Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

Luận văn thạc sỹ sự vận động trong phong cách truyện ngắn nguyễn ngọc tư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.57 MB, 124 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Quốc Khánh.
Kết quả nghiên cứu trong luận văn này chưa được ai cơng bố trong bất kì
cơng trình nào khác.
Tác giả luận văn

Lê Thúy Vi


LỜI CẢM ƠN
Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Quốc Khánh, người
đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tơi trong suốt q trình thực hiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, cán bộ trong khoa Khoa học
Xã hội và Nhân văn, phòng đào tạo sau đại học trường Đại học Quy Nhơn đã
tạo mọi điệu kiện thuận lợi để tôi học tập.
Cuối cùng, tôi xin tri ân sự ủng hộ, động viên của gia đình, bạn bè trong
suốt thời gian thực hiện nghiên cứu.
Lê Thúy Vi


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................. 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu .......................................................................... 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................... 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 7
5. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................... 8
6. Đóng góp của luận văn ........................................................................................ 9
7. Cấu trúc của luận văn .......................................................................................... 9
CHƯƠNG 1. PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT VÀ NHỮNG YẾU TỐ ẢNH


HƯỞNG ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH PHONG CÁCH NGUYỄN NGỌC TƯ ..... 10
1.1. PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT .................................................................... 10
1.1.1. Khái niệm phong cách nghệ thuật ............................................................ 10
1.1.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành phong cách nhà văn ............. 12
1.1.3. Tính ổn định và vận động của phong cách nghệ thuật .............................. 15
1.2. NGUYỄN NGỌC TƯ – MỘT HIỆN TƯỢNG ĐỘC ĐÁO CỦA VĂN HỌC
ĐƯƠNG ĐẠI .................................................................................................... 18
1.2.1. Nguyễn Ngọc Tư – một phong cách độc đáo ............................................ 18
1.2.2. Nguyễn Ngọc Tư – một cây bút miệt mài sáng tạo ................................... 19
1.3. NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH PHONG CÁCH
NGUYỄN NGỌC TƯ........................................................................................ 23
1.3.1. Đặc điểm con người Nguyễn Ngọc Tư ..................................................... 23
1.3.2. Mơi trường văn hóa Nam Bộ.................................................................... 26
1.3.3. Quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Ngọc Tư ............................................ 29
CHƯƠNG 2. SỰ VẬN ĐỘNG TRONG PHONG CÁCH TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN NGỌC TƯ NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG ....................... 35
2.1. SỰ VẬN ĐỘNG TRONG QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ HIỆN THỰC . 36
2.1.1. Sự mở rộng vùng hiện thực khám phá ...................................................... 36
2.1.1.1. Từ hiện thực một vùng miền Nam Bộ… ............................................. 36


2.1.1.2. … đến mở rộng đường biên hiện thực................................................ 39
2.1.2. Sự thay đổi cách nhìn, cách cảm nhận về hiện thực .................................. 43
2.1.2.1. Từ cái nhìn trong trẻo, lạc quan…..................................................... 43
2.1.2.2. …đến cái nhìn trần trụi, bi quan ....................................................... 44
2.1.3. Sự đa dạng trong các vấn đề về hiện thực................................................. 48
2.1.3.1. Từ những vấn đề về đời sống Nam Bộ… ............................................ 49
2.1.3.2. …đến những vấn đề chung của đời sống đương đại........................... 50
2.2. SỰ VẬN ĐỘNG TRONG QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI. 54
2.2.1. Sự mở rộng các bình diện khám phá con người ........................................ 54

2.2.1.1. Từ khám con người trong các mối quan hệ thế sự … ......................... 54
2.2.1.2. …đến đào sâu vào thế giới bên trong phức tạp, bí ẩn ........................ 57
2.2.2. Sự thay đổi cách nhìn, cách cảm nhận về con người ................................. 63
2.2.2.1. Từ cái nhìn cảm thương, tin tưởng… ................................................. 63
2.2.2.2. … đến cái nhìn trăn trở, lo âu ........................................................... 65
2.2.3. Sự phát triển các vấn đề về con người ...................................................... 69
2.2.3.1. Từ vấn đề thân phận của người nông dân, người nghệ sĩ… ............... 69
2.2.3.2.…đến những vấn đề nhân sinh sâu sắc của con người nói chung........ 72
CHƯƠNG 3. SỰ VẬN ĐỘNG TRONG PHONG CÁCH TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN NGỌC TƯ NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT TỰ SỰ.... 76
3.1. SỰ VẬN ĐỘNG TRONG NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC CỐT TRUYỆN ......... 76
3.1.1. Từ những cốt truyện có hệ thống sự kiện rõ ràng… ................................. 77
3.1.2….đến những cốt truyện tâm lí phân rã sự kiện .......................................... 80
3.2. SỰ VẬN ĐỘNG TRONG NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT ........................... 85
3.2.1. Từ lối kể chuyện truyền thống… .............................................................. 85
3.2.2. … đến những nỗ lực cách tân ................................................................... 88
3.3. SỰ VẬN ĐỘNG TRONG NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU .......................... 92
3.3.1. Sự thay đổi trong ngôn ngữ ...................................................................... 92


3.3.1.1. Từ ngôn ngữ tự nhiên, bộc trực… ...................................................... 93
3.3.1.2. …đến ngơn ngữ trau chuốt, đậm màu sắc triết lí ............................... 97
3.3.2. Sự thay đổi trong giọng điệu .................................................................. 101
3.3.2.1. Từ giọng trữ tình mộc mạc, chan chứa yêu thương… ...................... 102
3.3.2.2. …đến giọng lạnh lùng, điềm tĩnh, khách quan ................................. 105
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 111
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………….114


