MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài...........................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu.....................................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.................................................................2
4. Nhiệm vụ nghiên cứu....................................................................................3
5. Lịch sử nghiên cứu........................................................................................3
6. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................4
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ PHƯƠNG PHÁP HƯỚNG DẪN DU LỊCH
TÂM LINH.......................................................................................................6
1.1. Các khái niệm liên quan đến Du lịch tâm linh...........................................6
1.1.1. Du lịch...............................................................................................6
1.1.2. Tâm linh............................................................................................8
1.1.3. Du lịch tâm linh...............................................................................11
1.2. Các vấn đề chính của du lịch tâm linh.....................................................14
1.2.1 Nội dung của du lịch tâm linh..........................................................14
1.2.2 Đặc điểm của du lịch tâm linh.........................................................14
1.2.3 Các hình thức biểu hiện của du lịch tâm linh..................................17
1.2.4. Vai trò của du lịch tâm linh.............................................................18
1.2.5 Xu hướng phát triển của du lịch tâm linh........................................19
1.3. Hoạt động hướng dẫn du lịch tâm linh.....................................................22
1.3.1. Khái niệm hướng dẫn du lịch..........................................................22
1.3.2. Khái niệm hướng dẫn du lịch tâm linh............................................22
1.3.3. Hướng dẫn viên du lịch tâm linh.....................................................23
1.3.4. Phương pháp hướng dẫn du lịch tâm linh.......................................26
CHƯƠNG 2. PHƯƠNG PHÁP HƯỚNG DẪN DU LỊCH TÂM LINH
TUYẾN THÁI NGUYÊN – ĐỀN CỬA ÔNG – ĐỀN CÔ BÉ CỬA SUỐT –
CHÙA BA VÀNG..........................................................................................34
2.1. Khái quát về tuyến Thái Nguyên – đền Cửa Ông – đền Cô Bé Cửa Suốt –
chùa Ba Vàng..................................................................................................34
2.1.1. Cung đường.....................................................................................34
2.1.2 Đặc điểm thị trường khách của tuyến..............................................43
2.1.3. Biểu hiện của các giá trị tâm linh trong tuyến................................45
2.2. Hoạt động hướng dẫn du lịch tâm linh tuyến Thái Ngun – Đền Cửa
Ơng – Đền Cơ Bé Cửa Suốt – Chùa Ba Vàng.................................................51
2.2.1. Tình hình chung...............................................................................51
2.2.2. Nhân lực thực hiện hướng dẫn du lịch tâm linh trên tuyến............52
2.3. Thực trạng sử dụng các phương pháp hướng dẫn du lịch tâm linh trong
tuyến................................................................................................................55
2.3.1. Các phương pháp chung.................................................................55
2.3.2. Phương pháp riêng..........................................................................57
2.3.3 Một số trò chơi hoạt náo trên xe......................................................58
CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP HƯỚNG DẪN DU
LỊCH TÂM LINH TUYẾN THÁI NGUYÊN – ĐỀN CỬA ÔNG – ĐỀN CÔ
BÉ CỬA SUỐT – CHÙA BA VÀNG............................................................60
3.1 Căn cứ đề xuất...........................................................................................60
3.1.1. Căn cứ vào xu hướng phát triển của tuyến.....................................60
3.1.2 Căn cứ vào thực trạng nhân lực thực hiện hướng dẫn du lịch tâm linh
tuyến Thái Nguyên – đền Cửa Ông – đền Cô Bé Cửa Suốt – chùa Ba Vàng....60
3.2. Một số phương pháp hướng dẫn du lịch tâm linh tuyến Thái Ngun –
đền Cửa Ơng – đền Cơ Bé Cửa Suốt – chùa Ba Vàng....................................61
3.2.1. Vận dụng hài hòa các phương pháp chung.....................................61
3.2.2. Sáng tạo phương pháp riêng...........................................................61
3.3.2. Nâng cao chất lượng hướng dẫn viên suốt tuyến............................71
3.3.4. Xây dựng hệ thống bài thuyết minh trong tuyến.............................72
3.3.5. Kiện toàn chất lượng tuyến điểm....................................................94
3.3.6. Gải quyết một số tình huống thường phát sinh trong tour..............95
KẾT LUẬN...................................................................................................100
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................102
PHỤ LỤC
............................................................................................................MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việc khai thác các giá trị văn hóa âm linh để phát triển du lịch đã hình
thành nên chuỗi giá trị du lịch tâm linh trên thế giới và ở Việt Nam. Mục tiêu
đầu tiên của chuỗi giá trị trong phát triển du lịch dựa vào thế mạnh văn hóa
tâm linh là đóng góp và làm tăng lợi ích kinh tế cho địa phương theo hướng
bền vững. Du lịch tâm linh là gắn liền với yếu tố “thiêng liêng”, con người
đến với loại hình du lịch này để thỏa mãn nhu cầu giao tiếp với môi trường tự
nhiên, giao tiếp với tâm linh, hưởng thụ sinh hoạt văn hóa làm cho họ cảm
nhận được sự gần gũi với thiên nhiên.
Ở Việt Nam, xét về mặt giá trị, du lịch tâm linh không chỉ đơn thuần là
một hình thức kinh tế đem lại lợi nhuận cao mà cịn phản ánh thiết chế văn
hóa của đất nước ta qua các thời kì, điều này thể hiện bằng việc qua từng thời
kì văn hóa lịch sử của đất nước những điểm đền chùa đều có những đặc điểm
khác nhau về lịch sử, kiến trúc, quy mô,... Bên cạnh đó, du lịch tâm linh chủ
yếu là các địa điểm gắn liền với Phật giáo, một tôn giáo lớn với những tinh
hoa, giáo lí hướng con người đến với “chân, thiện, mỹ”. Để tổ chức thực hiện
những tour du lịch tâm linh, yêu cầu phải có đội ngũ hướng dẫn viên có trình
độ chun mơn/nghiệp vụ cao, có tâm, có nhiệt huyết với nghề. Mặc dù với
một đội ngũ hướng dẫn viên du lịch được đào tạo với trình độ chun mơn
nghiệp vụ cao nhưng vẫn cịn tồn tại những nhận thức thiếu tính khách quan,
thiếu cặn kẽ của những hướng dẫn viên trong công tác thực hành hướng dẫn
du lịch tâm linh, ví dụ như chưa cung cấp đúng những thông tin cho du khách
về điểm đến, chưa hướng dẫn du khách cách thức tham quan các điểm du lịch
tâm linh như nào cho đúng, chưa giải thích những biểu tượng tâm linh thường
thấy tại các điểm du lịch,... Chính những điều này dẫn đến những nhầm lẫn
trong nhận thức của du khách về du lịch tâm linh, gây ảnh hưởng khơng lớn
đến du lịch nói chung và du lịch tâm linh nói riêng.
