ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
HOÀNG THỊ LỤA
ĐẶC ĐIỂM VĂN XUÔI
CỦA NHÀ VĂN LÊ PHƢƠNG LIÊN
Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 822 01 21
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HOÁ VIỆT NAM
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Bích Thu
THÁI NGUYÊN - 2022
i
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng cá nhân tôi. Các
kết quả đƣợc nghiên cứu là trung thực, chƣa đƣợc công bố trong bất kì cơng
trình nào khác.
Thái Ngun, tháng 12 năm 2022
Tác giả luận văn
Hoàng Thị Lụa
ii
LỜI CẢM ƠN
Tác giả luận văn xin trân trọng cảm ơn quý thầy cô Ban Giám hiệu, Ban lãnh
đạo Khoa Sau đại học Trƣờng Đại học Khoa học - Đại học Thái Nguyên; thầy cô
giảng dạy lớp Cao học K14 đã tạo mọi điều kiện để tác giả đƣợc học tập, nghiên
cứu và hồn thành cơng trình đào tạo Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam,
khóa 2020 - 2022.
Tác giả cũng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc tới PGS.TS Nguyễn
Thị Bích Thu - ngƣời đã trực tiếp hƣớng dẫn, giúp đỡ, dìu dắt, chỉ bảo một cách tận
tình, nghiêm khắc tác giả luận văn trong suốt thời gian nghiên cứu, hoàn thiện luận
văn.
Tác giả xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu, Tổ chuyên môn tổ Văn –
Anh trƣờng THPT Đồng Bành, đã tạo điều kiện về mọi mặt để tác giả hoàn
thành luận văn.
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn tới nhà văn Lê Phƣơng Liên đã giúp đỡ
nhiều tƣ liệu nghiên cứu cho tác giả. Tác giả cảm ơn những ngƣời thân trong gia
đình, bạn bè đã động viên, chia sẻ, giúp tác giả có động lực để hồn thành luận
văn đúng thời hạn.
Luận văn đã đƣợc thông qua, tuy nhiên trong q trình nghiên cứu luận
văn khơng tránh khỏi thiếu sót, tác giả kính mong nhận đƣợc sự chỉ dẫn, góp ý
của các thầy, cô giáo, các bạn đồng nghiệp để luận văn đƣợc hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Lạng Sơn, ngày 05 tháng 12 năm 2022
Học viên
Hoàng Thị Lụa
iii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................... 7
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 8
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ................................................................................... 8
6. Ý nghĩa khoa học - thực tiễn của đề tài:............................................................ 9
7. Cấu trúc luận văn............................................................................................... 9
Chƣơng 2: Những cảm hứng nổi bật trong văn xuôi Lê Phƣơng Liên ...................... 9
Chƣơng 3: Một vài phƣơng thức thể hiện trong văn xuôi Lê Phƣơng Liên ......... 9
Chƣơng 1 SÁNG TÁC CỦA LÊ PHƢƠNG LIÊN TRONG DỊNG CHẢY CỦA
VĂN XI NỮ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI ........................................................... 10
1.1 Khái quát về văn xi nữ Việt Nam hiện đại ................................................ 10
1.2. Q trình sáng tác của nhà văn Lê Phƣơng Liên ......................................... 14
1.2.1. Vài nét về nhà văn Lê Phƣơng Liên ...................................................... 14
1.2.2 Sự nghiệp sáng tác của nhà văn Lê Phƣơng Liên ................................... 16
Chƣơng 2 NHỮNG CẢM HỨNG NỔI BẬT TRONG VĂN XUÔI LÊ
PHƢƠNG LIÊN .................................................................................................. 22
2.1. Cảm hứng về trẻ thơ ..................................................................................... 23
2.1.1 Nhân vật trẻ thơ trong môi trƣờng học đƣờng ........................................ 24
2.1.2 Nhân vật trẻ thơ trong cuộc sống đời thƣờng ......................................... 32
2.2 Cảm hứng về thiên nhiên, vạn vật ................................................................. 36
2.2.1. Vẻ đẹp của thiên nhiên, cây cỏ .............................................................. 37
2.2.2 Sự phong phú của vạn vật ....................................................................... 42
2.3. Cảm hứng về đồng nghiệp bạn bè ................................................................ 46
2.3.1 Chân dung về các nhà văn của tuổi thơ .................................................. 46
2.3.2. Gƣơng mặt bạn bè .................................................................................. 51
2.4. Cảm hứng về quá khứ với những hồi ức và kỷ niệm ................................... 54
iv
2.4.1. Nỗi nhớ Hà Nội ...................................................................................... 54
2.4.2. Hoài niệm tuổi thơ ................................................................................. 58
Chƣơng 3: MỘT VÀI PHƢƠNG THỨC THỂ HIỆN TRONG VĂN XUÔI..... 63
LÊ PHƢƠNG LIÊN ............................................................................................ 63
3.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện ................................................................... 63
3.1.1 Khái niệm cốt truyện .............................................................................. 63
3.1.2 Cốt truyện đời thƣờng ............................................................................. 64
3.1.3 Cốt truyện tâm lý .................................................................................... 66
3.1.4. Cốt truyện cổ tích ................................................................................... 69
3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật: .................................................................... 70
3.2.1 Khái niệm nhân vật ................................................................................. 71
3.2.2 Khắc họa ngoại hình ............................................................................... 71
3.2.3 Khắc họa nội tâm .................................................................................... 76
3.3 Màu sắc tự truyện .......................................................................................... 78
3.3.1 Khái niệm tự truyện ................................................................................ 78
3.3.2 Chất liệu đời tƣ trong văn xuôi Lê Phƣơng Liên .................................... 80
3.3.3. Ngƣời kể chuyện ở ngơi thứ nhất số ít (xƣng tôi) ................................. 82
3.4 Ngôn ngữ ....................................................................................................... 84
3.4.1 Khái niệm ngôn ngữ ............................................................................... 84
3.4.2 Ngôn ngữ đậm chất thơ........................................................................... 85
3.4.3 Ngôn ngữ đậm chất đời thƣờng .............................................................. 87
3.5. Giọng điệu .................................................................................................... 90
3.5.1 Khái niệm giọng điệu.............................................................................. 90
3.5.2. Giọng tâm tình, gợi cảm ........................................................................ 91
3.5.3. Giọng hài hƣớc, hóm hỉnh ..................................................................... 93
3.5.4 Giọng lắng đọng, suy tƣ .......................................................................... 95
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 100
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 102
v
Chân dung nhà văn Lê Phƣơng Liên
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong nền văn học Việt Nam đƣơng đại, bên cạnh tên tuổi những nhà văn
nam nhƣ: Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Nguyễn Huy
Thiệp, Bảo Ninh, Nguyễn Bình Phƣơng, Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh...., là các
cây bút nữ đang dần khẳng định mình nhƣ: Lê Phƣơng Liên, Lê Minh Khuê, Dạ
Ngân, Võ Thị Hảo, Phạm Thị Hoài, Y Ban, Trầm Hƣơng, Phan Thị Vàng Anh,
Trần Thanh Hà, Nguyễn Minh Dậu, Võ Thị Xuân Hà, Trần Thùy Mai, Nguyễn
Ngọc Tƣ, Đỗ Bích Thúy, Phong Điệp... Mỗi nhà văn nữ với những trang viết
gắn nhịp sống hiện đại và con ngƣời trong thời đại mới đã góp phần đáng kể
trong đời sống văn học hôm nay, tạo nên một mảng viết của nữ giới, thực sự
“đánh dấu một phƣơng diện phát triển của văn học”. Trong số các nhà văn nữ kể
trên, Lê Phƣơng Liên là một nhà văn có nguồn lực sáng tác dồi dào, bền bỉ. Bà
đã và đang âm thầm sáng tạo, góp phần làm cho bức tranh văn học nữ thêm
phong phú, nhiều màu sắc hơn trong thời kì mới.