1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phong cách nghệ thuật nhà văn là một trong những khái niệm quan
trọng của đời sống văn học, là vấn đề cơ bản của nghiên cứu văn học. Phong
cách nghệ thuật là nét riêng độc đáo có tính ổn định, thống nhất qua nhiều
sáng tác của một nhà văn. Việc chỉ ra được sự thống nhất trong phong cách
nghệ thuật giúp ta có được những dấu hiệu đặc trưng nhất, bản sắc nhất để
nhận diện gương mặt riêng của nhà văn đó trên văn đàn. Nhưng sáng tạo nghệ
thuật là một cuộc hành trình khơng có đích đến. Nếu một nhà văn tự thoả mãn
với thành tích của mình và cho phép mình ngơi nghỉ thì anh sẽ bị chính nghệ
thuật đào thải. Trước sự đổi thay của cuộc sống và quy luật khắc nghiệt của
văn chương, nhà văn không được lặp lại người khác và cũng khơng được lặp
lại chính mình. Phong cách có sự thống nhất nhưng đó khơng phải là sự lặp đi
lặp lại một cách đơn điệu. Phong cách luôn vận động, phát triển. Vì vậy, khi
nghiên cứu phong cách nhà văn, ta phải thấy được sự vận động qua từng
chặng đường sáng tác.
Trong nền văn học đương đại Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI,
Nguyễn Ngọc Tư đã sớm khẳng định được vị trí của mình. Nữ nhà văn trẻ của
Nam Bộ đã gây ấn tượng với phong cách độc đáo không thể trộn lẫn. Ra mắt
văn đàn năm 2000, Nguyễn Ngọc Tư lập tức tạo được thiện cảm với người
đọc nhờ cái nhìn trong trẻo, nhân ái, lối kể chuyện nhẹ nhàng, mộc mạc và
ngôn ngữ Nam Bộ giản dị nhưng độc đáo. Tập truyện đầu tay Ngọn đèn
không tắt đánh dấu một khởi đầu thuận lợi của Nguyễn Ngọc Tư với Giải I
cuộc vận động sáng tác Văn học tuổi 20. Đến năm 2005, với sự ra đời của
truyện ngắn Cánh đồng bất tận thì tên tuổi của Nguyễn Ngọc Tư đã thật sự
chiếm sóng, khuấy động đời sống văn học. Truyện ngắn Cánh đồng bất tận


2


nhận được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam và “Cánh đồng bất tận –
những truyện ngắn hay và mới nhất” trở thành cuốn sách bán chạy nhất của
văn học Việt Nam trong năm 2006. Và mới đây, văn học Việt Nam vô cùng
tự hào khi giải thưởng LiBeraturpreis 2018 do Hiệp hội quảng bá văn học
châu Á, châu Phi và Mỹ Latin (Đức) tổ chức đã gọi tên Cánh đồng bất tận
của Nguyễn Ngọc Tư. Phong cách Nam Bộ đã mang về nhiều thành công cho
Nguyễn Ngọc Tư và đóng góp vào nền văn học nước nhà một màu sắc mới
mẻ mà nhiều người vẫn ưi ái gọi là “đặc sản miền Nam” hay “quả sầu riêng
vùng đất mũi”. Cái tên Nguyễn Ngọc Tư tiếp tục chứng tỏ ảnh hưởng với đời
sống văn học trong suốt hai mươi năm đầu thế kỷ XXI, với những tác phẩm
được xuất bản đều đặn, trở thành món ăn tinh thần khơng thể thiếu của người
đọc ngày nay. Nữ nhà văn Nam Bộ vẫn đang bước tiếp trên hành trình sáng
tạo nghệ thuật của mình. Đến thời điểm hiện tại, Nguyễn Ngọc Tư đã sỡ hữu
một gia tài khá đầy đặn so với tuổi nghề của chị, bao gồm các sáng tác ở
nhiều thể loại (tiểu thuyết, truyện ngắn, tạp bút, tản văn,…) trong đó thể loại
tập trung tồn bộ bút lực của chị là truyện ngắn. Cố định một đám mây, tập
truyện vừa mới ra mắt độc giả năm 2018, là tập truyện ngắn thứ 11 của
Nguyễn Ngọc Tư. Đối với những hiện tượng mà hành trình sáng tác vẫn đang
tiếp diễn như Nguyễn Ngọc Tư, việc cập nhập những sáng tác mới từ khoảng
cách gần hai mươi năm so với sáng tác đầu tay là việc cần thiết để thấy được
sự vận động trong phong cách, để bày tỏ sự trân trọng sức lao động cần mẫn
của ngòi bút này. Đó cũng là cơng việc có ý nghĩa để việc nghiên cứu có thể
theo kịp tiến trình phát triển của sự nghiệp một tác giả nói riêng và đời sống
văn học nói chung.
Vì những lý do trên, chúng tơi chọn “Sự vận động trong phong cách
truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư” làm đề tài nghiên cứu.


3


2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Nguyễn Ngọc Tư là một hiện tượng nổi bật thu hút giới phê bình,
nghiên cứu văn học. Đặc biệt, với Cánh đồng bất tận, Nguyễn Ngọc Tư đã
tạo nên một làn sóng phê bình, tranh luận với đủ mọi luồng ý kiến khen chê.
Sự xuất hiện của Nguyễn Ngọc Tư làm cho đời sống văn học trở nên sôi
động. Các nhà nghiên cứu đã nghiên cứu truyện ngắn của chị từ nhiều góc độ.
Tuy nhiên, chưa có một cơng trình nghiên cứu nào về Nguyễn Ngọc Tư được
in thành sách, đa phần những bài viết, những bài phỏng vấn tác giả được
chúng tôi thu thập được trên các báo như Văn nghệ, Tuổi Trẻ, Thanh Niên,...
Về truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư nói chung, luận văn “Đặc điểm
truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư” của tác giả Nguyễn Thành Ngọc Bảo đã chỉ
ra cảm hứng nghệ thuật và thế giới nhân vật cùng với những đặc điểm nghệ
thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư. Phạm Thị Thái Lê cũng đã nghiên
cứu phương diện quan niệm nghệ thuật về con người trong luận văn “Quan
niệm nghệ thuật về con người trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư”. Trong
bài viết “Thị hiếu thẩm mỹ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư” đăng trên
báo Văn nghệ quân đội, Trần Phỏng Diều đã chỉ ra thị hiếu thẩm mỹ thể hiện
trong ba hình tượng trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư: hình tượng người
nghệ sĩ, hình tượng người nơng dân và hình tượng dịng sông.
Về nét riêng độc đáo của Nguyễn Ngọc Tư trên văn đàn, Trần Hữu
Dũng có bài viết “Nguyễn Ngọc Tư, đặc sản miền Nam”. Trong bài viết này,
ông xem xét truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư trên cả hai phương diện nội
dung và nghệ thuật. Ông đặc biệt nhấn mạnh yếu tố tạo nên nét đặc sắc trong
truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư chính là ngơn ngữ Nam Bộ được sử dụng rất tự
nhiên mà đúng nơi, đúng chỗ. Nguyễn Ngọc Tư là một nhà văn Nam Bộ
chính hiệu, kể những câu chuyện Nam Bộ bằng chính thứ ngơn ngữ của vùng


