ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
---------------
VŨ THỊ NGỌC TRÂM
THƠ ĐỀ VỊNH TRONG THƠ NÔM TRUYỀN TỤNG
HỒ XUÂN HƢƠNG TỪ GĨC NHÌN SO SÁNH VỚI THƠ
ĐỀ VỊNH TRONG HỒNG ĐỨC QUỐC ÂM THI TẬP
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8220121
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƠN NGỮ VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. Trần Nho Thìn
Thái Nguyên - 2022
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan với Hội đồng khoa học đây là cơng trình nghiên cứu của cá
nhân tơi dƣới sự hƣớng dẫn của GS.TS Trần Nho Thìn. Các số liệu trích dẫn đều có
nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều trung thực và chƣa
từng đƣợc cơng bố ở bất kỳ cơng trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 12 năm 2022
Tác giả luận văn
Vũ Thị Ngọc Trâm
ii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tôi xin đƣợc gửi lời cảm ơn chân
thành và sâu sắc tới GS.TS Trần Nho Thìn, ngƣời đã ln đồng hành, chỉ bảo,
hƣớng dẫn tận tình và tạo điều kiện để tơi nghiên cứu và hồn thành luận văn này.
Tơi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo, Khoa Ngơn
ngữ và văn hóa, Trƣờng Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên và các thầy, cô
giáo đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập.
Tơi xin chân thành cảm ơn các tác giả, những nhà nghiên cứu đã giúp tơi có
nguồn tƣ liệu quý giá để tham khảo và hoàn thành luận văn .
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động
viên, ủng hộ về tinh thần để tơi hồn thành luận văn .
Xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 12 năm 2022
Tác giả luận văn
Vũ Thị Ngọc Trâm
iii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................................... 1
3. Mục đích nghiên cứu ............................................................................................... 7
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 8
5. Phƣơng pháp nghiên cứu......................................................................................... 8
6. Đóng góp của luận văn ............................................................................................ 9
7. Cấu trúc của luận văn .............................................................................................. 9
CHƢƠNG 1. CÁC VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ...................................... 10
1.1. Các khái niệm ..................................................................................................... 10
1.2. Lí luận về phƣơng pháp so sánh......................................................................... 12
1.2.1. Khái niệm ................................................................................................. 12
1.2.2. So sánh trong nghiên cứu văn học ............................................................ 12
1.3. Nữ sĩ Hồ Xuân Hƣơng và các tác giả “ Hồng Đức Quốc âm thi tập”................ 15
1.3.1. Nữ sĩ Hồ Xuân Hƣơng .............................................................................. 15
1.3.2 Tác giả “ Hồng Đức Quốc âm thi tập” ...................................................... 17
1.4. Vấn đề văn bản thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hƣơng và “Hồng Đức quốc âm
thi tập” ...................................................................................................................... 18
1.4.1. Vấn đề văn bản thơ Hồ Xuân Hƣơng ....................................................... 18
1.4.2. Vấn đề văn bản Hồng Đức quốc âm thi tập.............................................. 19
1.5. Tiểu kết chƣơng 1 .............................................................................................. 21
CHƢƠNG 2. THƠ VỊNH VẬT TRONG THƠ NÔM TRUYỀN TỤNG HỒ XUÂN
HƢƠNG QUA CÁI NHÌN SO SÁNH VỚI HỒNG ĐỨC QUỐC ÂM THI TẬP .. 22
2.1. Thơ vịnh vật trong thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hƣơng ......................... 22
2.2. Thơ vịnh vật trong Hồng Đức quốc âm thi tập .................................................. 29
2.3. Tiểu kết chƣơng 2 .............................................................................................. 34
CHƢƠNG 3. THƠ VỊNH CẢNH THIÊN NHIÊN TRONG THƠ NÔM TRUYỀN
TỤNG HỒ XUÂN HƢƠNG QUA CÁI NHÌN SO SÁNH VỚI HỒNG ĐỨC
QUỐC ÂM THI TẬP ................................................................................................ 36
iv
3.1. Thơ vịnh cảnh thiên nhiên trong thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hƣơng ............ 36
3.2. Thơ vịnh cảnh thiên nhiên trong Hồng Đức quốc âm thi tập............................. 52
3.3. Tiểu kết chƣơng 3 .............................................................................................. 71
CHƢƠNG 4: THƠ VỊNH CẢNH SINH HOẠT, LAO ĐỘNG TRONG THƠ NÔM
TRUYỀN TỤNG HỒ XUÂN HƢƠNG TRONG SỰ SO SÁNH VỚI HỒNG ĐỨC
QUỐC ÂM THI TẬP ................................................................................................ 73
4.1. Thơ vịnh cảnh sinh hoạt, lao động trong thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân
Hƣơng ........................................................................................................................ 73
4.2. Thơ vịnh cảnh sinh hoạt, lao động trong Hồng Đức quốc âm thi tập ................ 80
4.3. Tiểu kết chƣơng 4 .............................................................................................. 83
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 89
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hƣơng từ lâu đã trở thành nguồn đề tài
hấp dẫn cho các nhà nghiên cứu tìm hiểu, khám phá. Trong đó, đề vịnh là mảng thơ
độc đáo nhất, vì chúng có hai nghĩa, có gây ra tranh luận dâm- tục. Đằng sau cái
nghĩa “ lấp lửng” giữa “dâm” và “tục” kia nhiều nhà nghiên cứu phê bình lại phát
hiện ra “ một nhà thơ viết Nôm thuần tuý thoát hẳn ảnh hƣởng dân tộc của thơ văn
chữ Hán” với tính chất phản phong, chống phong kiến. Điều đó khiến cho việc
nghiên cứu mảng sáng tác này trong thơ Hồ Xuân Hƣơng trở thành đề tài chƣa hề
có lời kết.
1.2. Một trong những phƣơng pháp hữu hiệu nhất để nhận diện đặc điểm thơ đề
vịnh Hồ Xuân Hƣơng là so sánh. Vì thế, chúng tơi lựa chọn phƣơng pháp so sánh thơ đề
vịnh có tính chất thế tục trong mảng thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hƣơng với thơ đề
vịnh chính thống của nhà nho trong “ Hồng Đức quốc âm thi tập”. Đây là hai đối tƣợng
đại diện cho hai kiểu điển phạm của thơ thế tục và thơ nhà Nho. Hơn nữa, trong lịch sử
nghiên cứu văn học Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu lớn nhỏ về Hồng Đức quốc âm thi
tập và thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hƣơng nhƣng phần lớn các công trình đều nghiên
cứu độc lập hai đối tƣợng này và chủ yếu nghiêng về phƣơng diện thi pháp học, tiểu sử
học, ngơn ngữ học hay các khía cạnh nội dung khác. Nghiên cứu so sánh mảng thơ đề
vịnh trong hai đối tƣợng này thì hầu nhƣ chƣa có .
1.3. Tiếp cận đối tƣợng từ góc nhìn so sánh và nội dung của đề tài rất cần
cho bản thân tôi – một giáo viên dạy văn ở cấp Trung học phổ thơng.
Từ những lí do trên, chúng tơi lựa chọn đề tài: Thơ đề vịnh trong Thơ Nôm
truyền tụng Hồ Xuân Hƣơng từ góc nhìn so sánh với thơ đề vịnh trong “Hồng Đức
quốc âm thi tập làm đề tài nghiên cứu cho luận văn .
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1 .Lịch sử nghiên cứu thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương – vấn đề thơ đề vịnh
Hồ Xuân Hƣơng là một hiện tƣợng thơ độc đáo trong lịch sử văn học trung
đại Việt Nam. Một trong những yếu tố làm nên vẻ độc đáo này chính là nhờ mảng
2
thơ đề vịnh. Các đối tƣợng đƣợc đề vịnh phần lớn mang hai lớp nghĩa: nghĩa hiển
hiện và nghĩa ngầm ẩn. Đối tƣợng đề vịnh đƣợc miêu tả chính xác, cụ thể, giàu sức
gợi nên các nhà nghiên cứu đã sớm nhận ra tính chất dục tính (theo cách gọi của
nhà nho là chất dâm tục) trong mảng thơ này. Nghiên cứu hai nghĩa bao hàm chất
dâm tục của thơ đề vịnh Hồ Xuân Hƣơng cho đến nay có ba hƣớng chính:
Hƣớng thứ nhất cho rằng do Hồ Xuân Hƣơng khủng hoảng tình dục (vận
dụng phân tâm học Freud) nên ái tình bị dồn ép, thốt ra bằng thơ ( Nguyễn Văn
Hanh….)
