Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Dấu ấn hậu hiện đại trong thị dân tiểu thuyết của nguyễn việt hà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.53 MB, 106 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN THỊ TRÀ LINH

DẤU ẤN HẬU HIỆN ĐẠI TRONG
THỊ DÂN TIỂU THUYẾT
CỦA NGUYỄN VIỆT HÀ

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM

ĐÀ NẴNG, NĂM - 2023


ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN THỊ TRÀ LINH

DẤU ẤN HẬU HIỆN ĐẠI TRONG
THỊ DÂN TIỂU THUYẾT
CỦA NGUYỄN VIỆT HÀ

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 822 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Người hướng dẫn khoa học: TS. BÙI BÍCH HẠNH

Đà Nẵng, 2023





ii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tác giả xin bày tỏ lời
cảm ơn sâu sắc tới các thầy, cô giáo trong khoa Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư
Phạm Đà Nẵng đã giúp đỡ, tạo điều kiện trong quá trình tìm kiếm, thu thập tài liệu
nghiên cứu. Đặc biệt, tác giả gửi lời cảm ơn chân thành tới TS. Bùi Bích Hạnh; nhờ sự
hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của cơ, tác giả đã hoàn thành luận văn thạc sĩ.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song giới hạn về mặt thời gian và nhận thức nên
luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Do vậy, tác giả rất mong nhận
được những đóng góp ý kiến quý báu của của các thầy, cô giáo.


iii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài .................................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề .....................................................................................................2
3. Mục đích nghiên cứu ..........................................................................................5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................5
5. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................5
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ............................................................6
7. Cấu trúc luận văn ................................................................................................ 6
Chương 1. TIỂU THUYẾT NGUYỄN VIỆT HÀ TRONG KHUYNH HƯỚNG
TIỂU THUYẾT HẬU HIỆN ĐẠI VIỆT NAM...........................................................7
1.1. Tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 và những khuynh hướng của cảm quan hậu hiện
đại ....................................................................................................................................7
1.1.1. Quan niệm nghệ thuật về những trạng thái tinh thần đổ vỡ của thời đại......8

1.1.2. Quan niệm nghệ thuật về con người trước hiện thực bất toàn ....................11
1.1.3. Lối trần thuật đa trị phi trung tâm ............................................................... 15
1.2. Tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà - nỗ lực cách tân theo hướng hậu hiện đại ...............19
1.2.1. Cảm quan hiện thực hỗn loạn, đổ vỡ ..........................................................20
1.2.2. Quan niệm nghệ thuật về con người phân rã thế giới tinh thần..................24
1.2.3. Diễn ngôn trần thuật phân mảnh, lắp ghép .................................................27
Tiểu kết chương 1 ..........................................................................................................30
Chương 2. DẤU ẤN HẬU HIỆN ĐẠI TRONG THỊ DÂN TIỂU THUYẾT NHÌN
TỪ QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI .............................................32
2.1. Cảm quan về cuộc sống ngổn ngang, bừa bộn .......................................................32
2.1.1. Hiện thực bề bộn, pha tạp ...........................................................................32
2.1.2. Không gian “ngõ – phố - ngõ” ....................................................................36
2.1.3. Văn hố đơ thị - xung đột giữa cái cũ và cái mới .......................................39
2.2. Quan niệm nghệ thuật về con người “thị dân” .......................................................40
2.2.1. “Cái khác” của “thị dân”.............................................................................40
2.2.2. Con người tha hóa, hồi nghi......................................................................42
2.2.3. Con người vong thân, lạc loài .....................................................................46
Tiểu kết chương 2 ..........................................................................................................50
Chương 3. DẤU ẤN HẬU HIỆN ĐẠI TRONG THỊ DÂN TIỂU THUYẾT NHÌN
TỪ PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN .............................................................................51
3.1. Điểm nhìn trần thuật ............................................................................................... 52
3.1.1. “Ngôi lời kể lể nhỏ” ....................................................................................52
3.1.2. Tự sự đa điểm nhìn .....................................................................................54
3.1.3. Đa dạng hóa hình thức truyện kể ................................................................ 55


iv
3.2. Kết cấu trần thuật....................................................................................................58
3.2.1. Kết cấu mảnh vỡ .........................................................................................59
3.2.2. Kết cấu mở ..................................................................................................60

3.2.3. Kết cấu liên văn bản....................................................................................63
3.3. Giọng điệu trần thuật .............................................................................................. 68
3.3.1. Giọng triết lí, suy tư ....................................................................................68
3.3.2. Giọng trào lộng, giễu nhại ..........................................................................70
3.3.3. Giọng đa thanh ............................................................................................ 75
Tiểu kết chương 3 ..........................................................................................................78
KẾT LUẬN ..................................................................................................................79
TÀI LIỆU THAM KHẢO




1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Chủ nghĩa hậu hiện đại là hiện tượng văn hoá độc đáo và có ảnh hưởng rộng
lớn đến nhiều lĩnh vực: triết học, mỹ học và nghệ thuật của thế kỷ XX. Trong văn học,
chủ nghĩa hậu hiện đại đem đến những sự đột phá. Các cây bút hậu hiện đại từ nhiều
nơi trên thế giới đã làm một cuộc cách mạng về quan niệm và cách viết, thâm nhập và
tác động đến khát vọng được cởi bỏ những gì lâu nay vẫn trói buộc hoạt động sáng tạo.
Trào lưu hậu hiện đại vì thế đã trở thành một trào lưu có ảnh hưởng lớn trên phạm vi
tồn cầu. Chính vì vậy, cách tân luôn là vấn đề trăn trở của người làm nghệ thuật.
Trong tâm thức sáng tạo, nhà văn ln tìm kiếm khuynh hướng mới để sinh thành
những tác phẩm lạ hóa. Văn học hậu hiện đại là một bức tranh nghệ thuật đa sắc mà ở
đó, các nhà văn khơng ngần ngại thử nghiệm, thăm dị; tìm tịi những cái mới.
1.2. Ở Việt Nam, từ sau năm 1975, văn học đã có bước chuyển mình mạnh
mẽ. Đặc biệt là từ giai giai đoạn sau 1986 đến nay, trong quá trình tồn cầu hóa và
hội nhập, văn học cũng có những vận động trong tư duy sáng tạo, trong đó có tiểu
thuyết. Nhờ những điều kiện khoa học kĩ thuật, đặc biệt là khơng gian thế giới phẳng,
giao lưu văn hóa có điều kiện mở rộng tồn diện bởi tính chất đa kênh, đa lí thuyết, đa

khơng gian của nó. Qua đó, những thành tựu văn hóa, văn học và lí luận văn học của
thế giới nhanh chóng được du nhập mạnh vào Việt Nam từ các nguồn khác nhau, đặc
biệt là qua các chủ thể tiếp nhận tiên phong đã tạo ra một khơng gian học thuật mới,
tích cực, có khả năng kích hoạt văn học phát triển, đặc biệt là tiểu thuyết.
1.3. Với nền văn học hiện đại, tiểu thuyết luôn được coi là thể loại quan

trọng, là nơi biểu hiện tập trung nhất trình độ tư duy văn học, nơi kết tinh quan
trọng nhất thành tựu của một thời đại. Trong quá trình vận động và phát triển, tiểu
thuyết Việt Nam đương đại đã tiếp nhận những yếu tố hậu hiện đại. Từ thập niên cuối
của thế kỉ XX trở lại đây, “hậu hiện đai” khơng cịn lạ đối với giới cầm bút. Dù vẫn
còn nhiều tranh cãi, nhưng không thể phủ nhận dấu ấn hậu hiện đại trong văn học Việt.
Dẫu ai cũng biết rằng không thể có một chủ nghĩa hậu hiện đại với đầy đủ nội dung, ý
nghĩa của khái niệm này trong văn học Việt nhưng những dấu ấn, yếu tố hậu hiện đại
trong văn học Việt Nam là những vấn đề thuộc về bản sắc của sáng tác tiểu thuyết vẫn
cần những hướng khai thác ở nhiều cạnh khía khác nhau.
1.4. Nhu cầu đổi mới để đưa văn học dân tộc hội nhập vào dòng chảy của

văn học nhân loại trở thành nhu cầu bức thiết của các nhà văn có trách nhiệm.
Hàng loạt các cây bút xuất hiện hoặc chuyển đổi lối viết tạo nên sự đa dạng
trong đời sống văn học. Khơng ít cây bút đã lựa chọn cách viết theo xu hướng
hậu hiện đại. Với tiểu thuyết, chúng ta có thể tìm thấy dấu vết hậu hiện đại ở giai
đoạn đầu đổi mới trong các tác phẩm của Phạm Thị Hoài, Nguyễn Huy Thiệp… Ở


