, văn hóa, ngơn ngữ... Những quan điểm, những

cách tiếp cận biểu tượng từ những bình diện khác nhau của các nhà nghiên cứu
là một trong những cơ sở quan trọng để chúng tôi triển khai luận văn này.
1.2. Đặc trƣng và chức năng của biểu tƣợng trong văn học
1.2.1. Đặc trưng của biểu tượng trong văn học
Trong văn học, biểu tượng được xem như một phương thức tư duy nghệ
thuật của nhà thơ, nhà văn. Khơng có biểu tượng, khơng có văn học. Biểu tượng
trong văn học vừa mang những đặc trưng của biểu tượng nói chung vừa mang
những đặc điểm riêng, độc đáo, gắn với loại hình thể hiện.
Thứ nhất, biểu tượng trong văn học có tính ổn định tương đối. Khởi ngun
của biểu tượng là một vật được cắt ra làm đôi và giao cho hai bên, mỗi bên giữ
một nửa, sau này hai bên giáp lại và đó là cơ sở để nhận ra nhau (cha mẹ nhận ra
con cái, những người đính ước nhận ra nhau...). Vì vậy, giữa hai mặt biểu tượng:
mặt biểu trưng và mặt được biểu trưng có quan hệ nội tại với nhau. Biểu tượng dù
có đa dạng, phong phú ý nghĩa đến đâu thì vẫn mang tính ổn định tương đối. Có


18
điều này là do phần nhiều biểu tượng văn học được xây dựng từ các mẫu gốc.
Mẫu gốc (còn gọi là nguyên mẫu, nguyên sơ tượng, nguyên tượng) là
những hình tượng xuất hiện sớm nhất, để lại dấu ấn trong tín ngưỡng dân gian,
văn hóa dân gian như các lễ hội, thần thoại, truyền thuyết... Các mẫu gốc mang
tính phổ quát, có khả năng sản sinh ra các hệ biểu tượng, “mẫu gốc giống như
những nguyên mẫu của các tập hợp biểu tượng ăn sâu trong ý thức đến nỗi
chúng trở thành một cấu trúc, như những kí tích” [51, 21]. Những biểu tượng
gốc này là những biểu tượng cổ xưa nhất. Chúng thường được xuất hiện trong
các tác phẩm ra đời sớm, vào giai đoạn đầu của lịch sử xã hội loài người (thần
thoại, dân ca nghi lễ, sử thi…). Các biểu tượng gốc này đa phần mang tính chất
hoang đường, được biểu hiện bằng các yếu tố phi hiện thực. Bởi vậy, dù ở Việt
Nam, Ấn Độ hay Trung Quốc thì “hoa sen” vẫn là biểu tượng cho sự thanh cao,
thoát tục. Nhiều nước trên thế giới, “chim bồ câu” biểu tượng cho hịa bình;

“màu đen” là tượng trưng cho bóng tối, cái ác, sự tang tóc...
Từ biểu tượng gốc sinh ra biểu tượng ước lệ (biểu tượng phái sinh). Chính
biểu tượng ước lệ này đã làm mất đi tính bền vững trong ngữ nghĩa của biểu
tượng gốc. Nó là quy ước do con người tiếp tục sáng tạo trên cơ sở các biểu
tượng gốc trong quá trình phát triển của đời sống văn hố xã hội. Nói cách khác,
nó là những nhánh phái sinh tiếp theo nhằm bồi đắp thêm những lớp nghĩa mới
từ hệ biểu tượng ban đầu. Những biểu tượng phát sinh cơ chế ý nghĩa thường
được xây dựng trên mối liên hệ tương đối logic, có lý do giữa cái được biểu
trưng và vật biểu trưng. Nó thường được ra đời muộn và mang đậm hơi thở của
hiện thực cuộc sống. Từ mẫu gốc “nước” sản sinh ra các biểu tượng biến thể
như: theo khơng gian của nước có: biển, sơng, hồ...; theo trạng thái sự vật của
nước có: mây, mưa, sương, tuyết... Biểu tượng phái sinh này thường mang dấu
ấn sáng tạo của người nghệ sĩ. Ví dụ, những biểu tượng gốc như “hang”, “động”,
“khe”, “giếng”, “hầm”… (âm vật); “sừng”, “chày”… (dương vật); “đánh đu”,
“giã gạo”… (hành động tính giao) mang ý nghĩa phồn thực cả trong văn bản thơ