1
Với mong muốn trở thành một hướng dẫn viên du lịch chuyên nghiệp
với trình độ nghiệp vụ được đào tạo bài bản. Bằng những tình huống bản thân
tận mắt chứng kiến trong quá trình theo phụ những tour du lịch tâm linh,
chúng tơi nhận thấy cần phải có sự đầu tư và phát triển hơn trong phương
pháp thực hành hướng dẫn du lịch tâm linh, đáp ứng những nhu cầu thiết thực
trong quá trình tham gia du lịch tâm linh của du khách. Hướng dẫn viên du
lịch tâm linh cần phải có một đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp, nhiệt huyết
và có kĩ năng nghề được đào tạo bài bản. Vì những lí do trên, chúng tơi chọn
đề tài: “Xây dựng phương pháp hướng dẫn du lịch tâm linh tuyến Thái
Ngun – Đền Cửa Ơng – Đền Cơ Bé Cửa Suốt – Chùa Ba Vàng"
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những giá trị tinh thần và vật chất trong tuyến Thái Ngun
– Đền Cửa Ơng – Đền Cơ Bé Cửa Suốt – Chùa Ba Vàng, đồng thời tìm hiểu
về các phương pháp hướng dẫn du lịch nhằm xây dựng được phương pháp
hướng dẫn du lịch tâm linh cho tuyến “Thái Ngun – Đền Cửa Ơng – Đền
Cơ Bé Cửa Suốt – Chùa Ba Vàng”.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp hướng dẫn du lịch tâm linh tuyến Thái Nguyên – Đền
Cửa Ông – Đền Cô Bé Cửa Suốt – Chùa Ba Vàng.
- Phạm vi nghiên cứu
+ Phạm vi về mặt không gian: Tuyến du lịch tâm linh tuyến Thái
Nguyên – Đền Cửa Ông – Đền Cô Bé Cửa Suốt – Chùa Ba Vàng.
+ Phạm vi về mặt thời gian”
* Đề tài được thực hiện từ ngày 24/12/2017 đến ngày 28/04/2018.
* Những số liệu, dữ liệu mà đề tài tìm hiểu, sử dụng nằm trong khoảng
5 năm trở lại đây.
2
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa lý luận về phương pháp hướng dẫn du lịch tâm linh.
- Tìm hiểu thực trạng sử dụng các phương pháp hướng dẫn du lịch tâm linh
tuyến Thái Nguyên – Đền Cửa Ông – Đền Cô Bé Cửa Suốt – Chùa Ba Vàng
- Xây dựng được hệ thống phương pháp hướng dẫn du lịch tâm linh
tuyến Thái Nguyên – Đền Cửa Ông – Đền Cô Bé Cửa Suốt – Chùa Ba Vàng.
5. Lịch sử nghiên cứu
Hiện nay, với sự chuyển mình mạnh mẽ của hình thức du lịch tâm linh
đã có một số cơng trình khoa học nghiên cứu về chủ đề này như:
- Khóa luận tốt nghiệp “Du lịch tâm linh Nam Định” của sinh viên Kiều
Khánh Vũ Trường Đại học Văn Hóa Hà Nội (2012)
- Luận văn thạc sỹ du lịch của Đoàn Thị Thùy Trang về đề tài “Nghiên
cứu hoạt động văn hóa du lịch tâm linh của người Hà Nội” của Trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc Gia Hà Nội) năm 2010
- Luận văn thạc sỹ du lịch của Trần Thị Bích Hạnh về đề tài “Phát triển
du lịch tâm linh ở Lạng Sơn” của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn (Đại học Quốc Gia Hà Nội) năm 2016
- Đề tài “Thực trạng về du lịch tâm linh – Phật giáo ở Việt Nam” của
sinh viên Đan Thu Vân Trường Đại học KTQD – Hà Nội
- Đề tài nghiên cứu khoa học “Định hướng phát triển du lịch tâm linh
tại thành phố Đà Nẵng” của sinh viên Thái Thị Hồng Vân trường Đại học
Kinh tế Đà Nẵng.
Những đề tài trên đã đưa ra được những lý luận cơ bản và những vấn
đề chuyên sâu về loại hình du lịch tâm linh của địa bàn nói trên thuộc đề tài
nghiên cứu như đưa ra một số khái niệm, quan điểm để bước đầu tìm hiểu về
loại hình du lịch tâm linh. Khảo sát, đánh giá các tiềm năng cũng như thực
trạng phát triển du lịch tâm linh tại các tỉnh. Đề xuất một số giải pháp khả thi
3
để khai thác có hiệu quả các tiềm năng văn hóa và thúc đẩy sự phát triển các
hoạt động du lịch tại đây.
Tuy nhiên, theo tìm hiểu của chúng tơi, thì chưa có cơng trình khoa
học nào nghiên cứu về việc xây dựng phương pháp hướng dẫn du lịch tâm
linh nói chung và phương pháp hướng dẫn du lịch tuyến Thái Ngun – đền
Cửa Ơng – đền cơ Bé Cửa Suốt – Chùa Ba Vàng nói riêng. Vì thế, đề tài khóa
luận này của chúng tơi là riêng biệt và không trùng lặp.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã đọc các tài liệu phục vụ
cho hoạt động hướng dẫn du lịch tâm linh như: Luật du lịch Việt Nam 2005,
từ điển bách khoa toàn thư, tài liệu về các điểm du lịch tâm linh,… và xem
các video như: “Tín ngưỡng thờ Mẫu”, Giới thiệu chùa Ba Vàng, giới thiệu
đền Cửa Ông,…
- Phương pháp điền dã và thực nghiệm:
Trong q trình thực hiện đề tài, chúng tơi đã tổ chức đi khảo sát tuyến
và thực hành một số nghiệp vụ hướng dẫn du lịch trong tour Thái Nguyên –
Chùa Ba Vàng.
- Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi:
Trong đề tài này, chúng tôi đã thiết kế 1 mẫu phiếu phỏng vấn dùng
cho hướng dẫn viên du lịch. Sau đó, chúng tơi sử dụng phương pháp chọn
mẫu ngẫu nhiên để thực hiện phỏng vấn hướng dẫn viên: phát ra 20 phiếu, thu
về 20 phiếu (số phiếu không hợp lệ: 0). Bên cạnh đó, chúng tơi cịn thiết kế 1
mẫu phiếu phỏng vấn dùng cho khách du lịch đi tuyến Thái Ngun – Đền
Cửa Ơng – Đền Cơ Bé Cửa Suốt – Chùa Ba Vàng: phát ra 72 phiếu, thu về 72
phiếu (số phiếu không hợp lệ: 0).
4
- Phương pháp xử lý dữ liệu
Sau khi đã thu thập được các dữ liệu thứ cấp và sơ cấp, chúng tôi phân
loại và sắp xếp chúng theo hệ thống. Đồng thời, chúng tôi tiến hành so sánh,
lựa chọn các dữ liệu nhằm có được những thơng tin đúng và hợp lý nhất. Dựa
trên cơ sở dữ liệu nền tảng đó, chúng tơi lập bảng số liệu để thể hiện các biểu
đồ, sơ đồ.
- Phương pháp phân tích, tư duy, suy luận:
Từ tất cả những kết quả ở các bước trên, chúng tơi tiến hành phân tích
dữ liệu, so sánh, đối chiếu, tìm tịi lý thuyết mới,… khái qt thành các luận
điểm khoa học và minh chứng bằng chính kết quả xử lý số liệu của đề tài.
5
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ PHƯƠNG PHÁP HƯỚNG DẪN
DU LỊCH TÂM LINH
1.1. Các khái niệm liên quan đến Du lịch tâm linh
1.1.1. Du lịch
Ngày nay du lịch trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến
không chỉ ở các nước phát triển mà còn ở nước đang phát triển, trong đó có
Việt Nam. Do hồn cảnh (thời gian, khu vực) khác nhau, mỗi người có một
cách hiểu về du lịch khác nhau.
Dưới con mắt của Guer Fletiler Du lịch với ý nghĩa hiện đại của từ này
là một hiện tượng của thời đại chúng ta, dựa trên sự tăng trưởng về nhu cầu
khôi phục sức khỏe và sự đổi thay của môi trường xung quanh, dựa vào sự
phát sinh, phát triển tình cảm đối với vẻ đẹp của thiên nhiên.
Theo nhà Kinh tế học Kalfiotis thì cho rằng: Du lịch là sự di chuyển
tạm thời của cá nhân hay tập thể từ nơi ở đến một nơi khác nhằm thỏa mãn
nhu cầu tinh thần, đạo đức , do đó tạo nên các hoạt động kinh tế.
Trong cuốn “Cơ sở địa lí du lịch và dịch vụ tham quan”, với một nội
dung khá chi tiết, nhà địa lí Belarus đã nhấn mạnh: Du lịch là một dạng hoạt
động của dân cư trong thời gian nhàn rỗi có liên quan đến sự di cư và lưu trú
tạm thời ngoài nơi ở thường xuyên nhằm mục đích phát triển thể chất và tinh
thần, nâng cao trình độ nhận thức văn hóa hoặc hoạt động thể thao kèm theo
việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế, văn hóa và dịch vụ.
Qua các định nghĩa trên có thể hình dung được biến đổi trong nhận
thức về nội dung trong thuật ngữ du lịch. Một số chỉ cho rằng du lịch là hiện
tượng xã hội ( hiểu theo nghĩa từ đơn giản đến phức tạp), số khác lại cho rằng
đây phải là một hoạt động kinh tế. Nhiều học giả cố ghép cả hai nội dung trên
vào định nghĩa của thuật ngữ này, tức là tất cả các mối quan hệ (xã hội và
kinh tế) phải sinh từ hoạt động di chuyển. Trong những định nghĩa này, các
tác giả gộp hai phạm trù hoạt động du khách và hoạt độg kinh tế thành một hệ
thống nhân quả.
6
Khác với quan điểm trên, các học giả biên soạn Bách Khoa toàn thư
Việt Nam đã tách hai nội dung cơ bản của du lịch thành hai phần riêng biệt.
Theo các chuyên gia này, nghĩa thứ nhất của từ này là một dạng nghỉ dưỡng
sức tham quan tích cực của con người ngồi nơi lưu trú với mục đích: nghỉ
ngơi, giải trí, xem danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, cơng trình văn hóa,
nghệ thuật,v,v… Theo nghĩa thứ hai du lịch được coi là một ngành kinh
doanh tổng hợp có hiệu quả cao về nhiều mặt: nâng cao hiểu biết về thiên
nhiên, truyền thống lịch sử và văn hóa dân tộc, từ đó góp phần làm tăng thêm
tình u đất nước, đối với người nước ngồi là tình hữu nghị với dân tộc
mình; về mặt kinh tế du lịch là lĩnh vực kinh doanh mang lại hiệu quả rất lớn;
có thể coi là hình thức xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tại chỗ.
Tổ chức Du lịch Thế giới (World Tourist Organization) cũng xác định:
Du lịch bao gồm tất cả mọi hoạt động của những người du hành, tạm trú,
trong mục đích tham quan, khám phá và tìm hiểu, trải nghiệm hoặc trong mục
đích nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn; cũng như mục đích hành nghề và những mục
đích khác nữa, trong thời gian liên tục nhưng không quá một năm, ở bên
ngồi mơi trường sống định cư; nhưng loại trừ các du hành mà có mục đích
chính là kiếm tiền. Du lịch cũng là một dạng nghỉ ngơi năng động trong môi
trường sống khác hẳn nơi định cư.