4


đất đó. Huỳnh Cơng Tín với bài viết “Nguyễn Ngọc Tư, một nhà văn trẻ
Nam Bộ” cũng khẳng định điều đó: “Đặc biệt, vùng đất và con người Nam
Bộ trong các sáng tác của chị được dựng lại bằng chính chất liệu của nó là
ngơn từ và văn phong nhiều chất Nam Bộ của chị” [47]. Chất Nam Bộ của
Nguyễn Ngọc Tư là điều quá rõ ràng và nhiều người nghiên cứu đã đề cập
đến.
Những cơng trình nghiên cứu về phong cách nghệ thuật Nguyễn Ngọc
Tư cũng đã đề cập đến nhiều phương diện. Nguyễn Trọng Bình có bài viết
“Phong cách truyện ngắn Nguyễn ngọc Tư nhìn từ phương diện quan
niệm nghệ thuật về con người”. Ông chỉ ra một mơ hình con người độc đáo
trong cái nhìn riêng của chị: mơ hình con người hướng thiện. Mơ hình đó vừa
là sự kế thừa quan niệm nghệ thuật về con người của các thế hệ đi trước, vừa
là sự sáng tạo mang phong cách riêng của Nguyễn Ngọc Tư. Giọng điệu - một
biểu hiện quan trọng của phong cách cũng đã được các nhà nghiên cứu chú ý
tới. Với bài viết “Một số giọng điệu trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư”,
Phạm Thị Hồng Nhung đã chỉ ra ba giọng điệu chủ yếu trong truyện ngắn của
Ngọc Tư: giọng buồn mênh mang; giọng trầm tĩnh, có phần đượm chua xót
đắng cay; giọng dân dã mộc mạc. Tác giả đi đến kết luận: “Như vậy, có thể
thấy bên cạnh âm hưởng và giọng buồn, nhưng khơng chán chường ủ dột, thì
sự điềm nhiên và trầm tĩnh là giọng điệu chủ yếu góp phần làm nên phong
cách nhà văn trẻ Nguyễn Ngọc Tư” [38]. Không gian và thời gian nghệ thuật
trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư cũng được nghiên cứu trong hai bài viết
“Không gian sông nước trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư” của Thụy
Khuê và bài viết “Thời gian huyền thoại trong truyện ngắn “Cánh đồng bất
tận” của Nguyễn Ngọc Tư” của Mai Hồng. Hai bài nghiên cứu đã chỉ ra
không gian đặc trưng trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư là không gian ruộng


5


đồng sông nước và thời gian đặc trưng trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư là
thời gian huyền thoại.
Ngoài những bài viết nghiên cứu những phương diện cụ thể của phong
cách của Nguyễn Ngọc Tư, Luận văn thạc sĩ “Phong cách truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư” của Lương Thị Hải là một cơng trình nghiên cứu khá đầy
đủ các phương diện làm nên phong cách Nguyễn Ngọc Tư. Chị chỉ ra “yếu tố
chi phối cả hệ thống trở thành hạt nhân phong cách nghệ thuật Nguyễn Ngọc
Tư là bản sắc vùng văn hóa Nam Bộ với những nét đặc sắc” [16,105]. Theo
đó, nhà văn nhìn con người từ cảm quan nhân bản đời thường và nhìn cuộc
sống trong tính đời thường phức tạp của nó và “chi phối thế giới nhân vật là
quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Ngọc Tư với cái nhìn nhân
ái” [16,105]. Luận văn cũng chỉ ra phong cách Nguyễn Ngọc Tư được thể
hiện ở những phương tiện thẩm mĩ đặc thù: giọng điệu nghệ thuật và ngôn
ngữ văn xuôi đặc sắc. “Giọng điệu nghệ thuật chủ đạo của Nguyễn Ngọc Tư
là giọng buồn nhưng không chán chường, giọng điềm nhiên trầm tĩnh, giọng
điệu tâm tình, tưng tửng, hóm hỉnh nhưng thấm thía và giọng điệu Nam Bộ
đặc trưng”, “hệ thống ngôn ngữ Nguyễn Ngọc Tư rất dung dị, tự nhiên, đậm
tính địa phương Nam Bộ. Biểu hiện rõ nhất trên ba phương diện: hệ thống từ
địa phương Nam Bộ, lớp từ ấn tượng về “văn hóa sơng nước”” [16,106-107].
Tuy nhiên, luận văn được viết năm 2012, phạm vi khảo sát chỉ dừng lại ở tập
truyện ngắn Khói trời lộng lẫy.
Số bài viết, cơng trình nghiên cứu về sự vận động phong cách truyện
ngắn Nguyễn Ngọc Tư cịn rất hạn chế. Chúng tơi tiếp cận được bài viết
“Nguyễn Ngọc Tư và hành trình đã đi” của Bùi Cơng Thuấn. Tác giả đã
nhìn lại chặng đường sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư từ Cánh Đồng Bất
Tận đến Gió Lẻ và Khói Trời Lộng Lẫy : “Nguyễn Ngọc Tư đã đi từ những


6


chuyện tình u lứa đơi lãng mạn đến những vấn đề xã hội gay gắt, đã viết
những truyện đầy ắp những cảnh những người của đồng nước Nam Bộ đến
kiểu truyện tư tưởng; và từ việc khai thác vốn sống đã trải nghiệm đến kiểu
sáng tác truyện hư cấu (fiction) cần nhiều đến tài năng. Nói một cách khác,
Nguyễn Ngọc Tư đang đi về phía nghệ thuật hiện đại, đang chuyển từ cách
viết thiên phú (cách viết bản năng) sang cách viết của một ý thức sáng tạo có
chiều sâu nhân bản” [45]. Tuy nhiên, giống như luận văn “Phong cách
truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư”, sự khảo sát này cũng chỉ dừng lại ở tập
truyện ngắn Khói trời lộng lẫy (2010).
Tính tới thời điểm hiện tại, chưa có cơng trình nào nghiên cứu phong
cách Nguyễn Ngọc Tư trong cả chặng đường sáng tác của chị từ tập truyện
đầu tay Ngọn đèn không tắt đến tập truyện mới nhất Cố định một đám mây
để thấy được sự vận động trong phong cách truyện ngắn của nữ tác giả này.
Vì thế, chúng tơi tìm được mảnh đất chưa có người khai thác để thực hiện
luận văn này. Những bài viết, cơng trình của những người nghiên cứu vừa
điểm qua là tư liệu bổ ích của chúng tơi.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu phong cách Nguyễn Ngọc Tư như một hệ thống, mang tính
chỉnh thể, có cấu trúc riêng gồm nhiều yếu tố cấu thành và được biểu hiện
trên nhiều bình diện.
- Phân tích một số tập truyện ngắn tiêu biểu cho từng chặng đường trong
hành trình sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư để chỉ ra sự vận động trong phong
cách truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư ở các phương diện chủ yếu: nội dung
và nghệ thuật tự sự.


