ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
NGUYỄN ĐÌNH ANH
TRUYỆN THIẾU NHI VỀ LỒI VẬT CỦA TƠ HỒI VÀ
NGUYỄN QUỲNH TỪ GĨC NHÌN PHÊ BÌNH SINH THÁI
Chun ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 80 22 01 21
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: TS. Bùi Linh Huệ
Thái Nguyên, 2022
i
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kì cơng
trình nào khác.
Tác giả luận văn
Nguyễn Đình Anh
ii
LỜI CẢM ƠN
Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới TS. Bùi Linh Huệ - cô giáo đã tận
tình hướng dẫn tơi trong q trình thực hiện luận văn. Tôi xin chân thành cảm
ơn khoa Ngôn ngữ và Văn hóa trường Đại học Khoa học Thái Nguyên đã tạo
mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong thời gian học tập và nghiên cứu. Tôi xin
chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên, giúp đỡ tơi trong suốt q
trình học tập và hồn thành đề tài nghiên cứu này.
Thái Bình, tháng 11 năm 2022
Tác giả
Nguyễn Đình Anh
iii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................... 3
3. Đối tượng – Phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 7
4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 7
5. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................... 8
6. Đóng góp của luận văn ...................................................................................... 8
7. Cấu trúc luận văn............................................................................................... 8
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ............................................... 9
1.1. Khái lược về phê bình sinh thái ..................................................................... 9
1.1.1. Phê bình sinh thái là gì? ........................................................................... 9
1.1.2. Chủ đề sinh thái trong văn học Việt Nam .............................................. 11
1.2. Khái lược về truyện thiếu nhi viết về loài vật của Tơ Hồi ......................... 14
1.2.1. Truyện thiếu nhi của Tơ Hồi ................................................................ 14
1.2.2. Vấn đề sinh thái trong sáng tác Tô Hoài ................................................ 17
1.3. Truyện thiếu nhi viết về loài vật của Nguyễn Quỳnh .................................. 18
1.3.1. Truyện thiếu nhi của Nguyễn Quỳnh ..................................................... 18
1.3.2. Vấn đề sinh thái trong sáng tác Nguyễn Quỳnh .................................... 23
CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ SINH THÁI TỪ GĨC NHÌN THỂ LOẠI: TỪ PHONG
CÁCH TRUYỆN ĐỒNG THOẠI CỦA TƠ HỒI TỚI TIỂU THUYẾT VỀ
LỒI VẬT CỦA NGUYỄN QUỲNH ............................................................... 26
2.1. Sự nhân cách hóa lồi vật trong truyện đồng thoại Tơ Hồi ....................... 26
2.1.1. Khái niệm truyện đồng thoại.................................................................. 26
2.1.2. Phong cách ngụ ngôn của truyện đồng thoại Tơ Hồi ........................... 27
2.2. Tiểu thuyết về lồi vật của Nguyễn Quỳnh: sự thoát ly khỏi phong cách
truyện đồng thoại ................................................................................................. 42
2.2.1. Bút pháp tả thực ..................................................................................... 42
2.2.2. Bút pháp phân tích tâm lý nhân vật ....................................................... 48
iv
CHƯƠNG 3: TỪ CHỦ NGHĨA NHÂN LOẠI TRUNG TÂM TỚI CHỦ
NGHĨA SINH THÁI TRUNG TÂM TRONG TRUYỆN VỀ LOÀI VẬT CỦA
TƠ HỒI VÀ NGUYỄN QUỲNH .................................................................... 55
3.1. Chủ nghĩa nhân loại trung tâm trong truyện đồng thoại Tơ Hồi ................ 55
3.1.1 Ẩn dụ về thế giới con người.................................................................... 55
3.1.2. Cái nhìn lãng mạn về đồng quê và tự nhiên .......................................... 67
3.1.3. Những con vật mang tư tưởng đạo lý .................................................... 74
3.1.4. Những chuyển biến bước đầu sang chủ nghĩa sinh thái trung tâm ........ 77
3.2. Sự tiến gần đến tư tưởng chủ nghĩa sinh thái trung tâm tiểu thuyết về lồi vật của
Nguyễn Quỳnh ..................................................................................................................86
3.2.1. Chủ đề truyền thống: Tình bạn giữa người và vật, con vật anh hùng............88
3.2.2. Chủ đề mới: Tác hại của việc thuần hóa của con người đối với loài vật ....108
KẾT LUẬN.....................................................................................................................117
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................120
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Bước sang thế kỉ XXI, con người đang phải đối mặt nhiều nhất với nguy
cơ sinh thái. Sự chuyển mình mạnh mẽ của nền kinh tế, sự phát triển như vũ bão
của khoa học kĩ thuật, của q trình đơ thị hóa…đã khiến cho con người ngày
càng làm tổn thương đến thiên nhiên, bức tử thiên nhiên, khai thác tận diệt thiên
nhiên. Những giá trị tưởng như bền vững, vĩnh hằng của thiên nhiên dần bị biến
mất là một sự cảnh báo, là sự “trả thù”, là tiếng nói đáp trả mạnh mẽ của tự
nhiên với con người. Vấn đề sinh thái khơng cịn là vấn đề của của một cá nhân,
một nhóm người nữa mà thực sự đã, đang, sẽ là vấn đề của cả dân tộc, của toàn
nhân loại. Bắt nguồn ở phương Tây từ những năm 1970 của thế kỉ XX, phê bình
sinh thái đã, đang nhận được sự quan tâm của nhiều người. Những giá trị mới
trong sáng tác, nghiên cứu văn chương được phát hiện, lấp đầy bởi hướng tiếp
cận từ góc nhìn sinh thái. Thực tế ở Việt Nam gần đây, tiếp cận các tác phẩm văn
chương dưới góc nhìn sinh thái cũng trở thành khuynh hướng tiếp cận, nghiên
cứu và cũng mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
Trong thực tế, con người chưa bao giờ tách khỏi thiên nhiên, thiên nhiên
là sự sống cịn của mn vật, mn lồi. Vì thế, văn học phản ánh kịp thời hay
khơng kịp thời thì thiên nhiên ln tồn tại khách quan nhưng đó khơng phải là
khách quan tách biệt mà ln gắn bó, tác động, liên quan đến con người. Văn
học là tấm gương phản chiếu cuộc sống, bắt nguồn từ cuộc sống, phục vụ cho
cuộc sống; góp phần hình thành nhân cách, bồi đắp tâm hồn con người; đưa con
người tới giá trị chân – thiện – mĩ …thì có lí do gì mà con người đứng ngồi
“trỏ vẽ”. Trong dịng chảy của nền văn học thế giới nói chung, văn học Việt
Nam nói riêng đã có nhiều tác phẩm mang dấu ấn đậm nét, thể hiện sâu sắc mối
quan hệ giữa con người với tự nhiên. Thế nhưng, việc nhìn nhận các ảnh hưởng
đó như thế nào, mối quan hệ giữa con người với tự nhiên ra sao… để từ đó có
cách nhìn, cách sống, cách ứng xử đúng đắn với tự nhiên vẫn là điều mà văn học
đang hướng đến, tìm về.