2
chặng đường sau, có nhiều cây bút thể nghiệm lối viết mới trong nước cũng như hải
ngoại, mang đậm dấu ấn hậu hiện đại như Nguyễn Bình Phương, Thuận, Đồn Minh
Phượng, Linda Lê, Hồ Anh Thái, Nguyễn Việt Hà… Các cây bút cách tân đã ý thức
được rằng nếu không thay đổi mình, khơng nhận thức lại, sẽ khơng có bạn đọc. Chính
vì vậy các nhà văn đã sử dụng lối viết mang tinh thần hậu hiện đại cả trong tư duy

nghệ thuật và phương thức sáng tạo. Tuy nhiên, các yếu tố ấy được mỗi nhà văn thể
hiện một cách khác biệt bởi mỗi nhà văn là một cá tính sáng tạo.
1.5. Trong số những cây bút kể trên, người mà chúng tơi tìm đến là Nguyễn Việt
Hà, một nhà văn đương đại với ngòi bút sắc sảo, đầy cá tính. Từ tiểu thuyết, truyện
ngắn cho đến tạp văn, những trang viết của tác giả Con giai phố cổ đều hiện ra dưới
một góc nhìn rất riêng. Cũng chưa bao giờ nhà văn khẳng định mình là người viết theo
lối hậu hiện đại song qua những gì thể hiện trong tác phẩm, Nguyễn Việt Hà đúng là
một phong cách mang khuynh hướng thẩm mỹ của tư duy nghệ thuật hậu hiện đại.
Như vậy, nếu soi lí thuyết hậu hiện đại vào những tác phẩm của Nguyễn Việt Hà, cụ
thể là Thị dân tiểu thuyết, bạn đọc sẽ tìm thấy những chỉ dấu của tinh thần hậu hiện đại
trong nhãn quan nghệ thuật của nhà văn khi ơng xử lí những vấn đề của cuộc sống
phồn tạp. Vì thế chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài “Dấu ấn hậu hiện đại trong Thị
dân tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà” với mong muốn kiến giải thêm về đặc trưng
phong cách cũng như sự cách tân trong tư duy nghệ thuật của nhà văn.
2. Lịch sử vấn đề
Nguyễn Việt Hà là nhà văn có vốn sống khá dày dặn. Ơng là một trong những
nhà văn tiêu biểu của nền văn xuôi Việt Nam đương đại. Đã có khơng ít cơng trình
nghiên cứu, bài viết về những tác phẩm của ơng. Tuy có nhiều ý kiến trái chiều,nhưng
dù khen hay chê, người đọc vẫn đánh giá cao về cảm quan hiện thực và những cách
tân trong nghệ thuật tự sự của ông.
Sau những tiếng vang và thành công nhất định về thể loại truyện ngắn, Nguyễn
Việt Hà đã thực sự gây được dấu ấn với bạn đọc khi ra mắt các cuốn tiểu thuyết Cơ hội
của Chúa - 1999, Khải Huyền muộn – 2005, Ba ngơi của người - 2014. Có thể nói,
những cuốn tiểu thuyết này đã thu hút được sự quan tâm của bạn đọc và giới nghiên
cứu. Bàn về nghệ thuật tự sự trong Cơ hội của Chúa, Trần Văn Tồn nhận định Cơ hội
của Chúa là mơ hình tiểu thuyết quen thuộc với những chi tiết phản ánh hiện thực,
tính cách nhân vật vẫn là cơng cụ để nhà văn xây dựng bức tranh đời sống. Tuy
Nguyễn Việt Hà chưa tạo được sự đổi mới như dự tính nhưng ở Cơ hội của Chúa là
“cồn cào và đầy ắp những dự định cách tân” và tác phẩm khiến người ta dừng lại suy
ngẫm về tiểu thuyết Việt Nam. [45]. Đoàn Cầm Thi trong “Cơ hội của Chúa: từ

nhật ký đến hậu trường văn học” cũng cho rằng: Cơ hội của Chúa khiến “ngỡ
ngàng” bởi sự “bề bộn” của nó; “Tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà là một lò thử
nghiệm văn phong khổng lồ…” Cịn Đơng La thì thừa nhận tài văn của Nguyễn Việt
Hà về văn phong nghệ thuật: chững chạc, biến hóa, sáng tạo ở ngơn ngữ, hình ảnh.


3
Nhưng bên cạnh sự thành công ấy là hạn chế về tư tưởng thể hiện qua việc xây dựng
hình tượng nhân vật. [27].
Nguyễn Chí Hoan trong bài viết “Khải huyền muộn - cuốn tiểu thuyết về chính
nó” đăng báo Người Hà Nội ngày 4 và 11/11/2005 đã thể hiện sự trân trọng kết cấu đa
tầng và ý nghĩa nhân văn ở giá trị thức tỉnh về thực trạng tha hóa mà Nguyễn Việt Hà
tạo nên trong thế giới nghệ thuật của Khải huyền muộn. Nguyễn Huy Thiệp với bài
viết “Khải huyền muộn - cảm hứng và những dấu hiệu của hình thức nghệ thuật
đương đại trong tiểu thuyết” cũng đã dành cho đồng nghiệp của mình sự nể trọng:
“Ở trong tác phẩm của Nguyễn Việt Hà ln có ẩn chứa một sự nguy hiểm tinh
thần đáng sợ thế nào đó đối với các “đồng nghiệp” của anh, những người đồng chí
“cùng lý tưởng nhưng khác hạng”. Sự nguy hiểm ấy chí ít có ở cả hai phương diện:
nội dung và hình thức. Điều được Nguyễn Huy Thiệp khẳng định trong bài viết còn là
bản lĩnh và khát vọng đổi thay trên “sân chơi văn học”của nhà văn Nguyễn Việt Hà.
Nhà nghiên cứu Phùng Gia Thế trong “Dấu ấn hậu hiện đại trong tiểu thuyết Nguyễn
Việt Hà” đã tập trung phân tích về sự sụp đổ của những trật tự đời sống trong thế giới
nghệ thuật của nhà văn cùng những thủ pháp nghệ thuật như “kính vạn hoa”,
“nghịch dị” và “giễu nhại”.
Nguyễn Trương Quý với bài viết: “Không gian và thời gian của vô cùng Hà
Nội” cho thấy sự tinh tế và tình yêu Hà Nội của Nguyễn Việt Hà ngay trong cái nhìn
hoang mang gửi vào nhân vật. Khen ngợi của nhà phê bình dành cho Nguyễn Việt Hà
cịn là sự hiểu biết về đề tài lịch sử và sức mạnh nội tại tạo nên bởi kết cấu của tiểu
thuyết Ba ngôi của người. Đào Cư Phú với bài viết “Phương thức kể chuyện trong tiểu
thuyết Nguyễn Việt Hà” đã khẳng định sự tìm tịi cách tân của Nguyễn Việt Hà về

phương thức kể chuyện nhằm đổi mới hình thức nghệ thuật của văn học đương đại,
đưa văn học Việt Nam đến gần văn học thế giới.
Bên cạnh đó, sáng tác của Nguyễn Việt Hà còn là đối tượng nghiên cứu của
nhiều luận văn thạc sĩ tại các trường Đại học:
Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Thuyên với đề tài Những cách tân trong
tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà qua Cơ hội của Chúa và Khải huyền muộn (Đại học Vinh,
2008) đã tập trung nghiên cứu về sự đổi mới tư duy nghệ thuật, quan niệm về con
người, từ đó phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật và một số thủ pháp nghệ thuật
cơ bản như tổ chức cốt truyện và nghệ thuật trần thuật.
Luận văn thạc sĩ của Lê Khánh Hà với đề tài Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Việt
Hà (Đại học Đà Nẵng, 2011) đã đặt tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà trong sự vận động
của tiểu thuyết Việt Nam đương đại, làm rõ trong luận văn của mình quan niệm nghệ
thuật về con người, sắc màu hậu hiện đại trong hình tượng nhân vật và những đặc điểm
nghệ thuật như đồng hiện, ngôn ngữ và giọng điệu.
Luận văn thạc sĩ của Lê Thị Loan với đề tài Tư duy nghệ thuật tiểu thuyết
Nguyễn Việt Hà (Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội,


4
2012), trên cơ sở khái lược tư duy nghệ thuật và hành trình sáng tác của Nguyễn Việt
Hà, tác giả phân tích hướng tiếp cận hiện thực, thế giới nhân vật và hình ảnh biểu
tượng và nghệ thuật biểu hiện trong tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà.
Luận văn thạc sĩ của Bùi Thị Nhung với đề tài Người kể chuyện trong tiểu
thuyết Nguyễn Việt Hà (Qua Cơ hội của Chúa và Khải huyền muộn) (Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015) đã tập trung làm rõ quan
điểm nghệ thuật, ngôi kể, điểm nhìn, ngơn ngữ, giọng điệu trong hai cuốn tiểu thuyết
của Nguyễn Việt Hà.
Luận văn thạc sĩ của Đinh Thị Thanh Ngà với đề tài Con người đô thị trong
văn xuôi Nguyễn Việt Hà (Đại học Vinh, 2015), cho thấy bối cảnh văn học Việt Nam
khi Nguyễn Việt Hà gia nhập làng văn, phân tích con người tha hóa và hình thức