Văn xuôi của Lê Phƣơng Liên chân phƣơng, giản dị mà sâu sắc, giàu cảm
xúc, nội dung trong các sáng tác luôn hƣớng đến cái đẹp, cái thiện. Tác phẩm
của bà đã nhiều lần đạt giải thƣởng: Giải thƣởng Trung ƣơng Đoàn Thanh niên
cộng sản; Giải thƣởng Bộ Giáo dục năm 1970 cho truyện ngắn Câu hỏi trẻ thơ;
Huy chƣơng Vì sự nghiệp văn học nghệ thuật Việt Nam năm 1997; Huy chƣơng
Vì thế hệ trẻ năm 1981 với hai tác phẩm Những tia nắng đầu tiên và Khi mùa
xuân đến. Bà cũng là ngƣời có rất nhiều đóng góp cho nhà xuất bản Kim Đồng
với cƣơng vị là cán bộ và giám đốc Quỹ học bổng Đôrêmon của nhà xuất bản.
Nhà văn Lê Phƣơng Liên gắn bó với nghề viết văn đƣợc 50 năm, đến nay
bà đã xuất bản các tác phẩm: Những tia nắng đầu tiên (1971); Câu hỏi trẻ thơ
(1971); Dũng cảm (1971); Bông hoa phấn trắng (1975); Khi mùa xuân đến
(1973); Đêm tan (1986); Hoa dại (1995); Bức tranh còn vẽ (1997); Én nhỏ
(1998); Khúc hát hạnh phúc (2002); Ngày em tới trường (2002); Dòng thu
2
(2008); Cuộc phiêu lưu của chú rối tễu (2009); Cây đa ngàn năm tuổi và ba đứa
trẻ (2010); Kí ức ánh sáng (2013); Tuyển tập Câu hỏi trẻ thơ: tập trung 25
truyện ngắn, 25 tản văn (2020); Cuốn tiểu thuyết dã sử Nữ sĩ thời gió bụi
(2021).....Đặc biệt tuyển tập Câu hỏi trẻ thơ tập hợp những truyện ngắn và tản
văn đƣợc viết từ 1970 - 2020, ghi dấu cuộc đời viết văn 50 năm của bà, đó có
thể gọi là “Cuốn album đời ngƣời và đời văn Lê Phƣơng Liên” [43]. Và gẩn đây
nhất với tiểu thuyết Nữ sĩ thời gió bụi (2021), vừa in ráo mực đã đƣợc đơng đảo
ngƣời đọc đón nhận với nhiều thiện cảm đã cho thấy dù sáng tác cho trẻ thơ hay
ngƣời lớn, với một đời viết có thâm niên nghề nghiệp, ln hƣớng về cái đẹp
mang tính nhân văn, Lê Phƣơng Liên đã âm thầm vƣợt lên chính mình để có
những thành quả mới trong lao động sáng tạo. Là nhà văn có nhiều cống hiến
đối với văn học thiếu nhi nói riêng và văn học nói chung, theo chúng tơi rất cần
những cơng trình nghiên cứu, khai phá một cách hệ thống về sáng tác của bà. Đó
là lý do chúng tôi chọn văn xuôi của nhà văn Lê Phƣơng Liên làm đối tƣợng
nghiên cứu.
2. Lịch sử vấn đề
Trong suốt 50 năm cầm bút, nhà văn Lê Phƣơng Liên đã cho ra đời hàng
chục tập truyện ngắn và vừa. Những tác phẩm của bà đã đƣợc tái bản nhiều lần
và cũng đã đƣợc ghi nhận bằng một số giải thƣởng (về văn học và giáo dục)
trong những năm qua. Trƣớc hết ngƣời đọc biết đến bà là cây bút viết truyện cho
thiếu nhi, nhƣng vốn là ngƣời nhậy cảm và xông xáo, bà đã mở rộng đƣờng biên
sáng tác của mình sang các thể loại khác nhƣ tản văn, tiểu thuyết, vừa nhƣ sự
“đặt hàng”, vừa nhƣ một cơ duyên, đã đƣợc ngƣời đọc và công chúng mến mộ
với những bài viết đầy thiện cảm về các sáng tác của bà.
Năm 1967, bà cho ra đời truyện ngắn đầu tay Những tia nắng đầu tiên Kể về kết quả học tập và tình bạn ríu rít thân thƣơng sau bao nhiêu ngày tháng
miệt mài, hào hứng cắp sách tới trƣờng ở tuổi niên thiếu của một lớp học. Tác
giả Trần Lê Văn khi viết Lời tựa cho tập Những tia nắng đầu tiên (Nxb Kim
Đồng, 2006) đã nhận xét về Lê Phƣơng Liên một cách khá cụ thể nhƣ: “Có
3
giọng nói tƣơi trẻ hồn nhiên của tuổi học trị, khơng riêng gì các em, mà ngƣời
lớn đọc cũng thấy có ý vị. Tơi thiết nghĩ những dịng văn của Lê Phƣơng Liên
không chỉ là truyện văn chƣơng mà cốt lõi là tâm sự của một ngƣời con gái, một
cây bút hiếu thảo”… Ngay sau đó nhà văn Vũ Ngọc Bình cũng nhận xét: “Lê
Phƣơng Liên đã bám sát thực tế nhà trƣờng, khá nhạy cảm trong quan sát ngoại
cảnh và miêu tả nội tâm những nhân vật thân yêu, gần gũi với mình” (Chặng
đầu của văn học viết cho thiếu nhi - 1972) [34] hoặc nhận xét của nhà văn Ma
Văn Kháng: “Thành tựu văn chƣơng của Lê Phƣơng Liên là một hành trình sáng
tạo của một đời ngƣời gắn bó với cuộc đời, với cơng việc đầy tâm huyết của
mình” … “và chị đã xuất phát từ một đầu nguồn tƣơi xanh, trong trẻo, tha thiết
yêu thƣơng. Và đọc chị, có phải tuổi cao mà nhiều lúc thấy rƣng rƣng, bao cảm
mến bồi hồi” (Những trang viết nơi đầu nguồn - 2011) [17]. Đọc những câu
truyện viết về trẻ thơ, viết cho trẻ thơ, nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng nhận xét: “
Viết cho thiếu nhi rất khó. Viết cho lứa tuổi nhi đồng mẫu giáo cịn khó hơn
nhiều. Lê Phƣơng Liên đã chọn con đƣờng khó nhất ấy để tạo dựng sự nghiệp
cho mình. Với tâm hồn trong trẻo, tinh tế và nhạy cảm, lại thêm lối kể chuyện
mộc mạc, giản dị, mà không kém phần hấp dẫn, sâu sắc…văn của chị là những
món quà đặc biệt đã “thửa” riêng dâng tặng con trẻ và những ai từng là trẻ con”
[22]. Trong luận văn viết về Truyện thiếu nhi của nhà văn Lê Phương Liên, Trần
Thị Hồng Nguyên đánh giá: “Lê Phƣơng Liên đã có sự đóng góp tích cực cho sự
phát triển văn học thiếu nhi - một bộ phận quan trọng và cần thiết trong đời sống
văn học nƣớc nhà. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, vấn đề giáo dục, bồi dƣỡng
tâm hồn, tình cảm, ý chí phấn đấu và lý tƣởng sống cho thiếu nhi, cho thanh
thiếu niên càng trở nên cần thiết và cấp bách - thì những sáng tác về thiếu nhi
nhƣ của tác giả Lê Phƣơng Liên lại càng có ý nghĩa và giá trị hơn bao giờ hết”
[146; 34].