7

- Từ việc làm rõ sự vận động trong phong cách truyện ngắn Nguyễn

Ngọc Tư, góp phần khẳng định những đóng góp của tác giả này trong dịng
chảy của văn học Việt Nam đương đại.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Phong cách sáng tác của mỗi tác giả tác được biểu hiện ở nhiều yếu tố
khác nhau: đề tài, thể loại, kiểu nhân vật, ngôn ngữ, giọng điệu, cái nhìn nghệ
thuật, đặc điểm cốt truyện, khơng gian, thời gian… Có bao nhiêu yếu tố về
nội dung và hình thức thì cũng có bấy nhiêu phương diện biểu hiện của phong
cách. Trong luận văn này, chúng tôi chọn ra hai phương diện tiêu biểu để
khảo sát sự vận động trong phong cách truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư là nội
dung và nghệ thuật tự sự.
Trên phương diện nội dung, chúng tôi khảo sát sự vận động trong:
- Quan niệm nghệ thuật về hiện thực
- Quan niệm nghệ thuật về con người
Trên phương diện nội dung, chúng tôi khảo sát sự vận động trong:
- Nghệ thuật tổ chức cốt truyện
- Nghệ thuật trần thuật
- Ngôn ngữ và giọng điệu
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Cho đến thời điểm này, Nguyễn Ngọc Tư đã xuất bản rất nhiều tập
truyện ngắn. Tuy nhiên, theo khảo sát của chúng tôi, trong một số tập truyện


8

ngắn ở giai đoạn đầu, có nhiều truyện ngắn trùng nhau. Trong phạm vi luận
văn này, chúng tôi chọn ra 6 tập truyện ngắn tiêu biểu của Nguyễn Ngọc Tư:
1. Ngọn đèn khơng tắt

4. Khói trời lộng lẫy


2. Cánh đồng bất tận

5. Đảo

3. Gió lẻ và 9 câu chuyện khác

6. Cố định một đám mây

5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tiểu sử: thông qua việc nghiên cứu tiểu sử
Nguyễn Ngọc Tư, tìm hiểu những yếu tố về con người, cuộc đời, gia đình,
quê hương của tác giả có ảnh hưởng đến sự nghiệp sáng tác.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: phân tích các truyện ngắn cụ thể để
đi đến tổng hợp, khái quát những đặc điểm truyện ngắn trong từng giai đoạn.
- Phương pháp thống kê, so sánh: nhằm có được cơ sở khoa học để
nhận xét, đánh giá sự vận động trong phong cách truyện ngắn Nguyễn Ngọc
Tư.
- Phương pháp nghiên cứu lịch sử - xã hội: nhằm tìm hiểu sự vận động
có tính lịch sử của phong cách truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư trong bối cảnh
phát triển của nền văn học đương đại, đồng thời làm sáng rõ ảnh hưởng của
các luồng tư tưởng, xã hội đối với truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư.
- Phương pháp nghiên cứu loại hình: trên cơ sở các đặc trưng của thể
loại truyện ngắn để tìm hiểu quan niệm nghệ thuật, cốt truyện, ngôi kể, ngôn
ngữ và giọng điệu… trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư.


9

6. Đóng góp của luận văn

- Lí giải con đường hình thành và những nét đặc sắc làm nên phong cách
của Nguyễn Ngọc Tư.
- Nghiên cứu một cách hệ thống sự vận động trong phong cách truyện
ngắn Nguyễn Ngọc Tư nhìn tư phương diện nội dung và phương diện nghệ
thuật tự sự.
- Đưa ra nhận định, đánh giá về hành trình sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư
từ tập truyện đầu tay Ngọn đèn không tắt (2000) đến tập truyện mới nhất Cố
định một đám mây (2018).
- Chỉ ra đóng góp của Nguyễn Ngọc Tư đối với nền văn học Việt Nam
đương đại và khẳng định tiềm năng phát triển của cây bút này.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Phong cách nghệ thuật và những yếu tố ảnh hưởng đến sự
hình thành phong cách Nguyễn Ngọc Tư.
Chương 2. Sự vận động trong phong cách truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
nhìn từ phương diện nội dung.
Chương 3. Sự vận động trong phong cách truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
nhìn từ phương diện nghệ thuật tự sự.


10

CHƯƠNG 1. PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT VÀ NHỮNG
YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH PHONG
CÁCH NGUYỄN NGỌC TƯ
1.1. PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT
1.1.1. Khái niệm phong cách nghệ thuật
Phong cách nghệ thuật là một khái niệm quan trọng trong đời sống văn
học. Phong cách là một phạm trù rộng, có phong cách thời đại, phong cách
của trào lưu, phong cách dân tộc và phong cách cá nhân tác giả. Trong phạm

vi đề tài này, chúng tôi tập trung vào phong cách nghệ thuật nhà văn. Đây
không phải là một khái niệm xa lạ, có rất nhiều nhà nghiên cứu đã định nghĩa
phong cách từ nhiều góc độ.
Người xưa thường nói: “Văn ư kỳ nhân”. Buffon, nhà văn Pháp, cũng đã
nói rằng: “Phong cách chính là người”. Cịn nữ văn sĩ Pháp Elsa Trisolet lại
cho rằng: “Nhà văn là người cho máu”. Ở Việt Nam, Hàn Mặc Tử cũng nói:
“Người thơ phong vận như thơ ấy”… Từ những quan niệm ấy, có thể hiểu
phong cách là cá tính , là cái tơi cá thể riêng biệt của chính nhà văn được biểu
đạt trong tác phẩm.
Timofeep cho rằng: “Phong cách là sự thống nhất của tất cả những yếu
tố trong tác phẩm kể từ kết cấu của toàn bộ đến từng định ngữ riêng biệt”.
Lại Nguyên Ân trong Từ điển văn học đã định nghĩa như sau: Phong cách là
“khái niệm chỉ những nét chung, tương đối bền vững của hệ thống hình
tượng, của các phương thức biểu hiện nghệ thuật, tiêu biểu cho bản sắc sáng
tạo của một nhà văn, một tác phẩm, một khuynh hướng văn học, một nền văn
học dân tộc nào đó” [2,1472]. Phan Ngọc cũng đã khẳng định : “Phong cách
là một cấu trúc hữu cơ của tất cả các kiểu lựa chọn tiêu biểu, hình thành một
cách lịch sử và chứa đựng một giá trị lịch sử có thể cho phép ta nhận diện
một thời đại, một thể loại, một tác phẩm, hay một tác giả” [31,31]. Theo Từ