nghệ thuật như ngơi kể, ngơn ngữ, giọng điệu.
Riêng với Thị dân tiểu thuyết- cuốn tiểu thuyết mới nhất của Nguyễn Việt Hà
xuất bản năm 2006 cho đến nay cũng đã có một số bài nghiên cứu, phê bình. Tuy
nhiên, những bài viết này chỉ nêu ra vấn đề chứ chưa phân tích một cách có hệ thống.
Trần Chiến trong bài viết Đọc thị dân tiểu thuyết: kể lể như Nguyễn Việt Hà
đăng trên báo Thể Thao & Văn Hóa ngày 3/7/2019 có nhận định về cách viết của
Nguyễn Việt Hà như sau: “…Giữa những uyên bác cao siêu, tác giả chèn vào những
nhả nhớt bông phèng hoặc chi tiết thời sự, phả vào những “phép” độc. Một tiết tấu văn
không dễ theo dõi, vừa triết lý, trầm ngâm, cổ kính thoắt đã bặm trợn hay châm chọc,
hình như có hơi hướng những tạp văn thành danh Nguyễn Việt Hà. Dồi dào chữ đắt,
anh có nhiều chọn lựa để thể hiện một tình huống, cho ra những sắc thái khác nhau [8].
Trần Chiến trong bài viết trên cũng khẳng định rằng: Trong cuộc chơi rất riêng
này, Nguyễn Việt Hà tha hồ tìm tịi, đi xa về gần tung tẩy rồi vịng vèo trở lại mạch
chính. Rất lắm cơng phu và cũng thật tự do [8].
Hoàng Đăng Khoa trong phần giới thiệu của bài phỏng vấn Nhà văn Nguyễn Việt
Hà: - “Mỗi cuốn tiểu thuyết là một đoạn đời”- trên vannghequandoi.com.vn ngày
11/11/2019 đã viết: “Cuối thế kỉ trước, khi Cơ hội của Chúa được công bố, lập tức tên
tuổi Nguyễn Việt Hà được đóng đinh vào hàng ngũ khơng nhiều những nhà cách tân
tiểu thuyết. Và từ đó đến nay, mỗi lần tác giả này xuất hiện là một lần ấn tượng. 20
năm 10 đầu sách, gồm 2 tập truyện ngắn, 4 tập tản văn và 4 tiểu thuyết. Thị dân tiểu
thuyết vừa ra mắt bạn đọc là thế giới nghệ thuật với mê lộ cấu trúc chằng chịt liên văn
bản đông tây kim cổ, sắc lẻm hào sảng tiếng cười trào giễu bông phèng, lịch lãm
duyên dáng ý giọng lấp lửng tưng tửng, tiểu thuyết tản văn tiểu luận tích hợp bất phân.
Vẫn là một Nguyễn Việt Hà như vốn là…” [25].
Trần Ngọc Hiếu ở “Kẻ thị dân trong văn Nguyễn Việt Hà” cho rằng: “Đến cuốn
tiểu thuyết mới nhất này, Nguyễn Việt Hà mới chính thức đưa nhân vật mà mình sử
dụng để kể câu chuyện về Hà Nội lên nhan đề: thị dân. Một nhan đề ngả hẳn sang màu
sắc thế tục, nếu đặt bên cạnh ba tiểu thuyết trước đó của ơng vốn mang âm hưởng tôn



5
giáo và tham vọng khái quát tấn kịch của nhân sinh. Nhưng thực ra văn chương của
Nguyễn Việt Hà vốn dĩ vẫn luôn là câu chuyện về/ của lớp thị dân Hà Nội. Những phát
hiện của ông về diện mạo của con người thị dân Hà Nội đương đại, với cá nhân tơi, có
sức gợi mở cho những suy tư nhân học về bản sắc của thành phố này” [22].
Như vậy, có thể nói, các sáng tác của Nguyễn Việt Hà và những đổi mới, cách
tân theo hướng hậu hiện đại trong Thị dân tiểu thuyết đã được giới nghiên cứu, phê
bình quan tâm, ghi nhận, chứng tỏ rằng Nguyễn Việt Hà đã có một chỗ đứng quan
trọng trong văn học đương đại Việt Nam và trở thành đối tượng của nghiên cứu phê
bình văn học. Chính những nhận xét, những gợi ý q báu ấy giúp chúng tơi nghiên
cứu đề tài “Dấu ấn hậu hiện đại trong Thị dân tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà” để
có cái nhìn tồn diện, sâu sắc hơn về những đóng góp của ơng trong tiến trình đổi mới
tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
3. Mục đích nghiên cứu
Phân tích hiệu quả thẩm mĩ của những dấu ấn hậu hiện đại trong Thị dân tiểu
thuyết của Nguyễn Việt Hà để lí giải những thay đổi trong cách tiếp cận đời sống đến
quan niệm nghệ thuật về con người thị dân trong cái nhìn đa chiều theo cảm quan và
tâm thức hậu hiện đại; những cách tân trong việc đa dạng hóa các điểm nhìn trần thuật,
trong các thủ thuật của lối viết hậu hiện đại như nhại, mảnh vỡ, cực hạn, liên văn
bản… của Nguyễn Việt Hà trong Thị dân tiểu thuyết. Từ đó thấy được sự đóng góp
của Nguyễn Việt Hà trong tiến trình đổi mới tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Tiểu thuyết Thị dân tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Dấu ấn hậu hiện đại trong Thị dân tiểu thuyết thể hiện ở
tư duy nghệ thuật và hình thức nghệ thuật.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để triển khai vấn đề nghiên cứu, chúng tôi đã sử dụng kết hợp các phương pháp
nghiên cứu như sau:
- Phương pháp hệ thống: vận dụng phương pháp này để đặt Thị dân tiểu thuyết
trong hệ thống đề tài cùng thể loại, hệ thống văn hóa xã hội đương đại để thấy sự

cách tân trong cách viết của Nguyễn Việt Hà, đồng thời thấy được vị trí của tiểu
thuyết cũng như những đóng góp của Nguyễn Việt Hà trong cơng cuộc cách tân văn
học nước nhà.
- Phương pháp so sánh - đối chiếu: vận dụng sự tham chiếu trong nội tại những
tiểu thuyết của tác giả Nguyễn Việt Hà để phát hiện những dấu ấn hậu hiện đại trong
Thị dân tiểu thuyết. Qua đó, thấy được Nguyễn Việt Hà đã có những thay đổi trong
cách tiếp cận đời sống đến quan niệm nghệ thuật về con người trong cái nhìn đa chiều
theo cảm quan và tâm thức hậu hiện đại cùng những cách tân trong kĩ thuật viết để tạo
nên cái “khác” (chữ của Đỗ Lai Thúy) trong tác phẩm của mình.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp: được vận dụng để phát hiện, kiến giải từng


6
biểu hiện cụ thể kết hợp với quá trình phân tích, lí giải và tổng hợp vấn đề thành hệ
thống luận điểm, luận cứ phù hợp với những biểu hiện của lí thuyết hậu hiện đại.
- Phương pháp loại hình: nhằm bình giá những biểu hiện của lí thuyết hậu hiện
đại trong tác phẩm trên nền tảng lí thuyết loại hình học. Vì đối tượng nghiên cứu là
tiểu thuyết, cần sử dụng phương pháp loại hình để có căn cứ đặc trưng thể loại, làm cơ
sở lí giải dấu ấn hậu hiện đại mang đặc trưng của tinh thần thể loại tiểu thuyết.
Ngồi ra, chúng tơi vận dụng lý thuyết hậu hiện đại như một hướng tiếp cận
chính để kiến giải những dấu hiệu của hậu hiện đại trong Thị dân tiểu thuyết của
Nguyễn Việt Hà.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa khoa học: Trên cơ sở ứng dụng lí thuyết hậu hiện đại, phân tích một
cách có hệ thống dấu hiệu hậu hiện đại, đề tài góp phần khẳng định những cách tân
trong tư duy nghệ thuật, lối viết của Nguyễn Việt Hà; cũng như đóng góp của Thị dân
tiểu thuyết của nhà văn trong lịch sử vận động và phát triển của tiểu thuyết Việt Nam
đương đại.
- Ý nghĩa thực tiễn: Đề tài tiếp tục gợi ra hướng nghiên cứu vận dụng lí thuyết
hậu hiện đại vào nghiên cứu tác giả, tác phẩm của tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 nói

chung và Nguyễn Việt Hà với Thị dân tiểu thuyết nói riêng.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài Mở đầu, Tài liệu tham khảo, luận văn cấu trúc thành 3 chương:
Chương 1. Tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà trong khuynh hướng tiểu thuyết hậu hiện
đại Việt Nam
Chương 2. Dấu ấn hậu hiện đại trong Thị dân tiểu thuyết nhìn từ quan niệm nghệ
thuật về con người
Chương 3. Dấu ấn hậu hiện đại trong Thị dân tiểu thuyết nhìn từ phương thức thể
hiện