Hƣớng thứ hai thì lại cho rằng Hồ Xuân Hƣơng dùng yếu tố dâm tục để đả
kích giai cấp thống trị phong kiến (Hoa Bằng, Xuân Diệu…)
Hƣớng thứ ba cho rằng Hồ Xuân Hƣơng khát khao dục tính lành mạnh
(Nguyễn Lộc), Hồ Xuân Hƣơng không hề tục (Đỗ Đức Hiểu), Hồ Xuân Hƣơng hoài
niệm phồn thực (Đỗ Lai Thúy)
Nhƣng tựu chung có ba luồng ý kiến chính đại diện tiêu biểu:
Trƣớc hết là Nguyễn Văn Hanh trong cuốn “ Hồ Xuân Hƣơng – tác phẩm,
thân thế và văn tài”(1937) đã áp dụng học thuyết phân tâm học của Freud để đi đến
khẳng định một cách dập khn, máy móc rằng: Bà chúa thơ Nôm thuộc dạng thèm
khát ái ân “ bất mãn về tình dục”,“ khủng hoảng về tình dục” nên kết bệnh, ảnh
hƣởng tới tâm lí sáng tác đến mức “ chuyển qua mĩ thuật thơ”[11].
Tác giả Văn Tân trong cơng trình Hồ Xn Hương với các giới phụ nữ
(1957) đã thơng qua việc tìm hiểu các bài thơ đề vịnh có hai nét nghĩa để khẳng
định nữ sĩ họ Hồ là một nhà thơ dâm tục : “Dâm và tục đã ăn sâu vào ý thức, tƣ
tƣởng Xuân Hƣơng, chi phối hầu hết thi phẩm Xuân Hƣơng, giúp Xuân Hƣơng viết
nên vần thơ kiệt tác, độc đáo, làm cho Xuân Hƣơng nhìn ra đời thấy cái gì cũng là
dâm và tục. Gặp bất cứ cái gì cũng có thể gán cho những ý dâm và tục”[34].
Xuân Diệu trong cuốn Hồ Xuân Hương, bà chúa thơ Nôm (1961) chỉ rõ,
trong nhiều bài thơ đề vịnh cảnh, vịnh vật mang hai nghĩa: nghĩa phơ ra( nghĩa
chính thức của bài) và nghĩa ngầm( nghĩa ẩn dụ). Điều này xuất phát từ hai lí do.
Một là lí do xã hội: “ Thơ Xuân Hƣơng cũng cùng một truyền thống, một nếp với rất
3
nhiều câu đố tục giảng thanh rất phổ biến trong nhân dân”, hai là do cá tính của Hồ
Xuân Hƣơng, “một cá tính có thể mang dấu tích của cuộc đời tình duyên ngang
trái, dở dang, đau khổ của nàng” để bênh vực cho bà chúa thơ Nôm: “ Thơ Xuân
Hƣơng là tục hay là thanh? Đố ai bắt đƣợc: Bảo rằng nó hồn tồn là thanh, thì cái
nghĩa thứ hai của nó có giấu đƣợc ai, mà Xuân Hƣơng có muốn giấu đâu. Mà bảo
nó là nhảm nhí, là tục, thì có cái gì là tục nào?”[7]. Và hình nhƣ ông muốn tranh
luận với Trần Thanh Mại là ngƣời quả quyết có cái tục trong thơ Nơm Hồ Xn
Hƣơng và đề nghị nên loại bỏ những bài gọi là tục đó, thách đố chỉ ra đƣợc chỗ tục
dâm trong thơ tác giả họ Hồ.
Trần Thanh Mại trong bài viết Thử bàn lại vấn đề dâm tục trong thơ Hồ
Xuân Hương (1963) lại tiếp tục khai thác giá trị của các bài thơ đề vịnh nhƣ Bánh
trôi nước, Lấy chồng chung, Chùa Quán Sứ, Quan thị … để đƣa ra chủ trƣơng
ứng xử với thơ “tục dâm” theo tiêu chuẩn đạo đức Nho gia [24].
Nguyễn Lộc trong cuốn Thơ Hồ Xuân Hương (1976) đã chỉ ra tính hai
nghĩa của các bài thơ đề vịnh và bảo vệ sự chính đáng của yếu tố tình dục: ngồi
nghĩa ban đầu khi miêu tả quả mít, chiếc quạt, dệt cửi…, Hồ Xuân Hƣơng nhƣ
muốn nói chuyện của đàn bà và chuyện gối chăn trong buồng kín của vợ chồng.
Đồng thời ơng lên tiếng bảo vệ quyền lợi ngƣời phụ nữ nói chung và Hồ Xuân
Hƣơng nói riêng: “Nhà thơ nói đến hạnh phúc ái ân đâu phải là dâm đãng? Xã hội
phong kiến chủ trƣơng tiêu diệt cá tính, cái gì “là mình”, “của mình” đều bị coi là
xấu xa, đê tiện và “thanh cao” là huỷ diệt mọi nhu cầu cá nhân để tơn thờ giai cấp
thống trị, thì sao một kẻ dám “là mình”, dám nói lên khát vọng chân thành của
mình lại khơng đƣợc ngợi khen mà bị coi là dâm đãng? Tiếng thơ của Xuân Hƣơng
có quá quắt, nhu cầu ân ái của Xuân Hƣơng có da diết và táo tợn, nhƣng xét cho
công bằng, đâu phải lỗi của nhà thơ?”[20]
Đỗ Đức Hiểu đọc Hồ Xuân Hƣơng theo lý luận thi pháp hiện đại trong Thế
giới thơ Nôm Hồ Xn Hương (1990) ơng đã dựa vào phân tích các mơtíp nhƣ: mơ
típ hang động, mơ típ văng vẳng, mơ típ trắng son, mơ típ trăng khuya trong các bài
thơ đề vịnh nhƣ Kẽm Trống, Động Hương tích, Quán Khánh, Đèo Ba Dội…để
khẳng định: “Hồ Xuân Hƣơng “hoà đồng” cái “thiêng liêng” với cơ thể ngƣời phụ
4
nữ, tức là tiếng nói của tự nhiên, của bản năng mn thủa của lồi ngƣời, của
hạnh phúc con ngƣời”. Đỗ Đức Hiểu phản đối việc tranh luận về “cái thanh, cái tục”
hoặc “đố tục giảng thanh”, hay “đố thanh giảng tục”, hay nữa “chuyện buồng
kín”…, mà “Hồ Xuân Hƣơng góp tiếng thơ đầy nhạc, biểu đạt sức sống và cái đẹp
của cơ thể, của tấm thân và trái tim rất trẻ của ngƣời phụ nữ, trong định mệnh đầy
cay đắng”.[14]
Đỗ Lai Thuý trong cuốn Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực (1995) cũng
đã khai thác triệt để và sâu sắc giá trị biểu đạt của các bài thơ đề vịnh trong phần
thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hƣơng đề đi khẳng định: “Những biểu tƣợng phồn
thực nói chung và biểu tƣợng phồn thực của Hồ Xuân Hƣơng nói riêng là có hai
mặt, lấp lửng, thiêng và tục, thanh và tục”[42]. Ơng cịn cơng nhận thơ nữ sĩ họ Hồ
vừa thanh vừa tục nhƣng ý nghĩa cơ bản của những biểu tƣợng “dâm tục” là ý nghĩa
phồn thực.
Trần Nho Thìn trong cuốn “ Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ
XIX” thì cho rằng: chỉ đáng tin thơ tự tình là thực sự của Hồ Xuân Hƣơng, cịn thơ đề
vịnh có rất nhiều bài tục dâm là của nam giới sáng tác theo thi pháp dân gian gán cho
Hồ Xuân Hƣơng. Những ngƣời làm thơ giả danh Hồ Xuân Hƣơng tuy là trí thức nho sĩ
song theo thi pháp dân gian đố tục giảng thanh, đố thanh giảng tục để nói về những
nội dung cấm kỵ của xã hội phong kiến Nho giáo , chủ yếu là tính dục. Thi pháp đố tục
giảng thanh, đố thanh giảng tục là cách đối phó cấm kỵ phong kiến [36].
Ngơ Gia Võ góp thêm tiếng nói đánh giá thơ Hồ Xuân Hƣơng qua bài viết
Nghệ thuật với ý nghĩa khẳng định khát vọng nhân văn trong thơ Nôm Hồ Xuân
Hương (2000) từ các bài thơ đề vịnh. Ông cho rằng thơ Hồ Xuân Hƣơng có cái tục
và gần nhƣ 100% cái tục này đều hƣớng tới tình dục nhƣng không phải dâm tục để
ngợi ca thân thể, quan hệ giao hoan thì nghệ thuật cái tục góp phần thể hiện “tƣ
tƣởng nhân văn”, “ tƣ tƣởng nhân đạo” của Hồ Xuân Hƣơng[44].