2
Tơ Hồi và Nguyễn Quỳnh là những nhà văn tiêu biểu, để lại dấu ấn đậm
nét khi viết về thế giới tự nhiên đa dạng, phong phú, sinh động; đặc biệt là
những trang truyện thiếu nhi viết về loài vật. Những truyện thiếu nhi viết về loài
vật của hai nhà văn thực sự cuốn hút bạn đọc, nhất là các độc giả nhỏ tuổi bởi sự
phong phú của thế giới lồi vật; bởi cách quan sát, miêu tả thơng minh, tinh tế
giàu mê lực và những trang văn ấy cũng nhận được sự quan tâm, chú ý của các
nhà nghiên cứu văn học. Các bài viết, các cơng trình nghiên cứu đã tập trung
nghiên cứu trên các phương diện đề tài, nhân vật, yếu tố thiên nhiên, ý nghĩa
giáo dục, nghệ thuật tự sự, đặc điểm truyện viết về loài vật…Qua đó, giúp mỗi
chúng ta có cái nhìn tồn diện hơn, đa chiều hơn và cũng đánh giá sát đúng hơn
về những giá trị, về những đóng góp của hai nhà văn với mảng truyện thiếu nhi
viết về loài vật.
Truyện thiếu nhi viết về lồi vật của Tơ Hồi và Nguyễn Quỳnh với
những giá trị nhân văn sâu sắc, với sự tài hoa trong nghệ thuật thể hiện khơng
chỉ góp phần ni dưỡng, bồi đắp trong mỗi người tình u đối với thế giới lồi
vật mà cịn đặt ra cho mỗi chúng ta những vấn đề đáng quan tâm, suy ngẫm về
mối quan hệ giữa con người với tự nhiên; về trách nhiệm của con người với tự
nhiên; để mỗi người thực sự tìm thấy, nhận ra và có cách ứng xử đúng đắn với
thế giới loài vật - với thiên nhiên. Thực tế, đứng về góc độ phê bình sinh thái các
bài viết, các cơng trình nghiên cứu truyện thiếu nhi viết về lồi vật của Tơ Hồi
và Nguyễn Quỳnh đến nay cịn bỏ ngỏ. Dưới góc độ phê bình sinh thái sẽ giúp
cho ta có những đánh giá ở góc cạnh khác, tìm ra những giá trị mới mẻ, khác với
hướng tiếp cận cũ, tránh được những lối mịn trong phê bình văn học. Bởi vì
hướng đến mơi trường là hướng đến sự sống cịn của tồn nhân loại và vũ trụ.
Hướng đến môi trường sinh thái và văn học sinh thái là hướng tới vũ trụ và sinh
mệnh cũng như các giá trị đạo đức và nhân văn.
Lựa chọn đề tài Truyện thiếu nhi về loài vật của Tơ Hồi và Nguyễn
Quỳnh từ góc nhìn phê bình sinh thái tơi muốn có một hướng tiếp cận mới đối
với truyện thiếu nhi viết về loài vật. Đề tài kì vọng giúp cho mỗi người thực sự
3
thức tỉnh, “giật mình” trong trong sự nhìn nhận cịn phiến diện, trong sự ngộ
nhận về thiên nhiên; để con người thay đổi cách ứng xử với thiên nhiên theo
hướng cơng bình, nhân văn, khách quan hơn nữa.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu phê bình sinh thái ở Việt Nam
Đã từ lâu, con người có một mối quan hệ rất chặt chẽ với thế giới tự
nhiên, là một phần không tách rời của tự nhiên. Tôn trọng tự nhiên, sống hòa
hợp với tự nhiên là lẽ sống tích cực của nhân loại tiến bộ. Cùng với sự phát triển
của nền kinh tế, con người đã có những tác động mạnh mẽ, làm ảnh hưởng trầm
trọng đến tự nhiên. Những tác động trở lại của tự nhiên đã khiến con người càng
thấm thía nhận ra con người cần phải hiểu tự nhiên, tôn trọng tự nhiên và cần phải
có tiếng nói để bảo vệ thiên nhiên.
Từ năm 1970 của thế kỉ XX, phê bình sinh thái đã thực sự trở thành phong
trào với những nghiên cứu về lí thuyết với khá nhiều tên gọi, cách hiểu về khái
niệm này như chủ nghĩa đồng quê, chủ nghĩa địa phương, tự nhiên trong văn học,
sinh thái học con người… Các nhà nghiên cứu đã đưa ra các quan điểm về việc
thống nhất tên gọi và phê bình sinh thái là khái niệm được Cheryll Glotfelty và
nhiều học giả khác tán đồng. Ở Việt Nam, lí thuyết về phê bình sinh thái còn khá
mới mẻ, chưa thực sự trở thành một trào lưu sâu rộng trong nghiên cứu dù các nhà
nghiên cứu đã nỗ lực dịch thuật, giới thiệu bằng tiếng Việt về những cơng trình
nghiên cứu có giá trị về phê bình sinh thái:
Năm 2011, bà Karen Thornber đã tham gia cuộc Hội thảo Quốc tế với chủ
đề: “Tiếp cận văn học châu Á từ lí thuyết phương Tây hiện đại, vận dụng, tương
thích và cơ hội”. Bà cũng đã có bài giảng rất quan trọng về vấn đề sinh thái trong
khuôn khổ cuộc Hội thảo do Viện văn học tổ chức. Bài giảng Ecocriticism của
Karen Thornber đã cung cấp những lí thuyết có tính chất dẫn nhập quan trọng về
phê bình sinh thái; nêu được khái quát về ý nghĩa, bản chất và tiến trình nghiên
cứu văn chương mơi trường; nhấn mạnh những vấn đề cơ bản, cần được coi trọng
của phê bình sinh thái [74].
4
Bài viết Những tương lai của phê bình sinh thái và văn học của Karen
Thornber trong tập Phê bình sinh thái Đơng Á: Tuyển tập phê bình (Các nền văn
học, văn hóa và mơi trường, 2013) do Hải Ngọc dịch cũng giúp mỗi chúng ta
nhận thức được nghiên cứu, phê bình sinh thái là một hướng nghiên cứu đúng
đắn, trở thành một hướng tiếp cận có nhiều triển vọng. Tài liệu cũng chỉ ra được
những quan điểm, cách nhìn, cách tiếp cận của văn chương khu vực Đông Á về
sinh thái còn phiến diện khi khẳng định truyền thống gắn bó của con người với
tự nhiên. Hiểu được đúng đắn mối quan hệ giữa con người và tự nhiên; vai trị
của tự nhiên với con người sẽ góp phần thức tỉnh con người cần nhìn nhận lại,
để có ý thức hơn trong việc xây dựng và bảo vệ “hành tinh xanh” [45].
Một tác phẩm cũng được coi là có hướng tiếp cận đúng đắn, sâu sắc phải
kể đến Phê bình sinh thái là gì? của Hồng Tố Mai với những bài viết, bài tổng
thuật về phê bình sinh thái Việt Nam. Các nhà nghiên cứu Việt Nam trong nỗ
lực tìm hiểu và xác lập hướng nghiên cứu tiếp cận đúng đắn về sinh thái cũng đã
gặt hái được nhiều thành cơng. Bài Phê bình sinh thái - cội nguồn và sự phát triển
(2012) của Đỗ Văn Hiểu đã khái quát được những phong trào phê bình sinh thái
trên thế giới. Tài liệu cũng chỉ rõ từ xa xưa, mặc dù con người vẫn luôn được coi
trọng, đề cao với vị trí trung tâm trong giới tự nhiên, con người được coi là “thước
đo của vạn vật”, là “linh hồn của vạn vật” nhưng các nhà triết học phương Tây
cũng đã chú ý và đề cập đến sự chung sống hài hòa với thiên nhiên. Tư tưởng
“chung sống hài hòa với thiên nhiên”, “trở về với tự nhiên” đã trở thành một tư
tưởng được quan tâm. Điều đó khẳng định tiền đề của phê bình sinh thái, đồng thời
cũng cho thấy được sự lan tỏa của phong trào phê bình sinh thái là một xu thế tất
yếu [16]. Tiếp đó, bài Phê bình sinh thái - khuynh hướng nghiên cứu văn học
mang tính cách tân (2012) của Đỗ Văn Hiểu đã khẳng định sự ra đời của phê bình
sinh thái đã thực hiện một sứ mệnh cao cả trước tình trạng môi trường bị xuống
cấp. Bài viết cũng đã chỉ rõ những cách tân cơ bản của phê bình sinh thái trên
phương diện tư tưởng, nguyên tắc thẩm mĩ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu…
Đồng thời, bài viết cũng đề cập đến những khó khăn khi mở rộng, phát triển nghiên
5
cứu về sinh thái. Nhưng điểm nhấn quan trọng nhất là bài viết đã chỉ ra được phê
bình sinh thái từ tư tưởng "nhân loại trung tâm luận" sang tư tưởng "sinh thái trung
tâm luận [15].