7
Chương 1
TIỂU THUYẾT NGUYỄN VIỆT HÀ TRONG KHUYNH HƯỚNG
TIỂU THUYẾT HẬU HIỆN ĐẠI VIỆT NAM
1.1. Tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 và những khuynh hướng của cảm quan
hậu hiện đại
Trong quá trình vận động và phát triển, tiểu thuyết đương đại buộc phải làm mới
mình, phải tạo ra được những “cái khác” (chữ dùng của Đỗ Lai Thúy), nếu không chỉ
là sự lặp lại nhàm chán. Trong “Nghệ thuật tiểu thuyết”, M.Kundera đã từng viết:
“Chân lý toàn trị loại trừ tính tương đối, sự hồi nghi, nghi vấn, và nó mãi mãi khơng
thể dung hịa với cái tơi muốn gọi là tinh thần tiểu thuyết. ” [39 tr.22]. Như vậy, chúng
ta có thể dễ dàng nhận thấy rằng nghệ thuật tiểu thuyết chính là cái quyết định giá trị
nội tại của tiểu thuyết. Cái mới của nghệ thuật là tiêu chí để phân biệt và thẩm định về
sự vận động của tiểu thuyết trong dịng chảy của nó. Và tiểu thuyết Việt Nam giai
đoạn sau năm 1986 cũng không nằm ngồi dịng chảy ấy. Tiểu thuyết giai đoạn này đã
có những đổi mới toàn diện từ tư duy nghệ thuật cho đến phương thức thể hiện. Từ đó
đem đến sự tươi mới cho bầu khơng khí văn chương đang đi vào lối mòn từ những
năm cuối thập kỉ 1970, đầu thập kỉ 1980 ở Việt Nam.
Tương ứng với thời hậu hiện đại, khuynh hướng văn học hậu hiện đại ra đời. Khó

có thể xác định chính xác thời điểm bắt đầu của khuynh hướng hậu hiện đại cũng như
nhà văn nào khởi điểm cho khuynh hướng này bởi sự đan cài tất yếu của lịch sử văn
học. Tuy nhiên khi đã có độ lùi nhất định về thời gian, người ta có thể nhận ra những
phương diện cơ bản của chủ nghĩa hiện đại trong văn học. Có cái nhìn tổng quan về
chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học, các nhà nghiên cứu nhận thấy chủ nghĩa hậu
hiện đại hàm chứa một nội dung quan niệm khác về hiện thực cuộc sống và con người
với những đặc trưng thi pháp riêng. Văn học tiền hiện đại với chủ nghĩa hiện thực, chủ
nghĩa lãng mạn tạo một mô thức chiều sâu, chuộng trung tâm, đề cao quyền uy, chăm
xới cho chỉnh thể. Văn học hiện đại phá bỏ mô thức chiều sâu của tiền hiện đại nhưng
lại ra sức xây dựng mơ thức chiều sâu khác, có trung tâm nhưng “lưỡng lự”; có quyền
uy nhưng khơng thấy được, có chỉnh thể nhưng lí tính khơng thể nắm bắt. Chủ nghĩa
hậu hiện đại phủ nhận tất cả các mô thức chiều sâu đó và khơng hề có ý định tái thiết
mơ thức chiều sâu nào khác. Các khái niệm và giá trị hiện tồn bị hồi nghi vì được che
giấu bởi tính hư cấu của ngơn ngữ. Phía sau hiện tượng khơng có bản chất, nếu có
cũng bất định bởi những quan hệ không ngừng thay đổi. Quan niệm về con người
trong văn học hậu hiện đại cũng được nhìn nhận trong đối chiếu với quan niệm về con
người trong văn học hiện đại. Nếu con người trong chủ nghĩa hiện đại lo lắng trước sự
tha hóa của nhân sinh thì con người trong chủ nghĩa hậu hiện đại lại dị thường hóa, ảo
giác hóa sự tha hóa đó. Nếu ý thức về cái tôi rất mãnh liệt trong chủ nghĩa hiện đại thì
nó lại bị hồi nghi về sự tồn tại trong chủ nghĩa hậu hiện đại. Chủ nghĩa hậu hiện đại


8
trong văn học còn được biểu hiện bằng hệ thống thi pháp bất định và đột phá ở mọi
góc độ chủ đề, hình tượng, tình tiết, ngơn từ cho đến thể loại.
1.1.1. Quan niệm nghệ thuật về những trạng thái tinh thần đổ vỡ của thời đại
Văn học nghệ thuật là một phạm trù thuộc ý thức xã hội, là sự đánh giá chủ quan
về thế giới khách quan của nhà văn. Xã hội Việt Nam sau “đổi mới” vừa là cơ hội vừa
là thách thức đối với mỗi nghệ sĩ. Nhiều nhà văn phản ánh hiện thực theo những quan
điểm và cách nhìn hồn tồn mới, trong đó có cảm quan hậu hiện đại. Con người hậu

hiện đại nhận thấy sự đổ vỡ của những trật tự đời sống, sự thay đổi các thang bậc giá
trị, sự hoài nghi về một mẫu hình thế giới lý tưởng và chân lý, sự vong thân của con
người trước ngưỡng cửa bất an của xã hội hậu hiện đại. Kéo theo đó là sự mất niềm tin
vào sự áp đặt của cái chính thống, con người rơi vào tâm trạng cơ đơn, lạc lồi... Sau
năm 1986, chủ trương “cởi trói” đã tạo điều kiện cho văn học nghệ thuật có những
“phá trói”, mở rộng sự tiếp xúc với các nền văn học trên thế giới. Khơng cịn những
“rào cản” tuyệt đối cho việc tiếp cận những lí thuyết văn học, văn học Việt Nam xích
lại gần hơn với các nền văn học khác. Sự xích lại ấy thể hiện ở cả hai phương diện
nhận thức thực tại và đổi mới nghệ thuật trần thuật và xu thế chung là dịch chuyển vào
địa hạt hậu hiện đại. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ và những thuận lợi từ mạng
internet là yếu tố quan trọng cho văn học Việt Nam hội nhập quốc tế. Cũng từ đây, nhà
văn hướng ngịi bút của mình tới cuộc sống đời tư, thế sự, sống dậy trong những sáng
tác là mối trăn trở suy tư của con người, về con người trong chằng chịt những mối
quan hệ cùng những chao đảo về giá trị nhân phẩm. Đời sống bộn bề trở thành chất
liệu vô cùng phong phú cho sáng tạo của nhà văn. Sự phát triển của nội tại nền văn học
là một trong những điều kiện xuất hiện “hoàn cảnh hậu hiện đại” trong văn học Việt
Nam. “Không thể viết như trước” không chỉ là nhu cầu mà còn là ý thức nghệ thuật
gắn với tinh thần thời đại của nhà văn.
Nếu như chủ nghĩa hiện thực cổ điển khát khao mãnh liệt một trật tự đời sống
mới để thay thế cho cái hiện tồn, chủ nghĩa hiện đại muốn tạo ra trật tự từ việc điều
chỉnh cái hỗn độn của đời sống thì ở chủ nghĩa hậu hiện đại cảm quan phổ biến của
nhà văn là: khơng cịn tin vào cái gì tốt đẹp, nền tảng, khơng tin vào cái lí tưởng cả
trong q khứ, hiện tại và tương lai. Rõ ràng, trong văn chương đương đại có sự hồi
nghi, hư vơ chủ nghĩa. Nhà văn dường như chỉ còn lại niềm tin sau cùng: tin rằng cuộc
đời vốn không thể khác.
Cảm quan hậu hiện đại, xét ở phương diện chung nhất là như thế. Còn trong thực
tiễn sáng tác của mỗi nghệ sĩ, sự biểu hiện cảm quan này lại có những nét đặc thù.
Cảm quan hậu hiện đại trong tiểu thuyết đương đại không chỉ thể hiện ở chỗ nhà văn
tái hiện sự hỗn loạn của đời sống, mà quan trọng hơn, chính là một nguyên tắc nhìn
đời sống của họ: đời sống như là một sự hỗn độn, khơng cịn tiêu chuẩn giá trị và định

hướng có ý nghĩa nào. Nhà văn xem bản chất thế giới là hỗn mang, anh ta chấp nhận
sự hỗn độn như là một sự kiện… “Đầu thế kỉ XX, với những cơ sở triết học hiện đại


9
chủ nghĩa, cái phi lí dịch chuyển dần từ ngoại biên vào trung tâm. Những trật tự tự
nhiên, trật tự xã hội ít nhiều bị lung lay khi con người cá thể với những hành vi cá
nhân, những trạng huống tâm lí cá biệt được chú trọng và trở thành tiêu điểm nhìn ra
thế giới. Phản ứng lại cái quy củ, chính thống trở thành cảm hứng chủ đạo của văn học
hiện đại (Kafka, Camus, Ionessco, Beckett...). Quan niệm nghệ thuật cùng lối viết có
phần tân kì của văn học phi lí lại càng được đẩy mạnh ở trào lưu hậu hiện đại khi con
người có xu hướng hồi nghi những chân lí, những trật tự ổn định, khi xã hội ngày một
loạn chuẩn và giải trung tâm hóa. Cái phi lí trong nhiều trường hợp đã trở thành “nhân
vật” chính của tác phẩm văn học hậu hiện đại. [2]
Mảnh vỡ cũng là khuynh hướng sáng tác tiêu biểu của chủ nghĩa hậu hiện đại.
“Mảnh vỡ là bản thể của hiện tồn hậu hiện đại, khi người ta thôi không còn tin vào
những cái tròn trịa, đầy đặn, dễ nắm bắt...thì “vỡ” là tiêu chí bản chất của sự vật” [7,
tr.76]. Với tư cách là một kĩ thuật, mảnh vỡ xâm nhập vào tất cả các khuynh hướng
sáng tác khác và được khai thác trên cả phương diện nội dung và nghệ thuật. Kết cấu
mảnh vỡ phản ánh hiện thực mảnh vỡ, hình thức mảnh vỡ chứa đựng nội dung mảnh vỡ.
Điều đó chứng tỏ rằng, cảm quan “hậu hiện đại” trong sáng tác thời kì này biểu hiện ở
sự “rạn vỡ” nào đó của trật tự xã hội, ở sự khủng hoảng niềm tin ở mức nào đó của con
người... Họ cảm giác thế giới như một sự hỗn độn, nơi khơng cịn bất kì tiêu chuẩn, giá
trị và định hướng có ý nào được xem là hiện thể tất yếu của sự mất lịng tin, sự hồi
nghi. Điều này, tất yếu sẽ dẫn đến quan điểm phủ định lí tính, phủ định thực tại và lí
tưởng, tức màu sắc của chủ nghĩa hư vô. Trong trạng thái tinh thần đổ vỡ, con người
dường như đã méo mó, có sự đan xen và khó phân biệt giữa cái xấu và cái đẹp, cái hay
và cái dở. Chủ nghĩa hư vơ được hình thành từ sự xuống cấp của trật tự xã hội và sự
lạc lõng của con người. Con người trong văn chương hậu hiện đại cảm thấy cô đơn
ngay trong thế giới của mình, hồi nghi tất cả, thâm chí cịn hồi nghi cả chân lý, hồi