Trong luận án Phó tiến sĩ “ Hồ Xuân Hƣơng và nền văn hoá dân gian Việt
Nam”, tác giả Nguyễn Thị Ngọc đã phát hiện khả năng thể hiện tiếng cƣời độc đáo
và tiếng nói cá nhân – thẳm sâu sự kêu đòi cho quyền sống cá nhân trọn vẹn cho
con ngƣời của những bài thơ đề vịnh trong mảng thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân
5
Hƣơng xuất phát từ cội rễ của nền văn hoá dân gian nửa cuối thế kỷ XVIII và nửa
đầu thế kỷ XIX[26].
Luận án Phó tiến sĩ “ Thơ Nơm đƣờng Luật – Từ Hồ Xuân Hƣơng đến Trần
Tế Xƣơng” của tác giả Nguyễn Thanh Phúc cũng đã chỉ ra vẻ đẹp của các bài thơ
thuộc đề tài vịnh sử, vịnh truyện trong việc thể hiện triết lí nhân sinh và khẳng định
đạo lí, khí tiết nhà Nho đồng thời cũng thấy đƣợc vai trò của các bài thơ thuộc đề tài
tự vịnh, tự thuật, tự trào trong việc thể hiện tâm sự và khát vọng cá nhân[31].
Nhƣ vậy, trong lịch sử nghiên cứu, các nhà nghiên cứu đều nhận thấy tính
chất hai nghĩa của thơ đề vịnh Hồ Xuân Hƣơng (thực ra bất cứ hình tƣợng nghệ
thuật nào cũng mang nghĩa ẩn dụ). Nhƣng khi lý giải ý nghĩa của sự tồn tại hai
nghĩa thì khác nhau, có ngƣời cho rằng: do Hồ Xn Hƣơng ẩn ức tình dục, có
ngƣời lại cho rằng: Hồ Xuân Hƣơng viết vậy để đánh bọn hiền nhân quân tử giả đạo
đức hoặc Hồ Xuân Hƣơng là sự vang vọng văn hóa phồn thực của dân gian từ ngàn
xƣa hoặc đây là biểu hiện của chủ nghĩa nhân văn… nên chỉ có so sánh mới hiểu
đúng mục đích, ý nghĩa, chức năng của nghĩa hiển hiện, nghĩa ngầm ẩn của thơ đề
vịnh Hồ Xuân Hƣơng, hiểu đƣợc bản chất của thơ đề vịnh này mang tính dân gian
đậm nét. Vì thế, so sánh với Hồng Đức quốc âm thi tập, một tập thơ mang tƣ tƣởng
phong cách chính thống với nghĩa ngầm ẩn để phục vụ cho nói chí sẽ là đối tƣợng
phù hợp nhất để ta nhận ra điều này.
2.2. Lịch sử nghiên cứu thơ đề vịnh trong Hồng Đức Quốc âm thi tập
Hồng Đức quốc âm thi tập là tập thơ lớn của Lê Thánh Tông và các thi sĩ hội
Tao Đàn ở thế kỷ XV. Đã có một số cơng trình nghiên cứu về kiểu thơ đề vịnh
trong tác phẩm nhƣ đề tài vịnh sử, vịnh thiên nhiên hoặc từ một số bài thơ đề vịnh
riêng lẻ để khám phá giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm từ góc nhìn văn học
sử, sinh thái học hoặc so sánh với các tác phẩm thơ Nôm đƣờng luật nhƣ:
Lời giới thiệu cuốn Hồng Đức quốc âm thi tập của Bùi Văn Nguyên và Phạm
Trọng Điềm (phiên âm- chú giải- giới thiệu), các tác giả cũng đã đề cập đến vấn đề
thiên nhiên đất nƣớc đƣợc thể hiện trong tập thơ: “Điểm nổi bật đầu tiên trong tập
thơ quốc âm, thời Hồng Đức là tình thơ của các tác giả qua sự biến chuyển của thời
khắc và qua vẻ mỹ lệ của thiên nhiên mơng lung vơ cùng tận. ịng ngƣời và cảnh
6
vật, nhà thơ với thiên nhiên một đề tài có thể nói là “mn thuở” từ “cổ chí kim”
từ “đơng sang tây”.[9,tr17]. Giáo trình Việt Nam văn học sử giản ƣớc tân biên (tập
2) của Phạm Thế Ngũ, tác giả nói về mối quan hệ giữa đề tài thiên nhiên trong tập
thơ với tƣ tƣởng triết lí Nho giáo: “nhiều phần ở mơn thiên đạo và phẩm vật nói về
thời tiết hay cây cỏ thƣờng mang tƣ tƣởng triết lí của đạo Nho về vũ trụ, xã hội,
nhân sinh”[27,tr129].
Trong công trình nghiên cứu Thơ Nơm Đƣờng luật, Lã Nhâm Thìn đã dựa
vào các tác phẩm thơ đề vịnh để đánh giá khá đầy đủ về nội dung của tập thơ, chỉ ra
sự khác biệt trong việc sử dụng yếu tố thiên nhiên đậm chất Đƣờng thi và đậm sắc
thái dân tộc: “Chủ đề thiên nhiên là một chủ đề lớn trong HĐ
TT.
ua những
vần thơ gợi tả sự mĩ lệ của thiên nhiên, các tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp của non sơng
cẩm tú”; “HĐ
TT ngồi phong vị Đƣờng thi, nhiều bức tranh thiên nhiên trong
tập thơ mang đậm sắc thái dân tộc bởi các tác giả cảm nhận đƣợc cái hồn quê
hƣơng Việt”[35,tr159].
Bùi Duy Tân trong cuốn “ Khảo và luận một số tác gia – tác phẩm văn học
Trung đại Việt Nam” đã viết: Quan sát tập HĐ ATT và thơ Nôm của Lê Thánh
Tông, ta thấy phổ biến là lối thơ vịnh: vịnh thiên nhiên, vịnh phong vật, vịnh chùa
chiền, vịnh nhân vật…ngâm vịnh thành phƣơng tiện qua đó kí thác, rao giảng về
triết lý đạo đức, để thực hiện mục đích giáo huấn của văn chƣơng nhà nho. Những
bài thơ vịnh có tính chất khẩu khí của vua Lê Thánh Tông và Hội Tao Đàn lấy việc
nhỏ nói điều to, lấy sự vật tầm thƣờng, con ngƣời tầm thƣờng nói về những vấn đề
đạo đức, hoặc những sự vật cao sang, những nhân vật cao quý[ 32,tr 122,123].
Trong “Thơ đề vịnh Thiên nhiên trong HĐ
TT, Trần Quang Dũng đã thống
kê, phân loại thơ thiên nhiên trong HĐQÂTT và chỉ ra đặc điểm nội dung thơ đề
vịnh thiên nhiên trong HĐQÂTT. Tác giả khẳng định: “Thơ đề vịnh thiên nhiên
trong HĐ
TT mang đặc điểm phổ quát này Vừa hƣớng tới “đồng tâm” với thơ
Đƣờng luật, với văn chƣơng nhà Nho, mang nặng tính khn sáo, ƣớc lệ, vừa
hƣớng tới “li tâm”, phá vỡ tính ƣớc lệ, điển phạm theo tinh thần dân tộc hóa thể
loại, hé mở những nỗi niềm riêng của ngƣời làm thơ”. [8,tr22]
7
Nhận định trên của Trần Quang Dũng đã gặp gỡ quan điểm của tác giả Kiều
Văn trong bài nghiên cứu “Thơ Nôm của ê Thánh Tông và hội Tao Đàn”.
iều
Văn cũng đề cập đến các đối tƣợng đề vịnh : “Thơ Nôm thời Hồng Đức dành một
mảng đáng kể chuyên miêu tả sinh hoạt dân dã với những sinh vật hết sức thông
thƣờng, nhỏ mọn nhƣng rất đỗi thân thƣơng, gắn bó mật thiết với ngƣời Việt nhƣ
hình với bóng khoai lang, quả dƣa, cây chuối, cây cau, cái nón, cái quạt, ơng đầu
rau, cối xay, thằng bù nhìn, nhà dột, con chó đá, con gà, con muỗi, con cóc, trứng
vịt...Những đề tài, đối tƣợng “rất tầm thƣờng”mà văn chƣơng chữ Hán thƣờng coi
khinh và chối bỏ thì thơ Nơm Hồng Đức lại tiếp nhận và miêu tả một cách say sƣa
khác thƣờng”[46, tr8].