Rừng khô, suối cạn, biển độc… và văn chương của TS. Nguyễn Thị Tịnh
Thy là một cơng trình nghiên cứu được giới phê bình đánh giá cao trên phương
diện phê bình sinh thái. Tác giả đã có những nghiên cứu trên phương diện lịch
sử, lí thuyết và ứng dụng về phê bình sinh thái trong văn học ở Việt Nam. Cơng
trình nghiên cứu đã khẳng định được vai trò quan trọng của văn học nghệ thuật
trước tiếng kêu cứu của môi trường sinh thái, trong việc hồi sinh màu xanh cho
hành tinh trái đất. Luận văn tiến sĩ Con người và tự nhiên trong văn xi sau
năm 1975 từ góc nhìn phê bình sinh thái của Trần Thị Ánh Nguyệt cũng là một
cơng trình nghiên cứu có chiều sâu về phê bình sinh thái. Trong luận văn, tác giả
đã đề cập đến các cơng trình nghiên cứu trong và ngồi nước về phê bình sinh
thái. Bên cạnh đó, tác giả cũng đã nêu ra được những đặc điểm cơ bản của văn
xuôi sinh thái giai đoạn sau năm 1975, đặc biệt là sau năm 1986, từ đó khẳng
định được tầm quan trọng, xu hướng tất yếu của văn học sinh thái trong thời đại
môi trường đang bị xuống cấp trầm trọng [49].
Với những trăn trở của các nhà nghiên cứu, phê bình về tiếng nói của văn
học, về những đóng góp đặc thù của văn học trên phương diện sinh thái, nhiều
tác giả với những bài viết, những cơng trình nghiên cứu đã tiếp tục minh chứng
cho phê bình sinh thái thực sự đã tạo nên một trào lưu lí thuyết ở Việt Nam.
Những tác giả có nhiều đóng góp trên phương diện này như Trần Đình Sử, Đỗ
Văn Hiểu, Nguyễn Đăng Điệp, Nguyễn Thị Tịnh Thy, Trần Thị Ánh Nguyệt,
Đặng Thị Thái Hà…
2.2. Lịch sử nghiên cứu truyện thiếu nhi viết về loài vật của Tơ Hồi
2.2.1. Lịch sử nghiên cứu truyện đồng thoại của Tơ Hồi
Những đóng góp của Tơ Hồi chỉ xét riêng mảng truyện thiếu nhi viết về
loài vật cho nền văn học nước nhà là không thể phủ nhận. Đây cũng là mảng đề
tài lớn được các nhà nghiên cứu, nhà phê bình văn học đặc biệt quan tâm.
6
Với đề tài Thể loại truyện đồng thoại trong văn học Việt Nam hiện đại Lê
Nhật Kí đã chỉ ra được những vấn đề lí luận cơ bản, q trình hình thành và phát
triển của truyện đồng thoại trong nền văn học Việt Nam hiện đại; những đặc sắc
về nội dung và nghệ thuật của truyện đồng thoại viết cho thiếu nhi [31].
Võ Nguyễn Như Ngọc trong Đặc điểm truyện đồng thoại viết trước 1945
của Tơ Hồi đi sâu vào việc khái lược những nét cơ bản của loại truyện viết về lồi
vật trong sáng tác của Tơ Hồi; những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật hướng
người đọc hình dung được sự phong phú, đa dạng của thế giới lồi vật với những
lồi vật ni, động vật hoang dã…Đề tài cũng đề cập đến những quan niệm đời
sống và mối quan hệ giữa đời sống với những cái tốt, cái xấu; cái đói, cái nghèo
gắn liền với những mảnh đời khó khăn, cơ cực; những nét đặc sắc trong việc xây
dựng không gian, thời gian nghệ thuật, ngôn ngữ và kết cấu… [46].
Những cơng trình nghiên cứu trên đã khái qt được những đóng góp của
Tơ Hồi trên phương diện truyện đồng thoại, khẳng định được đây là phương
diện được giới phê bình, nghiên cứu đặc biệt qua tâm và đánh giá cao.
2.2.2. Lịch sử nghiên cứu phê bình sinh thái trong truyện thiếu nhi viết về
lồi vật của Tơ Hồi
Nghiên cứu về truyện thiếu nhi viết về lồi vật của Tơ Hồi từ góc nhìn
phê bình sinh thái cho đến nay chưa có cơng trình nào đề cập đến một cách hệ
thống và chuyên biệt. Tuy nhiên, những vấn đề liên quan về mối quan hệ giữa
con người với tự nhiên đã được các tác giả ít nhiều quan tâm đến trong những
cơng trình nghiên cứu. Chúng tôi xin điểm qua một số vấn đề cơ bản có liên
quan đến đề tài.
Cao Minh Hằng trong đề tài Nhà văn Tơ Hồi với mảng truyện lồi vật
tập trung đi sâu vào khám phá thế giới loài vật sống trên cạn, dưới nước trong
truyện loài vật của nhà văn. Qua đó, tác giả của cơng trình nghiên cứu đã làm
hiện lên cụ thể, chân thực loài vật trong thế giới mênh mông của tâm hồn trẻ thơ.
Phan Thị Vân Anh trong đề tài Phong cách Tơ Hồi qua truyện viết cho thiếu
nhi đã chỉ rõ được các loại truyện viết cho thiếu nhi như “tự truyện, truyện loài
vật, truyện viết về quê hương đất nước, truyện viết lại”, thế giới nhân vật đa
dạng phong phú với các nhân vật là con người, nhân vật là con vật, hình tượng
7
thiên nhiên, siêu nhiên; khẳng định sự thành công của tác giả trong nghệ thuật
xây dựng nhân vật [02]. Hoàng Thị Xuân Quỳnh trong luận văn Nghệ thuật tự
sự trong truyện thiếu nhi về lồi vật của Tơ Hồi đi sâu khám phá nghệ thuật tự
sự trong truyện thiếu nhi viết về lồi vật của Tơ Hồi với những khái niệm cơ
bản về tự sự học, quá trình hình thành và phát triển, nghệ thuật tổ chức tác
phẩm; nghệ thuật xây dựng nhân vật, ngôn ngữ và ngôi kể.
2.3. Lịch sử nghiên cứu phê bình sinh thái trong truyện thiếu nhi viết về
loài vật của Nguyễn Quỳnh
Riêng với tác giả Nguyễn Quỳnh - một nhà văn với những trang viết
thành cơng trong những truyện về lồi vật cho thiếu nhi và đã nhận được những
giải thưởng quan trọng nhưng gần như chưa có cơng trình nghiên cứu nào đi sâu
nghiên cứu tác phẩm của ơng.