Tháng 11 năm 2020, Lê Phƣơng Liên xuất bản cuốn Tuyển tập Câu hỏi
trẻ thơ. Cuốn sách bắt đầu từ truyện ngắn đầu tay viết năm 1970 đến tản văn
cuối cùng “Mùa xuân corona” viết năm 2020. Tuyển tập giống nhƣ một cuốn
4
nhật kí ghi lại chặng đƣờng viết văn của Lê Phƣơng Liên trong suốt hành trình
50 năm gắn bó và cống hiến. Cuốn sách là niềm mơ ƣớc và ấp ủ trong nhiều
năm, nay đã trở thành hiện thực. Cuốn tuyển tập đã chia sẻ những trăn trở về
nhiều vấn đề nhân sinh thế sự. “Những dòng văn trong cuốn sách là lời tâm tình
của một nhà giáo, một nhà văn, một cán bộ biên tập của Nhà xuất bản Kim
Đồng và cũng là một ngƣời mẹ” - nhà văn Lê Phƣơng Liên bày tỏ. Những
truyện ngắn, tản văn trong cuốn sách viết về nhiều chủ đề khác nhau, đƣợc sáng
tác ở nhiều thời điểm, bối cảnh khác nhau. Từ những truyện viết về đề tài mái
trƣờng đƣợc chắt lọc từ chính trải nghiệm của tác giả - một cơ giáo trẻ mới ra
trƣờng đầy tâm huyết; đến những truyện đồng thoại nhỏ xinh, những trang văn
đẹp đẽ, trong trẻo dành cho lứa tuổi nhi đồng. Nhà văn Lê Phƣơng Liên cũng
dành nhiều trang viết về các vùng đất mà tác giả có cơ hội đặt chân tới. Đó là
miền quê khi nhà văn đi sơ tán thuở nhỏ, về vùng núi cao nơi trẻ em còn nhiều
thiếu thốn, hay ở “xứ sở của những hịn đảo xa mờ ngồi biển Đơng Bắc Thái
Bình Dƣơng”, ở đất nƣớc “Triệu Voi”... nơi tác giả từng ghé thăm. Bởi thế, nó
dành cho mọi lứa tuổi, từ các em học sinh tiểu học đến các độc giả đã ở tuổi
hƣu. Tác giả hi vọng rằng “những trang sách sẽ đem lại cho ngƣời đọc
những phút giây đầm ấm yêu thƣơng, gửi đến các bạn những suy nghĩ tƣơi
sáng về cuộc sống và con ngƣời”. Về cuốn tuyển tập này, tiến sĩ văn học
Nguyễn Thanh Tâm viết: “Câu hỏi trẻ thơ là tuyển tập tác phẩm Lê Phƣơng Liên
viết từ năm 1970 đến 2020. Tơi gọi đó là cuốn album đời ngƣời và đời văn Lê
Phƣơng Liên. Khơng có mặt những truyện vừa đã làm nên tên tuổi của nhà văn,
đây là bộ sƣu tập gồm 50 truyện ngắn và tản văn của Lê Phƣơng Liên trong 50
năm cầm bút. Những con số ấy làm chúng ta xúc động. Trong văn học Việt
Nam, dễ gì tìm thấy nhiều đời viết có thâm niên nhƣ thế? Lê Phƣơng Liên đến
với văn chƣơng ở cái tuổi 19, 20 rất đẹp của cuộc đời và bền bỉ làm sứ giả niềm
vui cho các em thiếu nhi... Với tuyển tập này, ngoài giá trị tƣ liệu, độc giả biết
thêm về một Lê Phƣơng Liên nhà giáo với những trang viết đầy tin yêu về nghề;
một Lê Phƣơng Liên nghiêm túc với từng con chữ đúng nhƣ phẩm tính của một
5
cán bộ biên tập lâu năm của nhà xuất bản Kim Đồng; một Lê Phƣơng Liên nghĩa
tình với quá khứ, ln gom góp nâng niu từng kỉ niệm gắn với từng con ngƣời
đã đi qua đời mình. Và hơn hết, là một Lê Phƣơng Liên nhà văn với những riêng
biệt đáng yêu và đáng trọng.” [43]. Hay lời nhận xét của tiến sĩ giáo dục Nguyễn
Thụy Anh “tơi thích đọc bà, nhà văn Lê Phƣơng Liên, để tìm lại tâm an đang bị
xáo trộn” [4].
Ngoài truyện ngắn, tản văn, Lê Phƣơng Liên còn thử sức với tiểu thuyết dã
sử. Tháng 4 năm 2021, bà đã cho ra đời cuốn tiểu thuyết dã sử đầu tay Nữ sĩ thời
gió bụi - tác phẩm đƣợc coi là cuốn tiểu thuyết đầu tiên về cuộc đời của một nữ
trí thức thời phong kiến ở Việt Nam. Cuốn sách ra đời nhƣ là một cơ duyên, một
mối liên hệ rất gần gũi giữa nhà văn với nữ sĩ Đoàn Thị Điểm - một nhân vật
lịch sử sống cách đây gần 300 năm. Tác giả Nữ sĩ thời gió bụi cho hay: “Đồn
Thị Điểm gần gũi với tơi vì bà khơng chỉ là nhà thơ mà cịn viết văn xi đặc
sắc. Tơi là một ngƣời viết cho thiếu nhi nên rất thích chất bay bổng, diễm lệ
trong những truyện truyền kỳ Bích Câu kỳ ngộ, Vân Cát thần nữ, Hải khẩu linh
từ lục … của Hồng Hà nữ sĩ”. Chƣa kể, nữ sĩ Đoàn Thị Điểm còn là một bà giáo
nổi tiếng đất Thăng Long từ 300 năm trƣớc. Theo Gia phả Hồng Hà phu
nhân, bà là ngƣời phụ nữ đã mở trƣờng dạy học ở làng quê từ thế kỷ 18. Trong
khi đó, nhà văn Lê Phƣơng Liên cũng từng là một nhà giáo, một nhà văn viết
cho thiếu nhi hơn 50 năm. Có thể nói, nét đặc trƣng của nữ sĩ Đồn Thị Điểm rất
gần với tính cách ln gắn bó với nhà trƣờng của Lê Phƣơng Liên. Nhƣng, sự
gần gũi về con ngƣời thôi chƣa đủ. Cơ duyên để Nữ sĩ thời gió bụi ra đời cịn
gắn với mùa Xn năm 2018, khi nữ nhà văn đƣợc ngƣời làng Phú Xá mời đến
dự Hội làng và đi viếng mộ nữ sĩ Đoàn Thị Điểm cùng chồng bà là tiến sĩ
Nguyễn Kiều. Sau đó nữ nhà văn lại đƣợc giám đốc NXB Phụ nữ tặng bộ
sách Một điểm tinh hoa (Bản dịch và phiên âm đầy đủ nhất các tác phẩm của
Đoàn Thị Điểm, do PGS.TS Trần Thị Băng Thanh sƣu tầm và giới thiệu). Nhờ
nối tiếp những sự kiện đó, nhà văn Lê Phƣơng Liên “có cảm giác hình nhƣ mình
có “thiên mệnh” viết tiểu thuyết dã sử về Hồng Hà nữ sĩ Đồn Thị Điểm. Vì vậy
6
trong suốt thời gian 3 năm, nhà văn đã miệt mài, sƣu tầm, tìm hiểu tƣ liệu về
thân thế, cuộc đời của nữ sĩ. Đúng 3 năm sau, bà đã hoàn thành “thiên mệnh”.