Trong luận văn “Tìm hiểu giá trị của phần “phong cảnh môn” trong Hồng
Đức quốc âm thi tập”, tác giả Phạm Mai Hƣơng cũng chỉ mới đi vào tìm hiểu một
phần trong tập thơ Hồng Đức quốc âm thi tập đó là phần “Phong cảnh mơn” vì vậy
mà vấn đề thơ đề vịnh cũng chƣa đƣợc đề cập một cách cụ thể.[16]
Nhƣ vậy,có thể nói, HĐQÂTT đã đƣợc khá nhiều nhà nghiên cứu quan tâm.
Tuy nhiên, những bài viết đó chƣa đặt mảng thơ đề vịnh từ góc nhìn so sánh thành
vấn đề riêng biệt. Đó chính là lí do để chúng tơi lựa chọn tìm hiểu “ Thơ đề vịnh
trong Thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hƣơng từ góc nhìn so sánh với thơ đề vịnh
trong “Hồng Đức quốc âm thi tập”
3. Mục đích nghiên cứu
Thơng qua cái nhìn so sánh giữa thơ đề vịnh trong thơ Nôm truyền tụng Hồ
Xuân Hƣơng với thơ đề vịnh của các nhà nho trong HĐQATT, chúng tơi mong
muốn tìm ra những nét đẹp trong tâm hồn, nhân cách, lí tƣởng và quan niệm sống,
khát vọng sống mang tính thời đại của con ngƣời cá nhân Hồ Xuân Hƣơng so với
các bậc nhà nho chuẩn mực nhƣ vua Lê Thánh Tông và các nho sĩ Hội Tao Đàn.
Đồng thời thấy đƣợc nét độc đáo, nét riêng của Hồ Xuân Hƣơng trong việc khẳng
định tiếng nói của con ngƣời cá nhân nhƣ thế nào.
8
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Các biểu tƣợng xuất hiện trong các bài thơ đề vịnh của Hồ Xuân Hƣơng và
Hồng Đức Quốc âm thi tập.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
4.2.1. Phạm vi nội dung: các bài thơ đề vịnh trong thơ Nôm truyền tụng Hồ
Xuân Hƣơng và trong Hồng Đức Quốc âm thi tập.
4.2.2. Phạm vi tƣ liệu: Chúng tôi dựa vào các văn bản sau:
- Thơ Nôm Hồ Xuân Hương (Nxb Văn học, 2008) của Kiều Thu Hoạch .
- Hồng Đức Quốc âm thi tập, Phạm Trọng Điềm - Bùi Văn Nguyên - NXb
Văn học, Hà Nội (1982)
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã kết hợp sử dụng một số phƣơng pháp
nghiên cứu chính sau:
5.1. Phương pháp phân tích – tổng hợp
Hai phƣơng pháp này đƣợc vận dụng song song với nhau nhằm mục đích
làm rõ bản chất của đối tƣợng mà luận văn đƣa ra.
5.2. Phương pháp so sánh
Chúng tôi sử dụng phƣơng pháp này để đối chiếu sự khác biệt trong
HĐQÂTT với sáng tác thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hƣơng nhằm làm nổi bật
sự khác biệt về tƣ tƣởng, quan niệm, phƣơng thức sáng tác thơ ca của tầng lớp trí
thức phong kiến mà đại diện là vua Lê Thánh Tông với tƣ tƣởng, quan niệm,
phƣơng thức sáng tác thơ ca của ngƣời phụ nữ đặc biệt trong xã hội phong kiến Hồ
Xuân Hƣơng.
5.3. Phương pháp tiếp cận văn hóa
Phƣơng pháp này giúp cho việc phục ngun khơng gian văn hóa tại thời
điểm HĐQÂTT và thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hƣơng ra đời, xác lập sự chi phối
của các quan niệm đạo đức, chính trị, quan niệm về con ngƣời... từng tồn tại trong
9
một khơng gian văn hóa xác định đến tác phẩm. Từ đó giải mã các hình tƣợng nghệ
thuật để thấy rõ hơn vẻ đẹp của các đối tƣợng đƣợc đề vịnh.
5.4 Phương pháp liên ngành
Phƣơng pháp liên ngành tức là tiếp cận một đối tƣợng bằng nhiều cách thức,
dựa trên dữ liệu của nhiều chuyên ngành. Trong luận văn này, chúng tôi đã tiếp cận
đối tƣợng từ kiến thức văn học bác học, văn học dân gian, triết học.
6. Đóng góp của luận văn
- Về khoa học: Nghiên cứu so sánh hệ thống thơ đề vịnh Hồ Xuân Hƣơng
- Về thực tiễn: Luận văn đƣợc hồn thành sẽ góp thêm một tài liệu tham
khảo hữu ích cho cho việc giảng dạy, nghiên cứu HĐQÂTT và thơ Nôm truyền
tụng Hồ Xuân Hƣơng .
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận
văn đƣợc triển khai thành 4 chƣơng:
Chƣơng 1: Các vấn đề lí luận và thực tiễn
Chƣơng 2: Thơ vịnh vật của Hồ Xuân Hƣơng trong cái nhìn so sánh với
Hồng Đức quốc âm thi tập
Chƣơng 3: Thơ vịnh cảnh của Hồ Xuân Hƣơng trong cái nhìn so sánh với
Hồng Đức quốc âm thi tập
Chƣơng 4: Thơ vịnh cảnh sinh hoạt, lao động của Hồ Xuân Hƣơng trong sự
so sánh với Hồng Đức quốc âm thi tập
10
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. CÁC VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Các khái niệm
Theo Từ điển Thuật ngữ văn học “Vịnh” ( văn học) là làm thơ với cảm
hứng hƣng phấn, nhằm luận bàn hoặc miêu tả cảnh vật, con ngƣời, vịnh là để cho
lời thơ sâu rộng, ý thơ dâng trào cảm xúc, lời hay, ý đẹp, kính cẩn và thƣờng có ngụ
ý, tƣ tƣởng sâu xa,…”. “Đề là làm thơ về một cảnh, một vật nào đó” (chùa chiền,
hang động, sự vật - cây đánh đu…)[12]. Đề vịnh là lối thơ không đơn thuần miêu tả
đối tƣợng mà là sự biểu tƣợng hóa đối tƣợng, tức là trao cho đối tƣợng đề vịnh một
ý nghĩa nào đó. Việc biểu tƣợng hóa này phụ thuộc vào quan điểm đạo đức - thẩm
mỹ của tác giả; tƣợng trƣng khác nhau thì ý nghĩa biểu tƣợng cũng sẽ khác nhau .
Các nhà nghiên cứu đã ý thức về vấn đề này từ lâu:
Lê Trí Viễn trong “ Đặc trƣng của văn học Trung đại Việt Nam”đã dẫn lý
luận của B. Suskov về ý nghĩa ngụ ý , ý nghĩa tƣợng trƣng của thế giới hiện thực
đƣợc miêu tả trong thơ văn: “Sinh hoạt hàng ngày đƣợc mô tả một cách kỹ lƣỡng và
chi tiết, đối với ngƣời cầm bút viết hoặc cầm bút vẽ thời trung đại đó là tồn tại thứ
cấp. Xu hƣớng nhìn thấu sau cái vỏ ngồi của thế giới thực tại sờ sờ trƣớc mắt
nghệ sĩ một thực tại khác, thực tại tinh thần, những điều này không những đã sản
sinh ra chủ nghĩa tƣợng trƣng mà còn dẫn tới lối diễn đạt ngụ ý của nghệ thuật
trung đại”. [43,Tr.70]
Trần Đình Hƣợu phân tích cơ sở triết học của hình tƣợng sự vật trong thơ
văn nhà nho : “Vật hay thế giới khách quan vốn đa dạng, khác biệt nhau có tác
động kích thích tình và dục, có tác động phân tán tâm và chí cho nên thánh nhân
làm thơ làm nhạc không chỉ là tránh dục mà cịn giữ gìn cẩn thận với vật, khơng
chạy theo cái đa dạng khác biệt của nó mà tìm trong đó cái chung, cái có ý nghĩa.
Đọc Luận ngữ ta thấy Khổng Tử nói về mấy trƣờng hợp về hiện tƣợng tự nhiên:Trị
dân bằng đức giống nhƣ sao Bắc thần đứng ở chỗ của nó mà các sao khác đều
hƣớng về (Luận ngữ 2-1); Khổng Tử đứng trên sơng nói : Đi mãi là thế này ƣ ?