Cùng viết về lồi vật nhưng Tơ Hồi và Nguyễn Quỳnh đã để lại những
dấu ấn khác nhau trong cách thể hiện những chủ đề, góc nhìn sinh thái. Hiện
chưa có cơng trình nào đặt tác phẩm văn học thiếu nhi viết về loài vật của hai
nhà văn trong cái nhìn so sánh và từ điểm nhìn phê bình sinh thái. Vì vậy, chúng
tơi mong muốn đem đến một cách tiếp cận khác về truyện về lồi vật của Tơ
Hồi và Nguyễn Quỳnh qua luận văn Truyện thiếu nhi viết về lồi vật của Tơ
Hồi và Nguyễn Quỳnh từ góc nhìn phê bình sinh thái.
3. Đối tượng – Phạm vi nghiên cứu
Tác phẩm của Tơ Hồi:
- Dế mèn phiêu lưu ký (1941)
- Dế mèn, chim gáy và chim bồ nơng: Truyện lồi vật (2005)
- Chuột thành phố
Tác phẩm của Nguyễn Quỳnh:
- Rừng đêm (Tiểu thuyết - 1985)
- Người đi săn và con sói lửa (Tiểu thuyết - 1988)
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp xã hội học văn học
8
- Phương pháp thi pháp học
- Phương pháp liên ngành
5. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài nghiên cứu như trên, luận văn hướng đến mục đích nghiên cứu
sau đây:
- Tìm hiểu về truyện thiếu nhi viết về loài vật của Tơ Hồi và Nguyễn
Quỳnh từ góc nhìn phê bình sinh thái.
- Chỉ ra được những nét đặc sắc trong cách viết về lồi vật của Tơ Hồi và
Nguyễn Quỳnh để thấy sự biến đổi, thấy được những tầng giá trị mới mẻ trong
những sáng tác viết về loài vật của hai nhà văn. Trên cơ sở đó, đánh giá và tiếp tục
khẳng định những đóng góp của Tơ Hồi và Nguyễn Quỳnh trong nền văn học nước
nhà, đặc biệt là văn học thiếu nhi với mảng đề tài truyện viết về lồi vật.
6. Đóng góp của luận văn
- Tổng thuật các nghiên cứu về phê bình sinh thái và triển vọng ứng dụng
phê bình sinh thái trong nghiên cứu các truyện thiếu nhi viết về loài vật.
- Chỉ ra sự biến đổi trong văn học viết về loài vật tiến về chủ nghĩa sinh
thái trung tâm qua những sáng tác của Tơ Hồi và Nguyễn Quỳnh: Từ chủ nghĩa
lấy nhân loại làm trung tâm trong sáng tác của Tơ Hồi đã có những bước
chuyển dần sang sinh thái trung tâm trong sáng tác của Nguyễn Quỳnh.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn gồm
có 03 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn
Chương 2: Vấn đề sinh thái từ góc nhìn thể loại: Từ phong cách truyện
đồng thoại của Tơ Hồi tới tiểu thuyết về lồi vật của Nguyễn Quỳnh.
Chương 3: Từ chủ nghĩa nhân loại trung tâm tới chủ nghĩa sinh thái trung
tâm trong truyện về loài vật của Tơ Hồi và Nguyễn Quỳnh .
9
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Khái lược về phê bình sinh thái
1.1.1. Phê bình sinh thái là gì?
Ra đời từ những năm 1970 của thế kỉ trước, phê bình sinh thái đang là
một hướng đi rất được quan tâm. Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu tâm huyết,
cơng phu, khá tồn diện của các nhà nghiên cứu về lí thuyết của phê bình sinh
thái. Các cơng trình nghiên cứu ấy đã lí giải cụ thể những khái niệm, những
thuật ngữ về phê bình sinh thái, qua đó cũng khẳng định cho hướng tiếp cận
đúng đắn, cho nhận thức sâu sắc về vai trò, về mối quan hệ giữa con người và
thế giới tự nhiên. Những công trình nghiên cứu đó thực sự là những tài sản có
giá trị trong việc tìm hiểu, nghiên cứu; là con đường đi đúng đắn giúp cho việc
tiếp cận các tác phẩm văn chương được đầy đủ hơn, trọn vẹn hơn. Đặc biệt trong
khi môi trường tự nhiên đang bị bức tử, đe dọa thì tiếng nói của phê bình sinh
thái thực sự là hồi chuông cảnh tỉnh, là sự giác ngộ trong nhận thức để mỗi
người sẽ hướng nhiều hơn, quan tâm nhiều hơn đến sinh thái, đến môi trường tự
nhiên. Và như thế, những tác phẩm văn chương thực sự phát huy được sức mạnh
đặc thù - giúp con người nhận thức và rung động, giúp con người nhận thức và
hành động người hơn.
Tập bài viết Văn bản phê bình sinh thái do Cheryll Glotfelty và Harold
From chủ biên ( Đỗ Văn Hiểu dịch) có thể coi là những bài viết xuất hiện sớm
nhất tại Mĩ về phê bình sinh thái. Người viết đã đưa ra quan niệm về khái niệm
phê bình sinh thái cụ thể, dễ hiểu: “Nói một cách đơn giản, phê bình sinh thái là
việc nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và môi trường tự nhiên; mang đến
một cách tiếp cận lấy trái đất làm trung tâm trong nghiên cứu văn học” [16; 54].
Cũng chính từ khái niệm phê bình sinh thái, chúng ta cũng có sự nhìn nhận, soi
chiếu một cách cụ thể hơn, sâu sắc hơn về văn học sinh thái. Giáo sư Vương
Nặc - Trường Đại học Hạ Môn (Trung Quốc) trong cơng trình nghiên cứu Văn
học sinh thái Âu Mỹ (2003), đã nêu ra cách hiểu khá tồn diện, có tính thuyết
phục về văn học sinh thái: “Văn học sinh thái không đơn thuần là văn học miêu
10
tả tự nhiên thuần túy, khác nhau căn bản của văn học sinh thái và văn học miêu
tả tự nhiên truyền thống là nó tìm hiểu và trình bày mối quan hệ giữa con người
với tự nhiên cũng như địa vị của con người trong trong thế giới tự nhiên, ảnh
hưởng của con người đối với tự nhiên và ảnh hưởng của tự nhiên đối với con
người, mối liên hệ giữa vạn vật trong tự nhiên với con người” [16; 6].
Trong chuyến công tác tại Viện Văn học Việt Nam vào tháng 3 năm 2001,
Karen Thornber - giảng viên của Viện Havard Yenching( Mĩ) đã đề cập đến
những nội dung quan trọng về mối quan hệ giữa văn chương và mơi trường,
khẳng định tính cấp thiết, tầm quan trọng của văn chương đối với mơi trường;
của phê bình sinh thái: “văn chương có ảnh hưởng quan trọng đến sự hiểu biết
về biến đổi mơi trường trong q trình đơ thị hóa và cơng nghiệp hóa; đồng thời,
ảnh hưởng đến những cơng trình đi về sau về triết học mơi trường, chính trị, thể
loại, nơi chốn, khu vực và quốc gia” [74; 91]. Tác giả đã chỉ rõ việc nghiên cứu
sự thay đổi môi trường như thế nào; đồng thời tác giả cũng lí giải được mối quan
hệ gắn bó giữa con người và văn học với tự nhiên là vấn đề đã được đề cập từ
ngàn năm dù đến những năm 1990 mới thực sự trở thành một trào lưu trong
nghiên cứu văn học.