11

điển thuật ngữ văn học: “Phong cách nghệ thuật là một phạm trù thẩm mĩ,
chỉ sự thống nhất tương đối ổn định của hệ thống hình tượng, của các phương
tiện biểu hiện nghệ thuật, nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của một nhà
văn, trong tác phẩm riêng lẻ, trong trào lưu văn học hay văn học dân tộc”
[35,212]. Ngoài ra, “trong nghĩa rộng, phong cách là nguyên tắc xuyên suốt
trong việc xây dựng hình thức nghệ thuật đem lại cho tác phẩm, một tính
chỉnh thể có thể cảm nhận được, một giọng điệu và một sắc thái thống nhất”

[35,212]. Những định nghĩa của Timofeep, Lại Nguyên Ân, Phan Ngọc hay
định nghĩa của Từ điển thuật ngữ văn học đều gặp gỡ ở chỗ xem phong cách
là một hệ thống, mang tính chỉnh thể. Chỉnh thể này bao gồm nhiều yếu tố,
thuộc nhiều cấp độ từ cách nhìn đến các phương thức biểu hiện, tồn tại trong
mối quan hệ mật thiết, xuyên thấm vào nhau không thể tách rời. Dù nội dung
có phong phú và hình thức nghệ thuật có đa dạng đến đâu, chúng vẫn có tính
thống nhất. Tính thống nhất này giúp người đọc có thể từ một yếu tố nhỏ mà
nhận diện được cả tác phẩm và xác định được cây bút sáng tạo ra nó.
Khơng phải mọi nhà văn đều có phong cách nghệ thuật mà chỉ có những
nhà văn ưu tú mới khắc họa được cái tạng riêng, mới ghi dấu được cái giọng
riêng của mình vào tiến trình vận động khơng ngừng chảy trôi của văn học.
Chỉ cần cầm bút, nhà văn nào cũng có đặc điểm sáng tác, nhưng phong cách
chỉ có ở những nhà văn thật sự có tài. “Chỉ có những nhà văn có đủ tài năng,
có bản lĩnh mới có phong cách riêng độc đáo. Cái nét riêng ấy thể hiện ở
nhiều tác phẩm của nhà văn làm ta có thể nhận ra sự khác nhau (giữa các
nhà văn)…” [35,213].
Cũng cần thấy rằng, phong cách là cái mới lạ, riêng biệt nhưng phải là
nét riêng độc đáo mang phẩm chất thẩm mỹ, có giá trị nghệ thuật chứ khơng
phải là sự lập dị, cố tình làm cho khác người một cách vô nghĩa. Đúng như ý


12

kiến của Hoàng Ngọc Hiến: “Trong lĩnh vực văn nghệ, dẫu đổi mới thế nào,
đổi mới đến đâu đi nữa thì cũng khơng thể ra ngồi “quy luật cái đẹp”, ra
ngoài “sự thật” và “nhân bản” là những quy luật cơ bản, vĩnh cửu của văn
học nghệ thuật” [42,103].
Như vậy, phong cách nghệ thuật là một khái niệm phức tạp. Việc đi đến
một khái niệm thống nhất, toàn diện về phong cách nghệ thuật không phải là
dễ. Trên cơ sở kế thừa và tổng hợp các thành tựu nghiên cứu của các nhà

nghiên cứu đi trước, chúng tơi có thể đưa ra một cách hiểu phong cách như
sau: Phong cách nghệ thuật của nhà văn là một hệ thống những đặc điểm độc
đáo có phẩm chất thẩm mỹ trong cái nhìn và cách thể hiện đời sống, con
người, là yếu tố tương đối bền vững xuyên suốt các sáng tác của những nhà
văn ưu tú, in đậm dấu ấn cá nhân của nhà văn, tạo nên diện mạo riêng của
nhà văn đó.
1.1.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành phong cách nhà văn
Phong cách nghệ thuật của một nhà văn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu
tố, cả khách quan lẫn chủ quan. Trong đó, cá tính con người nhà văn là yếu tố
có vai trị rất quan trọng. Nữ văn sĩ Pháp Elsa Trisolet cho rằng: “Nhà văn là
người cho máu”. Từ điển thuật ngữ văn học cũng khẳng định: “Ngoài thế
giới quan, những phương diện tinh thần khác như tâm lí, khí chất, cá tính đều
có ảnh hưởng quyết định đến sự hình thành phong cách của nhà văn”
[35,213]. Có nghĩa rằng, những gì thuộc về chủ quan con người nhà văn như
cá tính, khí chất, tình cảm,…đều có tác động sâu sắc đến sự hình thành phong
cách nghệ thuật. Con người tác giả trong đời thực và trong văn chương khơng
hẳn trùng khít nhau song đa phần người thế nào thì văn thế ấy. Những tiếng
cười trào phúng của Nguyễn Cơng Hoan có nguồn gốc từ cái cười của một
Nguyễn Công Hoan trong đời thực “chẳng mấy khi cười mỉm, anh đã cười thì


13

cười thành tiếng…Cái cười thành thật thể hiện tâm trạng thật của mình, hồn
nhiên, khơng xã giao, khơng điệu bộ” [42,111]. Cái ngông hay phong cách tài
hoa, uyên bác trong văn Nguyễn Tuân cũng bắt nguồn từ nhu cầu chơi ngơng
với thiên hạ của một trí thức bất mãn trước thời cuộc, dùng cái tài hoa, uyên
bác hơn đời của mình chống trả lại mọi phép tắc; chẳng phải cả cái gọi là chủ
nghĩa xê dịch cũng có căn nguyên từ cái máu giang hồ xê dịch của Nguyễn
Tuân đấy sao? Cũng không phải ngẫu nhiên mà danh xưng “nhà văn của

