ĐẠI HỌC THÁI NGUN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
NƠNG THỊ THÁI
TÍNH ĐỐI THOẠI TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN MINH CHÂU SAU 1975
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 822.0121
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HOÁ VIỆT NAM
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. Lê Thị Ngân
THÁI NGUYÊN - 2022
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng:
Số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và
không trùng lặp với các đề tài khác.
Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã đƣợc cảm ơn và các
thơng tin trích dẫn trong luận văn đều đƣợc chỉ rõ nguồn gốc.
Thái Nguyên, tháng 12 năm 2022
Ngƣời cam đoan
Nông Thị Thái
ii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn, cùng với những nỗ lực của bản thân, ngƣời viết
đã nhận đƣợc sự động viên, giúp đỡ của rất nhiều ngƣời:
Em xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng đào tạo sau đại học,
trƣờng Đại học Khoa học- Đại học Thái Nguyên đã tạo mọi điều kiện cho em
trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn này. Xin gửi lời tri ân tới q
thầy, q cơ đã tận tình giảng dạy lớp cao học K14- Thái Nguyên, chuyên ngành
Văn học Việt Nam, trƣờng Đại học Khoa học- Đại học Thái Ngun, niên khóa
2020-2022.
Em xin chân thành bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến cô giáo, TS Lê Thị
Ngân – Giảng viên khoa Ngơn ngữ và Văn hóa, Trƣờng Đại học Khoa học- Đại
học Thái Ngun. Cơ đã tận tình chỉ dạy, hƣớng dẫn, đóng góp những ý kiến
quý báu giúp em hoàn thành luận văn trong điều kiện tốt nhất.
Xin cảm ơn BGH, thầy cô giáo Trƣờng THPT Trại Cau đã tạo mọi điều
kiện thuận lợi trong công tác để ngƣời viết hoàn thành luận văn đúng thời hạn.
Ngƣời viết xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 12 năm 2022
Ngƣời viết
Nông Thị Thái
iii
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................... 2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................ 6
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 6
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ................................................................................... 7
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài .......................................................... 8
7. Kết cấu luận văn ................................................................................................ 8
PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................... 9
Chƣơng 1: NGUYỄN MINH CHÂU VÀ KHUYNH HƢỚNG ĐỐI THOẠI
TRONG VĂN HỌC SAU 1975 ............................................................................ 9
1.1. Nguyễn Minh Châu, cuộc đời và sự nghiệp ................................................... 9
1.1.1. Cuộc đời .................................................................................................. 9
1.1.2. Sự nghiệp sáng tác................................................................................. 12
1.2. Khuynh hƣớng đối thoại trong văn học sau 1975 và tƣ tƣởng đổi mới quyết
liệt trong sáng tác Nguyễn Minh Châu. .............................................................. 17
1.2.1. Đối thoại – một trong những khuynh hƣớng tiếp cận cuộc sống của văn
học ................................................................................................................... 17
1.2.2. Tƣ tƣởng đổi mới quyết liệt trong sáng tác Nguyễn Minh Châu sau
1975 ................................................................................................................. 24
CHƢƠNG 2: NHỮNG BIỂU HIỆN VỀ NỘI DUNG CỦA KHUYNH HƢỚNG
ĐỐI THOẠI TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN MINH CHÂU SAU 197531
2.1. Nhà văn và sự đối thoại với chính mình ...................................................... 31
2.2. Nhà văn và sự đối thoại với công chúng ...................................................... 40
2.3. Nhà văn và sự đối thoại với sinh thái ........................................................... 45
CHƢƠNG 3: NHỮNG BIỂU HIỆN VỀ NGHỆ THUẬT TRONG VIỆC THỂ
HIỆN KHUYNH HƢỚNG ĐỐI THOẠI TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA
NGUYỄN MINH CHÂU .................................................................................... 57
3.1. Chất tiểu thuyết tăng dần.............................................................................. 57
iv
3.2. Trần thuật từ nhiều điểm nhìn ...................................................................... 59
3.2.1. Khái niệm trần thuật và điểm nhìn trần thuật ....................................... 59
3.2.2. Trần thuật từ nhiều điểm nhìn trong các truyện ngắn của Nguyễn Minh
Châu................................................................................................................. 62
3.3. Ngơn ngữ mang tính triết luận ..................................................................... 73
3.3.1. Khái niệm triết luận, tính triết luận trong văn học thế giới và Việt Nam........ 73
Tính triết luận trong văn học thế giới và Việt Nam.................................................... 73
3.3.2. Ngôn ngữ mang tính triết luận trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu ......... 74
PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................................. 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 82
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Lý thuyết đối thoại xuất hiện từ rất lâu trong đời sống con ngƣời cũng
nhƣ trong nghệ thuật. Song, với tƣ cách là lí thuyết nghiên cứu văn học, thì phải
đến Mikhail Bakhtin (1895 - 1975), lí thuyết đối thoại mới trở nên rõ nét, tự
giác. Sự xuất hiện các nghiên cứu lí luận của ơng trong những năm 20 thế kỷ
XX đã thu hút đƣợc sự quan tâm của giới nghiên cứu khoa học và trí thức Liên
Xơ nói riêng, thế giới nói chung. Trong các cơng trình nghiên cứu lí luận của
Bakhtin, tính đối thoại ln là bản chất của ý thức, tƣ duy con ngƣời. Phát huy
tinh thần của Bakhtin, nhiều nhà nghiên cứu khi đi nghiên cứu thể loại truyện
ngắn đã đặc biệt chú ý đến tính đối thoại. Bởi đối thoại đã trở thành nhu cầu bức
thiết trong đời sống văn chƣơng. Thông qua đối thoại ta tìm ra “con ngƣời trong
con ngƣời” một cách nhanh nhất, triệt để nhất.
1.2. Ở Việt Nam, lí thuyết M. Bakhtin phải đến những năm cuối thế kỷ
XX mới phát triển mạnh mẽ. Giáo sƣ Trần Đình Sử là ngƣời đặt vấn đề lí thuyết
đối thoại đầu tiên trên tinh thần của Bakhtin. Từ đó lí thuyết đối thoại đã trở nên
quen thuộc với đời sống văn học Việt Nam. Sau năm 1975, đặc biệt là sau Đại
hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đến nay cùng với sự đổi mới của đất nƣớc thì
truyện ngắn nói riêng và văn học nói chung cũng phải thay đổi để phù hợp với
thực tại và đáp ứng nhu cầu của ngƣời sáng tác cũng nhƣ của ngƣời thƣởng thức.
Truyện ngắn ở giai đoạn này đã thể hiện rõ chức năng hàng đầu của mình là
nhận thức, đánh giá đời sống nội tâm, số phận của con ngƣời, những hậu quả mà
chiến tranh để lại trong thời bình… thơng qua các mối quan hệ của họ trong đời
sống dƣới góc nhìn khách quan hơn, nhân bản hơn, phù hợp với hơi thở của thời
đại. Tinh thần ấy tạo tiền đề cho tiếng nói đa thanh, đa âm sắc, đa giọng điệu.
Một trong số những nhà văn đƣơng đại luôn thể hiện ý thức nhận thức lại qua
đối thoại là nhà văn Nguyễn Minh Châu. Trong mỗi truyện ngắn của ơng , ta đều
nhìn thấy ở đó có cuộc đối thoại giữa tác giả với tƣ tƣởng thời đại. Thông qua
những vấn đề đem ra tranh luận cái mới đã đƣợc sinh ra. Trên hành trình đổi
2
mới ấy, Nguyễn Minh Châu là ngƣời đã “đi đƣợc xa nhất”, trở thành nhà văn
tiên phong của sự nghiệp đổi mới và “là nhà văn mở đƣờng tinh anh và tài năng
của văn học nƣớc ta hiện nay” (Nguyên Ngọc). Có thể nói, Nguyễn Minh Châu
đã đi đƣợc một chặng đƣờng dài, nhiều nhọc nhằn nhƣng đầy ý nghĩa góp phần
đƣa truyện ngắn nói riêng, nền văn học Việt Nam nói chung hội nhập với nền
văn học hiện đại thế giới.