Ngày đêm chảy mãi không ngừng (Luận ngữ 9-17); (Khổng Tử đi trên núi, gặp
mấy con gà gô). Sắc mặt (Khổng Tử ) thay đổi, gà gơ bay ngay, liệng vịng rồi mới
11
đậu lại. Khổng Tử nói : Đám gà gơ trên núi này biết thời cơ làm sao ! Biết thời cơ
làm sao ! (Luận ngữ, 10-27). Nhƣ vậy, ta không thấy Khổng Tử chú ý nhiều đến
hiện tƣợng trong giới tự nhiên và trong mỗi hiện tƣợng rất bình thƣờng, thánh nhân
cũng đều tìm kiếm những ý nghĩa đạo lý. Với cách tìm ý nghĩa đạo lý nhƣ vậy phong
cảnh là núi, sông, núi là sự yên lặng, vững chãi, sông là sự lƣu chuyển không
ngừng; mặt trăng là sự tròn khuyết, sự thịnh suy; bốn mùa là sự đổi thay…Giới tự
nhiên khơng cịn là thế giới khách quan sinh động mà chỉ là sự khác biệt chứng
minh cho sự phong phú về hình thức của Đạo” (17, tr. 28-29).
Thơ đề vịnh thời trung đại của Nho gia gắn liền với quan niệm thi ngơn chí, văn
dĩ tải đạo. Để biểu lộ lý tƣởng, ý chí của ngƣời quân tử, thi nhân làm thơ vịnh tùng, cúc,
trúc, mai, có khi những đối tƣợng độc đáo nhƣ cái chổi, con cóc, thậm chí đơi cặp que
của ngƣời hót phân (tận thu lòng dạ thế gian) cũng thành đối tƣợng gửi gắm lý tƣởng
thánh nhân, quân tử của ngƣời đề vịnh với khát vọng tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên
hạ. Phản đề của nhân cách lý tƣởng quân tử là tiểu nhân. Vậy thì có thể có cả đối tƣợng
đề vịnh ám chỉ kẻ tiểu nhân ví dụ trƣờng hợp Nguyễn Công Trứ đề vịnh cây vông Tuổi
tác càng già càng xốp xáp/Ruột gan khơng có có gai chơng.
Ngƣ tiều canh mục (ngƣời kiếm cá, ngƣời đốn củi, ngƣời cày ruộng, ngƣời
chăn trâu) những nhân vật quen thuộc với công việc lao động của họ từ lâu đã trở
thành ẩn dụ của lý tƣởng ẩn sĩ thanh cao, không màng danh lợi. Không gian sông
nƣớc, rừng núi, đồng ruộng gắn với các mẫu ngƣời này do đó cũng đem lại hứng
thú thẩm mĩ cho các thi nhân cổ trung đại phƣơng Đơng.
Thơ đề vịnh Trung đại có nhiều tiểu loại nhƣ: Vịnh sử ( bàn luận về các nhân
vật, sự kiện lịch sử), Vịnh cảnh ( miêu tả cảnh thiên nhiên) và Vịnh vật ( miêu tả đồ
vật)… Trong phạm vi của đề tài, chúng tôi nghiên cứu chung vai trị của các tiểu
loại này trong góc nhìn so sánh để thấy đƣợc nét độc đáo cũng nhƣ vai trò của thơ
Nôm đề vịnh truyền tụng Hồ Xuân Hƣơng so với các thi sĩ của Hội Tao Đàn.
Nói tóm lại, kiểu thơ đề vịnh có 2 nội dung – miêu tả đối tƣợng và khai thác
ý nghĩa tƣợng trƣng, ý nghĩa biểu tƣợng của đối tƣợng đó. Thơng qua đối tƣợng đề
vịnh, tác giả muốn nhằm đến một ý nghĩa nằm đằng sau, bên ngoài đối tƣợng. Vậy
là sự khác nhau của các kiểu loại thơ đề vịnh sẽ đƣợc ngƣời đọc nhận xét dựa vào 2
12
yếu tố: sự khác nhau của đối tƣợng (cảnh quan, sự vật) đƣợc đề vịnh ; và sự khác
nhau của ý nghĩa đƣợc tác giả thơ đề vịnh khai thác .
1.2. Lí luận về phƣơng pháp so sánh
1.2.1. Khái niệm
“So sánh ( hoặc so sánh đối chiếu) là một thao tác nghiên cứu đƣợc dùng
trong nhiều ngành khoa học khác nhau. Vai trị quan trọng ít hay nhiều của thao
tác nghiên cứu này là tuỳ thuộc vào đặc điểm bản chất của đối tƣợng nghiên
cứu, và do đó vào nhiệm vụ của ngành khoa học nghiên cứu đối tƣợng ấy. Có
những ngành khoa học nếu khơng vận dụng phƣơng pháp nghiên cứu so sánh thì
khơng thể giải quyết nổi những vấn đề cơ bản phát sinh trong quá trình nghiên
cứu đối tƣợng.” [6, 72].
Ngày nay, so sánh đã trở thành một khuynh hƣớng, thành bộ môn văn học
so sánh của khoa nghiên cứu văn học đáp ứng yêu cầu thực tiễn đó là sự giao lƣu
văn hố diễn ra trên tồn thế giới trong đó có cả văn học. Vì thế, văn học so sánh
là một bộ môn khoa học có nhiệm vụ nghiên cứu tiến trình văn học trên toàn thế
giới và sự giao thoa, ảnh hƣởng qua lại giữa các nền văn học của các dân tộc.
1.2.2. So sánh trong nghiên cứu văn học
Phƣơng pháp so sánh trong nghiên cứu văn học “là phƣơng tiện, con
đƣờng, thao tác đi vào tác phẩm để xác định đánh giá các hiện tƣợng văn học trong
mối quan hệ giữa chúng với nhau” [23,152]
Đối tƣợng của phƣơng pháp so sánh trong nghiên cứu văn học là các hiện
tƣợng văn học của cùng một nền văn học dân tộc. Mục đích của việc so sánh nhằm
xác định các mối liên hệ, các điểm tƣơng đồng, khác biệt để phát hiện vẻ độc đáo
của từng hiện tƣợng, cái riêng làm phong phú cái chung.
Khảo sát các cơng trình phê bình, nghiên cứu văn học có giá trị của một
số nhà văn, nhà nghiên cứu, phê bình nổi tiếng, ta dễ nhận thấy phƣơng pháp so
sánh đã dƣợc sử dụng rộng rãi và có hiệu quả nhất định. Nhà phê bình văn học nổi
tiếng Hồi Thanh và những nhà văn, nhà thơ nhƣ Nguyễn Đình Thi, Xuân Diệu,
Chế Lan Viên trong những bài phê bình, phân tích văn học cũng thƣờng sử
13
dụng phƣơng pháp so sánh để phát hiện vẻ đẹp độc đáo của từng bài văn, bài thơ,
phong cách riêng của từng tác giả; nhƣ khi Xuân Diệu so sánh thiên tài Nguyễn Du
với Hồ Xuân Hƣơng, ông viết “Nguyễn Du là những ý tình phổ biến, những cảm
nghĩ sâu sắc đến tuyệt độ, diễn tả hay đẹp đếntuyệt diệu, đến nỗi thành ra đột xuất,
duy nhất. Nhƣng Xuân Hƣơng thì khác. Trong Xuân Hƣơng, phần lớn là những ý
tình phổ biến của mọi ngƣời (chống bọn áp bức, căm ghét cái xấu xa, bênh vực phụ
nữ, khao khát yêu đƣơng, yêu thiên nhiên, đất nƣớc…) nhƣng cũng có một phần
nhƣ là riêng biệt của cá tính Xuân Hƣơng. Cái phần kỳ dị đó, ta khơng thể chối cãi
rằng nó cũng là thiên tài của Xuân Hƣơng nhƣ là cái phần phổ biến” [7,308].