nghi các giá trị được xem là vĩnh hằng.
Trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, người đọc bắt gặp những con người ln
bị ám ảnh bởi sự khủng hoảng niềm tin. Khi không cịn niềm tin vào nhân tính, thế giới
của nhà văn hiện lên chỉ là những tăm tối, ngưng đọng, tắt nghẽn và con người cảm thấy
ngột ngạt trước đời sống mịt mù, khơng lối thốt đó. Những đứa trẻ chết già hiện lên là
một thế giới ngập tràn trong nỗi cô đơn, lạc lõng và ẩn chứa đầy những huyền thoại đen
tối. Huyền thoại ẩn chứa trong những lời đồn, ẩn chứa trong những điềm báo, huyền
thoại trong tình yêu của Quang và cô gái rắn, huyền thoại về những đứa con của bà
giáo…Trong thế giới mờ nhòe ấy những kiếp người đang chơi vơi, thoi thóp. Đó là
những đứa trẻ khơng được sống với đúng độ tuổi của mình, trẻ con mà khơng được làm
trẻ con. Đó là những con người đang quẫy đạp trong đọa đầy số kiếp. Thoạt kì thủy
cũng hiện lên với những suy tư về thân phận con người. Con người mà không phải là
con người đúng nghĩa, họ là những người điên, những kẻ không lành lặn cả về thể xác
lẫn tâm hồn. Họ sống nghiêng về bản năng hơn là ý thức và lí trí. Ngụp lặn trong những


10
u mê, không phương hướng, không khát khao. Họ xuất hiện khơng có lai lịch rõ ràng và
cũng biến đi khơng tìm ra tăm tích: gia đình ơng Phước ở đâu “khơng rõ” [ 40, tr 5],
“Ơng Sung sau đợt đưa tân binh lên biên giới phía bắc khơng thấy quay về xã” [ 40, tr
6], “Quê ông Phùng nghe đâu ở xa lắm” [ 40, tr 19]… Nguyễn Bình Phương thường
hướng ngịi bút của mình vào những mảnh vỡ của hiện thực, mỗi tác phẩm là những
mảnh vỡ nhỏ khiến cho độc giả khó tiếp cận với nội dung và càng khó hơn khi tóm tắt
các tiểu thuyết đó. Đọc Người đi vắng, Thoạt kì thủy, Những đứa trẻ chết già, Trí
nhớ suy tàn, Ngồi, nếu là người đọc hời hợt sẽ dễ nhận thấy những vịng xốy,
những mảnh chắp nối của kí ức hay thời gian mà thơi hay nếu cứ cảm nhận theo một
trật tự quen thuộc, chúng ta sẽ không thể thấy một mạch truyện đang chảy ngầm bên
trong, câu chuyện cứ trôi đi và nhà văn cứ kể như người cầm một cái máy ảnh kéo
dọc cuộc sống và chụp lại một cách sinh động, chân thực những gì đang diễn ra
trong cuộc sống ấy, khơng bình luận, khơng thêm bớt, tất cả cứ để người đọc tự cảm

nhận và rút ra kết luận. Trong khi đó kì thực đây là những mảnh ghép có lí, trong ý đồ
nghệ thuật của các nhà tiểu thuyết nhằm hướng đến một minh chứng cho những thiết
chế, trật tự xã hội, con người pha tạp, hỗn độn như là hệ quả của một thực tại bất tồn.
Có thể đến với tiểu thuyết Hồ Anh Thái, để nhận thấy được xu hướng phản ánh
một cách trung thực những bộn bề, phức tạp của cuộc sống thời khủng hoảng, thời xây
dựng. Mà ở đó, con người là những kẻ đạo đức suy đồi đến độ mất hết tính người.
Trong Cõi người rung chng tận thế, bộ ba Bóp, Phủ, Cốc chìm đắm trong những thú
vui khơng giống ai. Kẻ đê mê, ngập ngụa trong những cuộc tình bng thả, người lại
có những thú vui bệnh hoạn như bóp cổ các con vật đến chết, kẻ hứng khởi bởi việc
sưu tập những chiếc quần lót của các cơ gái đã ăn nằm với mình… Thậm chí như nhân
vật n Thanh, một cơ gái có gương mặt vơ cùng thơ ngây, trong sáng lại dâm đảng
đến không ngờ: “Không thể sống nổi một tháng mà khơng có đàn ơng”. Như vậy, tất
cả họ dường như đã tạo ra cho mình một thế giới rất riêng, không nằm trong quỹ đạo
chung của xã hội. Viết về những điều này, dường như Hồ Anh Thái đang hồi nghi về
một thế giới hài hịa, trật tự, công bằng.
Chủ nghĩa hiện thực cổ điển chủ trương lấy hiện thực xã hội và những vấn đề có
thực của con người làm đối tượng sáng tác, chủ nghĩa hiện thực hướng tới cung cấp
cho người đọc những bức tranh chân thực, sống động, quen thuộc về cuộc sống, về
môi trường xung quanh. Phê phán chủ trương này, những nghệ sĩ hiện đại cho rằng
chủ nghĩa hiện thực chỉ là sự mô phỏng, bị lệ thuộc vào thực tại. Với họ, nghệ thuật
phải mổ xẻ cuộc sống và bay ra khỏi cuộc sống, thì chủ nghĩa hậu hiện đại lại mang
đến một quan niệm hoàn toàn khác. Chủ nghĩa hậu hiện đại chối bỏ sự thật khách quan
và đại tự sự. Đó là sự giải thốt có chủ ý từ những cách tiếp cận của chủ nghĩa hiện đại
đã thống trị trước đó. Thế giới hiện thực trong văn chương hậu hiện đại là thực tại khó
nắm bắt, nhập nhằng, lẫn lộn, đa diện, “thậm phồn”. Mới đây nhất, Đoàn Minh
Phượng trong hai cuốn tiểu thuyết Và khi tro bụi và Tiếng Kiều đồng vọng cho ta thấy


11
sự đổ vỡ của tình cảm gia đình, sự đổ vỡ giá trị thiêng liêng về mối quan hệ giữa nam

và nữ.
Trong Tiếng Kiều đồng vọng, Đoàn Minh Phượng đã thể hiện một cách đầy tinh
tế sự đổ vỡ của những giá trị này qua việc miêu tả âm thanh tiếng vỡ của chiếc bình
Khang Hy. “Nhà cha mẹ dì ngày xưa có một chiếc độc bình Khang Hy, để lại từ thời
các cụ tổ làm quan trong triều Nguyễn. Chiếc bình được đặt trên một cái đơn cao bằng
gỗ cẩm lai chạm hoa sen, phía trước bàn thờ…Trước tiếng vỡ đó, trong căn nhà này có
một gia đình, một lịch sử. Sau tiếng vỡ đó, khơng cịn gì, khơng cịn ai. Khơng cịn
ơng, bà, cha hay mẹ, khơng cịn tổ tiên, chị em, khơng cịn tuổi thơ, trời mưa, bánh
Tết, chuyện đời xưa, trăng rằm, lá sen... Tất cả đã vỡ cùng với chiếc bình, những mảnh
vỡ hai mươi hai năm rồi chưa có ai cúi nhặt lên và sắp lại cạnh nhau.” [41, tr.57-58]
Có lẽ đây là những câu văn vô cùng đau đớn trước sự đổ vỡ của những giá trị vốn
được tôn thờ trước hành động phá vỡ lễ giáo, phá vỡ nền nếp gia phong của cô gái mới
lớn như Liên. “Chị Liên thất thân với một người từ miền Bắc. Chị Liên đã làm ô nhục
gia phong. Đó không phải là vụ chửa hoang đầu tiên trong họ, hay trong làng. Nhưng
nó là nhát dao làm chảy cạn bụm máu cuối cùng của một dịng họ quan xưa ở Huế. Đó
là những người suốt nhiều năm vẫn chờ vua trở lại. Nếu không sống bằng giấc mộng
đó, họ sống bằng niềm hãnh diện lặng lẽ và khắc nghiệt của những kẻ nghĩ mình cao
quý nhưng thất thế. Danh dự của họ càng mơ hồ thì nó càng mạnh mẽ và cay đắng”
[41, tr.58].
Các tiểu thuyết hậu hiện đại mang đến cho người đọc cảm nhận về nỗi cô đơn, xa
lạ, mang cảm giác bất an, lạc lõng, luôn ám ảnh bởi cái chết trước cuộc sống, thậm chí
trước chính họ. Đúng bản chất tinh thần hậu hiện đại, ở đó con người ln đấu tranh
trong những phi lí và phản kháng để được tự do bản thể. Với mong muốn tái hiện bức
tranh hiện thực, thể hiện trạng thái tinh thần ấy, các nhà văn đã tiếp thu thành tựu của
thế hệ đi trước kết hợp với tư duy triết học mang màu sắc hiện sinh và một trí tưởng
tượng cùng với trực giác nhạy bén tạo nên một thế giới nghệ thuật đầy lạ lẫm.
1.1.2. Quan niệm nghệ thuật về con người trước hiện thực bất tồn
Theo Trần Đình Sử, quan niệm nghệ thuật về con người là một cách cắt nghĩa, lí
giải tầm hiểu biết, tầm đánh giá, tầm trí tuệ, tầm nhìn, tầm cảm của nhà văn về con
người được thể hiện trong tác phẩm của mình [45]. Trong Từ điển thuật ngữ văn học,