Đối với nhà văn Lê Phƣơng Liên, hoàn thành cuốn sách trƣớc hết là niềm vui,
sau là tâm niệm anh linh của ngƣời nữ sĩ kỳ tài sẽ tỏa sáng trong đời sống hiện
đại. Đặc biệt, bà hi vọng thế hệ trẻ đƣợc hiểu thêm về cha ông của mình, về
những ngƣời phụ nữ đã sống cách đây 300 năm có những tƣ tƣởng tiến bộ nhƣ
thế nào. Cùng quan điểm đó, Giám đốc NXB Phụ nữ Khúc Thị Hoa Phƣợng
nhấn mạnh: “Nhờ những ngƣời viết nhƣ nhà văn Lê Phƣơng Liên, bản thân tôi
cũng nhƣ nhiều ngƣời khác khi đọc xong tác phẩm đều có một sức mạnh thôi
thúc và ám ảnh. Đọc Nữ sĩ thời gió bụi, thế hệ hậu sinh cách mấy trăm năm
đƣợc hiểu, đƣợc sống với cuộc đời của những danh nhân đất Việt. Đó là niềm tự
hào”. Sau khi cuốn tiểu thuyết xuất bản đã đƣợc rất nhiều bạn đọc quan tâm, đón
nhận. Đáng chú ý có bài viết của nhà phê bình Vũ Nho đăng trên tạp chí Văn
hiến, ơng đánh giá rất cao về nội dung và tài năng của tác giả: “tiểu thuyết Nữ sĩ
thời gió bụi thành cơng chứng tỏ rằng chỉ cần có tài, có tâm, có sự trân trọng với
tiền nhân thì khơng cần phải quá quan tâm đến bút pháp, ngƣời viết vẫn có thể
đạt đƣợc điều mình mong muốn, góp thêm vào kho tàng văn chƣơng của đất
nƣớc một nhân vật văn học độc đáo!” [38]. Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên
rất tâm đắc về tác phẩm, trong một bài viết cũng nhận xét: “Lê Phƣơng Liên nhà
văn nữ thời nay đã làm sống dậy nhà thơ nữ gần ba thế kỷ trƣớc nơi Thăng Long
xƣa giữa một thời gió bụi…. Tác giả mong muốn đƣa bà Điểm ngoài đời vào
sách thành nàng Điểm "phóng khống và chân thật, dun dáng và thơng tuệ,
vừa trí thức lại vừa dân dã" [35]. Cùng chung cảm nhận nhà báo Cẩm Tú trên
báo Tuổi trẻ đã viết: “Viết về một nhân vật lịch sử có tầm vóc là điều khơng hề
dễ dàng. Viết về một ngƣời phụ nữ ba trăm năm trƣớc sống trong lễ giáo phong
kiến hà khắc đã mang đầy tƣ tƣởng nữ quyền lại càng là một thử thách. Lê Phƣơng
Liên đã tìm ra cho mình một cách tiếp cận dân dã mà đầy thuyết phục để đƣa ngƣời
đọc vào chuyến phiêu lƣu, trải nghiệm đầy đủ nhân tình thế thái của một nữ sĩ thời
gió bụi đầy xúc động và nhân văn” [52]. Nhà văn Nguyễn Trƣơng Quý cũng nhận
7
xét: “Điều mà tơi rất thích ở cuốn này là những chỗ cơ Liên dựng lại khơng khí
Thăng Long, sơng nƣớc thời xƣa, cái cảm giác tao nhã đan xen sự cuồn cuộn của
dòng thời gian, giống nhƣ những cảnh phim trau chuốt” [40]. Có thể nói rằng, dù
viết cho thiếu nhi hay viết cho ngƣời lớn, ta vẫn bắt gặp một Lê Phƣơng Liên với
những trang viết bay bổng, lãng mạn, bà viết bằng chính cái tâm của mình, ngay cả
cách nhà văn tiếp cận cũng rất “dân dã”.
Trên đây là những nhận xét, đánh giá khác nhau về các sáng tác của Lê
Phƣơng Liên ở nhiều mảng, đề tài. Nhƣng những nhận xét, đánh giá đó chƣa
mang tính chất bao qt, chƣa có tính hệ thống đầy đủ, chỉ ở từng tác phẩm
riêng lẻ. Vì lẽ đó, cho nên chúng tôi đã quyết định chọn lựa nghiên cứu tồn
diện về đặc điểm văn xi của nhà văn Lê Phƣơng Liên qua hai truyện vừa:
Những tia nắng đầu tiên, Khi mùa xuân đến, tuyển tập Câu hỏi trẻ thơ và tiểu
thuyết Nữ sĩ thời gió bụi để làm đề tài luận văn thạc sĩ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu:
Tập trung nghiên cứu đặc điểm nổi bật trong các sáng tác văn xuôi của
nhà văn Lê Phƣơng Liên, trên phƣơng diện nội dung và nghệ thuật.
Bƣớc đầu khẳng định những đóng góp đáng trân trọng của nhà văn Lê
Phƣơng Liên đối với văn xuôi phái đẹp nói riêng và trong nền văn xi Việt
Nam đƣơng đại nói chung.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Chủ yếu nghiên cứu những đặc điểm nội dung và nghệ thuật trong một số
sáng tác ở thể loại văn xuôi của nhà văn Lê Phƣơng Liên (chỉ ra những uu điểm
- hạn chế)
Qua những tác phẩm đó, ngƣời đọc có thể tìm ra những bài học to lớn,
góp phần giáo dục nhân cách, phẩm chất tốt đẹp của con ngƣời trong cuộc sống
hiện đại.
8
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm văn xuôi của nhà văn Lê Phƣơng Liên nhìn từ phƣơng diện nội
dung và cách thức thể hiện.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Nhà văn Lê Phƣơng Liên có tất cả 26 tập truyện đƣợc in chung và riêng
với các thể loại: Truyện ngắn, tản văn, tiểu thuyết dã sử. Tuy nhiên chúng tôi tập
trung đi sâu nghiên cứu Tuyển tập Câu hỏi trẻ thơ xuất bản năm 2020 của nhà
xuất bản Kim Đồng, trong đó có 25 truyện ngắn và 25 tản văn. Ngồi ra chúng
tơi khảo sát thêm một số tác phẩm khác nhƣ: Những tia nắng đầu tiên (1971),
Khi mùa xuân đến (1972) và tiểu thuyết Nữ sĩ thời gió bụi (2021).
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Những phƣơng pháp chủ yếu chúng tôi sử dụng trong quá trình nghiên cứu:
* Phương pháp thống kê, phân loại:
Phƣơng pháp thống kê, phân loại giúp chúng tôi khảo sát, phân loại các
tác phẩm văn xi có cùng đề tài, cảm hứng, cùng kiểu nhân vật và một số
phƣơng thức nghệ thuật trong các sáng tác của nhà văn.
* Phương pháp so sánh đối chiếu:
Chúng tôi tiến hành đối chiếu sáng tác của Lê Phƣơng Liên với các sáng
tác của một số nhà văn khác để thấy rõ nét riêng biệt trong sáng tác của Lê
Phƣơng Liên.
* Phương pháp phân tích, tổng hợp:
Sử dụng phƣơng pháp phân tích trong q trình nghiên cứu sẽ giúp chúng
tơi đi sâu tìm hiểu, phân tích những đặc điểm trong văn xi của Lê Phƣơng
Liên, phƣơng pháp tổng hợp sẽ giúp chúng tôi hệ thống tổng hợp kết quả sau khi
phân tích từ đó làm sáng tỏ các nội dung thể hiện trong luận văn.
9
* Phương pháp tiểu sử:
Phƣơng pháp trên giúp chúng tôi hiểu rõ tiểu sử của nhà văn, từ đó thấy
đƣợc mối quan hệ giữa tác giả và văn bản tác phẩm do nhà văn sáng tạo nên.
* Phương pháp loại hình:
Sử dụng phƣơng pháp loại hình giúp cho chúng tơi hiểu rõ hơn các thể
loại nhà văn sáng tác, mỗi thể loại có những điểm riêng biệt tạo nên sự đa dạng
trong các sáng tác của nhà văn.
6. Ý nghĩa khoa học - thực tiễn của đề tài:
6.1. Ý nghĩa khoa học:
Nghiên cứu về Đặc điểm văn xuôi của nhà văn Lê Phương Liên là vấn đề
thiết thực và ý nghĩa nhằm giúp bạn đọc hoàn thiện tâm hồn và nhân cách “để
tìm lại tâm an đang bị xáo trộn” [43], khơng chỉ vậy mà cịn nhằm tơn vinh một
cây bút nữ có nhiều đóng góp, cống hiến cho nền văn học nƣớc nhà.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn:
Kết quả của đề tài nghiên cứu sẽ đem lại những ý nghĩa thực tế sau:
Phác họa một cách khá chi tiết, đầy đủ về nhà văn Lê Phƣơng Liên - nhà
văn nữ của văn xuôi Việt Nam đƣơng đại.
Chỉ ra những đặc điểm riêng biệt trong sáng tác của Lê Phƣơng Liên trên
cả phƣơng diện nội dung và hình thức nghệ thuật.
Khẳng định những đóng góp quan trọng của nữ nhà văn Lê Phƣơng Liên
vào nền văn xuôi Việt Nam đƣơng đại.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chƣơng.