Cũng nhìn nhận dưới góc độ di chuyển, Luật Du lịch Việt Nam 2017
quy định: Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người
ngồi nơi cư trú thường xuyên trong thời gian không quá 01 năm liên tục
nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí, tìm hiểu, khám phá tài
ngun du lịch hoặc kết hợp với mục đích hợp pháp khác.
Như vậy, trong thực tế cuộc sống, do sự phát triển của xã hội và nhận
thức, các từ ngữ thường có nhiều nghĩa, nhiều khi trái ngược nhau. Như vậy,
cố gắng giải thích đơn vị từ đa nghĩa bằng cách gộp các nội dung khác nhau
vào một định nghĩa sẽ làm cho khái niệm trở nên khó hiểu và khơng rõ ràng.
7
Dựa theo cách tiếp cận trên nên tách thuật ngữ du lịch thành hai phần để định
nghĩa nó.
1. Sự di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời gian rảnh rỗi
của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư cú nhằm mục đích phục hồi sức khỏe,
nâng cao tại chỗ nhận thức về thế giới xung quanh, có hoặc không kèm theo
việc tiêu thụ một số giá trị tự nhiên, kinh tế, văn hóa và dịch vụ do các cơ sở
chuyên nghiệp cung ứng.
2. Một lĩnh vực kinh doanh các dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu nảy
sinh trong quá trình di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời gian
rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể ngồi nơi cu trú với mục đích phục hồi sức
khỏe, nâng cao nhận thức tại chỗ về thế giới xung quanh.
1.1.2. Tâm linh
Định nghĩa
Từ e dè, nghi ngại lúc đầu đến nay, sau khoảng một hai thập kỷ, "Tâm
linh" trở thành một từ thường xuyên dùng tới trên cửa miệng của nhiều người,
có nội dung cịn rất "tù mù”, phiếm định, vì vậy chúng ta cần "kiện nghĩa"
khái niệm này trong chừng mực bao quát nhất có thể được.
Dù có ý thức rõ ràng hay khơng, chúng ta đều hiểu "tâm" như nguồn
gốc phát sinh, như người đạo diễn ẩn diện, như nguyên lý động lực học của tư
duy, tình cảm, ý chí, ham muốn... tóm lại của mọi hoạt động hay đời sống tinh
thần. "Linh" hay linh thiêng là tác dụng hay hiệu lực "vật chất" lên cuộc sống
của con người hay tồn tại của vật thể. Tác dụng ấy hay hiệu lực ấy có cường
tính khơng giới hạn nhưng cơ chế của nó lại nằm ngồi, thậm chí thường khi
mâu thuẫn với kinh nghiệm hàng ngày, tri thức phổ biến, quy luật thực
nghiệm và nguyên lý khoa học. Do đó "linh" thường làm ta hoang mang trước
sự lựa chọn: hoặc thực kiện tai nghe, mắt thấy, hoặc, nói chung, tri thức mà ta
đã tích tập.
8
Theo từ điển Hán – Việt của Đào Duy Anh thì Tâm linh là trí tuệ tự có
trong lịng người. Cịn bách khoa tồn thư Việt Nam thì nhìn nhận Tâm linh
là một thuật ngữ bao hàm về trí tuệ, ý thức, tinh thần, linh hồn của một sinh
vật và cao hơn là con người. Ngồi ra tâm linh cịn là những hiện tượng kỳ bí,
nằm ngồi phạm vi hiểu biết thông thường của con người như ngoại cảm, thần
giao cách cảm, lên đồng, ma nhập, mộng du, bóng đè, thôi miên, chữa bệnh
bằng tâm linh,... mà khoa học chưa khám phá, giải thích và chứng minh được.
Tâm linh cịn là một loại hiện tượng tinh thần đặc trưng ở con người, biểu
hiện ở một số người như là giác quan thứ sáu, có cơ sở là vết tích của "logic
trực giác xuất thần" của loài động vật cấp thấp để lại trong quá trình phát triển
thai người.
Tâm Linh là cái Tâm phiếm hình nhưng lại có hiệu ứng Linh. Như vậy
trong tiếng Việt ta xưa nay vẫn có một từ hoàn toàn tương ứng với cả nội
hàm, cả ngoại diên của tâm linh, đó là Thần. "Biến hóa mạc trắc vị chi thần",
Thần ứng dụng cho cả người, cả cho vật, cả lúc sống, cả lúc chết, vì thế thật
ra Thần minh định cho tâm linh rõ hơn, hay hơn bản thân khái niệm "tâm
linh" nhiều, tiếc rằng lâu nay ta có thói quen sính từ mới nên qn mất "thần”.
Các trường phái tâm linh
Thứ nhất là trường phái Não Luận (cérébrocentriseme) chủ trương rằng
tâm chỉ là hiệu ứng hay phương diện tác dụng của bộ não, của hệ thần kinh,
của hệ nội tiết, nói gọn lại là hoạt động hóa - điện trong khn viên Thời Khơng của một số mơ tế bào có cấu tạo Hạt. Nếu có sự xộc xệch, "bệnh tật"
của chúng thì tâm cũng hết hoạt động bình thường, thậm chí tâm chấm dứt
hẳn hoạt động, tức là Chết. Tóm lại, thân chết là tâm chết, và chết là hết,
khơng cịn gì để bàn nữa. Não luận có sức thuyết phục mạnh mẽ ở chỗ mọi
người đều thấy quả thật thân chết, ví dụ ngã vỡ sọ, thì tâm chết. Nhưng như
thế là Hết chăng? Luận điểm cuối cùng này chỉ đủ vững chắc khi não luận bác
bỏ được mọi hiệu ứng Linh của Tâm.
9
Thứ hai là trường phái Tâm Luận (psychocentriseme) lại cho Tâm,
chẳng những có một vị thế độc lập với não mà lại còn xem Tâm là thực thể
đầu tiên, còn não chỉ là công cụ thể hiện, hiệu ứng dẫn xuất hoặc kênh trào ra
của Tâm. Có lẽ trong nguồn gốc sâu xa, Tâm Luận phát sinh từ thuyết "linh
hồn vĩnh cửu” của Đạo Cơ Đốc, sau này được củng cố mạnh mẽ bởi những
hiện tượng "linh" được trắc nghiệm chặt chẽ và nhiều lần.