những người cùng khổ” được gán cho Nguyên Hồng. Nguyễn Đăng Mạnh lý
giải: “Nguyên Hồng là con người rất dễ xúc động, dễ khóc. Ai từng tiếp xúc
với Nguyên Hồng đều thấy như thế. Khóc khi nhắc đến nỗi khổ của con người
trong xã hội cũ…Khóc cả khi kể lại nỗi bất hạnh của những nhân vật do
chính mình sáng tạo ra” [28, 160-161]. Nói tóm lại, bản chất con người, cá
tính của nhà văn trong đời thực có vai trị quan trọng đối với sự hình thành
phong cách. Tuy nhiên, không thể đồng nhất với phong cách nghệ thuật của
nhà văn thể hiện trong tác phẩm.
Bên cạnh yếu tố con người chủ quan, những yếu tố khách quan như mơi
trường sống, bối cảnh thời đại, văn hóa dân tộc cũng chứng tỏ ảnh hưởng của
nó lên phong cách của nhà văn. “Vì tạo ra phong cách, ngồi thế giới quan,
còn rất nhiều nhân tố khác, như truyền thống gia đình, hồn cảnh sống, mơi
trường sống thiên nhiên, mơi trường văn hóa,… Những động tác ấy, những
thói quen ấy khơng dễ gì thay đổi. Có ảnh hưởng lớn đến phong cách của một
nhà văn thường lại là những ấn tượng của ơng ta về mơi trường sống của
mình từ tuổi ấu thơ” [26,9]. Xuân Diệu đã thừa nhận ảnh hưởng sâu đậm của
quê hương, gia đình đối với hồn thơ mình: “Cha đàng ngồi, mẹ ở đàng
trong/ Hai phía đèo ngang: một mối tơ hồng./ Quê cha Hà Tĩnh đất hẹp khơ
rang/ Q mẹ gió nồm thổi lên tươi mát…” (Cha đàng ngoài, mẹ ở đàng
trong – Xuân Diệu). Chính ơng tâm sự: “Biển Quy Nhơn có núi Phương Mai


14

ở phía bên trái và có hịn Cù Lao Xanh, những cái đó đã vào tâm hồn tơi từ
thơ bé, nhất là khi tơi qua Gành Ráng sóng biển cứ vỗ vào bờ và nhịp điệu
của biển vào trong thơ tôi” [37, 41-42]. Nguyễn Công Hoan sinh ra trong một
gia đình quan lại khoa bảng thất thế. Từ nhỏ ơng đã được nghe và thuộc rất
nhiều câu thơ, câu đối và những giai thoại có tính chất trào lộng, châm biếm,
đả kích tầng lớp quan lại. Ơng căm ghét xã hội thực dân nửa phong kiến, căm

ghét bọn quan lại ôm chân đế quốc để mưu cầu phú quý. Ông nhìn đời như
một sân khấu hề. Điều đó ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong cách văn chương
của ông sau này. Nguyễn Đăng Mạnh đã có những nhận xét rất đúng đắn về
phong cách Nguyễn Công Hoan: “Phong cách Nguyễn Công Hoan khơng
thiên về lối thâm trầm kín đáo. Ơng thích bốp chát, đánh vỗ ngay vào mặt đối
phương. Tiếng cười đả kích của Nguyễn Cơng Hoan, vì thế thường là những
địn đơn giản mà ác liệt” [28,100].
Ngồi q hương, gia đình, thời đại sống cũng là yếu tố có tác động quan
trọng đến quá trình hình thành phong cách nhà văn. Theo Từ điển thuật ngữ
văn học,“Phong cách của nhà văn cũng mang dấu ấn của dân tộc và thời
đại” [35,213]. Dù có sáng tạo, có độc đáo thế nào, “mỗi trang văn đều soi
bóng thời đại mà nó ra đời” (Tơ Hồi). Suy cho cùng, nhà văn vẫn tồn tại
trong một thời đại với hoàn cảnh lịch sử - xã hội nhất định và nhà văn “khơng
có phép thần thông để vượt ra khỏi thế giới này”, điều quan trọng là “thế giới
này trong con mắt nhà văn phải có một hình sắc riêng” (Hồi Thanh). Ta
thấy những bức tranh xã hội rộng lớn và nhốn nháo trong tiểu thuyết Số đỏ,
Giơng tố hay những phóng sự Cạm bẫy người, Kỹ nghệ lấy Tây, Cơm thầy
cơm cơ,.... Ở đó, các nhân vật như bị ném vào một cái động bát nháo, hỗn
loạn. Vũ Trọng Phụng sinh ra và lớn lên trong thời kỳ xã hội có nhiều biến
động dồn dập, nghề báo lại càng khiến nhà văn gắn chặt với những vấn đề
thời sự hơn ai hết. Dĩ nhiên là những biến động của xã hội đã được Vũ Trọng


15

Phụng đưa vào tác phẩm của mình theo một cách riêng, đó là một hình sắc
riêng mà chỉ qua ngịi bút của Vũ Trọng Phụng nó mới được hình thành.
Nhưng một điều không thể phủ nhận rằng khả năng khái qt triết lí của Vũ
Trọng Phụng sẽ khơng được phát huy nếu Vũ Trọng Phụng không sống trong
một thời đại lố lăng và đốn mạt như thế.

Những yếu tố nêu trên, trong quá trình hình thành nên phong cách nhà
văn, không hề tách rời, cô lập mà tồn tại trong tương quan tác động, ảnh
hưởng lẫn nhau. Ở mỗi nhà văn, tác động của mỗi yếu tố trên có thể đậm nhạt
khác nhau, có vai trị và ý nghĩa khác nhau. Nghiên cứu phong cách nghệ
thuật của một nhà văn, khơng thể chỉ nhìn những biểu hiện trong tác phẩm mà
khơng tìm về cội nguồn hình thành nên nó. Đó là con đường đi vào thế giới
nghệ thuật và cũng là con đường lý giải phong cách nhà văn.
1.1.3. Tính ổn định và vận động của phong cách nghệ thuật
Phong cách là nét độc đáo của nhà văn được bộc lộ trong toàn bộ các yếu
tố của tác phẩm, từ nội dung đến hình thức, có bao nhiêu yếu tố thì có bấy
nhiêu phương diện biểu hiện phong cách. Chúng tạo nên một hệ thống có sự
thống nhất, mang tính ổn định. “Phong cách là một chỉnh thể nghệ thuật, mỗi
nhà văn có phong cách tạo ra cho mình một thế giới nghệ thuật riêng. Thế
giới nghệ thuật ấy, dù phong phú, đa dạng thế nào, vẫn có tính thống
nhất”[26,8]. Có nghĩa rằng, nét riêng độc đáo phải xuất hiện thường xuyên,
nhất quán, xuyên suốt trong các tác phẩm của nhà văn. Đúng như nhận định
của GS. Nguyễn Đăng Mạnh: “Trong quá trình sáng tác của các nhà văn,
phong cách nghệ thuật của ông ta luôn luôn chuyển từ tác phẩm này đến tác
phẩm khác… phong cách vận động trên một cơ sở thống nhất, khiến cho các
tác phẩm của nhà văn dù có những nét khác nhau, vẫn là tác phẩm của ông ta
chứ không phải của ai khác… Phong cách một khi đã định hình, thì thường có