Chƣơng 1: Sáng tác của Lê Phƣơng Liên trong dòng chảy của văn xuôi nữ
Việt Nam hiện đại.
Chƣơng 2: Những cảm hứng nổi bật trong văn xuôi Lê Phƣơng Liên
Chƣơng 3: Một vài phƣơng thức thể hiện trong văn xuôi Lê Phƣơng Liên
10
Chƣơng 1
SÁNG TÁC CỦA LÊ PHƢƠNG LIÊN TRONG DÒNG CHẢY CỦA VĂN
XUÔI NỮ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
1.1 Khái quát về văn xuôi nữ Việt Nam hiện đại
Văn học Việt Nam ở giai đoạn trƣớc năm 1975 là nền văn học phục vụ
cách mạng và kháng chiến, phản ánh công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nƣớc
của nhân dân ta. Văn học thời kì đó đã xuất hiện một số cây viết nữ nhƣng chƣa
thật đông đảo và những sáng tác của họ chƣa thật sự khẳng định đƣợc vị thế trên
văn đàn, cũng nhƣ chƣa để lại dấu ấn đặc biệt trong lòng bạn đọc. Nhƣng từ sau
năm 1975, đặc biệt từ sau năm 1986 văn học Việt Nam đã đổi mới trên mọi bình
diện, cấp độ, mang đến một bầu khí quyển mới cho văn chƣơng nƣớc nhà. Văn
học đã đi sâu phản ánh cuộc sống con ngƣời với chủ đề mang cảm hứng thế sự
đời tƣ, và cùng với nó là sự hiện diện của một đội ngũ các nhà văn nữ từ sau
1975 đến nay, không phải ngẫu nhiên mà nhà nghiên cứu Phƣơng Lựu cho rằng:
“Dần dần đã có thể nói đến dịng văn học của những cây bút nữ” [27]. Có thể kể
đến những tên tuổi nhƣ: Lê Minh Khuê, Đoàn Lê, Lê Phƣơng Liên, Phạm Thị
Minh Thƣ, Dạ Ngân, Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Ấm, Lý
Lan, Y Ban, Võ Thị Xuân Hà, Phan Thị Vàng Anh, Phong Điệp, Đỗ Bích Thúy,
Nguyễn Ngọc Tƣ …. Họ đã và đang miệt mài, âm thầm lao động nghệ thuật,
mang đến cho đời sống văn học Việt Nam những cảm hứng và cách viết mới
mẻ, thấm đẫm tính nữ, thể hiện dấu ấn cá nhân trên các trang viết và đƣợc đông
đảo ngƣời đọc đón nhận, cho thấy “đây là một hiện tƣợng tốt đẹp đánh dấu một
phƣơng diện phát triển của văn học thế kỷ này trên đất nƣớc ta” [27].
Điều đáng chú ý trong giai đoạn này đã có một số bài phê bình ghi nhận
kịp thời những thành tựu đáng kể của các cây bút nữ nhƣ (Văn xuôi phái đẹp Bích Thu; Khi người ta trẻ I, Khi người ta trẻ II - Bùi Việt Thắng; Suy nghĩ về
đặc điểm của nữ văn sỹ - Phƣơng Lựu, Văn chương nữ giới - một cách thế hiện
diện ở đời - Huỳnh Nhƣ Phƣơng, Các cây bút trẻ đối thoại cùng trang viết -
11
Những cuộc đời không yên ả - Kỳ Phong…). Thậm chí có thời điểm giới nghiên
cứu phê bình nhận ra “văn chƣơng mang khn mặt nữ”. Dƣờng nhƣ tiếng nói
nữ giới trong văn chƣơng đang “lấn át” tiếng nói của nam giới (của nhà văn
nam), và đang phản bác lại những ý kiến đánh giá thấp vai trò của cây bút nữ,
cho rằng bút lực của họ chƣa “xứng tầm”. Nhƣng thực tế văn chƣơng nữ giới
giai đoạn này đã có “sự khởi sắc” khiến bạn đọc phải nghĩ khác về vị trí của các
cây bút nữ. Minh chứng cho những điều nói trên là sự tham gia của các cây bút
nữ trong một số cuộc thi sáng tác truyện ngắn đƣợc tổ chức trên các báo, tạp chí,
nhà xuất bản. Theo số liệu thống kế đƣợc, số lƣợng tác phẩm của các cây bút nữ
chiếm 2/3 số lƣợng tác phẩm tham gia cuộc thi. Điều đó cho thấy ƣu thế của các
cây bút nữ trên văn đàn. Cùng với đó là những giải thƣởng khẳng định vị thế và
tên tuổi của họ. Các cuộc thi sáng tác truyện ngắn, tiểu thuyết do tạp chí Văn
nghệ quân đội tổ chức trong hai thập kỉ qua, ngôi vị quán quân phần lớn thuộc
về các nhà văn nữ nhƣ: Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ, Trần Thanh Hà, Đỗ Bích
Thúy, Thùy Linh, Nguyễn Ngọc Tƣ, Hồ Thị Ngọc Hoài, Nguyễn Thị Minh Dậu,
Viên Lan Anh…
Điều dễ nhận thấy văn học thời kì đổi mới đã mở ra với nhiều đề tài mới
giúp các cây bút nữ mở rộng đường biên sáng tạo. Viết về mảng đề tài nào các
nhà văn nữ cũng thể hiện đƣợc tài năng cũng nhƣ sự cần mẫn, trau chuốt vốn dĩ
là đặc tính của ngƣời phụ nữ. Khi viết về những tàn dƣ của chiến tranh để lại,
các cây bút nữ khơng “nhìn lại” chiến tranh theo cách dữ dội và bi tráng của các
nhà văn nam mà họ đi sâu phát hiện “thực trạng tinh thần” của con ngƣời, về
“nỗi đau thời hậu chiến” của những ngƣời phụ nữ. Đó là nỗi đau dai dẳng, rất
“đàn bà”: sự tổn thƣơng trong tâm hồn cô gái trẻ với mối tình đầu dành cho
những ngƣời chiến sĩ ra đi không hẹn ngày về, nỗi đau ấy đã để lại “di chứng”
trong tâm hồn những ngƣời đàn bà (Chuyện người con gái - Nguyễn Thị Nhƣ
Trang); đó là nỗi đau khổ của những ngƣời phụ nữ vì chiến tranh mà phải chôn
vùi tuổi thanh xuân, bị hủy hoại thiên chức cao cả là đƣợc làm mẹ, buộc họ phải
sống cảnh “chung chồng” (Phận đàn bà- Thùy Dƣơng). Không chỉ dừng lại ở
12
việc khám phá, phát hiện bi kịch góa bụa, lỡ làng, các nhà văn nữ còn dùng ngòi
bút khai thác bi kịch đầy chua xót của ngƣời phụ nữ đó là: bi kịch của những
con ngƣời “vỡ mộng”, bơ vơ giữa cuộc đời (Người sót lại của rừng cười - Võ
Thị Hảo).