Những biểu hiện của tâm linh
Bên cạnh hiện tượng mà chúng ta thường xuyên tri giác được bằng sáu
căn hay sáu thức: nhỡn, nhĩ, ty, thiệt, thân, ý - và ta có xu hướng coi đó là cái
thực duy nhất - cịn có những hiện tượng mà chúng ta không nhận biết bằng
sáu căn hay sáu thức trên, nhất là khi hình thức và nguồn gốc xuất hiện của
chúng trái ngược với kinh nghiệm phổ biến, với tri thức quan phương, với
thực tiễn và nguyên lý khoa học, thì ta dễ có khuynh hướng coi đó chỉ là ảo
giác, ảo tưởng, tâm thần, mê tín, dị đoan... thí dụ có những hiện tượng mà
những người tín ngưỡng, "thần bí” khẳng định chính họ đã trơng thấy, nghe
thấy... Những hiện tượng đó, kể cả những hiện tượng "thần đồng", những
năng khiếu kì lạ, những kết quả do cơng phu tập luyện của khí cơng, yoga,
thiền định, vũ thuật Trung Quốc, hoặc những phép dưỡng sinh đem đến
những kết quả "kì bí”, những phép trị liệu các chứng nan y, các bệnh "thực
thể" với hiệu năng "khó tin"... đều gọi là Cận hiện tượng. Các Cận hiện tượng
được phân làm hai loại:
Tâm Tác - Nhiều người có cơng năng đặc dị ở chỗ khơng dùng bất kì
cơng cụ hữu hình hay phương tiện vật chất nào mà vẫn tác động được lên vật
thể bên ngồi, thí dụ di chuyển đồ vật từ xa (télékinésie), bay lên trong không
trung (lévitation)... thành tựu cao nhất trong lĩnh vực này là "đảo hải di sơn",
"hơ phong hốn vũ”. Hiện tượng này thường được biết dưới cái tên là P.K.
(psychokinésie). Vì ở đây cái Tâm là tác nhân duy nhất, "Bản chất của cái
Tâm là nó có thể hiện thực hóa được bất kì điều gì mà nó nghĩ đến với cường
10
độ tập trung đủ mạnh" (Vivekananda), nên chúng tôi gọi hiện tượng này là
Tâm Tác.
Tâm Thụ - Nhiều người có công năng đặc dị ở chỗ tri giác được sự vật
bên ngồi, dù xa, dù gần về mặt khơng gian, dù trước, dù sau về mặt thời
gian, sự vật ở bên trong thân hay bị che lấp bởi các thể cản quang mà không
dùng tới các cơ quan giác quan sinh lý hoặc dụng cụ, máy móc... Thí dụ thần
giao cách cảm, chỉ dẫn từ xa, nói chuyện vong, xem bói đốn mộng... Cận
hiện tượng này được gọi là Ngoại Cảm, tức là cảm nhận thông tin qua những
kênh bên ngồi các giác quan mà ai cũng có. Vì cái đứng ra cảm thụ ở đây chỉ
là cái Tâm nên chúng tôi gọi hiện tượng này là Tâm Thụ. Tâm thụ, nhiều khi
mang cái tên gọi quen đùng là Thấu Thi, mặc dù hiện tượng khơng dừng ở
"nhìn", hoặc Thần giao cách cảm, mặc dù "thần" không chỉ là "giao" bằng
cách "cảm" như ta thường hiểu, được phân làm hai loại: Tâm thụ khơng gian
là khả năng nhìn thấy, nghe thấy... sự vật, vật thể trong không gian dù xa, dù
dấu kín, Tâm thụ thời gian là khả năng nhìn thấy, nghe thấy... sự vật, vật thể
trong thời gian dù thuộc quá khứ, dù thuộc tương lai, dù thuộc hiện tại nhưng
lại khơng có cách nào biết đến được.
1.1.3. Du lịch tâm linh
Du lịch tâm linh trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng có
những quan niệm khác nhau và đến nay vẫn chưa có một khái niệm chung
nhất. Cụ thể, nhà nghiên cứu Alex Norman (2011) đã phát biểu: “du lịch tâm
linh có đặc trưng là du khách sẽ cố tìm kiếm lợi ích tinh thần thơng qua việc
thực hành nghi lễ tơn giáo, tín ngưỡng”.
Riêng Farooq Haq – Jonh Jackson (2009) lại cho rằng “khách du lịch
tâm linh là đối tượng đi đến một nơi cụ thể ngồi mơi trường sinh sống của
mình với ý định gia tăng ý nghĩa cho đời sống tinh thần; có thể họ có tơn giáo
hoặc khơng tơn giáo, thơng qua chuyến đi họ có trải nghiệm với mơi trường
tự nhiên tại điểm đến nhưng được đặt trong bối cảnh có sự liên hệ với một
đấng/nhân vật năng quyền nào đó”.
11
Như vậy, quan điểm của các học giả trên thống nhất ở chỗ coi du lịch
tâm linh là một hình thức biểu hiện của du lịch văn hóa. Các giá trị văn hóa
tơn giáo và tín ngưỡng là nền tảng quan trọng để hình thành và phát triển hoạt
động du lịch tâm linh. Mục đíc của khách du lịch tâm linh có thể chia thành
nhiều thang bậc khác nhau nhưng xuất phát điểm của họ có sự giống nhau là
có sự tơn kính/niềm tin với một lực lượng siêu nhiên gắn liền với một khơng
gian văn hóa tín ngưỡng nhất định. Trải nghiệm của họ tại các không gian
linh thiêng sẽ có khả năng mang lại ý nghĩa quan trọng nhằm nâng cao nhận
thức, sự hiểu biết hoặc gia tăng niềm tin cho chính mình. Hơn thế nữa, thơng
qua các hoạt động du lịch tâm linh du khách cịn có kỳ vọng nâng cao trí lực
và thể lực của bản thân.