các tác giả nhận định: “quan niệm nghệ thuật về con người là hình thức bên trong của
sự chiếm lĩnh đời sống, là hệ qui chiếu ẩn chìm trong hình thức nghệ thuật, nó gắn với
các phạm trù phương pháp sáng tác, phong cách nghệ thuật, làm thành thước đo của
hình thức văn học và là cơ sở của tư duy nghệ thuật [21].
Quan niệm nghệ thuật về con người biểu hiện chủ quan sáng tạo của chủ thể, là
thước đo để đánh giá tầm nhìn và tài năng nghệ thuật của người nghệ sĩ trong sáng tác
văn chương. Sau năm 1975, văn học Việt Nam vận động gắn liền với sự đổi mới của
đất nước. Cùng với sự vận động đó, quan niệm nghệ thuật về con người cũng có nhiều


12
thay đổi, nó điều khiển, tác động mạnh mẽ việc xây dựng tác phẩm, để lại những dấu
ấn đậm nét của từng cá thể sáng tác. Vấn đề quan niệm về con người, nhận thức và lí
giải về hoạt động của con người trong tình hình mới trở thành vấn đề trung tâm thu hút
sự chú ý của nhà văn. Nhận thức về vấn đề con người trong văn học và chủ nghĩa nhân
văn, Lê Ngọc Trà viết: “Nhận thức đúng mối quan hệ giữa đời sống và chính trị, con
người và giai cấp là một trong những điều kiện làm cho văn học chúng ta có khả năng
phong phú và hấp dẫn hơn (…) Văn học, đặc biệt là văn học đã bước vào giai đoạn
thực sự trưởng thành, khơng chỉ bày tỏ tình u, sự phẫn nộ hay lịng thương xót con
người mà cịn là một lĩnh vực quan sát và khám phá về con người” [ 52, tr 56,57].
Trong giai đoạn này, cho phép người cầm bút ngẫm nghĩ về con người, hiểu về con
người sâu sắc hơn. Giá trị nhân văn của tác phẩm nghệ thuật được đề cao, con người
với đời tư, cá tính, bản lĩnh, phẩm chất, năng lực cá nhân được chú trọng. “Con người
như một thế giới riêng phong phú, phức tạp, với số phận riêng, và trong mối quan hệ
cũng hết sức phong phú, phức tạp của nó với tồn xã hội, trở thành mối quan tâm hàng
đầu của sáng tác” [52, tr 3].
“ Xét về quan niệm thực tại và con người thì tiểu thuyết Việt Nam đương đại với
sự khủng hoảng đức tin, sự thất vọng về thực tại và con người tha hóa, dẫn tới sự “giải
áo tưởng”, “phản huyễn tưởng” và tính đa ngun văn hóa. “ J. Lyotard viết: “ Nếu
giản lược mọi thứ tới tận cùng, thì “chủ nghĩa hậu hiện đại” được hiểu như sự không

tin vào những “siêu truyện”, “siêu tự sự”. “Siêu tự sự” (meta- narrative) ở đây không
nên hiểu chỉ là khái niệm hình thức hay cấu trúc văn học nghệ thuật, mà còn là (chủ
yếu là) phạm trù nhận thức. “Siêu truyện” hay “đại tự sự”, theo Lyotard, là “ những hệ
thống giải thích”, những thứ đã tổ chức nên xã hội tư sản và đóng vai trị phương tiện
biện minh cho sự tồn tại của nó: tơn giáo, lịch sử, khoa học, tâm lý, nghệ thuật. Học
giả người Pháp này xác định đặc trưng “thời hậu hiện đại” chính là sự xói mịn đức tin
vào những “siêu truyện” từng chính thống hóa, lý giải và “ độc tơn hóa” những quan
niệm về thực tại. Đây là phạm trù then chốt của chủ nghĩa hậu hiện đại dẫn tới nhiều
khái niệm quan trọng khác như “ cảm quan hậu hiện đại”, “bất định nhận thức”, “ngụy
tạo”, “cái chết của chủ thể”, “liên văn bản”, “phi lựa chọn”…
Nghệ thuật hậu hiện đại ra đời chính trên cơ sở phá bỏ “siêu truyện” của chủ
nghĩa hiện đại về “chân lý cuối cùng” trong nhận thức thế giới và con người. Các nhà
hậu hiện đại phê phán “ngôn ngữ tuyệt đối”, “phong cách mới”- những “bảo bối” mà
chủ nghĩa hiện đại có tham vọng nhờ vào đó dựng lên một “thực tại thuần khiết, toàn
vẹn” – vương quốc tự do của nghệ thuật. Nếu họ có viện tới “siêu truyện”, thì cũng
chỉ là để giễu nhại và chứng minh sự bất lực và tính vơ nghĩa của nó” [3, tr. 43 – 59].
Cũng theo Đào Tuấn Ảnh, tác giả bài viết này thì “Khơng tin vào cái mơ hình thực
tại hài hồ, bất biến của các nhà hiện đại chủ nghĩa, nghệ thuật hậu hiện đại xây dựng
cho mình một “chiến lược” dựa trên sự chấp nhận thực tại hỗn độn, thậm chí gia tăng
sự hỗn độn bằng cách “giải cấu trúc mọi trung tâm văn hố. Nó đập vỡ khơng thương


13
tiếc mơ hình nghệ thuật cao cả của chủ nghĩa hiện đại cùng các mơ hình văn hố
nghệ thuật trước đó, và từ những mảnh vỡ lắp ghép một thực tại giống như tấm kính
vạn hoa mang đầy tính trích dẫn, chắp vá. Đối với các nhà hậu hiện đại chỉ có tính
mảnh đoạn, tính chiết trung là xác thực, cịn bất kỳ luận chứng lý tính nào về lịch sử,
thần thoại, tâm lý, đều là võ đoán và nguỵ tạo.
Văn học hậu hiện đại mang đến cảm quan về một hiện thực hỗn độn, ngẫu
nhiên, phi nhân quả. Hiện thực càng hỗn độn hơn bởi nó bất định, thay đổi khó

lường. Kĩ thuật phân mảnh thể hiện cảm quan ấy yêu cầu độc giả tự sắp xếp theo khả
năng tiếp nhận đồng thời tạo độ mở cho sự suy ngẫm về nhiều vấn đề khác nhau
trong đời sống. Sự xuất hiện của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn chương đã phá vỡ
ranh giới của hàng loạt quan niệm mang tính định giá: về chủ nghĩa hiện thực, về vai
trò của chủ đề tư tưởng trong tác phẩm, về tầm vóc và quy mơ của các tự sự, về ranh
giới giữa các thể loại và loại hình… Với những cách tân ở nhiều mức độ khác nhau
của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh… (từ cuối thế kỷ XX) và Nguyễn
Bình Phương, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Thuận… (đầu thế kỷ XXI)…, nền văn
xuôi Việt Nam đã có những thành tựu đáng kể trong nỗ lực thay đổi để hòa nhịp
cùng dòng chảy của văn học đương đại thế giới. Với những nỗ lực này, chúng tôi
nghĩ rằng dòng văn chương của những người cách tân theo hướng “hậu hiện đại hóa”
(một trong ba khuynh hướng lớn của văn học đương đại) sẽ “chín dần” và trở thành
dòng văn học chủ lưu trong tương lai.
Chịu ảnh hưởng sâu sắc của hậu hiện đại phương Tây, khuynh hướng văn học
hậu hiện đại Việt Nam cũng tập trung vào các vấn đề mang đậm tính nhân bản như:
đời sống thảm kịch, cơ đơn, hồi nghi, phi lí, dấn thân, nổi loạn, cái chết… Đứng từ
góc nhìn này, rất nhiều nhà văn như: Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Tạ Duy
Anh, Nguyễn Bình Phương, Hồ Anh Thái, Nguyễn Danh Lam, Đoàn Minh
Phượng…đã đi sâu khám phá thân phận con người giữa những biến động của kinh tế,
xã hội, văn hóa. Hoàn cảnh xã hội thay đổi, đời sống tinh thần của con người khác
trước. Đặc biệt, là sự chi phối của hai tác nhân có sức mạnh mê hoặc con người vào
bậc nhất hiện nay là: truyền thông đại chúng và cơng nghệ thơng tin khiến cho cách
nhìn nhận và cảm nhận của con người về bản thể và thế giới đã có những thay đổi
sâu sắc.
Trong tác phẩm của các nhà văn hậu hiện đại nói chung, thân phận con người
hiện đại được tái hiện ở tình trạng vong thân, phi lí, cơ đơn, bị bủa vây bởi những ám
ảnh khôn nguôi về cái chết, về quá khứ, bị đẩy đến đường cùng của sự lạc lõng để rồi
nổi loạn và tha hố trên con đường kiếm tìm bản ngã, kiếm tìm tự do, cái đẹp… Cảm
thức về con người như trên khơng chỉ có sự gặp gỡ với tư tưởng của J.P.Sartre,
Kafka, Nietzsche, Heidegger… mà đến nay nó còn để lại dấu ấn đậm nét trong các

tác phẩm của nhiều nhà văn trên toàn thế giới.
Tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương đã thể hiện sự khủng hoảng niềm tin của con