Khi viết về đề tài thế sự, đời tƣ các cây bút nữ đã có những tìm tịi đổi
mới không gian xã hội thời chiến (trong mối quan hệ cộng đồng, dân tộc) đƣợc
thay thế bởi các không gian sinh hoạt đời thƣờng với những mối quan hệ mang
tính chất cá nhân (mối quan hệ bạn bè, gia đình, với bản thân. Ở mảng đề tài
này, các cây bút nữ có “đất diễn” rất rộng, họ thoải mái “tung hoành”, khai phá
các mặt của hiện thực: từ những sự việc tƣởng chừng vặt vãnh, đời thƣờng, đến
những mâu thuẫn, bất hòa về quan niệm sống, lối sống, những mối quan hệ
tƣởng là nhất thành bất biến bị rạn nứt, những niềm vui, nỗi buồn, những cảnh
đời éo le, những số phận ngang trái, nhƣng bạn đọc vẫn tin tƣởng vào “thiên tính
nữ” của các nhà văn nữ đầy tính nhân bản, cuộc sống dù trải qua nhiều cung bậc
tình cảm với những sắc thái cảm xúc khác nhau nhƣng sự bao dung vị tha vẫn
hiện diện (Con sóng Đồng Tháp Mười - Nguyễn Thị Phƣớc), (Cuối mùa nhan
sắc - Nguyễn Ngọc Tƣ); ngƣời phụ nữ đơi lúc có những giây phút yếu lòng,
chệch hƣớng bởi những dục vọng cá nhân nhƣng rồi thiên chức làm mẹ, làm vợ
lại giúp họ đứng vững (Sau chớp là dông bão - Y Ban, Mùa đông ấm áp Nguyễn Thị Thu Huê, Hoa muộn - Phan Thị Vàng Anh, …). Chính “thiên tính”
ấy đã giúp ngƣời phụ nữ tự tìm lại cân bằng trong cuộc đời, một cuộc đời vốn
nhiều cái xù xì, gai góc, khơ cằn…Điều dễ nhận thấy trong sáng tác của các nhà
văn nữ là họ có xu hƣớng tìm về quá khứ để chiêm nghiệm, để đắm chìm trong
trang viết đầy ắp kỉ niệm trong các truyện Chiếc bình đựng kí ức - Dƣơng Nữ
Khánh Thƣơng; Chuyện buồn tuổi 18 - Nguyễn Thị Minh Hoa; Những miền
rừng - Trần Thanh Hà; Những tia nắng đầu tiên - Lê Phƣơng Liên…Đó là
những kỉ niệm về bạn bè, mái trƣờng, ngƣời thân, kỉ niệm về miền quê gắn bó,
kỉ niệm về mối tình dang dở…Tất cả những kí ức đó họ đã “gói ghém” gửi gắm
13
vào một nơi sâu thẳm nhất trong tâm hồn, và đó là cách mà những ngƣời phụ nữ
cân bằng cuộc sống của chính mình.
Có thể nói, hiện tƣợng lên ngơi của các nhà văn nữ đƣợc lí giải bởi hai lí
do: Nghị quyết Đại hội VI của Đảng năm 1986, đứng trƣớc yêu cầu đổi mới, văn
học phải đổi mới để bắt nhịp với xu hƣớng phát triển chung của xã hội, đề tài
đƣợc mở rộng “đƣờng biên”, các cây bút nữ “tung hồnh”, họ khơng cịn e dè,
gị bó. Họ có cơ hội khai thác từng ngõ ngách của đời sống xã hội cũng nhƣ đời
sống tinh thần của con ngƣời. Thêm vào đó là sự giao lƣu văn hóa với các nƣớc
giúp họ có tầm nhìn sâu rộng hon, thúc đẩy các nhà văn tìm tịi, sáng tạo nghệ
thuật. Thứ hai là do sự xuất hiện của thiên tính nữ, nhà tâm lí học Thụy Sĩ Karl
Gustavel Jung cho rằng: “Xét từ tố chất tâm lí thì nữ giới thuộc loại hình tình
cảm mang những đặc điểm rõ ràng hơn là tƣ duy”, “một số nhà giải phẫu học
cũng chứng thực nữ giới thƣờng tƣ duy riêng về bán cầu não trái tức là bộ phận
nặng về tình cảm tƣởng tƣợng, hồi tƣởng…nhiều nhà tâm lý học khác khẳng
định nữ giới rất nhạy cảm, dễ xúc động” [3; 17] vì thế họ dễ dàng thâm nhập,
khám phá những vấn đề thuộc về giới mình. Nhƣ nhà nghiên cứu Vƣơng Trí
Nhàn từng cho rằng: “Hình nhƣ do sự nhạy cảm riêng của mình, phụ nữ bắt
mạch với thời đại nhanh hơn nam giới. Họ luôn gần với cái lỉnh kỉnh, dở dang
của đời sống. Mặt khác với cái cực đoan sẵn có: tốt, dịu dàng, rộng lƣợng thì
khơng ai bằng, mà nhỏ nhen, chấp nhặt, dữ dằn cũng không ai bằng - từng cây
bút nữ tìm ra mặt mạnh của mình khá sớm, định hình khá sớm” [29].
Văn học sau đổi mới đã đi đƣợc chặng đƣờng khá dài (hơn 30 năm), trong
đó bộ phận văn học nữ đã phát triển với những thành tựu về nội dung và nghệ
thuật đáng kể khẳng định đƣợc vị thế của mình trong đời sống văn học hôm nay.
Tuy nhiên bên cạnh những điểm mạnh họ cũng có những hạn chế so với việc đòi
hỏi tạo ra những kiệt tác trong văn học “Phụ nữ đúng là giàu óc tƣởng tƣợng hơn
nam giới. Nhƣng theo các nhà tâm lý học thì giấc mơ của chị em thƣờng là
những câu chuyện thƣờng nhật xảy ra trong nhà cửa…Mặt khác (…) chị em có
ƣu thế về tình cảm và ngơn ngữ nhƣng chƣa tìm đƣợc sự cân đối hài hịa với lí
14
trí, trí tuệ” [27]. Cũng bởi vậy mà nhà văn Lê Minh Kh đã có những nhìn
nhận, đánh giá: “Nghĩ về những ngƣời viết cùng giới mình tơi thƣờng bị chi
phối bởi cảm giác nƣớc đôi. Một mặt nhiều chị em bộc lộ tài năng rõ rệt, không
lèm nhèm, không mờ nhạt. Mặt khác sao vẫn cảm thấy đặt trong hồn cảnh
chung rồi thì mỗi ngƣời cũng đến thế thơi: Khơng bao giờ có sự đồ sộ, vĩ đại ở
những cây bút nữ này cả” [29]. Nhƣng dù sao, có thể nói, trong hành trình hơn
30 năm sau đổi mới, các nhà văn nữ đã mạnh dạn cất lên tiếng nói cá nhân góp
phần tạo nên một dịng văn học nữ giàu bản sắc, đƣa văn xuôi nữ trở thành một
bộ phận không thể khuyết thiếu trong nền văn học đƣơng đại, góp phần làm
phong phú, đa dạng hơn nền văn học nƣớc nhà.
1.2. Quá trình sáng tác của nhà văn Lê Phƣơng Liên
1.2.1. Vài nét về nhà văn Lê Phương Liên
Nhà văn Lê Phƣơng Liên tên khai sinh là Lê Thị Phƣơng Liên, sinh ngày 20
tháng 7 năm 1951. Sinh ra và lớn lên ở Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Lê Phƣơng Liên
sớm u thích mơn Văn, đã từng đi thi học sinh giỏi Văn toàn miền Bắc và đƣợc giải
khuyến khích. Nhƣng nhƣ một ngã rẽ trong hành trình cuộc đời năm 1968 - 1971, Lê
Phƣơng Liên học Cao Đẳng sƣ phạm (Khoa toán lý), năm 1971 - 1980 làm giáo viên
dạy mơn tốn lý tại trƣờng cấp II Yên Sở, Thanh Trì, Hà Nội. Quãng thời gian 9 năm
đã cho bà nhiều kỉ niệm tuyệt vời về thầy, cô, về mái trƣờng dƣới chế độ xã hội chủ
nghĩa, về các cơ, cậu học trị hồn nhiên, vơ tƣ, trong sáng. Từ năm 1980 - 2005, bà là
cán bộ biên tập Nhà xuất bản Kim Đồng, rồi làm giám đốc điều hành “Quỹ hỗ trợ
giáo dục trẻ em mang tên Doraemon”. Hiện nay, bà đang sinh sống và làm việc tại
Hà Nội. Mặc dù đang ở tuổi “xƣa nay hiếm” nhƣng bà vẫn nhiệt tình tham gia các
hoạt động và cơng việc vì thế hệ trẻ, đƣợc giới chun mơn và các em thiếu nhi q
mến. Có thể nói, nhà văn Lê Phƣơng Liên là cây bút "thâm niên" viết cho thiếu nhi,
gắn bó với văn học thiếu nhi song ngịi bút của bà khơng dừng lại ở sáng tác cho lứa
tuổi nhỏ mà còn viết cho độc giả ngƣời lớn, là cây bút của nhiều đối tƣợng độc giả.