Trong tài liệu dịch thuật Phê bình sinh thái – cội nguồn và sự phát triển
(2012) , nhà nghiên cứu Đỗ Văn Hiểu cũng đã tổng hợp được những lí luận cơ
bản về phê bình sinh thái với những hướng tiếp cận, những thuật ngữ nền tảng
về phê bình sinh thái. Theo tài liệu này, phê bình sinh thái là “Phê bình tồn bộ
quan hệ giữa văn hóa và tự nhiên”, “thơng qua văn học để thẩm định lại văn hóa
nhân loại, tiến hành phê phán – nghiên cứu tư tưởng, văn hóa, mơ hình phát triển
xã hội của loài người đã ảnh hưởng như thế nào đến thái độ và hành vi nhân loại
đối với tự nhiên đã dẫn đến tình trạng xấu đi của mơi trường và nguy cơ sinh
thái” [16; 55]. Cũng theo tác giả, Phê bình sinh thái là một khuynh hướng
nghiên cứu văn học mang tính cách tân bởi đó là nhu cầu cấp thiết của thời đại
khi tình trạng mơi trường toàn cầu đang ngày một bị đe dọa, đang bị tác động
theo chiều hướng xấu đi. Chính vì thế, phê bình sinh thái chính là sự cách tân về
11
tư tưởng khi chuyển từ “nhân loại trung tâm luận” sang “sinh thái trung tâm
luận”. Đó chính là cách để con người nhìn lại mình, tìm lại mình trong mối quan
hệ với tự nhiên; là sự chuộc lỗi với tự nhiên.
Ở Việt Nam, phê bình sinh thái cũng là một vấn đề đã, đang được các nhà
nghiên cứu quan tâm. Thông qua các bài viết, các tài liệu dịch thuật, các nhà nghiên
cứu đã tạo nên những mảng màu đa sắc trong nghiên cứu, phê bình văn học như
Chuyển hướng văn hóa trong nghiên cứu văn học Trung Quốc của Trần Đình Sử
(2011; Thi pháp sinh thái của Frederick Turne, Nguyễn Tiến Văn dịch (2012),
Nghiên cứu văn học trong thời đại khủng hoảng môi trường của Cheryl Glofelty,
Trần Thị Ánh Nguyệt dịch (2014)... Các cơng trình nghiên cứu đã thực sự khai mở
và làm sâu sắc thêm những lí thuyết, những quan điểm về phê bình sinh thái...
Có thể nói, những cơng trình nghiên cứu về phê bình sinh thái đã khẳng định
được sự quan tâm của nhân loại trước sự khủng hoảng môi trường đang rất đáng
báo động; là vấn đề cấp thiết liên quan đến mỗi quốc gia, đến cuộc sống của toàn
nhân loại. Văn học sinh thái với vai trị tích cực đã, đang và sẽ góp vào việc giúp
cho nhân loại có được nhận thức đúng đắn hơn, sâu sắc hơn; sống có trách nhiệm
hơn trong việc bảo vệ bảo vệ môi trường sống của trái đất tươi đẹp của chúng ta.
1.1.2. Chủ đề sinh thái trong văn học Việt Nam
Trong mạch nguồn của nền văn học dân tộc, sự gắn bó giữa thiên nhiên và
con người; giữa con người với con người là đề tài được phản ánh xuyên suốt.
Những cảnh trí thiên nhiên, những con người đã sống và gắn bó trong suối
nguồn thiên nhiên được phản ánh đậm nét trong sáng tác văn chương. Thiên
nhiên vừa hùng vĩ, kì bí với con người nhưng thiên nhiên cũng luôn che chở,
nâng đỡ, bồi đắp tâm hồn con người, làm cho đời sống vật chất, tinh thần của
con người trở nên phong phú, sinh động thêm. Tuy nhiên, trong mỗi thời kì,
thiên nhiên lại được nhìn nhận, được thể hiện và chịu sự chi phối rất rõ của cảm
quan thời đại.
Trong dòng chảy của văn học dân gian, thiên nhiên vừa là đối tượng để
mô tả, vừa là phương tiện nghệ thuật để giúp ta hiểu thêm về tâm hồn, lối sống.
12
Thiên nhiên hiện lên với những vẻ đẹp của những cánh đồng, những ngọn núi,
con sông; là trăng sao, mây gió…Con người đã thể hiện được cái tình của mình
với những hình ảnh thiên nhiên gần gũi, quanh mình. Đó là tình yêu mến, niềm
tự hào về vẻ đẹp của thiên nhiên, của quê hương xứ sở:
“Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng mênh mơng bát ngát
Đứng bên tê đồng, ngó bên ni đồng bát ngát mênh mơng
Thân em như chẽn lúa đòng đòng
Phất phơ giữa ngọn nắng hồng ban mai” [38; 53].
Tình yêu, nỗi nhớ của con người cũng được gửi gắm qua những hình ảnh
thiên nhiên bình dị:
“Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương
Nhớ ai dãi nắng dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao”
(Ca dao)
Với mảng truyện dân gian, những bí ẩn của thiên nhiên, những thách thức của
thiên nhiên với con người cũng được phản ánh. Có thể nói, mối quan hệ giữa con
người với thiên nhiên trong các sáng tác dân gian đã được quan tâm, đề cập.
Trong văn học trung đại, thiên nhiên thực sự đã chiếm “một vị trí danh
dự”. Thiên nhiên khơng chỉ là vẻ đẹp của tự nhiên mà còn là đối tượng, là chuẩn
mực để nói về vẻ đẹp của con người:
“Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh” [52; 81].
Thiên nhiên còn là nơi để con người gửi gắm tình yêu, là nơi con người
tìm đến, trở về sau những lo toan bộn bề của cuộc sống; sau những “đắng cay”
của cuộc đời, của nhân tình thế thái. Thiên nhiên chính là nơi lánh trú bình yên
nhất; thanh thản nhất…để tâm hồn được thanh sạch giữa bụi trần; để con người
giữ được, thể hiện được nhân cách, tiết tháo, phẩm giá của mình; là nơi con
người thực sự được sống với “thú điền viên”; là nơi để gửi gắm tâm sự thời thế:
“Ao cạn vớt bèo cấy muống
Đìa thanh phát cỏ ương sen
13
Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc
Thuyền chở yên hà nặng vạy then” [79; 418 - 419].
Rõ ràng, trong cảm thức của mình, con người ln coi trọng thiên nhiên.
Thiên nhiên thực sự là một người bạn lớn.Thiên nhiên không đối nghịch với con
người mà hòa điệu với con người, đem đến cho con người những phút giây bình
yên và thư thái. Và vì thế, dù mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên được
đề cập nhưng dấu ấn của phê bình sinh thái chưa thật sự đậm nét.
Giai đoạn 1945 - 1975, nền văn học Việt Nam tập trung chủ yếu vào công
cuộc chiến đấu, bảo vệ Tổ Quốc và xây dựng đất nước. Cũng có khá nhiều tác
phẩm viết về đề tài sinh thái tự nhiên nhưng mục đích chính là lấy hình ảnh
thiên nhiên để phản ánh cuộc kháng chiến đầy cam go, khốc liệt với sức sống
bền bỉ, kiên cường giữa bom đạn chiến tranh; miêu tả hình ảnh thiên nhiên bị tàn
phá bởi bom đạn giặc thù nhưng lại hướng con người đến tiếng nói tố cáo chiến
tranh. Như vậy, dấu ấn của văn học sinh thái chưa được định hình rõ nét.
Sau năm 1975, thiên nhiên cũng là đối tượng tiếp tục được quan tâm,
phản ánh trong các sáng tác văn chương nhưng ở những góc cạnh khác nhau.