14
người, của nhà văn vào con người và cuộc đời, sự đổ vỡ của những trật tự đời sống xã
hội và gia đình, sự ngắc ngoải ngưng đọng của đời sống, sự đánh mất bản ngã, phương
hướng, sự băng hoại đạo đức, sự đau đớn bơ vơ, tình trạng bất an của con người. Tiểu
thuyết Nguyễn Việt Hà thể hiện cái nhìn về một đời sống hỗn loạn, đổ vỡ với những
biến động vơ cùng dữ dội. Đó là một đời sống khơng hồn kết, khơng bao giờ đi đến
tận cùng. Và con người ln tỏ ra hồi nghi, băn khoăn trước hiện thực cuộc sống đầy
đa tạp ấy. Họ băn khoăn, day dứt bởi những giá trị mới chưa kịp hình thành và những
giá trị cũ chưa kịp mất đi. Họ tha hóa, biến chất. Họ là nạn nhân của những biến động
đầy dữ dội của cuộc đời. Còn tác phẩm của Tạ Duy Anh lại hiện lên với nỗi trăn trở truy
tìm bản ngã, truy tìm giá trị thật của con người trong sự đổ nát tan hoang của thời cuộc.
Nhà văn đang loay hoay trong sự lý giải về cái cảnh sống đau khổ, cực nhục của con
người từ kiếp trước. Trong tiểu thuyết của ông, sự truy tìm bản ngã cứ trở đi, trở lại qua
những câu hỏi: “Thế giới này là thế giới nào? Tôi phải làm gì trong đó? Bản ngã nào của
tơi sẽ làm việc đó? Bản ngã nào là bản ngã của tơi? Tội ác của con người đến từ đâu? Có
thể nào hóa giải được tội ác và thù hận hay khơng?” Cịn với Hồ Anh Thái thì đời sống
là những mảnh vỡ, những lát cắt mà trong đó ẩn chứa sự hoang mang của nhà văn về
những đổ vỡ của niềm tin. Cõi người rung chuông tận thế là nỗi hoang mang về bản thể
của con người và sự nhố nhăng, suy đồi của thời cuộc. Hay Mười lẻ một đêm là tiểu
thuyết về hằng hà sa số những chuyện đời. Đó là chuyện một bà mẹ đã trải qua năm đời
chồng cùng những cuộc phiêu lưu tình ái, chuyện của nhà phê bình nghệ thuật mở dịch
vụ hùng biện, chuyện của giáo sư Một có thói quen đặt tay lên đùi học viên nữ trong khi
hướng dẫn họ làm luận văn, chuyện của giáo sư Hai hay đái bậy… Thực sự là tồn
những “con” chứ khơng phải “người”, nhố nhăng, lố bịch đến không tưởng.
Các nhà viết tiểu thuyết trong thời kì đổi mới đã phá vỡ cái nhìn một chiều để
chuyển hướng tạo lập cái nhìn phức tạp hơn, đa diện hơn và sâu sắc hơn về con

người. Dưới cái nhìn này con người thực tại hiện ra với tất cả bản chất vốn có của
nó. Đó là con người của bóng đêm và ánh sáng, của lịng vị tha và sự ích kỉ cá nhân,
của cái cao cả và thấp hèn, của những biểu hiện bên ngoài và những ẩn ức bên trong.
Nhân vật loại này thường có sự giằng xé nội tâm, tự lên án, tự kết tội mình, là nhân
vật tự nhận thức về mình. Nhân vật Giang Minh Sài (Thời xa vắng của Lê Lựu) bị
đẩy vào mạch truyện một cách bị động không thể cưỡng lại. Khi Sài đang còn là một
cậu bé, khi còn đang thuộc về "đi đánh trận giả và học" thì anh đã bị coi là người thiếu
một phẩm chất "ý thức được việc đã có vợ và từ đây, chiếc vịng kim cơ cương tỏa
cuộc đời cậu vào một cuộc sống giả tạo. Đến tuổi thanh niên cậu bị tước bỏ quyền
được yêu, cậu trở thành thứ lạc điệu giữa những người cùng trang lứa, Kiên (trong Nỗi
buồn chiến tranh của Bảo Ninh) mang một nỗi buồn không lối thoát, Sau cuộc chiến
tranh, ám ảnh về Phương, về quá khứ, về những cái chết đã khiến anh dường như phát
điên, cần phải mượn rượu để mà tiếp tục sống, bởi nếu không, anh sẽ chết. Lão Khổ
(trong Lão khổ của Tạ Duy Anh) thì nghiệt ngã với kiếp sống trong hành trình đời


15
người quằn quại trong vũng lầy được tạo bởi từ tâm người biến thái, mải tham mê dục
vọng mà lường gạt, bán đạo làm người nuôi miệng; Tâm (trong tiểu thuyết Cơ hội của
chúa của Nguyễn Việt Hà) sống giữa một hiện thực xã hội đầy nhố nhăng; Nhân vật
Bằng (Cơn giông của Lê Văn Thảo) trở thành trẻ mồ cơi sau khi cả gia đình bị chết
trong một cơn giông, được một lão già ham cờ bạc nhặt được và nhận làm con ni.
Sóng gió liên tiếp ập đến cuộc đời cậu bé, từ những năm tháng tuổi thơ cơ cực đến khi
trưởng thành lập gia đình, Bằng bị đồng tiền tha hóa và trở thành kẻ ham chơi, ham
nhậu nhẹt, đàn đúm, vào tù ra tội. Cuối cùng, Bằng cũng trở thành một con người hoàn
toàn khác khi gặp được những tình cảm chân chất, mộc mạc của người dân đất Mũi ....
H ọ là những con người đứng trước sự chọn lựa giữa hai cực đối lập để quyết định
cách sống cũng như nhận lấy về mình sự thành công hay thất bại trong bộn bề của
cuộc sống.
Tiểu thuyết hậu hiện đại đặc biệt quan tâm đến con người cá nhân nhưng không

phải là con người của lí trí, con người mang tính cách điển hình như trong văn học
hiện đại mà hướng tới con người với thân phận cá nhân đầy bi kịch trong xã hội hiện
đại. Khoa học kĩ thuật, công nghệ thông tin khiến con người có cuộc sống vật chất tiện
nghi, thuận lợi nhưng cũng đẩy con người vào nhiều mối nguy cơ của sự hủy hoại mơi
sinh xã hội và những tình thế bi kịch của cuộc sống được nảy sinh một cách đa dạng
hơn bởi ảnh hưởng của sự suy thoái đạo đức, nhân cách mai một do những tác động
của đời sống sùng bái vật chất. Con người với những suy tư bản thể trở thành vấn đề
nung nấu của nhiều nhà văn. Con người trong văn học hậu hiện đại là một vũ trụ thu
nhỏ, nhiều bí ẩn, một thực thể sống vô cùng phức tạp không dễ nhận biết để đánh giá
phán xét. Con người là rất riêng giữa đám đông. Họ nhỏ bé, lạc lõng và dễ bị chấn
thương bởi sự tác động của môi trường.
1.1.3. Lối trần thuật đa trị phi trung tâm
Phi trung tâm là một phương diện nổi bật của văn học hậu hiện đại và được thể
hiện ở nhiều khía cạnh: phi trung tâm nhân vật, phi trung tâm chủ đề, phi trung tâm sự
kiện… Có thể thấy đa điểm nhìn trần thuật, xóa mờ điểm nhìn của nhà văn như là một
biểu hiện của phi trung tâm trong văn học hậu hiện đại. Xuất phát từ sự xói mịn niềm
tin vào các đại tự sự, chủ nghĩa hậu hiện đại hướng về các tiểu tự sự. Vì thế tính phân
mảnh là xu hướng chính của tiểu thuyết hậu hiện đại khi đối lập với khuynh hướng
tổng thể gắn liền với thời kì hiện đại. Các nhà lí luận hậu hiện đại đưa ra hàng loạt các
khái niệm then chốt như: phi trung tâm hóa, đa trung tâm, giải cấu trúc, phân rã, phân
mảnh, tính đa trị... để xác lập những đặc điểm căn bản trong q trình “giải hợp thức
hóa về nhận thức” cũng như sự kết thúc của ưu thế về một “siêu ngôn ngữ phổ quát”.
Một trong những cách tân rõ rệt trong nghệ thuật trần thuật của các nhà tiểu
thuyết đương đại là lối trần thuật đa trị phi trung tâm, xóa bỏ lối trần thuật đơn âm
trong truyền thống. “Lối viết đơn âm đòi hỏi sự hiện diện lộ liễu của tác giả.” [46,
tr.181] còn lối trần thuật đa trị thì khơng. Trong thế giới của truyện kể, tính phi trung