1.3. Trong thực tiễn học tập, dạy học môn Ngữ văn ở trƣờng phổ thông,
việc vận dụng lý thuyết đối thoại để phân tích tác phẩm văn chƣơng gặp khơng ít
khó khăn. Vì thế nghiên cứu tính đối thoại trong truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu ở một chừng mực nào đó sẽ góp phần tích cực vào việc giảng dạy bộ môn
Ngữ văn ở trƣờng phổ thông hiện nay. Nghiên cứu vấn đề này cịn góp phần
khẳng định tài năng nghệ thuật, phong cách ngôn ngữ của Nguyễn Minh Châu
giúp ngƣời đọc tiếp nhận giá trị của tác phẩm một cách tồn diện hơn.
Chính vì những lí do trên, chúng tơi chọn đề tài “Tính đối thoại trong
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975” để đi sâu nghiên cứu.
2. Lịch sử vấn đề
Xoay quanh vấn đề nghiên cứu nhà văn Nguyễn Minh Châu, đặc biệt ở
mảng truyện ngắn của ông. Đến nay, ta thấy có nhiều bài viết, nhiều cơng trình
nghiên cứu khoa học của các tác giả nhƣ: Trần Đình Sử, Trịnh Thu Tuyết, Tơn
Phƣơng Lan,… ở mỗi cơng trình nghiên cứu của họ là một suy nghĩ, cách nhìn
và một cảm nhận rất riêng về tiểu sử và sự nghiệp sáng tác của nhà văn Nguyễn
Minh Châu. Trong giới hạn của bài viết, chúng tôi chỉ tập trung vào các ý kiến
nổi bật có liên quan đến đề tài đã chọn.
Sau 1975, Nguyễn Minh Châu tiếp tục khẳng định mình qua hàng loạt tác
phẩm. Trong đó, truyện ngắn là thể loại không ngừng nhận đƣợc sự quan tâm
của mọi ngƣời.
Khám phá truyện ngắn Nguyễn Minh Châu từ nhiều khía cạnh, có tác giả
đã lên tiếng khẳng định, ủng hộ những đổi mới tích cực trong chặng đƣờng cách
tân nghệ thuật của nhà văn.
3
Phan Cự Đệ đã đƣa ra nhận xét khái quát về sáng tác của Nguyễn Minh
Châu nhƣ sau: “Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn xuất sắc của ta.
(…). Truyện ngắn của ta sau bảy năm có một bƣớc phát triển mới, ngày càng
hiện đại hơn, đáp ứng nhu cầu bạn đọc ngày càng cao hơn. Truyện ngắn những
năm gần đây của Nguyễn Minh Châu cũng có những ƣu điểm ấy. Nó khơng
dừng lại ở trực giác mà đi sâu vào tâm lý tiềm thức. Nguyễn Minh Châu muốn
đóng góp vào sự thức tỉnh con ngƣời từ phần sâu kín bên trong của bạn đọc”
[10; 292]. Nhà văn Tơ Hồi và Xn Thiều đã cảm nhận đƣợc nét đẹp cộng
hƣởng giữa con ngƣời thật và câu chuyện đƣợc hiện diện trên trang viết Nguyễn
Minh Châu. Tơ Hồi khẳng định: “Đọc Nguyễn Minh Châu, ngƣời ta thấy cuộc
đời và trang sách liền nhau. Chặng đƣờng đời hôm nay cũng nhƣ từng đoạn sáng
tạo trên giấy của tài năng. Những cái tƣởng nhƣ bình thƣờng lặt vặt trong cuộc
sống hằng ngày dƣới con mắt và ngòi bút Nguyễn Minh Châu đều trở thành
những gợi ý đáng suy nghĩ và có tầm triết lý”. [10; 295]
Phong Lê khi tiếp cận truyện ngắn Nguyễn Minh Châu ở khía cạnh tƣ
tƣởng nghệ thuật cũng đã chỉ ra tính “khơng dễ hiểu”, tính “đa thanh phức điệu”
trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu: “Truyện ngắn của Nguyễn Minh
Châu không dễ hiểu…. Trong truyện của anh, mọi cái đã vỡ ra tạo nên những
khoảng trống, phải nghi ngờ, phải nghĩ” [10; 299]. Bên cạnh đó, tác giả bài viết
cũng chỉ ra rằng “Nguyễn Minh Châu dần tạo ra một thế giới nghệ thuật của
anh: cái quyết định không phải ở đề tài… Trên chặng đƣờng đi tìm, Nguyễn
Minh Châu đào sâu vào tầng tâm, tham gia vào cuộc đấu tranh giữa các xấu và
cái tốt. Trong cái mấp mé hằng ngày, giữa cái xấu và cái tốt, truyện ngắn
Nguyễn Minh Châu giúp níu chúng ta lại”. [10; 299]
Tôn Phƣơng Lan, Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu, Nxb
KHXH, 2002 là cơng trình nghiên cứu về phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh
Châu đã đƣa đến cho độc giả nhiều vấn đề mới mẻ về phong cách nghệ thuật
Nguyễn Minh Châu. Theo ngƣời viết: “hai loại nhân vật đặc trƣng nhất thể hiện
đƣợc phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu. Đó là nhân vật tƣ tƣởng và
nhân vật tính cách - số phận” [19; 73]. Bên cạnh đó “những câu văn và sử dụng
4
những chữ cứ y nhƣ túm lấy tâm hồn ngƣời đọc mà tra hỏi” [19; 175]. Đã góp phần
lớn để tạo nên những thành công trong các sáng tác của Nguyễn Minh Châu.
Trần Đình Sử đã nhận ra đƣợc tài năng Nguyễn Minh Châu trong việc sử
dụng ngôn ngữ trần thuật để tạo ra những giọng điệu trần thuật phong phú, đa
dạng. Tác giả viết: “Anh là nhà văn có biệt tài sử dụng chi tiết, miêu tả chân
dung, môi trƣờng, khắc họa tâm lý…Anh lại sành vận dụng ngôn ngữ nửa trực
tiếp, dựng lại đƣợc những giọng điệu khác nhau của nhân vật, chẳng hạn nhƣ
Khách ở quê ra, Hương và Phai …” [10; 192]
Phạm Ngọc Lan khi tìm hiểu về vấn đề sinh thái trong bài: Tìm về với mẹ
thiên nhiên “Cánh đồng bất tân” của Nguyễn Ngọc Tƣ từ góc nhìn nữ quyền
luận sinh thái, tác giả đã so sánh với vấn đề sinh thái đƣợc biểu hiện trong
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu “…ám ảnh đô thị của Nguyễn Minh Châu là
một biểu tƣợng kép- vừa nhƣ một mối đe dọa tha hóa mất gốc, vừa nhƣ một nỗi
khát khao vƣơn tới”[24]
Ngồi ra cịn có nhiều luận văn, tiểu luận, bài viết đi vào khai thác quá trình
đổi mới nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu ở một khía cạnh nào đó:
Tìm hiểu Nguyễn Minh Châu ở vị trí văn học sử văn xi đƣơng đại,
Luận án tiến sĩ của Trịnh Thu Tuyết - Đại học Sƣ phạm Hà Nội (2001), Sáng tác
của Nguyễn Minh Châu trong sự vận động của văn xuôi đương đại đã khẳng
định nhà văn Nguyễn Minh Châu có những đóng góp quý báu đối với văn xuôi
Việt Nam đƣơng đại.