Hay nói một cách khác, xét về nội dung và tính chất hoạt động, du lịch
tâm linh thực chất là loại hình du lịch văn hóa, lấy yếu tố văn hóa tâm linh
vừa làm cơ sở vừa làm mục tiêu nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm linh của con
người trong đời sống tinh thần. Theo cách nhìn nhận đó, du lịch tâm linh khai
thác những yếu tố văn hóa tâm linh trong quá trình diễn ra các hoạt động du
lịch, dựa vào những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể gắn với lịch sử hình
thành nhận thức của con người về thế giới, những giá trị về đức tin, tơn giáo,
tín ngưỡng và những giá trị tinh thần đặc biệt khác. Theo đó, du lịch tâm linh
mang lại những cảm xúc và trải nghiệm thiêng liêng về tinh thần của con
người trong khi đi du lịch”.
Từ quan điểm trên, có thể nhận định du lịch tâm linh là một hình thức
biểu hện của du lịch văn hóa. Các giá trị văn hóa tâm linh là yếu tố cốt lõi để
hình thành nên các hoạt động du lịch và sản phẩm du lịch phục vụ cho du
khách. Thông qua việc thụ hưởng các giá trị văn hóa tâm linh du khách sẽ
hướng đến sự cân bằng và phát triển về mặt tinh thần. Như vậy, phát triển du
lịch tâm linh ngồi mang lại các lợi ích kinh tế - xã hội – văn hóa cho địa
phương mà cịn giúp khách du lịch hướng tinh thần của mình lên cao trong việc
tìm kiếm mục đích cao cả và những giá trị có khả năng nâng cao phẩm giá cho
cuộc sống và bản thân họ nếu sự phát triển du lịch diễn ra đúng hướng.
12
Du lịch tâm linh là việc thỏa mãn nhu cầu giao tiếp với môi trường tự
nhiên, xã hội và giao tiếp với thần linh tâm linh, hưởng thụ sinh hoạt văn
hóa… làm cho con người gần gũi với tự nhiên hơn. Như vậy, Du lịch tâm linh
thực chất là loại hình du lịch văn hóa, lấy yếu tố văn hóa tâm linh làm mục
tiêu nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm linh của con người trong đời sống tinh thần.
Do đó, việc sử dụng có trách nhiệm và bền vững các giá trị văn hóa và tự
nhiên trong phát triển du lịch tâm linh sẽ mang lại cơ hội việc làm, tạo thu
nhập cho người dân địa phương, góp phần thúc đẩy giao lưu văn hóa, tăng
cường tình đồn kết giữa các dân tộc, tôn giáo, khôi phục và bảo tồn các giá
trị văn hóa truyền thống của mỗi quốc gia cũng như tồn nhân loại. Mơ hình
du lịch này hiện đang rất phát triển tại nhiều nước theo Phật giáo trên thế giới
như Nepal, Ấn Độ và các nước trong khu vực Đông Nam Á như Thái Lan,
Lào, Myanmar…
Tại Việt Nam, khái niệm du lịch tâm linh vẫn còn khá xa lạ. Tuy nhiên,
bởi đây là hình thức biểu hiện đặc sắc của loại hình du lịch văn hóa nên gần
như trong các chương trình du lịch đều xuất hiện các điểm tham quan gắn với
các cơng trình và hệ thống cảnh quan thiên nhiên có xuất hiện hoặc liên quan
đến những giá trị văn hóa tâm linh. Hay nói một cách khác, giá trị văn hóa
tâm linh đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút du khách và đóng góp một
cách tích cực vào sự phát triển kinh tế du lịch của địa phương. Các địa điểm
du lịch tâm linh nổi tiếng cả nước có thể kể tên như: Đền Hùng (Phú
Thọ, )Yên Tử (Quảng Ninh), chùa Bái Đính (Ninh Bình), Phủ Dầy (Nam
Định), chùa Từ Đàm (Huế)… Cả nước hiện có hơn 44.000 địa danh, danh
thắng và di tích lịch sử, trong đó hơn một nửa là nơi có thể khai thác mơ hình
du lịch tâm linh.
Đáp ứng nhu cầu du lịch tâm linh, các hoạt động kinh doanh, tổ chức
dịch vụ phục vụ du lịch tâm linh trên các tuyến hành trình và tại các khu,
điểm du lịch được thực hiện, qua đó tạo việc làm, tăng thu nhập cho cư dân
địa phương, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống, góp phần
thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội.
13
1.2. Các vấn đề chính của du lịch tâm linh
1.2.1 Nội dung của du lịch tâm linh
Như đã đề cập ở trên, hiện nay khái niệm du lịch tâm linh chưa có sự
thống nhất tuy nhiên xét về nội dung và tính chất hoạt động, “du lịch tâm linh
thực chất là loại hình du lịch văn hóa, lấy yếu tố văn hóa tâm linh vừa làm cơ
sở vừa làm mục tiêu nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm linh của con người trong đời
sống tinh thần. Theo cách nhìn nhận đó, du lịch tâm linh khai thác những yếu
tố văn hóa tâm linh trong quá trình diễn ra các hoạt động du lịch, dựa vào
những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể gắn với lịch sử hình thành nhận
thức của con người về thế giới, những giá trị về đức tin, tơn giáo, tín ngưỡng
và những giá trị tinh thần đặc biệt khác. Theo đó, du lịch tâm linh mang lại
những cảm xúc và trải nghiệm thiêng liêng về tinh thần của con người trong
khi đi du lịch.”
Với cách hiểu như vậy, có thể nhận diện những dịng người đi du lịch
đến các điểm tâm linh gắn với khơng gian văn hóa, cảnh quan các khu, điểm
du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch của mình, trong đó nhu cầu tâm linh
được xem là cốt yếu. Khách du lịch tâm linh thường hội tụ về các điểm du
lịch tâm linh như: đền, chùa, đình, đài, lăng tẩm, tòa thánh, khu thờ tự, tưởng
niệm và những vùng đất linh thiêng gắn với phong cảnh đặc sắc gắn kết với
văn hóa truyền thống, lối sống địa phương. Ở đó, du khách tiến hành các hoạt
động tham quan, tìm hiểu văn hóa lịch sử, triết giáo, cầu nguyện, cúng tế,
chiêm bái, tri ân, báo hiếu, thiền, tham gia lễ hội... Thơng qua đó, hoạt động
du lịch mang lại những cảm nhận, giá trị trải nghiệm và giải thoát trong tâm
hồn của con người, cân bằng và củng cố đức tin, hướng tới những giá trị chân,
thiện, mỹ và góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống.
1.2.2 Đặc điểm của du lịch tâm linh
Du lịch tâm linh trên thế nói chung và Việt Nam nói riêng đều giới gắn
với tơn giáo và đức tin. RiêngViệt Nam, Phật giáo có số lượng lớn nhất
(chiếm tới 90%) cùng tồn tại với các tôn giáo khác như Thiên Chúa giáo, Cao
14
đài, Hịa Hảo... Triết lý phương đơng, đức tin, giáo pháp, những giá trị vật thể
và phi vật thể gắn với những thiết chế, cơng trình tơn giáo ở Việt Nam là
những ngơi chùa, tịa thánh và những cơng trình văn hóa tơn giáo gắn với các
di tích là đối tượng mục tiêu hướng tới của du lịch tâm linh.
Nếu như du lịch tâm linh ở các nước trên thế giới gắn liền với du lịch
tơn giáo thì ở Việt Nam, du lịch tâm linh hướng về cội nguồn, về lịch sử thờ
cúng tổ tiên. Tục thờ cúng tổ tiên vốn có từ lâu đời, đặc biệt trong những năm
gần đây, chùa chiền, đền, miếu là tâm điểm thu hút khách hành hương và du
khách nước ngoài. Mặc dù chưa có khái niệm du lịch tâm linh nhưng đối với
nhiều người Việt Nam, việc đi lễ chùa như một thói quen để thỏa mãn nhu
cầu tín ngưỡng, với mong muốn những điều tốt đẹp cho gia đình.
Du lịch tâm linh gắn với tôn giáo và đức tin và ở Việt Nam, trong đó
Phật giáo có số lượng lớn nhất (chiếm tới 90%) cùng tồn tại với các tôn giáo
khác như Thiên Chúa giáo, Cao đài, Hòa Hảo... Triết lý phương đông, đức tin,
giáo pháp, những giá trị vật thể và phi vật thể gắn với những thiết chế, cơng
trình tơn giáo ở Việt Nam là những ngơi chùa, tịa thánh và những cơng trình
văn hóa tơn giáo gắn với các di tích là đối tượng mục tiêu hướng tới của du
lịch tâm linh.
Du lịch tâm linh ở Việt Nam gắn với tín ngưỡng thờ cúng, tri ân những
vị anh hùng dân tộc, những vị tiền bối có cơng với nước, dân tộc (Thành
Hoàng) trở thành du lịch về cội nguồn dân tộc với đạo lý uống nước nhớ
nguồn. Mới đây, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Việt Nam đã được
UNESCO công nhận là di sản phi vật thể đại diện nhân loại. Đặc biệt, Du lịch
tâm linh ở Việt Nam gắn liền với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, dòng tộc, tri ân
báo hiếu đối với bậc sinh thành.
Bên cạnh đó, Du lịch tâm linh ở Việt Nam gắn với những hoạt động thể
thao tinh thần như thiền, yoga hướng tới sự cân bằng, thanh tao, siêu thoát
trong đời sống tinh thần, đặc trưng và tiêu biểu ở Việt Nam mà không nơi nào
15
có đó là Thiền phái Trúc Lâm n Tử. Ngồi ra du lịch tâm linh ở Việt Nam
cịn có những hoạt động gắn với yếu tố linh thiêng và những điều huyền bí.
Việt Nam có nhiều tiềm năng và thế mạnh để phát triển du lịch tâm linh
thể hiện ở bề dày văn hóa gắn với truyền thống, tơn giáo, tín ngưỡng. Sự đa
dạng và phong phú của các thắng tích tơn giáo và với số lượng lớn các tín
ngưỡng, lễ hội dân gian được tổ chức quanh năm trên phạm vi cả nước. Nhu
cầu du lịch tâm linh của người Việt Nam đang trở thành động lực thúc đẩy du
lịch tâm linh phát triển. Ngày nay du lịch tâm linh ở Việt Nam đang trở thành
xu hướng phổ biến với số lượng khách du lịch tâm linh ngày càng tăng, chiếm
tỷ trọng lớn trong cơ cấu khách du lịch, đặc biệt là khách nội địa. Số khách du
lịch đến các điểm tâm linh tăng cho thấy du lịch tâm linh ngày càng giữ vị trí
quan trọng trong đời sống xã hội. Nhu cầu và du lịch tâm linh ngày càng đa
dạng không chỉ giới hạn trong khuôn khổ hoạt động gắn với tôn giáo mà ngày
càng mở rộng tới các hoạt động, sinh hoạt tinh thần, tín ngưỡng cổ truyền của
dân tộc và những yếu tố linh thiêng khác. Hoạt động du lịch tâm linh ngày
càng chủ động, có chiều sâu và trở thành nhu cầu không thể thiếu trong đời
sống tinh thần của đại bộ phận nhân dân. Chính vì thế mà hoạt động kinh
doanh, đầu tư vào du lịch linh ngày càng đẩy mạnh thể hiện ở quy mơ, tính
chất hoạt động của các khu, điểm du lịch tâm linh. Ra đời và phát triển ngày
càng nhiều các điểm du lịch tâm linh ở hầu hết các địa phương, vùng, miền
trên phạm vi cả nước, tiêu biểu như: Đền Hùng (Phú Thọ); Yên Tử (Quảng
Ninh); Chùa Hương (Hà Nội); Phát Diệm (Ninh Bình); Núi Bà Đen, Thánh
thất Cao Đài (Tây Ninh); Chùa Bái Đính (Ninh Bình); Đại Nam Văn Hiến
(Bình Dương); Miếu Bà Chúa Xứ (An Giang); Công Sơn-Kiếp Bạc (Hải
Dương); Tây Thiên (Vĩnh Phúc); Đền Trần-Phủ Dầy (Nam Định)...