16
tâm của chủ thể trần thuật gắn bó, khơng tách rời với tính đa cực của các điểm nhìn

trần thuật.
Cũng là tự sự theo ngôi thứ nhất nhưng trong truyền thống, nhân vật xưng tôi trở
thành trung tâm của tổ chức trần thuật; còn trong văn học đương đại, những nhà tiểu
thuyết đã ý thức phá bỏ vai trò thống ngự của ngơi kể thứ nhất. Góc nhìn trần thuật phi
tiêu điểm và nội tiêu điểm đã gần như bị xóa bỏ. Người trần thuật xưng tơi khơng phải
là những người “biết tuốt”, không đồng nhất với nhân vật, thậm chí nhân vật xưng tơi
hồn tồn xa lạ, đối lập với tác giả. Người trần thuật đứng bên ngoài với diện nhìn nhỏ
hơn, tính chất tự thuật bị phá vỡ. Đây có lẽ là hệ quả tất yếu khi niềm tin vào một hiện
thực thuần nhất mất đi và nhà văn khơng cịn coi mình là thượng đế tồn năng.
Hình thức tự sự ở ngơi thứ nhất theo điểm nhìn đa thức đã có sự dịch chuyển từ
phạm vi ý thức của một nhân vật kể chuyện xưng tôi thành hai hay nhiều cái tôi kể
chuyện mà mỗi cái tôi đều được miêu tả như một ý thức. Cái tôi này được đề cập và
miêu tả như là một ý thức chứ không phải là sự phân thân của một cái tơi nào đó ở
ngơi thứ nhất theo điểm nhìn đơn tuyến. Cái tôi được tồn tại với tư cách là những chủ
thể độc lập và mang quan điểm riêng và qua đó góp phần phá vỡ lối mịn đơn nhất
trong tư duy nghệ thuật truyền thống, đồng thời đã mở ra những chân trời nghệ thuật
mới, biên độ của tác phẩm vốn được đóng khung theo sự áp đặt của một chủ thể đã
được cơi nới. Chính sự thay đổi đó đã tạo nên nhiều khoảng trống và chiều sâu cho tác
phẩm. Cũng nhờ vậy mà hiện thực được phản ánh đa chiều, đa trạng thái.
Khơng chỉ có thế, lối trần thuật đa trị, phi trung tâm còn làm nổi rõ một hiện thực
phân rã, phi trật tự, phi trung tâm. Francois Lyotard cho rằng Hậu hiện đại hoài nghi
đối với mọi lí giải lớn (grand narrative), nó khơng lấy “đại tự sự” làm cơ sở tri thức luận
và ý thức hệ cho mình: “Trong xã hội và văn hố hiện nay, tức trong xã hội hậu cơng
nghiệp và văn hoá hậu hiện đại, vấn đề hợp thức hoá của tri thức được đặt ra một cách
khác. Đại tự sự mất đi tính đáng tin của nó, bất kể nó được xếp vào phương cách nhất
thể hố nào: tự sự tư biện hoặc tự sự giải phóng” [35, tr.155]. Ông cũng phân tích khá
chi tiết hệ quả của điều nói trên từ góc độ xã hội học: “Sự phá vỡ này của Đại Tự Sự dẫn
đến điều mà một số tác giả phân tích ra ý nghĩa của sự giải thể liên kết xã hội và sự phân
rã tập hợp xã hội thành khối đông của những nhân tố riêng lẻ bị ném vào sự phi lí của
những chuyển động ngẫu nhiên” [35, tr.95]. Nếu xét văn chương hậu hiện đại theo tinh

thần này, thì cho đến giờ các tác giả cách tân của chúng ta đã góp cho lớp công chúng
mới những “nhân tố riêng lẻ” – những “tiểu tự sự” theo nhiều cách khác nhau.
Như vậy, chúng ta thấy rằng trong văn chương đương đại khơng cịn khuynh
hướng sáng tác ôm chứa trong những văn bản lớn mà chỉ là những vi văn bản, những
mảng ý nghĩ, mảng đối thoại, những câu nói… Từ đó tạo nên nhiều điểm nhìn cho văn
bản, đồng thời phát huy khả năng “đồng sáng tạo” của người đọc. Quan niệm này thể
hiện rõ ở nghệ thuật hỗn độn, lắp ghép phi logic. Có nghĩa là nó khước từ vai trị “tồn
tri” của người kể chuyện ngôi thứ ba.


17
Kundera, một trong những người khởi xướng quan niệm tiểu thuyết trò chơi,đã
nhận định rằng: “Trong lãnh địa của tiểu thuyết, người ta không khẳng định đâu là
lãnh địa của trò chơi và của những giả thuyết. Sự chiêm nghiệm của tiểu thuyết do
vậy, trong bản chất của nó, là có tính nghi vấn, giả thuyết”. [39,tr 187 ] “Quan niệm
tiểu thuyết là một trò chơi, trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại xuất hiện phổ biến
kiểu người kể chuyện khơng đáng tin cậy và tâm thế bất tín nhận thức. Cái nhận thức
được là bề nổi của tiểu thuyết, cái bất tín nhận thức mới là mảnh đất của tưởng tượng
và đối thoại. Trên một phương diện nào đó, cái bất tín nhận thức (not-knowing) tương
ứng với việc khước từ điểm nhìn tồn tri với người kể chuyện “thượng đế” trong tiểu
thuyết. Nghệ thuật hậu hiện đại cũng là tập hợp những mảnh vỡ, cũng là sự ghép mảnh
nhưng khơng có tâm điểm như tác phẩm hiện đại mà mang tính đa tâm điểm, phi trung
tâm hóa”[1,tr 104].
Vũ Đình Giang có một tiểu thuyết in đậm dấu ấn hậu hiện đại là Song Song.Tên
của các nhân vật trong tiểu thuyết này bị xóa bỏ gần như là hồn tồn. “Họ thuộc kiểu
nhân vật phân thân, đồng dạng hay nhân vật dị biệt, nhân vật chấn thương: G.g và H –
hai nửa của một con người; nhân vật Kan, nhân vật p; nhân vật đám đông; những họa
sĩ, nhà thiết kế…”[1]. Tất cả đều là những con người mang tâm hồn bệnh hoạn mà
trong đó cái chết, bóng tối và sự cuồng sát luôn ám ảnh họ. Họ là những nhân vật
hoang tưởng và khơng tìm thấy nhân vị của mình. Trong tiểu thuyết này, Vũ Đình

Giang khiến người đọc khó có thể xác định được đâu là người kể chuyện chính. Điểm
nhìn trần thuật cứ ln chuyển từ nhân vật này sang nhân vật khác. Người kể chuyện
có khi ở ngơi thứ ba, nhưng cũng có khi ở ngơi thứ nhất. Câu chuyện dường như là
những lát cắt, những mảnh ghép rời rạc đang chuyển động hỗn loạn trong vơ thức của
nhân vật. Những mảnh suy nghĩ đó tuy được sắp xếp, đánh số nhưng thực ra lại không
theo bất cứ một trật tự nào.
Giã biệt bóng tối của Tạ Duy Anh cũng là một câu chuyện ẩn chứa tính chất phi
tâm hóa chủ thể trần thuật. Trong tiểu thuyết này, câu chuyện về thằng bé Thượng và
những cái chết bí ẩn của làng Thổ Ơ được soi chiếu từ nhiều góc nhìn khác nhau. Ở
đây, có sự ln phiên giữa nhiều chủ thể trần thuật với nhiều vai xã hội khác nhau. Đó
có thể là lời của người dẫn chuyện đầy hồ nghi. Đó cũng có thể là lời của thằng bé mồ
cơi xưng tơi. Có lúc lại là lời của nhân vật xưng “tao” hay lời kể của một gã xưng “tớ”,
rồi lời của nhà thiết kế, của một ả cave…Nhìn chung, trong Giã biệt bóng tối, Tạ Duy
Anh đã gợi lên một thế giới hiện thực đầy đa tạp, hỗn độn bởi lối trần thuật đa trị phi
trung tâm.
Đoàn Ánh Thuận cũng là một nhà tiểu thuyết hay sử dụng lối kể đa trị, làm nổi rõ
hiện thực phân rã, phi trật tự, phi trung tâm bởi thời gian bị đảo lộn. Vì là người sống
xa quê, nữ nhà văn gắn bó dường như cả cuộc đời trên đất Pháp nên các tác phẩm của nhà
văn mang nhiều suy tư, ngậm ngùi về về nỗi cô đơn cay đắng của phận người tha
hương. Bà cũng chịu sự va chạm mạnh mẽ về văn hóa, khó bám rễ vào mảnh đất mới


×