Đỗ Hải Ninh, Những đổi mới của Nguyễn Minh Châu trong dòng chảy
văn học đương đại, Viện Văn học, Khoa học Xã hội và Nhân văn. Bài viết nhìn
lại những đổi mới của Nguyễn Minh Châu và ý nghĩa của những đổi mới ấy
trong dịng chảy văn học Việt Nam hiện đại. Góp phần mở đƣờng cho tiến trình
đổi mới những chuyển động trong hành trình sáng tác của Nguyễn Minh Châu
đã phản chiếu chuyển động của nền văn học trên hành trình đổi mới.
Khi nghiên cứu tập truyện ngắn Cỏ Lau, Văn Chinh đã chỉ ra dấu hiệu của
tiểu thuyết trong những trang viết của nhà văn: “Cỏ lau gồm ba truyện ngắn bị
5
phá cách để thích nghi thời điểm hiếm hoi của ngƣời hiện đại dành cho tiểu
thuyết văn chƣơng (…). Mỗi truyện từ trên dƣới 60 trang, dày đặc chi tiết, cuồn
cuộn sức vóc và điệp trùng ý nghĩa” [10; 224]
Nguyễn Tri Nguyên với Những đổi mới về thi pháp trong sáng tác của
Nguyễn Minh Châu sau 1975 đã giúp độc giả có cái nhìn vừa khái qt vừa cụ
thể về thủ pháp nghệ thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu: “Trong
sáng tác của Nguyễn Minh Châu, đặc biệt ở trong truyện ngắn, thƣờng xuất hiện
những ẩn dụ, biểu tƣợng đa nghĩa không tham gia vào cốt truyện và hành động
nhân vật nhƣng nó giải bày đƣợc nhiều suy nghĩ của tác giả, nâng tác phẩm lên ý
nghĩa triết học và tƣợng trƣng” [10; 243]. Đồng thời tác giả bài viết đã khơi
dịng cho việc nghiên cứu: “ngơn ngữ phức điệu và đa thanh ngày càng đƣợc gia
tăng và trở nên hồn hảo đó là sự đan chéo của nhiều độc thoại và đối thoại”
[10; 245]. Nhận định của tác giả đã cho chúng ta thấy đƣợc việc vận dụng độc
đáo các loại ngôn ngữ trong sáng tác. Đây là tƣ liệu quý giúp chúng tôi tiếp tục
khám phá nghệ thuật truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu.
Trong Truyện ngắn Bức tran h- sự đối diện và thức tỉnh lương tâm,
Nguyễn Trọng Hồn đã có cái nhìn khái qt về nghệ thuật trần thuật trong
truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu khi cho rằng: “Ở Nguyễn Minh Châu còn
phải kể đến sự kết hợp nhuần nhị giữa ngôn ngữ đa thanh và thời gian, không
gian đồng hiện. Khi lùi vào độc thoại nội tâm, lúc chuyển sang đối thoại trực
tiếp, lúc cắt ngang bình luận ngoại đề, sự đan xen linh hoạt đó khiến cho ngơn
ngữ tác phẩm có một giọng điệu phức hợp, tạo nên hiệu quả cá biệt hóa hình
tƣợng nhân vật từ bình diện điểm nhìn trần thuật” [10; 171]
Chúng tơi nhận thấy khá nhiều cơng trình nghiên cứu về Nguyễn Minh
Châu tiếp cận tƣơng đối thấu đáo về con ngƣời, sự đổi mới trong phong cách
nghệ thuật của nhà văn, trong đó có đề cập đến tính độc thoại trong truyện ngắn
của Nguyễn Minh Châu. Nhƣng cũng chƣa tìm thấy cơng trình nào nghiên cứu
một cách trọn vẹn về vấn đề này. Vì thế, chúng tơi lựa chọn vấn đề “Tính đối
thoại trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975” để nghiên cứu nhằm góp
6
thêm một cái nhìn tồn diện về quan điểm sáng tác truyện ngắn sau năm 1975
của Nguyễn Minh Châu. Tuy nhiên, những cơng trình khoa học của những
ngƣời đi trƣớc đã giúp chúng tơi có thêm những góc nhìn về cuộc đời, sự đổi
mới trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Nghiên cứu tính đối thoại trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau
1975, luận án hƣớng đến mục đích làm rõ những biểu hiện của tính đối thoại
trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975. Qua đó khẳng định vị trí,
những đóng góp về cách tân nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Minh Châu đối với
văn xuôi Việt Nam đƣơng đại.
3.2. Từ việc nghiên cứu trên, luận văn cũng giúp cho chúng tôi thu thập
đƣợc một nguồn tài liệu phong phú, phục vụ cho việc học tập, giảng dạy và
nghiên cứu về Nguyễn Minh Châu.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu tính đối thoại trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975
trên ba phƣơng diện cơ bản:
- Nguyễn Minh Châu và khuynh hƣớng đối thoại trong văn học sau 1975.
- Những biểu hiện về nội dung của khuynh hƣớng đối thoại trong sáng tác
của Nguyễn Minh Châu sau 1975.
- Những biểu hiện về nghệ thuật trong việc thể hiện khuynh hƣớng đối
thoại trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung vào thể loại truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sau
1975. Ở lĩnh vực sáng tác này, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện rõ tài năng sáng
tạo của mình trong đổi mới, cách tân về tƣ duy nghệ thuật tự sự.
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn tập trung tìm hiểu những truyện
ngắn: Bức tranh, Hạng, Sắm vai,Chiếc thuyền ngoài xa, Người đàn bà trên
7
chuyến tàu tốc hành, Mùa trái cóc ở Miền Nam, Bến quê, Cỏ lau, Sống Mãi với
cây xanh, Khách ở quê ra, Phiên chợ Giát để làm rõ các biểu hiện của tính đối
thoại trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu. Từ đó, ngƣời viết hy vọng sẽ đƣa ra
đƣợc những kiến giải mang tính thuyết phục về tính đối thoại trong sáng tác của
Nguyễn Minh Châu.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Thực hiện luận án này, chúng tôi đã kết hợp nhiều phƣơng pháp và thao
tác nghiên cứu khác nhau. Trong đó, có các phƣơng pháp chủ yếu sau:
- Phƣơng pháp phân tích tổng hợp: Đi từ việc khảo sát phân tích từng tác
phẩm, chúng tôi chú ý đến những yếu tố nghệ thuật chính làm nên nét riêng
trong tính đối thoại của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu nhƣ điểm nhìn trần
thuật, lời văn, giọng điệu… Từ việc phân tích đó, chúng tơi hƣớng đến những
kết luận mang tính tổng hợp, khái quát nhất tạo nên ngòi bút Nguyễ Minh Châu.
- Phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành: Sử dụng kiến thức của các ngành
khoa học để thấy rõ sự khác biệt trong tƣ duy đối thoại. Qua đó, luận văn vận dụng
phân tích những vấn đề đƣợc đặt ra trong truyện ngắn để đối thoại tranh biện.
- Phƣơng pháp nghiên cứu cấu trúc- hệ thống: Phƣơng pháp này giúp luận
văn xem xét mối quan hệ giữa các yếu tố của nguyên lý đối thoại biểu hiện trong
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975. Cụ thể, dấu hiệu lặp lại có tính quy
luật của những yếu tố ấy nhằm biểu hiện nội dung, tƣ tƣởng trên tinh thần đối
thoại. Việc vận dụng phƣơng pháp này sẽ làm rõ sự tƣơng tác, đối thoại của mã
diễn ngơn thời đại với sự hình thành ngun lí đối thoại trong truyện ngắn Việt
Nam đƣơng đại.