Khi tìm hiểu thơ Nơm Hồ Xn Hƣơng, nhà nghiên cứu Đỗ Đức Hiểu cũng có
những trang viết rất hay làm nổi bật nét độc đáo của thơ Nôm Hồ Xuân Hƣơng,
phong cách đặc biệt của nữ sĩ khi so sánh với phong cách của nhà thơ nữ cùng
thời Bà Huyện Thanh Quan, chúng tôi chỉ xin lƣợc trích: thơ Hồ Xuân Hƣơng là
thơ hành động, thơ Bà Huyện Thanh
uan là thơ tâm tình, trạng thái.…Thơ Hồ
Xuân hƣơng là thơ nổi loạn, thể hiện trƣớc hết ở những vi phạm quy tắc từ, vần,
nhịp, những đổ vỡ của âm điệu…Thơ Bà Huyện Thanh Quan là thơ tĩnh, với
những hồi âm, những vang vọng buồn bã kéo dài…những câu thơ ít động từ,
một giọng và một nhịp đều đều…. Thơ Bà Huyện Thanh Quan là hồi ức, thơ Hồ
Xuân Hƣơng là hiện tại. Thơ Bà Huyện Thanh Quan thể hiện cái khơng tính
cách, khơng xác định, cái trung tính, thơ Hồ Xuân Hƣơng biểu hiện cái cụ thể, cái
hằng ngày, cái xác định….Cuối cùng tác giả kết luận “thơ Bà Huyện Thanh Quan,
một phong cách tuyệt vời của cái vắng mặt, sự chối từ, sự phủ nhận (hiện tại), cũng
nhƣ thơ Hồ Xuân Hƣơng là phong cách tuyệt vời của sự có mặt, sự khẳng
định, niềm vui sống” [14,573]
Trong so sánh văn học, chúng ta cần tuân thủ những nguyên tắc : không lấy
nội dung so sánh thay thế cho việc khám phá, phân tích bản thân tác phẩm bởi so
sánh khơng phải là mục đích, so sánh chỉ là phƣơng tiện, là con đƣờng đi vào tác
phẩm; những liên hệ so sánh ngồi tác phẩm, khơng đƣợc làm đứt mối với đƣờng
dây chủ đề của tác phẩm, với vấn đề, đề tài cần so sánh và phải tơn trọng tính
chỉnh thể của đề tài, của hiện tƣợng văn học hay văn bản. Việc so sánh có chiều sâu
và chiều rộng với những tác phẩm, hiện tƣơng văn học khác có nét tƣơng đồng
14
hay dị biệt là điều cần thiết nhƣng ngòi bút ngƣời viết luôn làm chủ kiến thức,
việc nối kết những tác phẩm, hiện tƣợng, vấn đề văn học lại với nhau cần sự
khéo léo và trên hết phải hƣớng về một sợi dây xuyên suốt là chủ đề, đề tài, nội
dung vấn đề cần so sánh.
Ngoài ra, giới hạn so sánh trong phân tích văn học có thể chia nhiều hình
thức: So sánh đối tƣợng phân tích với những tác phẩm cùng đề tài, chủ đề, môtip
nhƣng khác nhau về loại hình; so sánh đối tƣợng phân tích với cuộc sống lớn và
nhỏ của tác phẩm; so sánh trực tiếp với sự kiện thực làm cơ sở cho tác phẩm; so
sánh nhân vật trong tác phẩm với nguyên mẫu; so sánh đối tƣợng với những tác
phẩm cùng chủ đề, cùng đề tài của bản thân tác giả hay của những tác giả khác và
so sánh những yếu tố trong bản thân tác phẩm.
So sánh là phƣơng pháp quen thuộc và hữu hiệu trong nghiên cứu văn học
đã đƣợc chứng minh trong thực tiễn, giúp cho việc nghiên cứu văn học vừa có
tính khoa học nghiêm ngặt vừa có tính nghệ thuật đậm đà. Trên chặng đƣờng
phát triển, văn học các dân tộc có sự cọ sát, ảnh hƣởng qua lại lẫn nhau. Sự
chuyển giao các giá trị văn chƣơng từ dân tộc này sang dân tộc khác không thể
không thông qua q trình giao lƣu ảnh hƣởng “ Chính vì khó có thể tìm thấy một
nền văn học nào thuần tuý dân tộc cho nên văn học so sánh mới càng có lý do
tồn tại để nghiên cứu vấn đề liên dân tộc, đa dân tộc, đa ngôn ngữ của văn
học”[29].
Nhƣ vậy văn học so sánh là một bộ môn khoa học xã hội nghiên cứu văn
học vƣợt ra ngoài giới hạn của một nƣớc riêng biệt và nghiên cứu các mối quan hệ
giữa văn học với các lĩnh vực khác của tri thức nhân loại ( nghệ thuật, triết học, tôn
giáo, kinh tế…). Không nên nhằm văn học so sánh với khái niệm so sánh văn học
vì so sánh văn học là một thao tác ngang với chứng minh, phân tích cịn văn học so
sánh nghiên cứu tính chất thế giới của văn học.
Theo Nguyễn Văn Dân trong “ Những vấn đề lý luận của văn học so sánh”
có lƣu ý cần phân biệt hai cấp độ: Ở cấp độ phƣơng pháp ta có phƣơng pháp so
sánh văn học, ở cấp bộ mơn ta có bộ mơn văn học so sánh[5]. Nhƣ vậy văn học
so sánh ban đầu chỉ là phƣơng pháp so sánh văn học. Về sau ngƣời ta phân biệt
15
hai thuật ngữ này qua đối tƣợng và mục đích nghên cứu. Ở đây, chúng tơi giới
hạn vấn đề tìm hiểu trong phạm vi so sánh nhƣ là một phƣơng pháp văn học.
Trong phạm vi của luận văn này, chúng tơi vận dụng phƣơng pháp so sánh
theo hình thức nối tiếp để tìm ra những nét chung và nét độc đáo riêng của mảng
thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hƣơng và Hồng Đức quốc âm thi tập.
1.3. Nữ sĩ Hồ Xuân Hƣơng và các tác giả “ Hồng Đức Quốc âm thi tập”
1.3.1. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương
Hồ Xuân Hƣơng là ai, sinh và mất năm nào, cuộc sống gia đình và tình cảm
riêng tƣ ra sao, vì lẽ gì mà lại nổi danh trong giới văn nhân nam giới ...? Một loạt
câu hỏi tƣơng tự cho đến hôm nay, vẫn khơng có đƣợc câu trả lời xác quyết. Giai
nhân di mặc của Nguyễn Hữu Tiến (1917) là cuốn sách đầu tiên viết về đời và thơ
nữ thi sĩ song lại là một cuốn sách hƣ cấu theo bút pháp của tiểu thuyết nên khơng có
giá trị tham khảo khoa học[43]. Trong thời gian mấy chục năm qua, cũng xuất hiện
những ý kiến nghi ngờ về sự tồn tại của con ngƣời và thi ca Hồ Xuân Hƣơng, song đều
là những hồi nghi khơng có căn cứ văn bản mà chỉ dựa vào suy luận. Trƣớc những từ
ngữ đầy do dự, thiếu xác quyết về tiểu sử Hồ Xuân Hƣơng mà các nhà phê bình dùng ở
đầu thế kỷ XX nhƣ “khơng có sách nào chép rõ”, “có lẽ, “hình nhƣ”, “khơng chắc rõ
q qn ở đâu”, “có thể truyền tụng rằng”, Lữ Hồ (ở thời điểm năm 1958) đã tỏ ý hoài
nghi về sự tồn tại của một nữ sĩ tên gọi Hồ Xuân Hƣơng : “Xem đó, về tiểu sử tác giả,
những tài liệu lờ mờ trên không đủ để minh xác sự hiện diện của một ngƣời đàn bà
tên thật là Hồ Xuân Hƣơng”.
Lịch sử nghiên cứu Hồ Xuân Hƣơng đƣợc đẩy mạnh kể từ năm 1964, khi ở
miền Bắc, Trần Thanh Mại công bố những tƣ liệu mới phát hiện về tiểu sử và văn
bản thơ ca Hồ Xuân Hƣơng (tập thơ ƣu hƣơng ký 琉香記, bài tựa do ơng Tốn
Phong nào đó chƣa rõ viết cho ƣu hƣơng ký), cùng một tƣ liệu xuất hiện trong
năm 1974 (bài văn Xuân đƣờng đàm thoại) [25] . Cùng trong khoảng thời gian này,
tại Sài Gòn, Lê Xuân Giáo dịch
uốc sử di biên của Phan Thúc Trực trong đó có
nói đến Xuân Hƣơng có thời gian lấy lẽ Trần Phúc Hiển, Tham hiệp trấn Yên
Quảng (Quảng Ninh), ông này bị tử hình năm 1818-1819 vì tội tham nhũng. Tại hải
ngoại, Hồng Xn Hãn đã kể về q trình một ngƣời Pháp tên Antony Landes bắt
16
đầu khoảng từ 1892 thuê ngƣời Việt chép các tài liệu Hán Nơm trong đó có thơ Hồ
Xn Hƣơng, dẫn đến tình trạng “vơ quàng” thơ của ngƣời khác trộn lẫn vào số thơ
thực của Hồ Xuân Hƣơng.
Nhờ các tài liệu đƣợc phát hiện, điều có thể khẳng định là đã từng có một nữ
sĩ tên gọi Hồ Xuân Hƣơng từng sống, sáng tác trong thời gian khoảng cuối thế kỷ
XVIII-đầu thế kỷ XIX. Hồ Xuân Hƣơng – một ngƣời phụ nữ sinh ra trong gia đình
nhà nho, tài sắc, tính tình phóng khống, cá tính mạnh mẽ, đi nhiều, biết rộng, kết
thân với nhiều bạn thơ trong đó có Nguyễn Du, Chiêu Hổ… nhƣng cuộc đời riêng
lại gặp nhiều trắc trở, éo le về tình duyên. Là ngƣời trong cuộc, Xuân Hƣơng dũng
cảm bênh vực cho quyền lợi của những ngƣời phụ nữ, đã mạnh dạn cất tiếng nói đòi
hỏi con ngƣời phải đƣợc hƣởng những quyền sống, quyền hạnh phúc, đƣợc thỏa
những nhu cầu vật chất và cả những thú vui về xác thịt, chuyện ái ân chốn phòng
the… để sống sao cho xứng đáng với một con ngƣời một cách mạnh mẽ, táo bạo
nhƣng cũng hết sức độc đáo mang đầy giá trị mĩ học, hƣớng đến một cái đích nhân
văn cao đẹp - triết lí: “tất cả vì con ngƣời” (M. Gorki).