19
Hồ Xuân Hương lẫn trong ngôn ngữ thường ngày. Biểu tượng phái sinh như “cái
quạt”, “miệng túi càn khôn”… (âm vật); “con suốt”, “đầu sư”, “cán cân”, “dao
cầu”… (dương vật); “dệt cửi”, (ong) châm, (dê) húc… (hành động tính giao) là
sáng tạo riêng của cá nhân Hồ Xuân Hương. Biểu tượng phái sinh chỉ có ý nghĩa
phồn thực trong thơ Hồ Xn Hương, cịn ngồi vùng phủ sóng trong thơ nữ sĩ
họ Hồ, trong lời ăn tiếng nói hằng ngày, nó khơng hề gợi đến cái ấy, chuyện ấy.
Thứ hai, biểu tượng trong văn học kết tinh bản sắc dân tộc. Điều này hồn
tồn có cơ sở vì biểu tượng ln nằm ở vị trí trung tâm của đời sống văn hố.
Khám phá thế giới biểu tượng, người ta có thể nhận ra màu sắc, tính chất, đặc
điểm riêng của bất kỳ một nền văn hoá dân tộc nào. Bản sắc văn hố dân tộc bao
gồm những mặt được hình thành và gắn bó với dân tộc từ thuở xa xưa, duy trì
theo q trình lịch sử. Đó là đặc điểm, tính cách, phẩm chất, kiểu quan hệ hay

kiểu lựa chọn riêng của một cộng đồng về phương thức ứng xử nào đó, khiến
cho mỗi dân tộc hiện lên với những nét ứng xử độc đáo nhằm phân biệt với dân
tộc khác. Hơn nữa, biểu tượng hình thành nên các khn mẫu văn hố. Khn
mẫu này trở thành chuẩn mực văn hoá của mỗi cộng đồng, làm nên sắc thái riêng
của mỗi nền văn hoá. Văn học là thành tố quan trọng của nền văn hố dân tộc. Vì
vậy, muốn tìm hiểu cái riêng của mỗi một tác giả, một giai đoạn hay một nền văn
học, cần chú ý khám phá hệ thống biểu tượng của tác giả, giai đoạn văn học, nền
văn học đó.
Để thực hiện chức năng phản ánh đời sống của mình, văn học sáng tạo ra
hệ biểu tượng. Tuy nhiên, ở mỗi quốc gia dân tộc, hệ biểu tượng ấy lại mang
những đặc trưng riêng. Ví dụ, trong các thể loại trữ tình dân gian Nga, “cây táo
trổ hoa” là biểu tượng cho sắc đẹp tuổi thanh xuân, “chim ưng” là biểu tượng
cho sức mạnh và lòng dũng cảm, cho sức mạnh, “chim họa mi” là biểu tượng
cho hạnh phúc, tình yêu, niềm tin… [58, 50]. Trong thơ cổ Trung Quốc, “mây
trắng giữa bầu không” là biểu tượng mang ý vị triết học về thần thái và dáng dấp
của một tâm hồn nhàn tản, phiêu diêu, đi một mình bên trên cuộc đời; về sự tồn


20
tại mơ hồ của con người trước cõi hư không, về nỗi khắc khoải siêu hình.
“Nhành liễu” là tượng trưng cho người con gái, cho sự chia ly:
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
Xuân nhật ngưng trang thướng thúy lâu
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu
(Kh ốn - Vương Xương Linh)
Trong một khía cạnh khác, biểu tượng cịn mang đặc trưng xã hội hố. Nó
tạo ra sự lưu thơng sâu sắc với mơi trường xã hội, kéo con người lại gần nhau
hơn. Biểu tượng là công cụ để mỗi cá nhân, mỗi dân tộc thấu hiểu nhau hơn. Bởi
lẽ, các biểu tượng nghệ thuật được phát sinh từ toàn bộ đời sống tinh thần của