15
Lê Phƣơng Liên là một nhà văn có thân hình nhỏ nhắn, nụ cƣời hiền hậu,
tác phong giản dị mà lịch thiệp, đúng chất ngƣời Hà Nội gốc. Giống nhƣ một số
nhà văn cùng thời, bà cũng trải qua cuộc chiến tranh khốc liệt, tuổi thơ thiếu
thốn gian truân, phải đi sơ tán, học trong những lớp học tạm bợ, lợp bằng gianh,
tƣờng trát vách thủng lỗ chỗ, cũng ăn cơm độn, nhƣng đó lại là quãng thời gian
đầy ắp tiếng cƣời vô tƣ, hồn nhiên, trong sáng, tất cả lần lƣợt đƣợc tái hiện trong
cuốn Những tia nắng đầu tiên. Năm 1977, Lê Phƣơng Liên lập gia đình, chồng
là Kỹ sƣ công tác tại Ban điều độ vận tải trung ƣơng - Bộ giao thông vận tải.
Mặc dù là ngƣời phố cổ nhƣng Lê Phƣơng Liên lại không ƣa thích "trai phố" mà
cảm thấy hợp với "trai quê". Chồng bà là một ngƣời hiền lành, chân thật, yêu
thƣơng vợ con hết mực, luôn là ngƣời bạn đồng hành và sẻ chia với bà mọi công
việc trong cuộc sống. Quê ông ở Yên Lợi - Ý Yên - Nam Định, sinh ra trong
một gia đình nghèo lại là trƣởng họ, con trƣởng nên trách nhiệm của ngƣời dâu
trƣởng vô cùng nặng nề. Tuy nhiên bà lại rất hợp với mẹ chồng, một ngƣời phụ
nữ nông thôn thuộc rất nhiều ca dao tục ngữ và có triết lý sống rất tình cảm,
khơng hề có những lề thói phong kiến cổ hủ. Khi mới lập gia đình chƣa có kinh
tế, hai vợ chồng bà phải ở chung với nhà mẹ đẻ của nhà văn trên phố Hàng Dầu,
gần hồ Hoàn Kiếm. Đặc thù công việc của chồng hay vắng nhà, khi bà mới sinh
con đầu lòng chƣa đầy tháng chồng đƣợc cử đi cơng tác tại miền Nam, cơng việc
dạy học thì xa nhà (trƣờng học cách nhà 15km). Thân mẫu của bà, là chỗ dựa
tinh thần vững chắc bấy lâu không may bị mắc bệnh hiểm nghèo rồi qua đời.
Bao nhiêu khó khăn cả về vật chất lẫn tinh thần đến cùng một lúc khiến bà, một
ngƣời phụ nữ nhỏ bé phải gồng mình lên để vƣợt qua. Nói về việc chuyển nghề
bà tâm sự: "Nhƣ một cơ duyên, khi đó Nhà xuất bản Kim Đồng có nhu cầu cần
một biên tập viên có vốn sống thực tế trẻ em và có sáng tác. Cơ đƣợc mời về
NXB Kim Đồng. Đây không phải là công việc sáng tác mà là việc làm cán bộ
biên tập. Cần năng lực Đ C thẩm định bản thảo. Nhà xuất bản Kim Đồng đối
với cô là một địa điểm đi làm gần hơn và là mơi trƣơng văn hóa cao hơn một
ngơi trƣờng làng ngoại thành Hà Nội. Cơ muốn chuyển đi vì mục đích có một
16
nơi làm việc mở rộng tầm nhìn văn hóa cho mình”. Sau khi chuyển đến cơng tác
tại nhà Xuất bản Kim Đồng, bà đã đi học tại chức Đại học Tổng hợp Hà Nội
(Khoa Ngữ văn) để nâng cao trình độ. Trong thời gian làm một cơng việc mới có
nhiều áp lực, đồng lƣơng của hai vợ chồng cán bộ thời bao cấp chật vật khó
khăn vừa ni con nhỏ, vừa phải lo học tập nâng cao năng lực trình độ chuyên
môn đáp ứng với công việc mới. Cuộc sống thiếu thốn đủ đƣờng nhƣng bà vẫn
gắn bó khơng từ bỏ nghề bởi niềm vui lớn nhất của bà là đƣợc viết. Những năm
đầu công tác tại Nhà xuất bản Kim Đồng bà tập trung vào việc rèn luyện chuyên
môn nghề biên tập và làm quen với các bạn bè ở các báo chí chuyên viết cho trẻ
em. Khi đã có những thành cơng bƣớc đầu với nghề biên tập, bà mới tiếp tục
sáng tác lại. Quá trình hoạt động văn học của bà diễn ra nhƣ sau:
Từ năm 1995 đến năm 2010: Ủy viên Ban Văn học thiếu nhi Hội Nhà văn Việt
Nam, Phó trƣởng ban rồi Trƣởng ban Văn học thiếu nhi Hội Nhà văn Việt Nam.
Từ 2010 đến 2020: Ủy viên Ban Văn học chuyên đề (phụ trách Văn học
thiếu nhi), rồi Phó trƣởng ban thƣờng trực Ban Văn học thiếu nhi - Hội Nhà văn
Việt Nam. Từ năm 2005 đến 2010: Thƣ ký Tiểu ban Sách Thiếu nhi - Hội đồng
Giải thƣởng Sách Việt Nam. Từ 2010 đến nay (2022): Trƣởng Tiểu ban Sách
Thiếu nhi - Hội đồng Giải thƣởng Sách Việt Nam sau là Hội đồng Giải thưởng
Sách uốc ia.
Đến nay mặc dù đã nghỉ hƣu nhƣng nhà văn Lê Phƣơng Liên vẫn hăng say
viết, thậm chí viết nhiều hơn và thƣờng xuyên tham gia cộng tác trong các chƣơng
trình về Văn học, các buổi tọa đàm về sách. Có đƣợc nguồn năng lƣợng dồi dào
trong dáng ngƣời nhỏ bé của bà chính là do tình yêu nghề cùng với sự ủng hộ tuyệt
đối, sự đồng hành của ngƣời bạn đời - ngƣời chồng tuyệt vời trong cuộc sống cũng
nhƣ trong công việc.
1.2.2 Sự nghiệp sáng tác của nhà văn Lê Phương Liên
Trong cuộc trả lời phỏng vấn gần nhất (29/5/2022) tại Đại học Giáo Dục,
Lê Phƣơng Liên tâm sự về “bí kíp giữ lửa” trong nghề của mình: “Viết ln là
17
niềm vui, sự thăng hoa khích lệ tơi vƣợt qua nỗi khổ cả về tinh thần và vật chất.
Khi chƣa có thời gian viết những cuốn dài, tơi viết truyện ngắn cho thiếu nhi in
ở các báo Thiếu niên tiền phong, Nhi đồng, đọc ở Văn nghệ thiếu nhi - Đài
Tiếng nói Việt Nam… Mỗi khi đƣợc đăng báo, đƣợc đọc trên Đài, tơi vừa có
niềm vui tình thần và cả vật chất (nhuận bút) để đỡ thêm tiền rau dƣa cho gia
đình. Sau đó tập hợp lại một tập truyện ngắn in ở Nhà xuất bản Kim Đồng.
Nhiều truyện đã đƣợc in đi in lại hoặc đƣợc chọn vào các tuyển tập văn học
thiếu nhi. Trải qua 50 năm gắn bó với văn học, tơi ln đƣợc các nhà xuất bản in
sách và trả nhuận bút, chƣa bao giờ tự in và tự phát hành cả".