16

tính bền vững…” [26,9]. Nhờ vào tính ổn định, sự thống nhất của phong cách
nghệ thuật, người đọc có thể dễ dàng nhận diện được cái giọng riêng, cái tạng
riêng của một tác giả ngay cả khi chỉ đọc được một vài khúc đoạn của tác
phẩm hay khi tên tác giả bị giấu đi.
Nhưng trong lĩnh vực văn chương, nếu người nghệ sĩ hài lịng với những

gì mình có mà khơng tiếp tục tìm tịi, sáng tạo để làm mới mình, gương mặt
của anh sẽ trở nên nhàm chán, tác phẩm của anh sẽ bị quy luật khắc nghiệt
của văn chương đào thải. Nét riêng độc đáo phải xuất hiện thường xuyên, tạo
nên tính ổn định trong phong cách của nhà văn. Mặt khác nét riêng đó cũng
phải ln ln được đổi mới khơng lặp lại, khơng sáo mịn. Phong cách nhà
văn là một quá trình vận động, phát triển khơng ngừng qua mỗi giai đoạn sáng
tác. Phong cách có tính ổn định nhưng điều đó khơng có nghĩa rằng phong
cách là cố định, bất biến, là sự lặp lại giản đơn, nhàm chán một vài đặc điểm
cố hữu mà luôn mở ra đa dạng. Phương Lựu khẳng định rằng: “Phong cách là
chỗ độc đáo mang phẩm chất thẩm mỹ cao được kết tinh trong sự sáng tạo
của nhà văn. Không phải bất cứ nhà văn nào cũng tất yếu có phong cách,
mặc dù nói cho cùng nhà văn nào cũng có đặc điểm. Song đặc điểm mờ nhạt
chưa đủ, phải là chỗ thật độc đáo không thể thay thế được mới làm nên phong
cách. Chỉ cần lặp đi lặp lại đã gọi là đặc điểm, nhưng phong cách, tuy cũng
địi hỏi sự bền vững, khơng chấp nhận sự chóng phai mờ, nhưng phải là sự
lặp đi lặp lại một cách đổi mới” [24,214]. Điều này có nghĩa rằng trong quá
trình vận động, nét riêng làm nên diện mạo đặc biệt của nhà văn không biến
mất mà được củng cố, nâng cao, triển khai đa dạng hơn, nhiều biểu hiện hơn.
Ta đã thấy sự vận động trong tính thống nhất này ở sự nghiệp sáng tác
của nhiều nhà văn lớn. Nhắc đến Nguyễn Tuân, người ta nói đến một nhà văn
ngông nghênh và tài hoa uyên bác. Nhưng những nét phong cách của Nguyễn


17

Tuân cũng có sự thay đổi trong hai giai đoạn sáng tác. Trước Cách mạng
tháng Tám, người ta thấy trong tác phẩm của Nguyễn Tuân thái độ khinh đời,
ngạo đời, cố ý làm cho khác đời. Ơng thích tìm đến những cảm giác mạnh,
thích tơ đậm những gì phi thường xuất chúng. Là nhà văn yêu cái đẹp đến
mức tôn sùng, Nguyễn Tuân thường tiếp cận sự vật, sự việc ở phương diện

văn hóa thẩm mĩ, tiếp cận con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ và vận
dụng nhiều tri thức khác nhau ở nhiều lĩnh vực để miêu tả. Sau Cách mạng
tháng Tám, Nguyễn Tuân vẫn là nhà văn duy mĩ, uyên bác, tài hoa, nhưng tác
phẩm của ông không còn chỉ tập trung vào những con người xuất chúng, đặc
tuyển, phi thường mà ông thấy chất tài hoa có ngay trong cuộc sống hiện tại,
trong những con người bình thường. Thái độ ngơng nghênh, khinh bạc cũng
có sự chuyển biến sang giọng tin yêu, đôn hậu. Như vậy, sự thay đổi cách
nhìn hay thay đổi giọng điệu của Nguyễn Tuân ở các giai đoạn sáng tác khác
nhau không làm thay đổi diện mạo đặc biệt, dấu ấn riêng của nhà văn trên văn
đàn mà đó chính là những biểu hiện đa dạng và phong phú của cùng một diện
mạo. Chính sự vận động này khiến cho văn học ln là những món ăn tinh
thần phong phú và hấp dẫn đối với người đọc.
Những nhà văn không ngừng đổi mới mình là những nhà văn chân
chính. Những nỗ lực tìm tịi và sáng tạo của họ chính là động lực thúc đẩy nền
văn học phát triển. Như vậy, nghiên cứu phong cách nghệ thuật của một nhà
văn không thể chỉ dừng lại ở một vài tác phẩm riêng lẻ mà phải xem xét các
tác phẩm trong cả một quá trình để vừa phát hiện nét riêng độc đáo mang tính
nhất qn của phong cách, vừa nhìn thấy những biểu hiện đa dạng, phong phú
của nó trong từng tác phẩm, từng giai đoạn sáng tác. Và điều quan trọng hơn
nữa là khám phá ra cơ sở của sự thống nhất những biểu hiện đa dạng đó. Đó
chính là quy luật nội tại của phong cách.