Có thể nói du lịch tâm linh ngày càng được xã hội tiếp cận và nhìn
nhận tích cực cả về khía cạnh kinh tế và xã hội. Nhà nước ngày càng quan
tâm hơn đối với phát triển du lịch tâm linh và coi đó là một trong những giải
pháp đáp ứng đời sống tinh thần cho nhân dân đồng thời với việc bảo tồn, tôn
vinh những giá trị truyền thống, suy tôn những giá trị nhân văn cao cả
16
1.2.3 Các hình thức biểu hiện của du lịch tâm linh
Xuất phát từ nhu cầu đa dạng của du khách, các hoạt động du lịch âm
linh nổi bật đang điễn ra là tham quan và tìm hiểu các cơng trình kiến trúc tín
ngưỡng tốn giáo; tham dự các sự kiện liên quan đế các lễ hội gắn với việc bày
tỏ niềm tin vào tín ngưỡng và tơn giáo; du lịch hành hương; du lịch thiền; du
lịch tâm linh tưởng nhớ các anh hùng dân tộc… Du lịch tâm linh hiện nay
được thể hiện trên nhiều cung bậc, nhiều dạng.
Thứ nhất, đó là những hoạt động tham quan, vãn cảnh tại các cơ sở tơn
giáo, tín ngưỡng nhằm thưởng ngoạn khơng gian cảnh quan và không gian
kiến trúc, điêu khắc, những giá trị di sản văn hóa gắn với điểm tâm linh. Đây
là dạng hẹp nhất, chưa thể hiện được ý nghĩa của hoạt động du lịch này nhưng
lại là dạng thức phổ biến nhất hiện nay. Dạng thứ hai được mở rộng hơn với
cách hiểu là du khách hành hương, tìm đến những điểm tâm linh (chùa, tịa
thánh, đền, đài, lăng, tẩm, phủ, khu tưởng niệm…) không chỉ để tham quan
vãn cảnh mà còn tiến hành các hoạt động thờ cúng, chiêm bái, cầu nguyện…
Dạng này có mở rộng hơn nhưng mới chỉ phù hợp với những đối tượng có
theo tơn giáo, tín ngưỡng. Dạng thứ ba là du khách có mục đích chính là tìm
hiểu cá triết lý, giáo pháp khiến cho con người trầm tĩnh, để tâm hồn thư thái,
cải thiện sức khỏe và cảm nhận chính bản thân mình. Dạng thứ tư là khách du
lịch quan tâm đến sự kiện và các hoạt động thực hành niềm tin tơn giáo, tín
ngưỡng - lễ hội. Đây là dạng thức sinh hoạt cộng đồng gắn với niềm tin tôn
giáo và tín ngưỡng dân gian, chính đó là yếu tố cấu thành nên sản phẩm du
lịch tâm linh.
Như vậy, có thể nhận thấy các hình thức của du lịch tâm linh được
phân cấp thông qua mức độ tham gia của du khách. Nền tảng để có thể hình
thành và phát triển du lịch tâm linh là các cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng. Hay nói
giá trị cốt lõi để xây dựng hoạt động du lịch tâm linh là các cơ sở tín ngưỡng,
tơn giáo. Du khách có thể thực hiện nghi thức tơn giáo, tìm hiểu sâu sắc và
vận dụng các triết lý và niềm tin tơn giáo để hồn thiện đời sống tinh thần và
17
nâng cao thể chất cho bản thân. Vì vậy, những khơng gian như chùa, nhà thờ,
thánh đường, thánh thất, đình, miếu, phủ thờ… không những chứa đựng các
giá rị văn hóa tâm linh thuần túy mà cịn là diểm đến lưu giữ các giá trị nghệ
thuật kiến trúc đặc sắc.
Du lịch tâm linh ngày càng được xã hội tiếp cận và nhìn nhận tích cực
cả về khía cạnh kinh tế và xã hội. Nhà nước ngày càng quan tâm hơn đối với
phát triển du lịch tâm linh và coi đó là một trong những giải pháp đáp ứng đời
sống tinh thần cho nhân dân đồng thời với việc bảo tồn, tôn vinh những giá trị
truyền thống, suy tôn những giá trị nhân văn cao cả.
1.2.4. Vai trò của du lịch tâm linh
Việt Nam có gần 8.000 lễ hội truyền thống, trong đó có rất nhiều lễ hội
lớn mang tầm quốc gia. Cả nước có khoảng 40.000 khu di tích, thắng cảnh,
tập trung chủ yếu ở đền, chùa, miếu mạo, tòa thánh, đài, lăng tẩm, phủ, khu
tưởng niệm, trong đó hơn 3.000 địa danh được xếp hạng di tích quốc gia. Đi
kèm di tích là các hoạt động văn hóa, tín ngưỡng, thể thao như thờ cúng tổ
tiên, dòng tộc, tri ân anh dùng dân tộc, danh nhân, báo hiếu, chiêm bái, tụng
kinh, thiền, yoga. Chính kho tàng văn hóa và tín ngưỡng phong phú trên đã
tạo hình cho cốt cách và bản sắc của dân tộc Việt Nam, làm nên nét riêng cho
du lịch Việt Nam.
Du lịch tâm linh có thể xem là một cơng cụ đặc hữu giúp xóa đi cái
nhìn khiên cưỡng về di sản văn hóa, tơn giáo và tín ngưỡng. Du lịch tâm linh
cịn là cách tiếp cận hữu hiệu giúp nâng cao hiểu biết của cơng chúng về giá
trị nghệ thuật của loại hình di sản phi vật thể này. Thông qua hoạt động du
lịch, du khách được trực tiếp tiếp xúc, thẩm nhận, và trải nghiệm, từ đó ni
dưỡng và phát triển các giá trị tâm linh tín ngưỡng từ trong tiềm thức của
mình. Những trải nghiệm tâm linh tại nơi thờ tự giúp con người thư giãn, đạt
tới sự cân bằng trong tâm hồn. Hịa mình vào khơng khí thân thiện, cởi mở
của lễ hội cổ truyền cũng giúp con người dễ hòa hợp với nhau hơn. Vì vậy, du
18