Với nhà văn Lê Phƣơng Liên đƣợc cầm bút là thấy mình nhƣ đƣợc tồn tại,
cầm bút viết nhƣ một thói quen, một sở thích đƣợc duy trì bền bỉ, lâu dài. Trƣớc
khi viết một tác phẩm bà thƣờng có sự chuẩn bị rất kĩ nhƣ: sự trải nghiệm của
bản thân (khi viết về thầy cô và mái trƣờng), thâm nhập thực tế (những chuyến
công tác trên khắp mọi miền tổ quốc, chuyến đi nƣớc ngoài), sƣu tầm các tƣ liệu
về nhân vật lịch sử (gần đây nhất khi viết về bà Đoàn Thị Điểm). Theo nhà văn
Lê Phƣơng Liên, quá trình viết văn là một q trình lao động nghiêm túc, khổ
luyện, địi hỏi nhà văn ln sáng tạo, tìm tịi, phát hiện ra cái mới, ln đặt vị thế
của mình vào ngƣời đọc, vì thế bà ln suy nghĩ trăn trở trƣớc khi đặt bút viết,
nhà văn đã từng chia sẻ: “Khi mình bắt đầu viết một tác phẩm thơ hoặc văn xi,
cần đặt ra một câu hỏi: “Mình viết cho ai?” Nếu chỉ “viết cho mình” thơi nhƣ dạng
nhật ký thì cũng phải tự hỏi là để lƣu lại một thời gian cho mình tự đọc và có thể
con cháu trong nhà sẽ đọc? Nếu là “Viết cho trẻ em” để in sách, in báo, cơng bố ra
xã hội thì phải suy nghĩ cách viết nhƣ thế nào là tốt nhất để truyền đạt những suy
nghĩ và tình cảm của mình đến ngƣời đọc. Điều mình trình bày có đƣợc ngƣời đọc
hiểu, đồng cảm và thích thú khơng? Tác phẩm thành cơng là tác phẩm trình bầy
đƣợc những câu chuyện chân thực (có thể là rất độc đáo và hiếm có) mà lại “chạm”
đến trái tim của đông đảo ngƣời đọc. Ngƣời đọc nhƣ “soi gƣơng” thấy mình có
cùng tâm trạng vui, buồn, đau khổ, sợ hãi rồi vƣợt thoát thành công...hả hê sung
18
sƣớng hạnh phúc. Tác giả vừa là mình mà lại vừa là mọi ngƣời. Tác giả của những
cuốn sách có bạn đọc tìm mua và đọc thích thú thì mới có thể gọi là NHÀ VĂN."
Khi mới bƣớc vào nghề viết văn không giống nhƣ các nhà văn trẻ khác
chọn đề tài tình u đơi lứa, Lê Phƣơng Liên lại chọn viết về trẻ thơ, cô giáo và
nhà trƣờng với lối viết trong sáng, vui tƣơi, hóm hỉnh. Sau đó bà mở rộng phạm
vi sang đề tài về thiên nhiên viết bằng sự cảm nhận, quan sát tinh tế, giọng điệu
tâm tình, đề tài các nhà văn, nhà thơ của thiếu nhi, viết bằng tình cảm trân quý
dành cho họ với giọng điệu lắng đọng, suy tƣ, về hồi ức thì mang màu sắc tự
truyện, giàu chất liệu đời tƣ, về những ngƣời anh hùng, thi sĩ trong lịch sử viết
bằng sự am hiểu kiến thức có thật trong lịch sử, ngôn ngữ đậm chất đời thƣờng
và chất thơ….Ở mảng đề tài và thể loại nào bà cũng gặt hái đƣợc những thành
cơng đáng kể. Có đƣợc thành cơng ấy là do bà sự am hiểu kiến thức, sự trải
nghiệm thực tế trong môi trƣờng giáo dục cộng với quá trình tự rèn luyện lâu
dài, kiên trì, bền bỉ, đặc biệt là niềm say mê, yêu thích văn chƣơng. Lê Phƣơng
Liên không phải là trƣờng hợp ngoại lệ (nhà giáo trở thành nhà văn), ngồi Lê
Phƣơng Liên đã có những nhà giáo trở thành nhà văn nổi tiếng nhƣ nhà văn Ma
Văn Kháng, nhà văn Nguyễn Nhật Ánh...
Cuốn Tuyển tập Câu hỏi trẻ thơ tiêu biểu cho cách viết của nhà văn. Qua
cuốn sách này, ngƣời đọc dễ dàng nhận thấy văn chƣơng của Lê Phƣơng Liên
rất mộc, rất dịu. Tiết tấu truyện kể lẫn tản văn Lê Phƣơng Liên hao hao tiết tấu
của thơ, chậm rãi, từ tốn. Xung đột hầu nhƣ vắng mặt trong các tác phẩm của bà,
có chăng chỉ là những gợn xao động và suy tƣ. Là ngƣời đọc nhiều, tích lũy
nhiều, lại có cơ hội đi nhiều để giao lƣu văn hóa, đặc biệt là kinh nghiệm viết
sách cho thiếu nhi, nhƣng tác giả không tập trung tƣới tắm văn chƣơng bằng
những cách tân hình thức. Hầu hết truyện của Lê Phƣơng Liên là truyện sinh
hoạt theo kiểu tả thực - dạng truyện phần lớn tựa vào đời mà kể và tả nên không
nhiều yếu tố tƣởng tƣợng. Có thể một số ngƣời đọc sẽ ái ngại về hƣớng đi của
tác giả, hƣớng đi có thể làm nhịe mờ tên tuổi của nhà văn. Nhƣng đó là cái tạng
của một nhà văn tử tế, hiền hậu đến mức không muốn làm tổn thƣơng ngay
19
chính nhân vật của mình. Mặt khác, đấy là lựa chọn của một ngƣời gắn bó lâu
năm với thiếu nhi ở vị trí của một nhà giáo, một ngƣời đồng hành với Câu lạc bộ
Đọc sách cùng em, một giám khảo cuộc thi viết thƣ quốc tế UPU… Viết cho
thiếu nhi, Lê Phƣơng Liên chú trọng phần khơi gợi rung động của những tâm
hồn non tơ. Nhà văn đã dùng thứ văn chƣơng trong lành giản dị để tiếp tục khơi
mở những điều êm dịu, tử tế. Có lần nhà văn đã nói: “Chúng ta viết cho trẻ em
có thể bằng tiếng Pháp, tiếng Lào, tiếng Khơ me hay tiếng Việt… Thế nhƣng trẻ
em nƣớc nào cũng giống nhau khi khóc, khi cƣời. Vì thế những tác phẩm hợp
với tình cảm của trẻ em sẽ là những tác phẩm không có biên giới” (Ngày thu ở
Lào). Càng ngẫm càng thấy ý vị sâu xa của câu nói ấy. 50 năm qua, cái tên Lê
Phƣơng Liên vẫn đƣợc nhắc đến thƣờng xun, có lẽ chính vì nhà văn đã nhẹ
nhàng chạm đến đƣợc tiếng khóc cƣời chung của độc giả nhỏ tuổi. Dù viết về
đối tƣợng nào, nhà văn vẫn luôn giữ cách viết trong sáng tựa nhƣ cơn mƣa mùa
xuân, vẫn hàng ngày âm thầm “ni dịng suối xn trong” …
Trong cuộc sống đời thƣờng Lê Phƣơng Liên là một nhà văn giản dị, gần
gũi, đối diện và trò chuyện với bà, độc giả giống nhƣ một ngƣời bạn của nhà
văn, bình đẳng, cởi mở và thân tình. Hơn nữa ta còn cảm nhận đƣợc sự ân cần,
chu đáo trong lời nói cũng nhƣ cách ứng xử. Có lẽ do đặc thù công việc thƣờng
xuyên tiếp xúc với các bạn nhỏ nên đối với ai bà cũng giữ một thái độ nhẹ
nhàng, lịch thiệp. Ngay cả với thiên nhiên vạn vật xung quanh mình, bà ln
quan sát rất tỉ mỉ trƣớc sự thay đổi của thiên nhiên, nâng niu nhành hoa, ngọn
cỏ, trân trọng từng phút giây trôi qua, luôn lạc quan và truyền năng lƣợng tích
cực cho những ngƣời xung quanh mình.
Có thể nhận thấy Lê Phƣơng Liên sáng tác và thành công ở nhiều thể loại,
cho nhiều đối tƣợng và là một trong những tác giả vẫn dồi dào bút lực từ khi
mới vào nghề cho tới nay.
Những tác phẩm đã xuất bản:
u ện v a: