ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
HOÀNG THỊ THU HƯƠNG
VĂN HỌC LẠNG SƠN 20 NĂM ĐẦU THẾ KỈ XXI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGƠN NGỮ VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM
Thái Ngun – 2022
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
HOÀNG THỊ THU HƯƠNG
VĂN HỌC LẠNG SƠN 20 NĂM ĐẦU THẾ KỈ XXI
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 82.20.121
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TRẦN THỊ VIỆT TRUNG
Thái Nguyên - 2022
i
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các
nội dung của luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất cứ
cơng trình nào khác.
Thái Ngun, tháng 11 năm 2022
Tác giả luận văn
Hoàng Thị Thu Hương
ii
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với PGS.TS Trần Thị Việt
Trung, người cô đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu và hồn
thành luận văn.
Tơi xin bày tỏ lời cảm ơn Ban Giám hiệu, Phịng sau Đại học và các
thầy cơ giáo trong khoa Ngơn ngữ và Văn hóa, trường Đại học Khoa học, Đại
học Thái Nguyên đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Xin cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã khích lệ, động viên,
giúp đỡ tơi trong q trình học tập, cơng tác và hoàn thành nhiệm vụ.
Thái Nguyên, tháng 11 năm 2022
Tác giả
Hoàng Thị Thu Hương
iii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..............................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ...............................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề ...................................................................................................2
3. Mục đích nghiên cứu .........................................................................................5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .....................................................................5
5. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................5
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ..........................................................6
7. Kết cấu của đề tài ..............................................................................................6
NỘI DUNG...........................................................................................................7
Chương 1: VÀI NÉT VỀ LẠNG SƠN - MẢNH ĐẤT BIÊN CƯƠNG XINH
ĐẸP, GIÀU TRUYỀN THỐNG LỊCH SỬ VÀ BẢN SẮC VĂN HÓA..........7
1.1. Lạng Sơn- mảnh đất biên cương xinh đẹp, giàu truyền thống lịch sử và bản
sắc văn hóa ............................................................................................................7
1.2. Một vài đặc điểm về điều kiện kinh tế xã hội và con người Lạng Sơn ...... 20
1.3. Vài nét về văn học Lạng Sơn trước năm 2000 ............................................ 25
Chương 2. VĂN HỌC LẠNG SƠN 20 NĂM ĐẦU THẾ KỈ XXI - SỰ TIẾP
NỐI VÀ PHÁT TRIỂN .................................................................................... 33
2.1. Sự tiếp nối và phát triển về đội ngũ ............................................................ 33
2.1.1 Sự tiếp nối và phát triển ở thể loại thơ ....................................................... 33
2.1.2 Sự tiếp nối và phát triển ở thể loại văn xuôi ........................................ 35
2.1.3 Sự tiếp nối và phát triển ở lĩnh vực nghiên cứu, lý luận phê bình ....... 38
2.2. Sự phát triển về số lượng, chất lượng sáng tác ........................................... 41
2.3. Những cảm hứng chủ đạo của văn học Lạng Sơn sau năm 2000. .............. 43
2.3.1. Cảm hứng trong thơ ............................................................................ 43
2.3.2. Cảm hứng trong văn xuôi.................................................................... 49
2.4. Một số đặc điểm nghệ thuật của văn học Lạng Sơn sau năm 2000 ............ 60
2.4.1 Vài nét về nghệ thuật thơ ..................................................................... 60
iv
2.4.2 Vài nét về nghệ thuật văn xuôi ............................................................ 66
2.5. Phê bình văn học Lạng Sơn - sự tự ý thức về tiếng nói văn học của cộng
đồng các dân tộc thiểu số ................................................................................... 73
Chương 3. MỘT SỐ GƯƠNG MẶT TIÊU BIỂU CỦA VĂN HỌC LẠNG
SƠN TỪ NĂM 2000 TỚI NAY ....................................................................... 79
3.1 Lộc Bích Kiệm – một nỗi niềm tha thiết với việc giữ gìn bản sắc quê hương .... 79
3.1.1 Nhà nghiên cứu, phê bình đầy tâm huyết với văn học dân tộc thiểu số ......82
3.1.2 Nhà thơ “Áo chàm” tha thiết với quê hương xứ sở.......................................87
3.2. Chu Thanh Hương - cây bút trẻ với những vấn đề phức tạp của cuộc sống
thời kì hội nhập................................................................................................... 92
3.2.1. Cảm hứng về cuộc sống vùng biên phong phú, phức tạp ................... 94
3.2.2. Cảm hứng về con người dân tộc thiểu số vùng cao ............................ 97
3.2.3. Vài nét về nghệ thuật viết truyện của Chu Thanh Hương ................ 105
3.3. Ngô Bá Hòa, gương mặt thơ trẻ với nỗ lực cách tân thơ ca...................... 110
3.3.1. Viết về tuổi thơ miền núi, nét đặc sắc trong thơ Ngơ Bá Hịa ...........................112
3.3.2. Cảm hứng mãnh liệt, thiết tha về quê hương, con người xứ Lạng ...................116
3.3.3. Những nỗ lực cách tân về nghệ thuật trong thơ của cây bút trẻ Ngơ Bá Hịa .121
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 126
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 128
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CƠNG BỐ CỦA TÁC GIẢ......................... 133
PHỤ LỤC ........................................................................................................ 134
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1 Lạng Sơn là một tỉnh biên giới phía Đơng Bắc Việt Nam, là một vùng
đất xinh đẹp, thơ mộng và hùng vĩ, giàu bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số, giàu
kỳ tích lịch sử. Chính vì vậy từ xưa cho tới nay Lạng Sơn luôn là niềm cảm hứng
mãnh liệt cho các nhà văn nhà thơ trên cả nước nói chung và của Lạng Sơn nói
riêng. Họ sáng tác nên những tác phẩm văn học để phản ánh, để ngợi ca vẻ đẹp
của thiên nhiên, của con người, của lịch sử…vùng đất biên viễn xinh đẹp, giàu
bản sắc, giàu kỳ tích lịch sử này. Văn học Lạng Sơn từ thời phong kiến cho tới
nay đã có những đóng góp đáng kể vào đời sống văn học Việt Nam, góp phần làm
phong phú hơn cho đời sống văn học nước nhà với những nét độc đáo, đặc sắc,
đậm bản sắc văn hóa các tộc người vùng cao biên giới.
1.2 Bước sang thế kỉ XXI, văn học Lạng Sơn đã có những bước phát triển mới
và đạt được những thành tựu đáng khẳng định, đáng tự hào. Với một đội ngũ các nhà
văn đã có q trình sáng tác từ trước năm 2000 – nay vẫn tiếp tục sáng tác, cùng sự
xuất hiện một thế hệ các nhà văn được trưởng thành, được ghi nhận bởi sự sáng tạo,
sự đổi mới trong tư duy nghê thuật và trong cách viết, cách thể hiện…Văn học Lạng
Sơn sau năm 2000 cho tới nay đã vươn tới những thành tựu mới, cần được nhìn
nhận, đánh giá và khẳng định một cách khách quan và khoa học.
1.3 Hiện nay trong chương trình giảng dạy ở bậc phổ thông đã bổ sung
thêm nội dung văn học địa phương. Chính vì vậy việc nghiên cứu một cách hệ
thống, thấu đáo…để có thể lựa chọn ra những tác giả, tác phẩm văn học tiêu
biểu của địa phương, để làm tài liệu, ngữ liệu giảng dạy trong nhà trường phổ
thông của Lạng Sơn là một nhiệm vụ, một nhu cầu cấp thiết. Do đó, nghiên cứu
về văn học Lạng Sơn nói chung, văn học Lạng Sơn từ đầu thế kỉ XXI cho tới
nay là một việc làm rất ý nghĩa, có tính thực tiễn cao. Trước năm 2000, văn học
Lạng Sơn đã được tổ chức sưu tầm, nghiên cứu một cách khái quát và bài bản
với 6 tuyển tập: Cuối thế kỉ XX nhìn lại (xuất bản năm 2001 do Hội văn học
nghệ thuật Lạng Sơn chủ trì và thực hiện) cùng một số hội thảo, một số bài viết,
cũng như một số các luận văn đại học, sau đại học đã tổ chức thực hiện. Nhưng
2
văn học Lạng Sơn từ năm 2000 trở lại đây, hiện vẫn chưa được tổ chức nghiên
cứu nhằm khái quát hệ thống, chỉ ra những đặc điểm, những thành tựu cũng như
những hạn chế… của giai đoạn văn học này.
Chính vì tất cả các lẽ đó, chúng tơi mạnh dạn lựa chọn vấn đề nghiên cứu
về văn học Lạng Sơn trong khoảng thời gian 20 năm (từ đầu thế kỉ XXI cho tới
nay) để làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Lịch sử vấn đề
2.1 Văn học Lạng Sơn thời kì hiện đại nói chung đã trở thành đối tượng
nghiên cứu của khá nhiều nhà nghiên cứu, phê bình, nhà văn trong và ngoài tỉnh
Lạng Sơn cùng một số sinh viên, học viên cao học trong các trường cao đẳng và
đại học (nghiên cứu, phê bình tác giả, tác phẩm; nghiên cứu khái quát và cụ thể
về văn học Lạng Sơn trong từng giai đoạn lịch sử; nghiên cứu phê bình dưới góc
độ thể loại văn học: thơ, văn xi, tiểu thuyết, truyện ngắn…)
2.2 Tuy văn học Lạng Sơn giai đoạn từ đầu thế kỉ XXI cho tới nay – mặc
dù đã được một số nhà nghiên cứu, phê bình, một số nhà văn, nhà thơ, một số
sinh viên, học viên cao học quan tâm nghiên cứu, nhưng vẫn còn rất khiêm tốn,
chưa thực sự xứng tầm với những gì mà trong hơn 20 năm vận động và phát
triển trên cơ sở đổi mới, sáng tạo và kế thừa những thành tựu của các giai đoạn
văn học trước đó - của giai đoạn văn học đặc biệt này.
Chúng tôi xin được điểm qua tình hình nghiên cứu về văn học Lạng Sơn
giai đoạn từ năm 2000 trở lại đây cụ thể như sau:
* Trong các cuốn sách nghiên cứu phê bình của các tác giả là các nhà nghiên
cứu phê bình của Lạng Sơn nói riêng, của khu vực miền núi phía Bắc nói chung.
- Trong cuốn Tiếp cận văn học dân tộc thiểu số (NXB Văn hóa thơng tin
năm 2011) của tác giả Lâm Tiến có bài: Văn xi Lạng Sơn qua một số truyện
kí, Khau slin hùng vĩ – cuốn tiểu thuyết độc đáo. Trong hai bài nghiên cứu phê
bình này, tác giả Lâm Tiến đã có cái nhìn vừa khái quát vừa cụ thể về quá trình
phát triển với những mặt mạnh, mặt hạn chế của văn xuôi Lạng Sơn (cả giai
đoạn trước và sau năm 2000); tác giả cũng đã chỉ ra những thành công đáng ghi
3
nhận, động viên của cuốn tiểu thuyết lịch sử Khau Slin hùng vĩ của tác giả Vũ
Ngọc Chương – cây bút tiểu thuyết của Lạng Sơn.
- Trong cuốn Nét đẹp văn hóa trong thơ văn và ngơn ngữ dân tộc (tập 3Hương rừng)- NXB Mĩ thuật 2008 của tác giả Hồng An có các bài viết: Nhận
diện thơ Lạng Sơn 10 năm (1996-2006); Khau Slin hùng vĩ và tiểu thuyết Việt
Nam hiện đại; Thêm một tiểu thuyết của Vũ Ngọc Chương; Thơ Nguyễn Thị
Thùy trong quan hệ với thơ trẻ; Thơ hay sống mãi với thời gian – Trong thơ
xứ Lạng có thơ song ngữ…Đây là những bài viết nghiên cứu phê bình về tác
phẩm, về thể loại…trong văn học Lạng Sơn, trong đó có các cây bút, các tác
phẩm văn học sau năm 2000.
- Trong cuốn Văn học các dân tộc thiểu số- một bộ phận đặc thù của
văn học Việt Nam (NXB Văn hóa dân tộc 2016) của tác giả Lộc Bích Kiệm có
khá nhiều bài viết về văn học dân tộc thiểu số nói chung và về văn học Lạng
Sơn trước và sau năm 2000 nói riêng như: Bản sắc dân tộc trong văn học các
dân tộc thiểu số và miền núi; Sáng tác bằng tiếng dân tộc thiểu số là góp phần
làm phong phú thêm cho nền văn học dân tộc; Viết bằng lời quê hương; Con
đường hẹn nhau; Các nhà văn xứ Lạng…
- Trong cuốn Xứ Lạng và nhà tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Trường Thanh
(NXB Đại học Thái Nguyên 2011) của tác giả Nguyễn Mạnh Dũng và Trần Thị
Việt Trung có những phân tích, đánh giá sâu sắc về vẻ đẹp và giá trị lâu bền của
tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Trường Thanh.
- Trong các cuốn sách này các tác giả: Lâm Tiến, Hồng An, Lộc Bích
Kiệm, Nguyễn Mạnh Dũng, Trần Thị Việt Trung đã nghiên cứu, phê bình về các
nhà văn nhà thơ, các tác phẩm tiêu biểu của Lạng Sơn- trong đó có nhiều tác
phẩm được sáng tác từ sau năm 2000 cho đến nay; đã nghiên cứu về một giai
đoạn văn học Lạng Sơn (5 năm, 10 năm).Qua đó, các tác giả trên đã đưa ra một
số nhận xét, đánh giá về những đặc điểm và một số thành công cũng như một số
hạn chế của văn học Lạng Sơn, của một số cây bút tiêu biểu của Lạng Sơn giai
đoạn 5 năm, 10 năm đầu thế kỉ XXI.
4
* Ngoài ra trong 20 năm qua, Hội Văn học Nghệ thuật Lạng Sơn đã tổ
chức nhiều Hội thảo về các tác giả, tác phẩm của Lạng Sơn như: Văn học Lạng
Sơn 10 năm (2005-2015); Sự nghiệp sáng tác của ba nhà văn: Mã Thế Vinh, Vy
Thị Kim Bình, Nguyễn Trường Thanh. Hội thảo về Văn học Lạng Sơn với đề tài
lịch sử; về các cây bút nữ của văn học Lạng Sơn…
Qua các Hội thảo khoa học này, văn học Lạng Sơn 20 năm đầu thế kỉ XXI
cũng đã được hiện lên ở từng bộ phận, từng tác giả và ở từng thể loại trong từng
giai đoạn nhỏ, với những đóng góp riêng đáng trân trọng.
* Văn học Lạng Sơn cùng một số tác giả tiêu biểu của Lạng Sơn cũng đã
trở thành đề tài nghiên cứu khoa học, đề tài luận văn đại học và sau đại học của
một số học viên ngành văn như:
- Luận văn nghiên cứu về nhà văn Nguyễn Trường Thanh và tiểu thuyết
lịch sử của ông do tác giả Nguyễn Mạnh Dũng thực hiện năm 2000.
- Luận văn nghiên cứu về nhà văn Vi Thị Kim Bình do tác giả Nguyễn
Thị Thu Duyên thực hiện năm 2015
- Luận văn nghiên cứu về Văn xuôi Lạng Sơn sau năm 1975 của tác giả
Nguyễn Thị Quỳnh Nga thực hiện năm 2015
- Luận văn nghiên cứu về tác giả Mã Thế Vinh do tác giả Lê Thị Hồng
Trang thực hiện năm 2017
Tóm lại, văn học Lạng Sơn trong những năm 2000 cho tới nay đã trở
thành đối tượng nghiên cứu, phê bình, đối tượng của các Hội thảo khoa học (của
tỉnh Lạng Sơn); đã xuất hiện khá nhiều các bài viết (bài báo khoa học, bài giới
thiệu, bài tham luận hội thảo) cũng như một số cuốn sách đã xuất bản…trong
khoảng 20 năm vừa qua.
Tuy nhiên cho tới nay, theo khảo sát của chúng tôi chưa có một cơng trình
nghiên cứu khái qt, hệ thống, tồn diện nào về văn học Lạng Sơn 20 năm đầu
thế kỉ XXI. Các cơng trình nghiên cứu, các bài viết mới chỉ dừng lại ở việc:
nghiên cứu các giai đoạn nhỏ (5 năm, 10 năm); nghiên cứu phê bình về một số
tác giả, tác phẩm tiêu biểu của Lạng Sơn như: Nguyễn Trường Thanh, Mã Thế
Vinh, Vi Thị Kim Bình… Cịn khá nhiều cây bút có nhiều đổi mới, điển hình và
5
có những đóng góp đáng ghi nhận trong giai đoạn văn học này chưa được đi sâu
vào nghiên cứu. Chính vì vậy chúng tơi đã mạnh dạn lựa chọn vấn đề: Nghiên
cứu về văn học Lạng Sơn 20 năm đầu thế kỉXXI để làm đề tài luận văn cao học
của mình.
3. Mục đích nghiên cứu
3.1 Đánh giá một cách khái quát, toàn diện về văn học Lạng Sơn 20 năm
đầu thế kỉ XXI (bao gồm những thành tựu đã đạt được và những giới hạn cần
phải vượt qua).
3.2 Ghi nhận và khẳng định những đóng góp quan trọng, nổi bật của văn học
Lạng Sơn đầu thế kỉ XXI đối với quá trình vận động, phát triển của văn học thiểu
số Việt Nam nói riêng, đối với văn học Việt Nam thời kỳ đương đại, hội nhập nói
chung.
3.3 Lan tỏa những giá trị (giá trị văn chương, giá trị lịch sử, giá trị giáo
dục…) của những tác phẩm văn học tiêu biểu của Lạng Sơn tới đông đảo người
đọc trong cả nước nói chung, trong tỉnh Lạng Sơn nói riêng, đặc biệt là với đối
tượng người đọc là học sinh các trường phổ thông của tỉnh Lạng Sơn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu khái quát về Văn học Lạng Sơn từ đầu thế kỉ XXI cho tới
nay (2021) trên các lĩnh vực: đội ngũ sáng tác, tác phẩm, quá trình vận động và
phát triển, thành tựu…
- Đi sâu vào nghiên cứu một số tác giả tiêu biểu của giai đoạn văn học này
(thuộc các thể loại khác nhau). Đó là:
+ Nhà nghiên cứu, nhà thơ Lộc Bích Kiệm
+ Nhà văn Chu Thanh Hương
+ Nhà thơ Ngô Bá Hòa
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài nghiên cứu này chúng tôi sẽ sử dụng một số phương
pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp tiếp cận hệ thống
6
- Phương pháp phân tích tổng hợp (về tác giả, tác phẩm, lịch sử văn
học…)
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành (văn học, lịch sử, văn hóa)
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Nếu đề tài được thực hiện thành công sẽ có ý nghĩa khoa học và thực tiễn
cụ thể là:
- Đóng góp vào việc nghiên cứu về lịch sử văn học Lạng Sơn trong quá
trình vận động và phát triển liên tục từ sau năm 1945 cho tới nay.
- Khẳng định những thành tựu mới của văn học Lạng Sơn ở tất cả các lĩnh
vực: đội ngũ sáng tác, số lượng tác phẩm, chất lượng tác phẩm, sự đổi mới trong
tư duy nghệ thuật và phương pháp sáng tác của thế hệ nhà văn trẻ của Lạng
Sơn…trong giai đoạn văn học mới (từ sau năm 2000 cho tới nay)
- Cung cấp tài liệu, ngữ liệu về văn học địa phương cho chương trình giảng
dạy Văn học địa phương Lạng Sơn cho các trường phổ thông của tỉnh Lạng Sơn
theo nhu cầu đổi mới chương trình giáo dục phổ thơng của Bộ GD và ĐT hiện nay.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Vài nét về xứ Lạng - mảnh đất biên cương xinh đẹp, giàu
truyền thống lịch sử và bản sắc văn hóa.
Chương 2. Văn học Lạng Sơn 20 năm đầu thế kỉ XXI - sự tiếp nối và
phát triển.
Chương 3. Một số gương mặt tiêu biểu của văn học Lạng Sơn từ năm
2000 đến nay.
7
NỘI DUNG
Chương 1: VÀI NÉT VỀ LẠNG SƠN - MẢNH ĐẤT BIÊN CƯƠNG
XINH ĐẸP, GIÀU TRUYỀN THỐNG LỊCH SỬ VÀ
BẢN SẮC VĂN HÓA
1.1. Lạng Sơn- mảnh đất biên cương xinh đẹp, giàu truyền thống lịch sử và
bản sắc văn hóa
Lạng Sơn là một tỉnh miền núi nằm ở phía Đơng Bắc của lãnh thổ Việt
Nam. Lạng Sơn có vị trí địa lý khá thuận lợi khi tiếp giáp với nhiều địa phương
trong và ngồi nước. Về phía Bắc, Lạng Sơn giáp với tỉnh Cao Bằng. Cịn ở phía
Đơng Bắc, Lạng Sơn tiếp giáp với khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây (Trung
Quốc). Về phía Nam và Đơng Nam giáp với tỉnh Quảng Ninh, Bắc Giang. Trong
khi đó, phía Tây Nam của Lạng Sơn là tỉnh Thái Nguyên. Lạng Sơn có đường
biên giới với nước láng giềng Trung Quốc dài trên 230km. Đây là mảnh đất biên
cương xinh đẹp, thơ mộng với những vẻ đẹp tự nhiên đa dạng, phong phú, làm
say đắm lòng người như câu ca xưa: “Ai lên xứ Lạng cùng anh/ Bõ công bác mẹ
sinh thành ra em/ Tay cầm bầu rượu nắm nem/Mải vui quên hết lời em dặn dị”.
Nơi đây có q trình kiến tạo địa chất lâu đời, địa hình phức tạp và bị chia cắt
mạnh với khoảng 80% diện tích là đồi núi. Mảnh đất này được điểm tô bởi
những dãy núi non trùng trùng điệp điệp, một phần trong số đó đã đi vào huyền
thoại như những bức tường thành vững chắc bảo vệ quê hương xứ Lạng như: núi
Cai Kinh, núi Mẫu Sơn… Trên đó có cây cối, hoa lá, xanh tươi suốt bốn mùa
với nhiều loại đặc sản quý, thơm ngon nức tiếng như: cây hồi, cây quế, cây na…
Lạng Sơn còn được thiên nhiên ưu ái dành tặng những danh thắng mĩ lệ và độc
đáo như động Nhị Thanh, Tam Thanh, núi Tô Thị, quần thể danh thắng Mẫu
Sơn… cùng với nhiều hang động tự nhiên, vừa tạo nên vẻ đẹp hoang sơ vừa là
những di tích khảo cổ quý giá, nơi ghi dấu sự xuất hiện của người tiền sử từ thửa
xa xưa như hang Thẩm Khuyên, Thẩm Hai… Xuống thấp hơn chút nữa là những
vùng đồng bằng, thung lũng xanh tươi, trù phú với đồng xanh lúa chín, hoa trái
8
thơm “non xanh nước biếc” như thung lũng Bắc Sơn, cánh đồng Thất Khê hay
thảo nguyên Đồng Lâm - Hữu Liên nức tiếng. Đặc biệt, dịng sơng Kì Cùng uốn
lượn bao quanh thành phố Lạng Sơn, với dòng chảy ngược về phương Bắc, đã đi
vào thơ ca muôn thuở, tạo nên một dịng sơng rất đặc biệt, nét chấm phá riêng
cho mảnh đất vùng biên. Khí hậu ở Lạng Sơn thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió
mùa với những nét đặc trưng: nóng ẩm, mưa nhiều, mùa hè thời tiết mát mẻ cịn
mùa đơng lạnh và kéo dài. Thậm chí, có những ngày mùa đơng lạnh giá, nhiệt
độ xuống thấp, khu vực núi cao Mẫu Sơn còn xuất hiện băng tuyết trắng xóa
khiến bao người thích thú vì hiện tượng thiên nhiên đặc biệt này. Những vẻ đẹp
riêng có của đất trời Lạng Sơn đã in sâu trong tâm trí của rất nhiều người yêu
mến Lạng Sơn, như những tín hiệu thân quen để gợi nhớ về một dải đất miền
biên ải vùng cao xinh đẹp, trù phú, khiến cho những ai đã đặt chân đến dù chỉ
một lần cũng sẽ nhớ mãi không quên.
Mảnh đất Lạng Sơn với thế núi thế sông, với cảnh đẹp tự nhiên hùng vĩ,
thơ mộng đã trở thành nguồn cảm hứng cho bao thi sĩ, bao nhà văn để viết nên
những bài thơ, áng văn tuyệt tác của mình. Họ đã vẽ nên trong các tác phẩm một
không gian nghệ thuật vừa phong phú, đa dạng vừa mang đậm dấu ấn, bản sắc
địa lí riêng biệt của Lạng Sơn. Thiên nhiên trong văn học Lạng Sơn được miêu
tả hết sức tươi đẹp, kì vĩ và hoang sơ. Người đọc sẽ khơng khó để bắt gặp hình
ảnh những triền núi cao, những dịng sơng, dịng suối quanh năm vẫn chảy,
những hang động kì vĩ, những hay những đêm đơng giá rét với cơn gió lạnh tái
tê. Bức tranh thiên nhiên xứ Lạng còn hiện lên với những hình ảnh rất đỗi quen
thuộc như dịng sơng Kỳ Cùng thơ mộng, những cung đường biên mốc giới trải
dài cùng cái hoang vu của miền biên ải. Tất cả đều soi bóng và hiện lên rõ nét
trong các trang văn xứ Lạng như một bức tranh thu nhỏ về mảnh đất biên cương
Tổ quốc.
9
Ca dao xưa có câu:
“Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa,
Có nàng Tơ Thị, có chùa Tam Thanh.
Ai lên xứ Lạng cùng anh,
Tiếc công bác mẹ sinh thành ra em.
Tay cầm bầu rượu nắm nem,
Mải vui quên hết lời em dặn dị…”
Mỗi khi nhắc đến Lạng Sơn, có lẽ khơng ai không biết đến những câu ca
dao ngọt ngào, say đắm ấy. Bài ca dao đã vẽ nên một bức tranh đầy thơ mộng về
xứ Lạng với những địa danh quen thuộc: “Đồng Đăng, phố Kỳ Lừa, nàng Tô Thị,
Chùa Tam Thanh”. Hơn nữa, trong đó cịn có những sản vật đặc trưng của Lạng
Sơn như “bầu rượu, nắm nem”. Tất cả kết hợp thành một vùng văn hóa đậm đà
bản sắc dân tộc, khắc tạc nên một khung cảnh tuyệt vời khiến cho bất cứ ai đến
với Lạng Sơn đều phải say đắm, rung động thành thơ. Đến năm 972, các đồn sứ
giả đã lui tới Lạng Sơn và có nhiều sáng tác ngợi ca thiên nhiên mĩ lệ, đa dạng
của mảnh đất này. Vua Trần Nhân Tơng đã có lần lên thị sát vùng núi Lạng Sơn
và vô cùng cảm động trước vẻ đẹp thiên nhiên, núi rừng nơi đây. Ông đã viết
những bài: Đăng Bảo Đài Sơn, Sơn phịng mãn hứng, Lạng Châu vãn cảnh.
Đó là những bài thơ đẹp, những câu thơ hay tả cảnh vùng biên ải buổi chiều rất
thơ mộng và có hồn:
“Chùa xưa lạnh lẽo khói thu mờ
Chiều quạnh thuyền câu, chng vẳng đưa
Núi lặng, nước quang, âu trắng lượng
Tạnh mây, im gió, cỏ cây thưa”.
(Lạng Châu vãn cảnh- Bản dịch của Trần Văn Lê) [28,38]
Nguyễn Trung Ngạn thì chú ý tới quang cảnh xóm núi thanh bình:
“Xóm núi trăng lịng ran tiếng mõ
Nương đồi mưa ngớt rộn màu xanh” [28,36]
10
Cảm xúc chủ yếu của các nhà thơ xưa là niềm trân trọng, tự hào đối
với Lạng Sơn, nơi đầu sóng ngọn gió với địa thế hiểm trở. Nguyễn Du đã có câu
thơ cơ đúc: “Nhất quan hùng trấn vạn sơn tâm” (Một cửa quan hùng tráng giữa
lịng mn ngọn núi) [28,37]. Nguyễn Tông Khuê mô tả vẻ đẹp vùng biên ải vừa
hùng tráng, kì vĩ vừa sinh động, đẹp mơ màng:
“Núi giăng, cờ lộng, lung linh nguyệt
Trống rộn còn vang, bát ngát rừng” [28,37]
Cái đẹp của Lạng Sơn không chỉ là non xanh nước biếc mà còn là cái đẹp
của vùng đô thị sầm uất chốn biên cương. Ninh Tốn lại đặc biệt quan tâm đến
phố Kỳ Lừa, phố thị đặc trưng của Lạng Sơn:
“Đưa thư rộn rịp đoàn xe ngựa
Nhà cửa bày giăng hàng lụa tơ” [28,38]
Cho đến thời kì hiện đại, văn học Lạng Sơn vẫn ln tiếp nối nguồn cảm
hứng bất tận ca ngợi thiên nhiên, ca ngợi vùng đất xinh đẹp và thơ mộng miền
biên ải. Ngay cả trong những tiểu thuyết viết về đề tài lịch sử của nhà văn
Nguyễn Trường Thanh, thiên nhiên xứ Lạng vẫn được tô điểm như một nét
chấm phá đặc biệt. Thiên nhiên tuyệt đẹp như chiếc phông nền hoàn hảo làm nổi
bật những câu chuyện lịch sử, những nhân vật lịch sử lẫy lừng. Người đọc sẽ bắt
gặp những bức tranh thiên nhiên thơ mộng, tươi đẹp, khi hùng vĩ, mỡ màu khi
lại giản dị, mộc mạc qua con mắt ngắm nhìn của một nhà văn gắn bó sâu sắc với
Lạng Sơn trong các tác phẩm như: Tướng không phong hàm, Một thời biên ải,
Hoa bất tử …Bức tranh thiên nhiên mùa xuân xứ Lạng ở Một thời biên ải có lẽ
sẽ mãi là bài tình ca hay nhất của mẹ thiên nhiên: “Nắng xuân ấm áp lan tỏa cả
phố phường làng quê, rừng núi, những cây hồng đào, bích đào nở muộn, những
chùm hoa đang bừng nở khoe sắc tỏa hương. Đèo Giang, Văn Vỉ, núi Nhị, Tam
Thanh như xanh hơn. Núi Chóp Chài, Mẫu Sơn sáng đẹp, hùng vĩ, trầm mặc uy
nghiêm...” [63-152]. Hay trong tiểu thuyết Hoa bất tử, mảnh đất biên cương xứ
Lạng lại hiện lên thật yên bình, nên thơ tựa như một miền cổ tích thửa nào:
11
“lũng Pá Làng rộng thênh thang, bát ngát, những thảm cỏ non xanh nối tiếp
nhau trải dài xa tít tắp tha hồ trâu, bò thung thăng gặm cỏ. Bao quanh thung lũng
là những cánh rừng già, rừng hồi xanh thẳm, rừng nứa rừng vầu đan ken vào
nhau như bức tường thành. Trong lịng lũng, đây đó là những cây đại thụ tỏa
bóng xuống thảm cỏ xanh rì bên những dịng suối trong vắt chảy rì rào, róc rách
như bản nhạc mn thủa của núi rừng” [66-65]. Ngồi ra, vẻ đẹp của thiên nhiên
Lạng Sơn cũng trở thành chất liệu, là cảm hứng dạt dào trong các sáng tác của
Lê Tiến Thức với Phương Bắc hoang dã, Nông Ngọc Bắc với Tiếng gọi của
rừng, Vũ Ngọc Chương với Khau Slin hùng vĩ, Rừng vàng, Nguyễn Thị Ngọc
Bốn với Dưới chân Khau Slung, Nguyễn Thị Quỳnh Nga với Mùa sau sau đỏ
lá… Đồng thời, mảnh đất biên cương xứ Lạng xinh đẹp còn là đề tài, là cảm
hứng sáng tạo mãnh liệt đối với các nhà thơ xứ Lạng như Hàn Kỳ, Nguyễn
Quang Huynh, Nguyễn Đình Thọ, Lộc Bích Kiệm, Vân Du, Ngơ Bá Hịa…
Bằng hồn thơ nhạy cảm, tình u q hương, xứ sở tha thiết đã khiến họ cất lên
những câu thơ tuyệt bút để ca ngợi vẻ đẹp của núi rừng biên cương. Có thể thấy
rằng, mỗi ngọn núi, dịng sơng, tấc đất, nhành cây đã hóa thân và in bóng trong
những trang viết về quê hương xứ Lạng như khắc tạc nên một miền thương nhớ,
một mảnh đất màu mỡ đã khơi nguồn cảm hứng sáng tác đến không cùng.