Ngồi ra, để có cái nhìn tồn diện, khách quan trong khi nghiên cứu, đánh
giá vấn đề. Ngƣời viết còn vận dụng những kiến thức về các khoa học liên
nghành nhƣ: lí luận văn học, thi pháp học, phong cách học, phƣơng pháp luận
nghiên cứu văn học…để phục vụ hiệu quả cho vấn đề nghiên cứu mà ngƣời viết
lựa chọn.
8
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa khoa học
- Luận án góp phần đánh giá đầy đủ và toàn diện hơn về đặc điểm, thành
tựu văn xi Nguyễn Minh Châu nói chung và phong cách Nguyễn Minh Châu
nói riêng trong dịng chảy văn học Việt Nam hiện đại. Đồng thời còn là minh
chứng cho những đóng góp của nhà văn Nguyễn Minh Châu về sự đổi mới trong
sáng tác truyện ngắn sau năm 1975.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận án góp phần phục dựng chân dung văn học tác giả Nguyễn Minh
Châu và có thêm cơ sở cho những ghi nhận về đóng góp của Nguyễn Minh Châu
với nền văn học hiện đại.
- Luận án cũng là tài liệu tham khảo phục vụ công tác học tập, giảng dạy,
nghiên cứu cho sinh viên, giáo viên và các nhà nghiên cứu về truyện ngắn Việt
Nam hiện đại.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phần nội dung gồm có ba chƣơng:
Chƣơng 1: Nguyễn Minh Châu và khuynh hƣớng đối thoại trong văn học
sau 1975.
Chƣơng 2: Những biểu hiện về nội dung của khuynh hƣớng đối thoại
trong sáng tác Nguyễn Minh Châu.
Chƣơng 3: Những biểu hiện về nghệ thuật trong việc thể hiện khuynh
hƣớng đối thoại trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu.
9
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1: NGUYỄN MINH CHÂU VÀ KHUYNH HƢỚNG ĐỐI THOẠI
TRONG VĂN HỌC SAU 1975
1.1. Nguyễn Minh Châu, cuộc đời và sự nghiệp
1.1.1. Cuộc đời
Nguyễn Minh Châu sinh ngày 20 tháng 10 năm 1930, có tên khai sinh là
Nguyễn Thí. Đến khi đi học, bố mẹ mới đổi tên cho ơng là Minh Châu- có nghĩa
là ngọc sáng.
Q qn: làng Thơi, xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lƣu, tỉnh Nghệ An.
Ơng đƣợc sinh ra trong một gia đình khá giả có sáu anh chị em ( bốn trai,
hai gái). Là con út trong nhà nên Nguyễn Minh Châu đƣợc bố mẹ, nhất là các
anh chị chăm chút nuôi dƣỡng và đƣợc học hành đến nơi đến chốn.
Cùng với gia đình, làng Thơi đã in đậm dấu ấn trong tuổi thơ của Nguyễn
Minh Châu để rồi sau này những kỉ niệm về ngƣời và cảnh sẽ theo vào nhiều
trang viết của ông hòa quyện chung đúc nên nhân cách Nguyễn Minh Châu.
Lúc nhỏ, ơng đi học ở q sau đó di chuyển vào Huế học tiếp. Năm 19441945 ông học trƣờng kỹ nghệ Huế. Tháng 3 năm 1945 sau khi Nhật đảo chính
Pháp, ơng về q học tiếp và tốt nghiệp Thành chung. Năm 1948- 1949 ông học
Chuyên khoa trƣờng Huỳnh Thúc Kháng tại Nghệ An.
Tháng 1 năm 1950, ông gia nhập qn đội. Từ đây, ơng chính thức bắt
đầu sống cuộc đời ngƣời lính. Với nỗ lực cống hiến cho sự nghiệp cách mạng và
văn học, nên Nguyễn Minh Châu đã trở thành một đảng viên cộng sản khi vừa
tròn hai mƣơi tuổi. Năm 1951, ông đƣợc cử đi học ở Trƣờng sĩ quan Lục quân
Trần Quốc Tuấn chuyên đào tạo cán bộ chỉ huy tác chiến cho quân đội. Trẻ tuổi,
đảng viên, học viên trƣờng Trần Quốc Tuấn, có thể nói Nguyễn Minh Châu đã
đƣợc chuẩn bị đầy đủ để trở thành một quân nhân chuyên nghiệp. Thực tế anh
đã là một sĩ quan quân đội thực thụ trƣớc khi trở thành một nhà văn. Xin hãy dõi
theo từng chặng đƣờng thời kì đầu của ngƣời cán bộ Nguyễn Minh Châu: Tốt
10
nghiệp trƣờng Trần Quốc Tuấn, đƣợc cử làm trung đội trƣởng thuộc Sƣ đoàn
320. Từ năm 1952 đến 1956, nhà văn cơng tác ở Ban tham mƣu các tiểu đồn
722, 706 thuộc sƣ đoàn 320. Từ năm 1956 đến 1958, Nguyễn Minh Châu là
chính trị viên đại đội, trợ lý văn hóa thanh niên trung đồn 64. Năm 1958 ơng
đƣợc phong trung úy, sau đó đi học bổ túc quân sự khóa 2. Với các kinh nghiệm
về tác chiến, tham mƣu và hoạt động địch hậu, ông đã đƣợc giao viết tài liệu
tổng kết cuộc chiến đấu của quân dân ta ở quân khu Tả ngạn và đƣợc điều động
ở nhiều địa bàn khác nhau. Nhƣng chính trong lúc thực hiện nhiệm vụ của ngƣời
sĩ quan quân đội, niềm đam mê văn chƣơng từ hồi đi học ở cố đô Huế càng thêm
thôi thúc ông. Sự thôi thúc dần biến thành những vần thơ ơng viết cho mình, viết
tặng ngƣời yêu (sau này là vợ) và cả gửi đăng báo. Một bài thơ ơng gửi báo qn
đội đã đƣợc tịa soạn cho đăng và đăng chính là tấm giấy thơng hành đƣa anh
đến với văn học. Năm 1959, Hội nghị bạn viết toàn quân đƣợc tổ chức, Trung
đoàn 64 của ông cũng nhận đƣợc giấy mời cử cán bộ tham dự và ông là ngƣời
đƣợc lựa chọn đi tham dự hội nghị đó. Tại Hội nghị Nguyễn Minh Châu đã gặp
Xuân Thiều, Nam Hà, Văn Ngữ, những ngƣời cùng đồng hƣơng Hà Tĩnh, lại là
những ngƣời viết văn đã có tác phẩm, thậm chí cịn đƣợc cả giải thƣởng văn
nghệ. Vốn là ngƣời ít nói, song tình đồng đội, tình đồng hƣơng và đặc biệt là
tình yêu văn chƣơng cùng lúc đã xóa đi sự rụt rè, bẽn lẽn ở ông và ông hứa sẽ
viết. Giữ đúng lời hứa với bạn, năm 1960 khi ơng cơng tác tại phịng Văn nghệ,
tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam ông đã có truyện đầu tiên Sau
một buổi tập trên tạp chí Văn nghệ qn đội.
Năm 1961, ơng theo học trƣờng Văn hóa Quân đội ở Lạng Sơn. Năm
1962, Nguyễn Minh Châu chuyển cơng tác về tạp chí Văn nghệ quân đội (và
phục vụ tại đây với tƣ cách nhà văn quân đội cho đến khi mất). Đi thực tế
Trƣờng 400 pháo lục quân, đi Điện Biên Phủ. Năm 1963 ơng đi Trà Cổ, Thái
Bình. Đi tiểu đồn 48, Đại đồn 320, Tiên Lãng - Thủy Ngun (Hải Phịng).