Thời Hồ Xuân Hƣơng sống ở nƣớc ta đã xuất hiện kinh tế thƣơng nghiệp,
hình thành một tầng lớp thị dân có lối sống, lối nghĩ và hành động khác hẳn với
ngƣời nông dân làng xã: tƣ tƣởng thị dân, yếu tố duy lí và nhân văn phát triển khiến
văn học thời kì này nổi lên với tiếng nói nhân đạo chủ nghĩa, thể hiện con ngƣời cá
nhân với đầy đủ những khát khao hạnh phúc, tự do đời thƣờng. Đặc biệt là hình ảnh
ngƣời phụ nữ, đời sống tình cảm của ngƣời phụ nữ, không loại trừ cả những khát
khao thuộc về bản năng của họ với tƣ cách là con ngƣời cá nhân với số phận riêng,
với những nhu cầu, địi hỏi chính đáng cả về vật chất và tinh thần. Đây cũng là thời
đại của những tác phẩm tràn đầy sự sống, mang hơi thở cuộc đời nhƣng đậm chất
nhân văn, nhân đạo.
Độc giả Việt Nam và cả độc giả phƣơng Tây đến với Xuân Hƣơng, chọn
Xuân Hƣơng, say mê, yêu quý Xuân Hƣơng trƣớc cả những nhà nghiên cứu… vì
ngƣời ta cảm thấy Xuân Hƣơng gần gũi và thân thiết với họ, Xn Hƣơng nói
những lên tiếng lịng của họ bằng thứ ngơn ngữ nơm na, giản dị đời thƣờng. Cịn
giai cấp phong kiến thống trị thì thấy “thi trung hữu quỷ” và coi bà nhƣ một ngƣời
nổi loạn. Những ý tƣởng mới lạ, táo bạo bất ngờ của bà nhƣ một cơn gió mát lành,
17
thấm đẫm tinh thần nhân văn dân chủ, song cũng chẳng khác gì nƣớc gáo lạnh tạt
vào chế độ phong kiến Việt Nam đƣơng thời.
1.3.2 Tác giả “ Hồng Đức Quốc âm thi tập”
Lê Thánh Tông – ngƣời chủ suý của Hội Tao Đàn và cũng là tác giả sáng tác
chủ yếu của “Hồng Đức quốc âm thi tập” không chỉ là vị vua có tài trị quốc mà cịn
là vị vua có tâm hồn thi sĩ. Phần lời giới thiệu của Hồng Đức quốc âm thi tập,
nhóm tác giả Phạm Trọng Điểm – Bùi Văn Nguyên đã viết rõ về Lê Thánh Tơng:
“Ngun súy quả có một tâm hồn nghệ sĩ…”. Trong bài Tựa tác phẩm Quỳnh uyển
cửu ca, học sĩ Đào Cử đã nói về vua Lê Thánh Tơng một cách tơn kính nhƣ sau:
“Từ khi đức vua lên ngơi, trong ngồi đều phục, mƣa nắng thuận hịa, dân yên vật
thịnh. Trong khi nhàn rỗi, nhà vua thƣờng bỏ hết thú vui nhƣ đàn hát, săn bắn,
khiến cho sạch lịng, dục ít. Nhƣ cây ngay từ gốc, nƣớc trong từ nguồn, lại có tài
học cao minh, lịng đạo sáng suốt, cho nên anh hoa phát tiết ra ngoài, biểu hiện ở
lời ngâm vịnh. Ngài chỉ phóng bút một lúc chín bài ngay. Trƣớc thì vịnh thời tiết
thuận năm đƣợc mùa… Nghĩa lí thật cao xa, lời lẽ thật mạnh mẽ, thiện ý khuyên
răn, chan chứa ở lời, thực là văn dạy ngƣời ở bậc đế vƣơng” [9, tr.13.14]. Ngƣời
đã cổ suý việc bình thơ và sáng tác thơ, tạo điều kiện cho thơ ca phát triển.
Theo Đại Việt sử ký tồn thƣ, Lê Thánh Tơng với “ tƣ trời rạng rỡ, thần sắc
anh dị, tuấn tú sáng suốt, chững chạc” đã đảm đƣơng trọng trách “ đại thiên hành
hố” suốt 38 năm trị vì thật anh minh, sán lạn[22]. Lê Thánh Tông sau khi lên ngôi
vua đã dựa vào tƣ tƣởng Tống Nho, đẩy mạnh xây dựng chế độ phong kiến theo mơ
hình Nhà nƣớc quan liêu tập quyền. Nắm bắt xu hƣớng phát triển của thời đại, chủ
động sử dụng chính sách, Lê Thánh Tơng đã nhanh chóng làm cho xã hội ổn định,
đất nƣớc thái bình, quốc thái anh ninh, chính quyền vững mạnh, hình luật nghiêm
minh, quốc phòng hùng hậu, kinh tế phát triển, văn hố thịnh đạt. Ơng cũng là
ngƣời đƣa văn chƣơng nhà nho thành chính thống, quan phƣơng và làm văn, làm
thơ theo quan niệm văn chƣơng nhà nho với một lối thơ đầy khẩu khí cao quý mà
dân dã. Đây cũng chính là cơ sở để Lê Thánh Tơng thành lập Hội Tao Đàn.
Hội Tao đàn do hoàng đế Lê Thánh Tông sáng lập và làm chủ súy cùng với
28 văn thần xƣớng họa, phụng bình trên tinh thần ca ngợi quốc thái dân an, vua sáng
tôi hiền, ca ngợi thiên nhiên đất nƣớc theo quan điểm Nho gia, với hàng loạt tác phẩm
ra đời nhƣ một minh chứng cho một thời đại thịnh trị, thái bình hiếm có trong lịch sử
18
các thời đại phong kiến Việt Nam. Hội thơ Tao đàn quả là một hiện tƣợng văn hóa đặc
biệt, đánh dấu một bƣớc phát triển của văn học trung đại Việt Nam.
Mặc dù thời gian hoạt động của Hội thơ Tao đàn khá ngắn ngủi - chỉ với 2
năm, bởi sau đó thì Lê Thánh Tơng băng hà (1497), nhƣng trƣớc khi thành lập Hội
Tao đàn, thì từ lâu Lê Thánh Tông đã xƣớng họa thơ văn với các đại thần. Tất cả
những tác phẩm đó sau này đƣợc chép lại trong bộ Thiên Nam dƣ hạ tập 100 quyển,
mà nay hiện còn lại khoảng một phần mƣời.
Nhƣ vậy, xét về tiểu sử và hoàn cảnh xã hội, ta đã nhận ra sự khác biệt của
Hồ Xuân Hƣơng với các thi sĩ của Hội Tao Đàn. Hồ Xuân Hƣơng là một con ngƣời
bình thƣờng lại sống giữa thời đại nhiều biến động: xã hội phong kiến khủng hoảng,
xuất hiện nhiều tƣ tƣởng tiến bộ đề cao quyền sống và hạnh phúc của con ngƣời cá
nhân, muốn vùng thoát khỏi sự kìm kẹp, kiềm toả của tƣ tƣởng phong kiến. Trong
khi đó, Lê Thánh Tơng và các thi sĩ của Hội Tao Đàn chủ yếu là những ngƣời thuộc
tầng lớp vua, quan của triều đại nhà hậu Lê. Nhìn từ vị thế này cộng hƣởng thêm
yếu tố hƣng thịnh, ổn định của thời đại dẫn đến tâm lí sáng tác hứng khởi, hào hùng
và cảm hứng chủ đạo của các bài thơ trong “ Hồng Đức quốc âm thi tập” là ngợi ca
cuộc sống đất nƣớc với “quốc thái, dân an”. Ngay cả những vật tầm thƣờng cũng trở
nên cao cả, phi thƣờng. Nhƣ vậy, hoàn cảnh xã hội khác nhau, vị thế khác nhau,
mục đích sáng tác khác nhau chính là cơ sở tiền đề khiến Hồ Xuân Hƣơng và các thi
sĩ Hội Tao Đàn cùng sáng tác về những đề tài giống nhau nhƣ: vịnh đồ vật, vịnh
cảnh vật, vịnh cảnh sinh hoạt -lao động nhƣng ý nghĩa biểu đạt lại khác nhau.