con người. Trên cơ sở nảy sinh từ mẫu gốc, khi không ngừng được tái sinh và
sáng tạo, biểu tượng mang ý nghĩa đa dạng khác nhau ở mỗi dân tộc khác nhau.
Sự phát triển ý nghĩa càng được phân nhánh đa dạng nếu chúng được thực hiện ở
mỗi cá nhân. Như vậy, xem xét biểu tượng từ góc nhìn văn hố giúp người
nghiên cứu có thể khám phá những vẻ đẹp và giá trị của các nền văn hoá trong
suốt chiều dài lịch sử dân tộc và nhân loại. Đây cũng là lý do giải thích vì sao
cách tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hố ngày càng được các nhà nghiên cứu
quan tâm.
Thứ ba, biểu tượng trong văn học mang tính kế thừa và sáng tạo. Trong
văn học, quá trình đổi mới, cắt nghĩa ký hiệu và sáng tạo ra những ký hiệu mới
diễn ra thường xuyên. Quy trình ấy vơ tình tạo nên cái lặp lại và cái không lặp
lại. Biểu tượng cũng là ký hiệu của giao tiếp, do đó, khi xây dựng biểu tượng,
ngồi việc kế thừa những nét truyền thống, phải có sự cách tân, phát triển thêm ý
nghĩa mới. Trong ca dao Việt Nam, biểu tượng cho tình yêu nam nữ thủy chung
son sắc là “thuyền - bến”, “trầu - cau”…; biểu tượng cho tình nghĩa mẹ cha là
“núi cao”, “biển cả”, “nước trong nguồn”... Đến Nguyễn Bính, biểu tượng “con
thuyền”, “dịng sông” cũng đã khác với ca dao rất nhiều. “Cánh buồm” của con
thuyền xuất hiện trong thơ của thi sĩ chân quê hư hư thực thực. Một cánh buồm


21
mà mở cả thời gian, không gian chia ly, chất chứa rất nhiều tâm trạng, sự xót xa,
tiếc nuối:
Anh đi đấy, anh về đâu?
Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm
(Cánh buồm nâu - Nguyễn Bính)
Hay trong thơ Nguyễn Du, “trăng” là thế giới của tâm tư biểu tượng cho
tình yêu bị chia cắt, cho sự bơ vơ, cô quạnh: “Vầng trăng ai xẻ làm đôi - Nửa in
gối chiếc, nửa soi dặm trường” (Truyện Kiều). Trong Thơ mới, “trăng” gắn liền
với cảm xúc thời đại, với linh hồn cô đơn, với khát khao hoà nhập (Hàn Mặc Tử,

Xuân Diệu). Đến thơ Cách mạng, “trăng” biểu tượng cho hồ bình và báo hiệu
niềm vui trong tâm hồn người chiến sĩ…
1.2.2. Chức năng của biểu tượng trong văn học
Biểu tượng là một loại năng lượng đặc biệt dồn nén sức mạnh to lớn. Nó
có một những chức năng cơ bản sau:
Thứ nhất, biểu tượng trong văn học có khả năng tái sinh liên hồi từ cái
biểu đạt đến cái được biểu đạt. Ý nghĩa của biểu tượng khơng hề khép kín mà nó
là một cấu trúc mở có nhiều tầng bậc, có khả năng gợi liên tưởng lớn. Các nhà
văn, nhà thơ lấy chất liệu từ kho tàng biểu tượng văn hóa của nhân loại rồi nhào
nặn lại tạo cho biểu tượng thêm những lớp nghĩa mới. Hơn nữa, như trên đã nói,
trong mơi trường văn hóa, văn học của mỗi quốc gia, mỗi thời đại, ở từng tác giả
khác nhau, biểu tượng lại mang trong mình những ý nghĩa đặc trưng. Nói cách
khác, biểu tượng trong văn học ln vượt lên tính trực quan của biểu tượng rút
gọn và tính ước lệ của biểu tượng quy ước để gợi mở những xúc cảm thẩm mĩ,
làm giàu thêm tư tưởng bạn đọc. Một mặt, biểu tượng mang những đặc trưng của
nghệ thuật ngơn từ như: tính gợi cảm, tính hàm súc…; mặt khác, nó chứa đựng
khả năng hồ nhập với sự kiện, hồi ức, hình ảnh cấu thành trong tiềm thức mỗi
người. Vì vậy mà ý nghĩa của biểu tượng liên tục được bồi đắp, được làm đầy,
làm mới. Đó chính là đặc trưng thứ 2 của biểu tượng văn học. Chẳng hạn, trong


×