18

1.2. NGUYỄN NGỌC TƯ – MỘT HIỆN TƯỢNG ĐỘC ĐÁO CỦA VĂN
HỌC ĐƯƠNG ĐẠI
1.2.1. Nguyễn Ngọc Tư – một phong cách độc đáo
Nguyễn Ngọc Tư xuất hiện trên văn đàn vào thời điểm mà thể loại
truyện ngắn đã phát triển đạt được nhiều thành tựu cả về số lượng lẫn chất

lượng, người ta gọi thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI là khoảng thời gian
“được mùa” của truyện ngắn. Bên cạnh những tên tuổi như Nguyễn Huy
Thiệp, Đỗ Hoàng Diệu, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ, không thể
không nhắc tới tên tuổi của cây bút trẻ Nguyễn Ngọc Tư khi nói tới truyện
ngắn Việt Nam đương đại. Sau sự xuất hiện của Nguyễn Huy Thiệp như một
hiện tượng lạ làm dậy sóng nền văn học thì Nguyễn Ngọc Tư là một hiện
tượng nổi bật khác làm xôn xao dư luận.
Nguyễn Ngọc Tư ngay từ những tác phẩm đầu tay đã tạo được tiếng
vang trên văn đàn. Khi văn học nước nhà vẫn đang tiếp tục phát triển trên đà
đổi mới được khởi xướng từ năm 1986, nhiều nhà văn đã tích cực đổi mới tư
duy nghệ thuật cũng như bút pháp sáng tạo, tất nhiên Nguyễn Ngọc Tư cũng
khơng nằm ngồi làn sóng chung của hoạt động sáng tác đương thời. Thế
nhưng, nét độc đáo làm nên diện mạo riêng của Nguyễn Ngọc Tư lại là chất
Nam Bộ, là đặc sắc vùng miền giàu giá trị truyền thống trong tác phẩm của
chị. Nhìn một cách tổng quát, phong cách của Nguyễn Ngọc Tư là sự hòa
quyện giữa cái truyền thống và cái hiện đại. Trong chặng đầu sáng tác, phong
cách Nguyễn Ngọc Tư được khẳng định bởi nét truyền thống, từ cách nhìn
trong trẻo, nhân hậu rặt Nam Bộ đến cách viết hết sức giản dị, mộc mạc.
Nguyễn Ngọc Tư từng khẳng định hướng đi riêng của mình: “Biết bao người
đã viết về những rạn nứt, những thay đổi mất mát, những đổ vỡ trần trụi ấy
rồi. Tơi buộc lịng phải thủ thỉ chuyện nhân, chuyện nghĩa… để văn mình


19

“độc quyền” một chút và cũng để thấy muốn sống thêm nữa vì cuộc đời này
cịn nhiều vẻ đẹp” [29]. Và Nguyễn Ngọc Tư cũng đã có được những thành
cơng bước đầu trên con đường khẳng định phong cách của mình: “Nói như
vầy có vẻ hơi… tự cao, nhưng tơi thấy lúc trước tơi viết cũng có phong cách
riêng lắm đó chớ. Ít nhất, khi tham gia một vài cuộc thi, tác phẩm đã bị rọc

phách, ban giám khảo vẫn nhận ra đấy là của Nguyễn Ngọc Tư” [21].
Bằng những truyện ngắn dung dị về đề tài nông thôn, thân phận và đời
sống tình cảm của người nơng dân Nam Bộ thời hiện đại, chị đã đóng góp cho
nền văn học đương đại “một cái nhìn hồn hậu, với lối viết chân tình, thẳng
thắn nhưng lại cũng rất hồn nhiên và nhẹ nhàng” [39;36]. Đóng góp lớn nhất
của chị cho tới nay ở địa hạt truyện ngắn chính là một văn phong Nam Bộ
giản dị, thuần phác với sự điêu luyện trong việc sử dụng chất liệu ngôn ngữ
Nam Bộ như một ngôn ngữ nghệ thuật giàu giá trị biểu đạt và ẩn chứa tiềm
lực sáng tạo đến vô tận. Xin mượn lời của nhà văn Dạ Ngân để làm sáng rõ
thêm những đóng góp của Nguyễn Ngọc Tư: “Nguyễn Ngọc Tư giỏi ở chỗ cái
tưởng khơng có gì mà Tư cũng viết được, lại viết rất có duyên, rất nhân hậu.
Đọc cái nào xong cũng phải nhoẻn cười sung sướng, sung sướng mà lại ứa
nước mắt, thấy nước mắt của mình cũng trong trẻo và đẹp đẽ, ấy là cái đáng
giá mà Tư cho người đọc hôm nay” [30].
1.2.2. Nguyễn Ngọc Tư – một cây bút miệt mài sáng tạo
Là một cây bút trẻ, chỉ mới xuất hiện trên văn đàn khoảng hai mươi năm,
tuy gặp phải những luồng ý kiến đánh giá trái chiều, khen lắm chê nhiều, song
ai cũng phải công nhận rằng Nguyễn Ngọc Tư là một cây bút khỏe khoắn và
dẻo dai, miệt mài lao động sáng tạo không ngừng. Nguyễn Ngọc Tư đã thử
bút trên nhiều thể loại bao gồm truyện ngắn, tiểu thuyết, tản văn, tạp
bút,...Tuy nhiên, thành tựu rực rỡ nhất khẳng định tên tuổi Nguyễn Ngọc Tư


20

là truyện ngắn. Luận văn này tập trung khảo sát hành trình sáng tác truyện
ngắn của Nguyễn Ngọc Tư.
Ra mắt làng văn với tập truyện ngắn đầu tay Ngọn đèn không tắt, con
đường tiếp cận độc giả cũng như khẳng định tên tuổi của chị có một khởi đầu
thuận lợi khi tập truyện đầu tay đạt giải I Văn học tuổi 20 năm 2000. Trên đà

thành công của Ngọn đèn không tắt, Nguyễn Ngọc Tư “tấn công” văn đàn
với các tập truyện ngắn ra đời đều đặn sau đó:
Biển người mênh mơng (2003)
Giao thừa (2003)
Cánh đồng bất tận (2005)
Gió lẻ và 9 câu chuyện khác (2008)
Khói trời lộng lẫy (2010)
Đảo (2014)
Cố định một đám mây (2018)
Nếu như Ngọn đèn không tắt là chiếc bệ phóng giúp Nguyễn Ngọc Tư
mở lời chào làm quen với độc giả thì Cánh đồng bất tận chính là một cú hích
đột phá trong sự nghiệp của Nguyễn Ngọc Tư. Đến Cánh đồng bất tận,
Nguyễn Ngọc Tư đã khẳng định được tên tuổi, có được một vị trí được nhiều
người chú ý trên văn đàn. Có thể xem Cánh đồng bất tận như một hiện
tượng, một làn gió mới khuấy động giới sáng tác và cơng chúng văn học. Tập
truyện tạo nên một làn sóng tranh cãi dữ dội. Tất cả những luận bàn, đánh giá
xoay quanh Cánh đồng bất tận đã chứng tỏ sức ảnh hưởng của nó đối với đời
sống văn học. Sự xuất hiện của Nguyễn Ngọc Tư nói chung và Cánh đồng
bất tận nói riêng đã khiến đời sống văn học đương thời vận động sôi nổi.


×