Đƣợc phong thƣợng úy.
Từ năm 1964 đến năm 1971, Nguyễn Minh Châu đã có nhiều chuyến đi
thực tế ở chiến trƣờng nhƣ Quảng Bình, Vĩnh Linh, đƣờng 9 Nam Lào và đặc
11
biệt là chiến trƣờng Quảng Trị- nơi đây đã diễn ra nhiều trận đánh gay go và
quyết liệt. Là nhà văn- chiến sĩ, Nguyễn Minh Châu đã phản ánh kịp thời khơng
khí của cuộc đấu tranh và vẻ đẹp của con ngƣời Việt Nam trong kháng chiến.
Và chính trong những ngày mƣa dầm dề, dai dẳng ở miền trung này, nhà văn đã
có một nhận xét đầy triết lí “Chƣa bao giờ ta biết chân quý và trân trọng nhƣ bây
giờ cái công việc nhen lên đƣợc một ngọn lửa. Trời mƣa, củi ƣớt, bếp ƣớt. Chẻ
củi ra thành những thanh nhỏ và nhen lên đƣợc ngọn lửa cháy hom hem giữa
đống khói. Làm sao gây cho đƣợc ngọn lửa ấy, rồi ni nó cho nó cháy bền”.
Hình ảnh ngọn lửa khó nhọc nhen lên ấy rồi đây sẽ đƣợc Nguyễn Minh Châu
nâng lên thành hình ảnh về ngọn lửa cách mạng trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng
viết sau chuyến đi Dấu chân người lính.
Năm 1972, nhà văn đƣợc kết nạp vào hội viên Hội nhà văn Việt Nam.
Năm 1973 đƣợc phong đại úy, năm 1977 đƣợc phong thiếu tá, năm 1982 đƣợc
phong trung tá.
Từ ngày 26 đến ngày 28 tháng 9 năm 1983, với tƣ cách là đại biểu chính
thức Nguyễn Minh Châu đã tham dự Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ ba tại Hà
Nội; trong Đại hội này nhà văn đƣợc bầu vào Ban chấp hành Hội khóa ba(với
113/128 phiếu). Năm 1984 đƣợc tặng Huân chƣơng Quân công hạng Ba và
Huân chƣơng chống Mỹ cứu nƣớc hạng Nhất.
Tháng 6 năm 1986 ông đi Liên Xô dự Đại hội nhà văn Liên Xô lần thứ
tám. Cùng năm đó ơng đƣợc phong đại tá.
Tháng 3 năm 1988, ơng phát hiện mắc bệnh ung thƣ máu, vào thành phố
Hồ Chí Minh rồi đến điều trị ở chùa Pháp Hoa. Tháng 6 ông trở ra Hà Nội điều
trị ở Viện huyết học một tuần rồi về điều trị ở viện Quân y 108.
Việc mắc phải căn bệnh hiểm nghèo đã khiến cho hành trình sáng tác của
Nguyễn Minh Châu phải dừng lại khi tài năng đang ở độ chín. Vào hồi 20 giờ 30
phút ngày 23 tháng 01 năm 1989 nhà văn Nguyễn Minh Châu đã trút hơi thở
cuối cùng tại viện Quân y 108 Hà Nội, hƣởng thọ 59 tuổi.
12
Khi nói về Nguyễn Minh Châu, những ngƣời quen biết ông đều nhận thấy
đƣợc đằng sau vẻ ngoài hơi dè dặt ấy là một con ngƣời luôn trăn trở, vƣợt lên mọi
khó khăn thử thách, có niềm tin kiên định vào con đƣờng mà mình đã lựa chọn.
1.1.2. Sự nghiệp sáng tác
Sáng tác trước năm 1975
Nguyễn Minh Châu có một phong cách sáng tác vô cùng đặc biệt, với chất
văn bình dị gần gũi đã đem đến những giá trị sâu sắc cho mỗi tác phẩm, chạm
đến trái tim của ngƣời đọc.
Sự nghiệp văn học của ông bắt đầu vào năm 1960 với thể loại truyện
ngắn. Hầu hết nội dung trong các truyện ngắn của giai đoạn này là phản ánh
hình tƣợng con ngƣời Việt Nam cao đẹp và hình ảnh sôi động của dân tộc ta
trong cuộc chiến đấu.
Bƣớc vào giai đoạn kháng chiến chống Mĩ, đặc biệt khi tiểu thuyết Cửa
sơng(1967) ra đời thì sự nghiệp văn học của Nguyễn Minh Châu mới thực sự
khởi sắc. Thế nhƣng, chỉ với tập truyện ngắn Những vùng trời khác nhau, tiểu
thuyết Dấu chân người lính(1972) đã khẳng định vị trí của nhà văn trong nền
văn học Việt Nam những năm chống Mĩ.
Cửa sông là tác phẩm phản ánh rõ nét cuộc sống và chiến đấu của nhân
dân ta trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Mĩ. Tác phẩm kể về
vô số những mảnh đời khác nhau của những con ngƣời cùng chung lý tƣởng
cách mạng ở một làng quê ven biển.
Tập truyện ngắn Những vùng trời khác nhau đƣợc viết trong khoảng thời
gian những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mĩ. Tập truyện gồm có bảy
truyện ngắn, là những câu chuyện, hình ảnh con ngƣời trong chiến tranh. Đọc
tập truyện ngắn này ta nhận thấy nghệ thuật kể chuyện, cách tổ chức kết cấu và
việc tạo tình huống trong các truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu chƣa thực sự
đặc sắc. Nhƣng có một điểm đặc sắc trong bút pháp của Nguyễn Minh Châu mà
chúng ta không thể phủ nhận đƣợc là việc ông sử dụng rất thành cơng những
hình ảnh biểu tƣợng để bộc lộ chủ đề tƣ tƣởng tác phẩm.
13
Tác phẩm Dấu chân người lính (1972) đã tái hiện đƣợc một khung cảnh
rộng lớn, hào hùng của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Trong tác phẩm,
hình tƣợng ngƣời lính đƣợc ngịi bút Nguyễn Minh Châu khắc họa hết sức cao
đẹp. Tiêu biểu nhất trong số đó phải kể đến là thế hệ trẻ nhƣ Lữ, Khuê, Cận. Tuy
họ có hồn cảnh xuất thân khác nhau, nhƣng họ đến với cuộc chiến với tất cả
lòng nhiệt huyết, say mê của tuổi trẻ, lòng yêu nƣớc, ý thức trách nhiệm với tổ
quốc. Nên họ là đại diện tiêu biểu cho thế hệ trẻ thời chống Mĩ. Không những
thế, Dấu chân người lính cịn lơi cuốn ngƣời đọc bằng chất sử thi hào hùng và
chất trữ tình lãng mạn, đặc biệt là những trang viết miêu tả khung cảnh thiên
nhiên, những suy tƣ trong tâm hồn các nhân vật.
Tóm lại, nhà văn đã dành nửa đời ngƣời để tìm tịi, khám phá, ca ngợi vẻ
đẹp trong cuộc sống và tâm hồn con ngƣời trong chiến tranh “Mỗi con ngƣời
đều chứa đựng trong lòng những nét đẹp đẽ kỳ diệu đến nỗi cả một đời ngƣời
cũng chƣa đủ để nhận thức khám phá tất cả những cái đó”.
Sáng tác từ sau 1975
Sau năm 1975, đặc biệt là vào những năm 80 của thế kỉ XX, Nguyễn
Minh Châu đã sớm nhận ra những hạn chế của nền văn học lúc này. Nên nhà
văn đã miệt mài tìm tịi, chuyển hƣớng sáng tác, chọn cho mình một con đƣờng
đi mới. Sự thay đổi này, đã khiến ông trở thành một trong số những nhà văn mở
đƣờng tinh anh và tài năng nhất của văn học thời kì đổi mới.
Có thể thấy, sự đổi mới rõ nhất của ngòi bút Nguyễn Minh Châu là ở
mảng hiện thực viết về chiến tranh và ngƣời lính. Khơng phải ngẫu nhiên
Nguyễn Minh Châu là một trong những ngƣời đầu tiên đã đƣa ra cách nhìn mới
về hiện thực cuộc sống sau chiến tranh. Sự đổi mới này đƣợc nhà văn thể hiện rõ
trong bốn tiểu thuyết: Miền cháy (1977), Lửa từ những ngôi nhà (1977), Những
người đi từ trong rừng ra (1982), Mảnh đất tình yêu (1987). Đọc những tác
phẩm này ngƣời đọc đã thấy đƣợc sự chuyển biến sâu sắc trong nội dung tƣ
tƣởng và nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu.
14
Bên cạnh những cuốn tiểu thuyết, ta phải kể đến những truyện ngắn của
nhà văn ở giai đoạn này.
Mở đầu là truyện ngắn Bức tranh (đƣợc nhà văn viết từ năm 1976 nhƣng
phải đến năm 1982 mới đƣợc công bố). Truyện kể về nhân vật ngƣời họa sĩ, vì
tự ái nghề nghiêp mà ông đã từ chối vẽ bức tranh chân dung cho ngƣời chiến sĩ
để anh gửi về cho ngƣời mẹ già ở q đang đau lịng ngóng trơng con. Ngày
hôm sau, ngƣời họa sĩ gặp lại anh chiến sĩ với vai trị là ngƣời thồ tranh giúp
mình. Trên đƣờng chiến sĩ ấy giúp ngƣời họa sĩ vƣợt qua dịng lũ. Sau chặng
đƣờng ấy, chính ngƣời họa sĩ xin đƣợc vẽ chân dung ngƣời chiến sĩ cùng lời hứa
sẽ đƣa đến tận tay cho bà mẹ. Thế nhƣng ngƣời họa sĩ đã qn đi mất lời hứa
của mình. Ơng gửi bức tranh đó đi dự triển lãm, đoạt giải và trở thành ngƣời nổi
tiếng. Trong một lần tình cờ đi cắt tóc ngƣời họa sĩ đã gặp lại ngƣời chiến sĩ
năm nào, lúc này anh đang làm nghề cắt tóc và bà mẹ mù vì khóc con q nhiều.
Lƣơng tâm ngƣời họa sĩ hết sức dằn vặt, còn ngƣời chiến sĩ lại thản nhiên làm
cơng việc cắt tóc của mình nhƣ khơng hề nhận ra ngƣời họa sĩ năm xƣa.
Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành(tập truyện ngắn,1983), là câu
chuyện về ngƣời đàn bà tên Quỳ, với những kỷ niệm vui buồn thời chiến tranh.
Quỳ yêu anh trung đồn trƣởng Hịa- một con ngƣời con trai đáng mặt nam nhi
quân tử, tập trung “tất cả tinh hoa của nam giới”. Yêu Hòa nhƣng Quỳ lại đòi
hỏi nơi anh phải nhƣ một “thánh nhân”. Sau khi Hòa hy sinh, Quỳ luôn dằn vặt,
khổ đau. Sau này, cô lấy Ph (bạn cũ của Hòa) làm chồng. Rồi tai họa rơi xuống,
Ph bị đi tù. Quỳ luôn sống trong những mộng tƣởng. Vì thế, mà ngƣời ta đƣa cơ
vào bệnh viện tâm thần. Câu chuyện đƣợc Quỳ kể lại với ngƣời bạn cùng bệnh
viện Tâm thần.
Bến quê (1985), tác phẩm kể về nhân vật Nhĩ- anh đã từng đặt chân đến
nhiều nơi trên trái đất. Do mắc phải căn bệnh hiểm nghèo, Nhĩ không thể dịch
chuyển nên cuối đời cuộc sống của anh bị cột chặt vào chiếc giƣờng bên cạnh
cửa sổ. Từ cửa sổ bên giƣờng bệnh, anh nhìn sang bãi bồi bên kia sông Hồng.
Trong khoảng thời gian ấy Nhĩ đã phát hiện ra một vẻ đẹp bình dị mà hết sức
15
quyến rũ nơi bến quê quen thuộc của vùng đất bên kia. Và cũng chính trong lúc
nằm trên giƣờng này Nhĩ mới thấu hiểu đƣợc hết nỗi nhọc nhằn, đức hy sinh, tình
u thƣơng thầm lặng vơ bờ bến của vợ mình. Anh khao khát một lần đƣợc đặt
chân lên bãi bồi bên bờ sông kia. Nhƣng hiện thực mới khốc liệt làm sao, cái khao
khát tƣởng nhƣ dễ thực hiện ấy với anh bây giờ lại rất xa vời, khó thực hiện.
Chính vì thế, Nhĩ đã gửi gắm khát vọng cháy bỏng của mình lên ngƣời con trai.
Anh nhờ con trai mình thay mình đặt chân đến bên kia bờ sông. Tuy nhiên, ngƣời
con đã không hiểu đƣợc mong muốn của cha mình, nên trên đƣờng sang bờ bên
kia sơng, nó đã bị hấp dẫn bởi những trị chơi bên đƣờng, để rồi bị lỡ chuyến đò
ngang duy nhất trong ngày. Từ đó, Nhĩ đã rút ra đƣợc một quy luật đầy tính
nghịch lí của cuộc sống: "Con ngƣời ta khó tránh khỏi cái vịng vèo, chùng chình,
phải dứt ra khỏi nó để hƣớng tới những giá trị đích thực của cuộc sống".
Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa (1987) kể về cuộc gặp gỡ đầy bất ngờ
giữa nghệ sĩ Phùng với gia đình ngƣời đàn bà hàng chài. Để có một bộ ảnh về
thuyền và biển cho năm mới, theo sự phân cơng của trƣởng phịng. Nghệ sĩ
Phùng đã đi đến vùng biển- nơi trƣớc đây anh đã từng chiến đấu. Sau nhiều ngày
“phục kích”, nghệ sĩ Phùng đã chụp đƣợc một bức ảnh tuyệt đẹp, một cảnh đắt
trời cho mà có lẽ trong suốt cuộc đời cầm máy anh sẽ khơng có lần thứ hai bấm
máy, đó là cảnh về một chiếc thuyền lƣới vó ngồi xa trên biển sớm mờ sƣơng.
Nhƣng khi chiếc thuyền lƣới vó đẹp nhƣ mơ ấy vào gần bờ, anh kinh ngạc khi
chứng kiến cảnh bƣớc xuống từ chiếc thuyền ấy là một ngƣời đàn ơng và ngƣời
đàn bà với dáng hình nghèo khổ, cơ cực, cảnh ngƣời chồng đánh vợ một cách dã
man, cảnh ngƣời vợ khơng khóc lóc, cầu xin, khơng chống lại, cũng khơng tìm
cách chạy trốn. Thằng con trai vì muốn bảo vệ mẹ nên đã đánh lại cha mình.
Chứng kiến cảnh tƣợng đó, lúc đầu Phùng ngạc nhiên, đứng sững. Nhƣng với
tinh thần, phẩm chất của ngƣời lính, anh không chấp nhận đƣợc cảnh tƣợng nên
anh đã quẳng máy ảnh xuống đất chạy tới can ngăn. Tại tòa án huyện, Phùng đã
đƣợc nghe câu chuyện về cuộc đời của ngƣời đàn bà hàng chài. Anh rất ngạc
nhiên, không hiểu sao ngƣời đàn bà ấy lại từ chối sự giúp đỡ của mình và Đẩu.