Chẳng hạn, trong những sáng tác của Nguyễn Duy Khán [28] đưa người đọc đến
với vẻ đẹp của bức tranh làng quê thanh bình với những âm vang của tự nhiên
nhưng trong Trầm hương, Tiền rừng của Nguyễn Trí [78] lại đề cập đến những
vấn đề phát sinh trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Những day dứt,
nỗi ám ảnh, sự xót xa khi thiên nhiên bị tàn phá, bị hủy diệt bởi tội ác của giặc
Mĩ...cũng được văn học giai đoạn này tập trung phản ánh. Từ những năm 1980
trở lại đây, trước sự chuyển mình mạnh mẽ của nền kinh tế, con người đã tác
động mạnh mẽ đến môi trường tự nhiên; khai thác, phá hủy tự nhiên làm ảnh
hưởng nghiêm trọng tới sự bền vững của môi trường sinh thái. Văn học thời kì
này cũng có những bước chuyển mạnh mẽ, đi sâu đề cập và phản ánh được
những “nhức nhối” của đời sống xã hội, của môi trường sống. Dấu ấn sinh thái
được nhìn nhận, soi chiếu một cách chân thực hơn, tồn diện hơn, góp phần thức
tỉnh ở mỗi người về sự trân quý môi trường tự nhiên; về sự tôn trọng tự nhiên;
14
về ý thức bảo vệ môi trường tự nhiên bởi giữa con người và tự nhiên luôn phải
được đặt trong cái nhìn bình đẳng, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau.
Có thể nói, phê bình sinh thái là một cách tiếp cận mới mẻ và sâu sắc để
đánh giá tác phẩm văn học. Tìm hiểu về văn học sinh thái Việt Nam cũng là một
nhiệm vụ vinh dự của những nhà phê bình văn học. Trong đó, tìm hiểu văn học
sinh thái trong từng thời kì là rất cần thiết để thấy được sự phát triển của nó. Tìm
hiểu từng thời kì, từng giai đoạn văn học ta khơng thể khơng tìm hiểu những tác
gia lớn và khảo sát những tác phẩm nổi tiếng của họ. Bởi vậy, dưới góc độ phê
bình sinh thái sẽ giúp cho ta có những đánh giá ở góc cạnh khác, tìm ra những
giá trị và sự tích cực mới mẻ, khác với hướng tiếp cận cũ, tránh được những lối
mịn trong phê bình văn học. Bởi vì hướng đến mơi trường là hướng đến sự sống
cịn của tồn nhân loại và vũ trụ. Hướng đến môi trường sinh thái và văn học
sinh thái là hướng tới vũ trụ và sinh mệnh cũng như các giá trị đạo đức và nhân
văn. Văn học bắt nguồn từ cuộc sống, phản ánh cuộc sống và quay trở lại phục
vụ cuộc sống. Văn chương sinh thái cũng đã, đang và sẽ có hướng đi đúng đắn,
tích cực hướng tới góp phần xây dựng đất nước phát triển ổn định, hài hòa trong
sự phát triển của tự nhiên.
1.2. Khái lược về truyện thiếu nhi viết về lồi vật của Tơ Hồi
1.2.1. Truyện thiếu nhi của Tơ Hồi
Tơ Hồi là một gương mặt tiêu biểu của nền văn học hiện đại Việt Nam.
Cuộc đời của ông là cuộc đời của những chuyến đi, của những ngẫm ngợi và
viết. Ông là một cây bút ln bền bỉ trong hành trình sáng tạo nghệ thuật, trong
đó những truyện viết cho thiếu nhi đã để lại dấu ấn đậm nét trong trái tim độc
giả. Khi viết cho thiếu nhi, ông từng quan niệm: “là phải làm cho thiếu nhi thích
bằng những câu chuyện vui, hóm hỉnh, sinh động và quen thuộc, gần gũi với các
em nhưng viết cho thiếu nhi, người lớn cũng phải thích”. Với sự am tường sâu
sắc tâm lí trẻ thơ, sự tài hoa của người nghệ sĩ nên những truyện thiếu nhi viết
về lồi vật của ơng được các thế hệ độc giả vơ cùng u thích, đặc biệt là lứa
tuổi thiếu nhi. Có người đã từng nhận xét: “Dường như ông sinh ra để viết
15
truyện trẻ em, viết cho trẻ em”. Những trang văn của ơng chính là những trang
đời, là những mảng màu cuộc sống được nhà văn phản ánh với sự tài hoa trong
cách thức thể hiện, sự trong trẻo trong tâm hồn với tình u mến đặc biệt dành
cho trẻ thơ.
Tơ Hồi là đã đóng góp vào dịng văn học hiện đại Việt Nam một đặc sản
truyện đồng thoại. Trần Đình Nam đã đánh giá về ông như một hiện tượng văn
học độc lạ ở tuổi đơi mươi: “Ơng là một nhà văn xi bẩm sinh. Chỉ có một nhà
văn xi bẩm sinh mới viết được một cuốn sách như Dế mèn phiêu lưu ký ở độ
tuổi hai mươi. Cuộc dấn thân của Dế Mèn vì hịa bình, vì cơng lí đã làm xúc
động trái tim mọi lứa tuổi, dân tộc, xứ sở” [44; 66]. Với thủ pháp nhân hóa, thế
giới loài vật hiện lên đầy sức hấp dẫn, giúp người đọc nhận ra bức tranh của thế
giới loài vật thật sinh động, tự nhiên, gần gũi với con người. Tô Hồi đã nhìn ra,
nhận thấy những câu chuyện đầy thú vị, lạ lùng của thế giới loài vật. Thế giới
loài vật vừa giống thực, sống động với những nét ngoại hình, tập tính sinh hoạt
đặc trưng của chúng đồng thời cũng tồn tại như “thế giới loài người” – suy nghĩ,
trị truyện và mang đặc điểm tâm lí, tính cách của con người. Về phương diện
truyện đồng thoại, Tơ Hồi đã có những cống hiến ấn tượng, độc đáo, mang lại
cho văn học hơi thở mới và luồng gió mát lành cho thiếu nhi. Đánh giá về điều
này, Giáo sư Hà Minh Đức đã khẳng định trong tác phẩm Khảo luận văn
chương: "Đối với các em, ngịi bút của Tơ Hoài bộc lộ nhiều phẩm chất mới lạ.
Từ trang văn đầu tiên cho đến những tác phẩm gần đây nhất của Tơ Hồi vẫn là
tâm hồn tươi trẻ, ân cần và cảm thông". [9; 448].
Sau cách mạng tháng tám, Tô Hồi vẫn trung thành với con đường sáng
tác của mình. Truyện lồi vật vẫn là đam mê của ơng với những trang viết giàu
tinh lực như Ghi chép một ngày của gà Nhép, Chim chích lạc rừng, Cá đi ăn thề
[24]nhưng người đọc không bị bất ngờ và không bị cuốn như những truyện đồng
thoại đã được gọi là kim tự tháp của ông. Tuy vậy, những tác phẩm của ông vẫn
có sức hấp dẫn, sức lôi cuốn riêng với lối viết giàu ma lực, nhiều sáng tạo.