1.4. Vấn đề văn bản thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hƣơng và “Hồng Đức quốc
âm thi tập”
1.4.1. Vấn đề văn bản thơ Hồ Xuân Hương
Vấn đề văn bản học của thơ Hồ Xuân Hƣơng hết sức phức tạp. Hiện nay,
giới nghiên cứu đã tìm thấy khoảng 20 bản Nơm, cả chép tay và in. Cũng có khá
nhiều văn bản thơ Hồ Xuân Hƣơng bằng chữ quốc ngữ. Nhƣng giữa các văn bản đó
khơng có sự thống nhất, do nhiều nguyên nhân. Vấn đề là văn bản chữ Nơm gốc thơ
Hồ Xn Hƣơng khơng cịn, các bản Nôm xuất hiện khá muộn, gần nhƣ cùng thời
với các bản quốc ngữ, giữa các bản Nơm này khơng có sự thống nhất về số lƣợng
bài thơ, về nội dung, tên gọi; phong cách sáng tác, trình độ nghệ thuật của nhiều bài
19
thơ cũng khác nhau. Đây là điều hiếm gặp trong thực tế văn bản học các tác giả
trung đại.
Chỉ nói riêng về thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hƣơng, Trần Thanh Mại
đề nghị phân biệt ba nhóm thơ, đó là những bài thơ nội dung tƣ tƣởng cao, nghệ
thuật thanh nhã; những bài có yếu tố tục nhƣng nội dung tiến bộ và những bài tục
dâm, khêu gợi không lành mạnh. Song khơng phải khi nào cũng có thể dễ dàng
phân biệt, vạch ra danh giới giữa cái tục “tiến bộ” và cái tục “khiêu dâm” không
lành mạnh. Lê Trí Viễn cũng có quan niệm tƣơng đồng với Trần Thanh Mại: “Tính
tƣ tƣởng của tác phẩm mới là lời cuối cùng…”. Còn Nguyễn Lộc lại chủ trƣơng lấy
lý luận phong cách để lọc những bài thơ không phải của Hồ Xuân Hƣơng và trên cơ
sở đó, có thể tách ra khoảng trên ba mƣơi bài phong cách khá thống nhất, nhiều
khả năng là của Hồ Xuân Hƣơng. Đỗ Lai Thúy cũng tự cho phép mình phát huy cái
chủ quan của ngƣời nghiên cứu hơn khi ông viết: “Khi gặp chữ có nhiều dị bản, tơi
tự cho phép mình chọn chữ theo tinh thần, phong cách thơ Hồ Xuân Hƣơng và phù
hợp với sự phân tích văn bản bài thơ”[ 40]. Điều đáng nói là trong đề tài nghiên
cứu khoa học của Đào Thái Tôn, ông đã đối chiếu, so sánh bản thơ Hồ Xuân Hƣơng
chữ quốc ngữ do Xuân Lan xuất bản năm 1913-1914 thì thấy 64 bài đƣợc đƣa vào
các bản khắc in Nơm sau đó. Ơng hình dung rằng đến đầu thế kỷ XX, việc in bán
thơ Hồ Xuân Hƣơng có lãi nên ngƣời ta dựa vào bản quốc ngữ nhƣ bản Xuân Lan
mà khắc in thơ Hồ Xn Hƣơng ra chữ Nơm tạo vẻ cổ kính để dễ bán.
Vấn đề văn bản thơ Hồ Xuân Hƣơng trở nên phức tạp hơn khi tập thơ ƣu
hƣơng ký (gồm 15 bài thơ- từ chữ Hán và 29 bài thơ chữ Nôm) đƣợc phát hiện và
công bố bởi Trần Thanh Mại năm 1964 cùng một số nguồn tài liệu khác cho hay Hồ
Xuân Hƣơng còn làm thơ chữ Hán. Cho đến nay, đã khoảng nửa thế kỷ từ khi phát
hiện ra ƣu hƣơng ký đƣợc coi là của Hồ Xuân Hƣơng, nhiều nhà nghiên cứu vẫn tỏ
ra dè dặt đối với việc cơng nhận đây là thi văn đích thực của nữ sĩ.
Trƣớc thực tế phức tạp trên, do sự mờ nhòe của tiểu sử và văn bản tác phẩm,
chúng tơi chủ trƣơng nhìn thơ Hồ Xn Hƣơng nhƣ là một hiện tƣợng văn học của
giai đoạn thế kỷ XVIII- đầu thế kỷ XIX.
1.4.2. Vấn đề văn bản Hồng Đức quốc âm thi tập
Hồng Đức quốc âm thi tập là tập thơ khá quy mô, đồ sộ đƣợc sƣu tập chép
20
lại khoảng thế kỷ XVII, tồn tập thơ hiện có 328 bài, đƣợc chia thành các nội dung
chính nhƣ sau:
Thiên địa môn, gồm 59 bài thơ nhƣ vịnh tết Nguyên đán, vịnh trăng, vịnh
Hằng Nga, vịnh bốn mùa, vịnh năm canh và vịnh mƣời hai tháng,…
Nhân đạo môn, gồm 46 bài: bài Tự thuật của vua Lê Thánh Tông; những bài
vịnh nhân vật lịch sử Trung Quốc nhƣ Hán Cao Tổ, Hạng Vũ, Trƣơng ƣơng, Tiêu
Hà, Hàn Tín; một số bài thơ vịnh theo truyền thuyết Trung Quốc nhƣ Tô Vũ chăn
dê, ƣu Nguyễn nhập Thiên thai, Chiêu Quân xuất tái. Bên cạnh những bài thơ vịnh
các nhân vật lịch sử Trung Quốc, nổi bật là những bài thơ vịnh nhân vật lịch sử Việt
Nam nhƣ Xung Thiên thần vƣơng, Chử Đồng Tử, Lý Ông Trọng, Trƣng Vƣơng,
Triệu Ẩu, Lê Khơi, ƣơng Thế Vinh, Nguyễn Trực, Vũ Thị Thiết. Ngồi ra, cịn có
một số bài thơ về đạo trung hiếu, lẽ tứ khoái, vịnh những sự vật, cây cỏ rất đỗi gần
gũi thân thiết với cuộc sống nhƣ con cóc, con gà, cây tre, cây đánh du, hoa sen,…
Phong cảnh mơn, gồm 66 bài: đó là những bài vịnh cảnh trí thiên nhiên
Trung Quốc và Việt Nam nhƣ Tiêu Tƣơng bát cảnh, Đào nguyên bát cảnh, Tứ thú
(Ngƣ, Tiều, Canh, Mục); vịnh các địa danh nhƣ sông, núi, đền, chùa, các cảnh thơ
mộng; các bài vịnh về di tích lịch sử nhƣ Chùa Phật Tích, Chùa Trấn Quốc, Chùa Non
Nƣớc, Sơng Bạch Đằng, Chng Phả Lại, nguyệt Bình Than,…
Phẩm vật mơn, gồm 69 bài: đó là các bài thơ vịnh cảnh vật nói chung nhƣ Tuyết
nguyệt phong hoa, Cầm kỳ thi tửu; vịnh các loại cây cảnh nhƣ tùng, trúc, cúc, mai, mẫu
đơn, sen,… các loại cây thực phẩm nhƣ dƣa, khoai, cải,… Ngồi ra, cịn có những bài
thơ vịnh về giống vật nhƣ cóc, muỗi, voi,… hay các đồ vật linh tinh khác nhƣ cây kim,
con diều giấy, cây đánh đu,…
Cuối cùng là Nhàn ngâm chƣ phẩm thi tập, gồm 88 bài thơ. Phần này có thể là
những bài cịn sót lại do nhiều ngƣời nối tiếp chép thêm vào nên đề tài đa dạng, phức
tạp. Có những bài vịnh cảnh trí thiên nhiên, có những bài tự thuật (khơng phải tự thuật
của vua); có những bài vịnh nhân vật Bắc sử và Nam sử: Khổng Thánh, Quan Thánh,
Gia Cát ƣợng, Triệu Tử Long, Tào Tháo, Trƣng Nữ Vƣơng, Triệu Ẩu, Chử Đồng Tử,
Lý Ơng Trọng; có cả một truyện thơ Vƣơng Tƣờng trọn vẹn, có ý kiến cho rằng có thể
truyện thơ này mới đƣợc chép gộp vào đây[9,13]
Hồng Đức quốc âm thi tập là một tập thơ nhiều tác giả, nên ý thơ và lời thơ
cũng muôn màu mn vẻ, nhiều khía cạnh khác nhau, chi tiết khác nhau, phong cách