Nhƣng, sau khi nghe đƣợc lý do mà ngƣời đàn bà đƣa ra thì “bây giờ tôi đã
16
hiểu,- bất ngờ Đẩu trút một tiếng thở dài đầy chua chát”. Từ cuộc trò chuyện
này, nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu đã có cái nhìn mới về con ngƣời và cuộc
đời. Tấm ảnh thuyền và biển mà nghệ sĩ Phùng chụp ngày hơm đó cho đến mãi
sau này “vẫn đƣợc treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật”.
Tuy nhiên, mỗi lần tơi đứng ngắm tấm ảnh đen trắng ấy, bao giờ tôi cũng thấy
“hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sƣơng mai” và “nếu nhìn lâu hơn”, bao giờ
tơi cũng thấy ngƣời đàn bà nghèo khổ, lam lũ ấy đang bƣớc ra khỏi tấm ảnh rồi
hịa lẫn trong đám đơng.
Truyện ngắn Phiên chợ Giát (1988), là câu chuyện kể về lão Khúng trong
khoảng thời gian đi chợ bán bò, Trong truyện, tác giả miêu tả tâm trạng của lão
Khúng từ khi ông thức dạy rồi đi trên đƣờng, khoảng thời gian ấy là 5 tiếng
đồng hồ. Song ta thấy, cuộc hành trình này khơng dừng lại ở đó nó cứ dài thêm,
thêm mãi những hồi tƣởng của lão. Trong dòng hồi tƣởng ấy là những đau khổ,
những nhọc nhằn và rất nhiều nƣớc mắt.
Cỏ lau (truyện vừa, 1989), câu chuyện đƣợc kể trong Cỏ lau là câu
chuyện của Lực, nhân vật xƣng Tơi, một cán bộ cấp trung đồn, ngay sau khi
chiến tranh kết thúc đã trở lại khu vực thành cổ Quảng Trị với nhiệm vụ thu thập
hài cốt các đồng đội đã hy sinh.
Ở những truyện ngắn này, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã có những
hƣớng tiếp cận mới để khám phá hiện thực của cuộc sống. Ngòi bút của ông đã
chuyển hƣớng vào những vấn đề thế sự trong cuộc sống hàng ngày, đó là những
vấn đề nhân sinh, đạo đức. Bên cạnh đó, truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau
năm 1975 còn là sự chiêm nghiệm, suy tƣ về số phận của con ngƣời, những thay
đổi của đời ngƣời do chiến tranh mang lại.
Với tiểu luận Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa,
Nguyễn Minh Châu đã khái quát đời văn của mình thành hai giai đoạn: minh
họa và đoạn tuyệt với lối minh họa. Chính vì thế, nhà văn đã tìm cho mình một
hƣớng đi riêng đến với những giá trị vĩnh hằng. Để làm đƣợc điều này ông
không ngừng khám phá, đào sâu vào mọi ngóc ngách con ngƣời.
17
1.2. Khuynh hƣớng đối thoại trong văn học sau 1975 và tƣ tƣởng đổi mới
quyết liệt trong sáng tác Nguyễn Minh Châu.
1.2.1. Đối thoại – một trong những khuynh hướng tiếp cận cuộc sống của văn học
1.2.1.1. Khái niệm
Theo Từ điển tiếng Việt (Hồng Phê chủ biên) thì đối thoại có nghĩa là:
“1. Nói chuyện qua lại giữa hai hay nhiều ngƣời với nhau. Cuộc đối thoại.
Ngƣời đối thoại. Đoạn đối thoại trong vở kịch. 2. Bàn bạc, thƣơng lƣợng trực
tiếp giữa hai hay nhiều bên để giải quyết các vấn đề tranh chấp. Chủ trƣơng
không đối đầu mà đối thoại”.
Theo quan điểm của F.de Saussure, ông cho rằng những tính đối thoại
thuộc lĩnh vực lời nói; tuy hình thức giao tiếp vẫn bao gồm hai chủ thể là ngƣời
nói và ngƣời nghe. Nhƣng ta thấy, ngƣời nghe ở đây chỉ là ngƣời tiếp nhận đối
thoại một cách thụ động chứ không phải là ngƣời tham gia đối thoại.
Trong khi đó, lí thuyết hoạt động giao tiếp thì lại cho rằng một phát ngơn
bao giờ cũng mang tính đối thoại nhƣng thể hiện ở nhiều mức độ khác nhau, do
đó sẽ dẫn đến sự luân phiên đổi vai trong giao tiếp.
Khi tìm hiểu một cuộc đối thoại, bao giờ ta cũng thấy có ba vận động chủ
yếu làm biến đổi lẫn nhau. Nói nhƣ M. Bakhtin: “Ngơn ngữ chỉ sống trong sự
giao tiếp đối thoại giữa những ngƣời sử dụng ngơn ngữ. Sự giao tiếp đối thoại
chính là lĩnh vực đích thực của cuộc sống ngơn ngữ. Tồn bộ cuộc sống của
ngơn ngữ trong bất kì lĩnh vực nào sử dụng nó (sinh hoạt, sự vụ, khoa học, nghệ
thuật…) đều thấm nhuần những quan hệ đối thoại” [27; 172]
Tác giả M. Bakhtin cho rằng đối thoại không chỉ diễn ra trực tiếp mà còn
diễn ra ở dạng đối thoại ngầm. Để nhận thức đƣợc điều này phải thông qua hai
chiều đối thoại: Đối thoại trong “cái tôi” là đối thoại ngầm trong tƣ duy của
ngƣời tiếp nhận để xác lập nhận thức của mình; Cịn đối thoại “tơi” và “ngƣời
khác” là đối thoại giữa những luồng nhận thức, điểm nhìn…của các chủ thể
tham gia giao tiếp khác nhau. Nhƣ vậy, việc giao tiếp đối thoại không chỉ đơn
18
thuần nhằm mục đích thơng tin. Đồng thời, nó cịn tác động đến ngƣời đối thoại
về quan điểm, tình cảm và hành động.
Từ đó, Bakhtin xác định đối thoại là bản chất của ý thức, tƣ tƣởng con
ngƣời “Tƣ tƣởng không sống trong ý thức của cá nhân đã bị tách biệt của con
ngƣời (…). Tƣ tƣởng bắt đầu sống tức là đƣợc hình thành, đƣợc phát triển, nó
tìm ra và đổi mới cách biểu hiện bằng lời, sản sinh ra những tƣ tƣởng mới bằng
cách tham gia vào các quan hệ đối thoại quan trọng với các tƣ tƣởng khác của
ngƣời khác. Ý nghĩ của con ngƣời chỉ trở thành ý nghĩ đích thực, tức là trở thành
tƣ tƣởng trong điều kiện tiếp xúc sinh động với ý nghĩ ngƣời khác, đƣợc thể hiện
thành tiếng nói khác, tức là với một ý thức khác đƣợc diễn đạt thành ngôn từ”
[27; 80]
Trong xã hội, con ngƣời trao đổi với nhau bằng giao tiếp nên giao tiếp,
đối thoại với nhau cũng là một yêu cầu bắt buộc đối với mọi thành viên trong xã
hội. Trong q trình giao tiếp đó, con ngƣời học đƣợc cách đối xử với nhau, với
thiên nhiên một cách bình đẳng, từ đó con ngƣời ngày càng hồn thiện mình
hơn. Trong các cuộc giao tiếp, con ngƣời thƣờng trao đổi với nhau ở rất nhiều
phƣơng diện nhƣ trong lời ăn tiếng nói hàng ngày, tơn giáo, nghệ thuật, đạo đức,
pháp luật,… Trong đó, nghệ thuật là một hình thức đặc biệt của giao tiếp. Bởi
nghệ thuật khơng chỉ là phƣơng tiện giúp con ngƣời trao đổi thông tin mà ở đó
con ngƣời đƣợc giao lƣu tâm hồn của mình với tâm hồn của ngƣời khác, từ đó
nhận thức rõ hơn về mình, thế giới xung quanh mình. Nhƣ vậy, ta thấy cuộc
sống vốn là một cuộc đối thoại lớn ở đó tồn tại nhiều tiếng nói, nhiều giọng
điệu. Trong xã hội con ngƣời không thể tồn tại nếu khơng giao tiếp, đối thoại. Vì
thế “Tồn tại có nghĩa là giao tiếp bằng đối thoại. Khi đối thoại kết thúc thì mọi
sự cũng hết… Một tiếng nói khơng kết thúc gì hết và khơng giải quyết gì hết.