Chính vì vậy, khi nhận xét về văn phong của Tơ Hồi, giáo sư Hà Minh Đức đã
16
có những khẳng định rất đúng đắn và sâu sắc: “Có thể xem ơng là người viết có
nhiều sáng tạo kỳ lạ nhất về thế giới loài vật" [9; 448]. Bởi vì, chỉ có ở truyện
đồng thoại Tơ Hồi bạn đọc mới được tắm trong cảm xúc tươi mới, thú vị về
loài vật. Nguyễn Đăng Điệp cũng từng nhận xét: “Ống kính của Tơ Hồi vừa sắc
nét trong việc tái hiện lại các chi tiết, vừa có khả năng tạo ra sự lưu chuyển hợp
lý giữa các trường đoạn, màu sắc du ký và màu sắc tự truyện hòa vào nhau hết
sức sống động. Với Dế Mèn phiêu lưu ký, Tơ Hồi thực sự là cây bút hàng đầu
về nghệ thuật miêu tả thế giới lồi vật” [34]. Tơ Hồi khẳng định tài năng bậc
thầy về truyện loài vật viết cho trẻ thơ ở nhiều đề tài khác nhau như truyện sinh
hoạt, truyện lịch sử, cổ tích hay du kí. Ông có lối viết hóm hỉnh, tự nhiên, giàu
có về ngôn từ, phong phú về tưởng tượng, liên tưởng nên rất gần gũi với trẻ thơ.
Những trang văn của Tô Hoài như nâng cánh thiên thần, nhẹ nhàng, nhuần thấm,
hút trẻ thơ về sự khám phá thế giới và gần gũi với tự nhiên. Điều này, không chỉ
thấy ở kiệt tác Dế Mèn phiêu lưu kí mà cịn ở rất nhiều truyện khác như Mực tàu
giấy bản, Nói về cái đầu tơi,Ngọn cờ lau, Thằng phó, Chuyện ơng Gióng, Võ sĩ
Bọ Ngựa, Ba anh em, Ba bà cháu, Câu chuyện ngày chủ nhật, Con mèo lười,
Đám cưới chuột, Đảo hoang, Chuyện nỏ thần, Chim chích lạc rừng… [24].Ơng
chú trọng đến tính cách nhân vật, phát triển những mối quan hệ cộng đồng và
mở ra những khung trời mới lạ cho thiếu nhi nên truyện đồng thoại của ông
xứng đáng là món quà gối đầu giường cho trẻ em nhiều thế hệ. Nhà thơ Vũ
Quần Phương đã viết: "Ông kể chuyện lồi vật với đầy đủ tập tính của nó nhưng
lại bộc lộ sắc nét tính cách những loại người” [82].
Có thể nói, Tơ Hồi là một nhà văn tiêu biểu của nền văn học hiện đại
Việt Nam với những đóng góp to lớn, rất đáng trân trọng cho văn học dân tộc.
Điều đáng nói là trong hành trình sáng tạo bền bỉ của mình ơng đã tạo cho mình
được một màu sắc riêng có, đậm sâu trong trái tim bạn đọc. Riêng với ở mảng
đề tài viết cho thiếu nhi, Tơ Hồi xứng đáng là người tiên phong, khai đường,
mở lối và xác lập một vị thế vững chắc cho nền văn học thiếu nhi Việt Nam
đúng như GS. Hà Minh Đức đã từng bộc bạch: "Ông là nhà văn lớn của thiếu
17
nhỉ. Ông đến với các em với tâm hồn người nghệ sĩ. Ông đem đến cho các em
một niềm vui, một bài học nhỏ, một lời căn dặn. Với các em lúc nào ngịi bút
của ơng cũng đầm ẩm, tươi trẻ. Thời gian không mệt mỏi, không hằn vết trên
những trang viết cho các em. Có bao nhiêu câu chuyện bổ ích và đẹp trong cuộc
đời sẽ cịn dành cho tuổi thơ, ơng cịn là người kể chuyện hứng thú và sáng tạo”
[37; 142].
1.2.2. Vấn đề sinh thái trong sáng tác Tơ Hồi
Khi đề cập đến vấn đề sinh thái cần phải xác định rõ tính hai mặt của sinh
thái là sinh thái tự nhiên và sinh thái xã hội. Nếu sinh thái xã hội đi sâu, đề cập,
phản ánh quan hệ giữa con người và con người trong xã hội thì sinh thái tự
nhiên lại đi sâu, đề cập, phản ánh mối quan hệ của con người với tự nhiên. Tơ
Hồi khơng đề cập đến mối quan hệ đó nhưng qua những tác phẩm của mình,
ơng đã thể hiện một cảm quan sinh thái nhẹ nhàng, mới mẻ mà sâu sắc, có sức
lay động, thức tỉnh đối với người đọc. Thế giới nhân vật trong sáng tác của ông
là thế giới của các loài vật đa dạng, gần gũi. Với sự am tường sâu sắc tâm lí trẻ
thơ, với sự tài hoa trong nghệ thuật kể chuyện, thế giới loài vật trong truyện viết
về loài vật cho thiếu nhi của ơng được nhân hóa vơ cùng sinh động, hấp dẫn,
cuốn hút, đặc biệt với trẻ em. Những câu chuyện của thế giới lồi vật được
khốc lên mình những suy nghĩ, những tình cảm, những mối quan hệ, những
cách sống…của con người. Hay nói cách khác, đó chính là thế giới thu nhỏ của
thế giới loài người. Nhưng những câu chuyện được gửi gắm đằng sau ấy không
được đề cập lộ liễu, khô khan mà thật nhẹ nhàng, tự nhiên và khéo léo. Để rồi từ
đó, mỗi người biết yêu hơn những con vật, yêu hơn thế giới tự nhiên; có ý thức
bảo vệ tự nhiên, bảo vệ vẻ đẹp của cuộc sống. Bên cạnh đó, mỗi trang văn viết
cho thiếu nhi của Tơ Hồi cịn là bức tranh của thế giới tự nhiên đẹp đẽ và lãng
mạn. Từng lời văn về cảnh sắc thiên nhiên là từng lời ông muốn gửi gắm tới bạn
đọc về sự ưu đãi của thiên nhiên dành cho con người. Viết về thiên nhiên, thế
giới lồi vật ơng ln đề cao thái độ trân trọng và hướng thiện. Có những đoạn
18
ông để thiên nhiên lên tiếng về hành vi không đẹp của con người. Có những
đoạn ơng viết về sự hẫng hụt hay giật mình của con người trước thiên nhiên.
Thế giới tự nhiên ln tồn tại khách quan ngồi ý muốn của con người. Có
thể con người đã và đang tìm hiểu về nó nhưng cũng có những bí ẩn của tự nhiên
mà con người chưa thể giải khai được. Trong truyện đồng thoại của mình, Tơ
Hồi dùng sự tưởng tượng để viết về thế giới loài vật nên đời sống tự nhiên của
con vật giống như sinh hoạt ăn, ở, mặc của con người. Ông cũng dùng những con
vật để nói chuyện đời, chuyện đạo lý, lẽ sống hay những triết lí. Bởi thế nên, thế
giới lồi vật trong truyện đồng thoại của Tơ Hồi mất đi tính khách quan vốn có.
Thiên nhiên trong truyện đồng thoại của ông mất đi tính khả tri dưới lăng kính
của nghệ thuật ngôn từ. Chẳng hạn, khi ông viết về rừng, về biển, về những nẻo
đường biên giới hay những cánh đồng q…tất cả đều hiền hịa, an bình mà chưa
xuất hiện những lát cắt khác nhau để thấy được thực trạng của thiên nhiên hay sự
thay đổi biến dạng. Chủ nghĩa nhân loại trung tâm là cái nhìn truyền thống và
điều đó được thể hiện nhất quán trong các truyện đồng thoại của Tơ Hồi.