Hai tiếng nói là cái tối thiểu của sự sống, cái tối thiểu của tồn tại” [27; 235]
Đối thoại là hoạt động trao đổi giữa ít nhất là hai chủ thể trong một hoạt
động giao tiếp. Trong quá trình đối thoại, các chủ thể tham gia giao tiếp phải
biết từ bỏ thói quen của cá nhân mình; thay vào đó các chủ thể phải cùng nhau
19
tìm hiểu, hợp tác trong giao tiếp. Thơng qua đối thoại con ngƣời có cơ hội bộc lộ
đƣợc suy nghĩ của mình.
Nhƣ vậy, tính đối thoại là một trong những lý thuyết đƣợc khơi nguồn từ
Mikhail Bakhtin. Ông cho rằng trong tiểu thuyết đa thanh, tác giả không phải là
ngƣời quyết định tƣ tƣởng của tác phẩm, cái quyết định là quan hệ đối thoại của các
nhân vật, bởi vì mỗi nhân vật tồn tại nhƣ là một nhà tƣ tƣởng. Tác giả cũng chỉ là
ngƣời tổ chức đối thoại mà thôi. Chủ nghĩa hậu hiện đại lại nhấn mạnh tính đa
nguyên, đa nghĩa của thế giới, chủ trƣơng giải thích là một kiểu đối thoại. Đó là
cuộc đối thoại giữa hiện tại và quá khứ, giữa ngƣời đọc và văn bản, ngƣời đọc và
ngƣời đọc. Mikhail Bakhtin cho rằng đối thoại, đối lập là trung tâm của tất cả.
Thông qua đối thoại các quan điểm khác nhau có thể va chạm hoặc bổ khuyết cho
nhau, từ đó mà chủ đề của tác phẩm đƣợc hồn thành, thăng hoa.
1.2.1.2. Tính đối thoại trong văn học thế giới
Khởi nguyên của tính đối thoại bắt nguồn từ Socrate (khoảng 470- 399
trƣớc Công Nguyên). Đối thoại triết học Socrate trên phƣơng diện một thể loại
đã khẳng định vai trò quan trọng của đối thoại trong đời sống và những tƣ tƣởng
sâu xa triết gia cổ đại.
Đến những năm 20 của thế kỷ XX, M Bakhtin trong tác phẩm Những vấn
đề thi pháp Đôxtôiépxki (1929,1963) khi bàn về ngôn từ tiểu thuyết, tác giả và
nhân vật Bakhtin đã chú ý đến các quan hệ đối thoại của ý thức con ngƣời nhƣng
lại đƣợc biểu hiện qua ngơn ngữ, làm cho ngơn ngữ có đƣợc sự sống.
Từ thể loại “đối thoại Xôcrát” cổ đại Bakhtin nhận xét: “Chân lý không
nảy sinh và không nằm trong đầu một con ngƣời riêng lẻ, nó nảy sinh giữa
những con ngƣời đang cùng nhau đi tìm chân lý và trong quá trình giao tiếp đối
thoại giữa họ với nhau”. Sau này ông hiểu sâu hơn, sự tồn tại của bản thân con
ngƣời là một cuộc giao tiếp sâu sắc nhất. Do vậy, “Tơi khơng thể sống mà khơng
có ngƣời khác, tơi khơng thể trở thành chính tơi nếu khơng có ngƣời khác và tơi
phải tìm thấy mình trong ngƣời khác và tìm thấy ngƣời khác trong chính mình”.
Bản chất tồn tại ấy quy định sự sống của ngôn từ: “Ngôn ngữ chỉ sống trong sự
20
giao tiếp đối thoại giữa những ngƣời sử dụng ngôn ngữ. Sự giao tiếp đối thoại
chính là lĩnh vực đích thực của cuộc sống của ngơn ngữ”. Quan niệm đó đã rọi
ánh sáng mới vào một đặc trƣng của ngôn ngữ- đó là tính đối thoại. Đối thoại
đây là khái niệm “siêu ngôn ngữ học” khác với khái niệm đối thoại, hội thoại
của ngôn ngữ học chỉ giới hạn trong phạm vi lời hỏi, đáp đƣợc để trong ngoặc
kép hoặc sau cái dấu gạch đầu dòng. Bakhtin nhận xét: “Lời trên cửa miệng một
ngƣời, khi chuyển sang miệng ngƣời khác, nội dung nhƣ cũ, nhƣng ngữ điệu và
ý vị thì đã thay đổi”. Ơng nói: “Lời ngƣời khác một khi đƣợc đƣa vào lời của
chúng ta thì tất yếu tiếp nhận cách lý giải mới của ta và sự đánh giá của ta, có
nghĩa là đã trở thành lời hai giọng khác nhau chăng chỉ là tƣơng quan giữa hai
giọng đó với nhau”.
Từ khái niệm tính đối thoại đó, Bakhtin phân biệt “đối thoại lớn” với đối
thoại của nhân vật đƣợc đặt trong ngoặc kép. Đối thoại lớn là đối thoại có tính
bản chất giữa đời sống lồi ngƣời và bản thân tƣ tƣởng của loài ngƣời, tức là
quan hệ đối thoại bình đẳng của các tƣ tƣởng lồi ngƣời trong cuộc sống. Chẳng
hạn nhƣ đối thoại giữa Raxcônnhicốp với Xơnhia – hóa thân của niềm tin tơn
giáo, với Porphiri – đại diện cho tinh thần pháp luật, là đối thoại lớn trong Tội
ác và trừng phạt. Đối thoại này vƣợt lên trên các đối thoại cụ thể. Đối thoại lớn
còn là quan hệ đối thoại giữa tác giả và nhân vật. Tác giả đây là chủ thể sáng tạo
chứ không giản đơn là ngƣời trần thuật
Qua việc khảo sát tiểu thuyết Dostoievski, Todorov đã chỉ ra mối quan hệ
giữa nhân vật- bạn đọc, nhà văn- bạn đọc. Tác giả đặc biệt nhắc đến ngƣời tạo ra
văn bản. Văn học hiện đại khẳng định vai trò độc lập của tác phẩm trong việc
tiếp nhận với ngƣời đọc, quá trình này là cơ sở lí luận để văn học hậu hiện đại
chuyển sang mĩ học tiếp nhận. Bởi mĩ học tiếp nhận ln khẳng định ngƣời đọc
chính là đối tác đối thoại với tác phẩm văn học.
Nhƣ vậy, khi nghiên cứu lí thuyết đối thoại gắn với M. Bakhtin ở những
năm đầu thế kỷ XX. Và lí thuyết đối thoại có sự phát triển, tiếp biến theo nhiều