1.3. Truyện thiếu nhi viết về loài vật của Nguyễn Quỳnh
1.3.1. Truyện thiếu nhi của Nguyễn Quỳnh
Nhà văn Nguyễn Quỳnh sinh năm 1936 tại Tuyên Hóa, Quảng Bình.
Trong gia đình nhà Nho có truyền thống văn chương. Điều đó đã giúp ơng có
được vốn hiểu biết phong phú và sâu sắc. Lớn lên trong những năm cách mạng
và kháng chiến, năm 1948, ông làm liên lạc văn phịng cho cơng an tỉnh. Năm
1950 học trung học, ông làm tỉnh đoàn trưởng Tỉnh đoàn học sinh. Năm 1953,
ông đi Khu học xá Trung ương học cao đẳng Trung Văn. Sau 1954, ơng làm
phiên dịch cho trưởng đồn cố vấn Trung Quốc. Từ năm 1956 - 1959, ông làm
Trưởng vụ Ban chấp hành, trưởng ban Tuyên huấn Đoàn Thanh niên Lao dộng
các cơ quan Trung ương. Năm 1960, ông về công tác tại NXB Kim Đồng, làm
trưởng ban văn học, trợ lý giám đốc, chuyên viên biên tập cao cấp tới lúc nghỉ
hưu. Ông đã vinh dự nhận được Giải B Trung ương Đoàn và Hội nhà văn Việt
Nam cho tác phẩm Bầu trời ngoài cửa sổ, Nàng tiên ngọc trai. Hai lần đạt giải B
19
văn học thiếu nhi của Hội đồng Văn học thiếu nhi, Hội nhà văn cho tác phẩm
Rừng đêm, Người đi săn và con sói lửa. Hai lần giải A văn học thiếu nhi của Hội
đồng văn học thiếu nhi, Hội nhà văn Việt Nam cho tác phẩm Chuyện làng tôi,
Con báo vàng. Giải A cuộc thi do tạp chí Vì trẻ thơ và Hội đồng văn học thiếu
nhi, Hội nhà văn tổ chức cho tác phẩm Đứa con phiêu bạt, Ký ức người
cha.Trong đó, tiểu thuyết Rừng đêm(1985),Người đi săn và con sói lửa (1988) là
những tác phẩm tiêu biểu của ông.
Nguyễn Quỳnh là một trong những cây bút tiêu biểu với những sáng tác
dành cho thiếu nhi, đặc biệt là những trang văn viết về loài vật. Mặc dù tuổi cao
nhưng ông vẫn cần mẫn viết cho các em. Ơng đã tự đổi mới chính bản thân mình
trong việc mở rộng đề tài và tìm tịi hướng khai thác mới mẻ, phù hợp với nhu
cầu của cuộc sống và nhu cầu bạn đọc với những truyện phiêu lưu, mạo hiểm về
núi rừng như Đồi sói hú, Rừng đêm, Người đi săn và con sói lửa, Con báo vàng.
Các tác phẩm của nhà văn luôn được các độc giả mong chờ, háo hức một phần
quan trọng bởi đó là những tác phẩm viết về thế giới lồi vật vơ cùng phong
phú, đẹp đẽ, ấn tượng. Đằng sau những trang văn của Nguyễn Quỳnh là cuộc
sống đầy khốn khó nhưng nặng nghĩa, nặng tình của những người dân lao động;
là những áp bức, khổ đau, rên xiết của người dân trước kẻ thù xâm lược, trước
thế lực của cường hào, của bọn tay sai – “chó săn của giặc”; đặc biệt đó là thế
giới lồi vật vơ cùng phong phú sinh động với không gian rộng lớn của núi rừng.
Những câu chuyện đời sống ấy được hiện lên thật gần gũi, tự nhiên, hấp dẫn bạn
đọc, đặc biệt là lứa tuổi thiếu nhi.
Truyện Người đi săn và con Sói Lửa là câu chuyện về ngôi làng với
những phường thợ săn lão luyện, là cuộc sống gắn liền với thế giới loài vật
phong phú; là câu chuyện đầy cảm động với các con vật đã gắn bó với cuộc đời
của những con người nơi đây. Thế giới loài vật hiện lên trong truyện vô cùng
hấp dẫn, như đưa người đọc vào các cuộc phiêu lưu kì thú. Đó là con Báo Vàng
– con chó săn thiện nghệ của chủ phường săn nhà ông Giáp với cái mũi vô cùng
tinh nhạy, con chó mà ông đã đổi một con bê cho nhà ông Kì Cẩm ở làng Mít.
20
Con BáoVàng đã cùng ơng chủ của mình trải qua biết bao vui buồn của cuộc
sống, trong hành trình của mỗi chuyến đi săn, trong tình nghĩa, trong sự thấu
hiểu, đồng cảm, trân trọng, tin u, cảm phục. Đó cịn là câu chuyện của Báo
Vàng và đàn sói rừng dữ tợn; về con Sói Lửa con được đem về ni và mang
trong mình nó những khả năng đặc biệt – thủ lĩnh của một đàn chó săn; là tiếng
gọi đầy mê hoặc của thiên nhiên với Sói Lửa; là sự dõi theo, đồng hành, thậm
chí sẵn sàng hi sinh cho Dũng – ơng chủ nhỏ của Sói Lửa trong hành trình đi về
chiến khu; là thế giới động vật vơ cùng phong phú với những con bị rừng đực
“có cái u nhơ lên cầu vai nom như một con bị nhà đang vừa lắc cặp sừng vừa
chạy [63; 63]; là những giây phút chạm trán với con hổ bạc má: “Chợt ông nhận
ra hai vệt trắng, rồi đến bộ mặt tròn xoe với những sợi ria mép đen. Con hổ bạc
má! Chừng như vừa chui trong bụi ra, lông bị nước mưa, nó đang dừng lại liếm
láp. Nghe tiếng hai con chó gừ, nó vùng mình ngẩng đầu lên nhìn ông Giáp, rồi
vươn dài ra, lao tới [63; 46], “con hổ lao tới rất sát bên ơng Giáp, nhưng nó chưa
chồm tới. Hai bên giằng co nhau trong giây lát. Con Sói Lửa lao tới táp vào đùi
sau con hổ. Con hổ buộc phải chao chân trước nghiêng người tát con chó [63;
47]; là cuộc chạm trán với hai con gấu ngựa, với báo đen, với đàn voi rừng; là
vẻ đẹp của mấy chục con con công đang múa trên bãi trống…Câu chuyện kể
được đặt trong không gian cụ thể của núi rừng quê hương, với những con người
cụ thể, với thế giới lồi vật vơ cùng phong phú thực sự đã tạo nên những trang
văn mang đậm tính phiêu lưu, cuốn hút bạn đọc, nhất là những bạn đọc nhỏ tuổi.
Bức tranh đời sống trong tiểu thuyết Rừng đêm của Nguyễn Quỳnh hiện
lên đầy ám ảnh song cũng đầy mê lực. Đó là câu chuyện đầy cảm động về cuộc
sống của những đứa trẻ côi cút, bất hạnh, khổ đau như Cảnh, Khôi, thằng Câm;
là sự o ép, cùng cực của những người dân trong cảnh “một cổ hai trịng”. Nhưng
khơng chỉ có thế, chuyện hấp dẫn người đọc, cuốn hút bao thế hệ thiếu niên nhi
đồng còn bởi đó là một câu chuyện đầy cảm động về thế giới loài vật. Câu
truyện về Trâu Min – tên gọi thân thương, trìu mến mà bọn trẻ xóm nghèo đặt
cho; là những cảm giác ớn lạnh khi lũ trẻ phải đối mặt với hổ: “Chợt một cảm