Lạng Sơn không chỉ là vùng đất xinh đẹp, thơ mộng mà hơn hết, nó là
vùng đất cửa ngõ “phên dậu”, địa đầu của Tổ quốc với lịch sử hình thành và
phát triển lâu đời, giàu truyền thống cách mạng, ln giữ vị trí chiến lược quan
trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phịng, an ninh và đối ngoại của đất
nước. Vốn có vị trí địa lí vơ cùng đặc biệt, Lạng Sơn là nơi có cửa khẩu giao
lưu, thông thương vào hàng lớn nhất giữa nước ta với Trung Quốc, một quốc gia
lớn, có nhiều “duyên nợ” với nước ta đặc biệt là “duyên nợ” xâm lược, xâm lấn
nước ta từ bao đời nay. Nên trong lịch sử dân tộc, Lạng Sơn là mảnh đất biên
cương anh dũng, ngoan cường. Mỗi tấc đất, mỗi ngọn núi, con sông…đều gắn
liền với những cuộc chiến đấu khốc liệt, với những chiến thắng lẫy lừng của dân
12
tộc ta, của đồng bào các dân tộc Lạng Sơn. Trong cuộc kháng chiến chống quân
Tống xâm lược thế kỷ XI, quân dân Lạng Sơn đã hỗ trợ quan quân triều đình
nhà Lý do Lý Thường Kiệt chỉ huy; các đội dân binh vùng Văn Uyên, Thoát
Lãng do các thủ lĩnh Thân Thừa Quý, Thân Thiệu Thái, Thân Cảnh Phúc chỉ
huy đã tiến hành những cuộc chiến đấu anh dũng tiêu diệt quân xâm lược, lập
nên những chiến công vang dội ở vùng biên ải. Tiếp đó, cuộc kháng chiến chống
quân xâm lược Nguyên - Mông thế kỷ XIII, các đội dân binh Văn Uyên, Thoát
Lãng do thủ lĩnh Nguyễn Thế Lộc chỉ huy đã chiến đấu kiên cường, ngăn chặn,
tiêu hao binh lực của giặc ngay tại cửa ải Phia Luỹ, góp phần cùng quan quân
nhà Trần đánh bại cuộc xâm lăng của giặc Nguyên - Mông. Vào thế kỉ XV, cuộc
khán chiến chống quân xâm lược nhà Minh nổ ra, các đội dân binh Văn Uyên,
Thoát Lãng sát cánh cùng quân Lam Sơn do hai tướng Lê Lựu và Lê Bôi chỉ huy
đã chặn đánh giặc quyết liệt từ ải Phia Luỹ đến Khau Cấp (Kỳ Lừa), tiêu diệt
hàng nghìn tên giặc. Trong trận quyết chiến chiến lược tại ải Chi Lăng lịch sử,
các đội quân dân binh vùng Chi Lăng do Đại Huề chỉ huy đã cùng với các đội
quân Lam Sơn chiến đấu anh dũng, đánh bại hoàn toàn quân xâm lược Minh.
Trong chiến dịch thần tốc của quân Tây Sơn do vua Quang Trung - Nguyễn Huệ
chỉ huy tiêu diệt quân Thanh xâm lược năm 1789, các đội quân vùng Văn Uyên,
Thoát Lãng do phiên thần Nguyễn Đình Vượng chỉ huy đã liên tục tiến hành tập
kích giặc ở Đồn Thành, Kỳ Lừa, Hồng Đồng. Phối hợp với quân Tây Sơn
chặn đánh tướng Tôn Sĩ Nghị rút chạy từ Đoàn Thành đến ải Phia Luỹ, góp
phần làm nên chiến cơng vang dội trong cuộc kháng chiến chống quân Thanh,
bảo vệ vững chắc nền độc lập của quốc gia, dân tộc. Trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, với ý chí quyết
tâm “khơng chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, quân và dân các dân tộc
Lạng Sơn đã giành được những chiến công hiển hách gắn liền với tên đất, tên
làng như: Bắc Sơn, Ba Sơn, Chi Lăng, Lũng Vài, Lũng Phầy... Bước sang cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975), hồ chung với khí thế sục sôi của
13
cả nước, với khẩu hiệu “tất cả vì Miền Nam ruột thịt”, nhân dân các dân tộc
Lạng Sơn đã phát huy truyền thống cách mạng, dũng cảm, kiên cường trong
chiến đấu, cần cù, sáng tạo trong lao động, đã không ngừng đẩy mạnh sản xuất,
phát triển kinh tế – xã hội, tích cực đóng góp sức người, sức của chi viện cho
Miền Nam đánh Mỹ. Năm 1979, khi chiến tranh biên giới nổ ra, quân dân Lạng
Sơn đã phối hợp với bộ đội chủ lực và quân dân cả nước kiên cường đấu tranh
để bảo vệ biên giới phía Bắc tổ quốc. Đối với lịch sử dân tộc, Lạng Sơn là mảnh
đất biên cương anh dũng, ngoan cường. Đây là mảnh đất giàu truyền thống lịch
sử với những sự kiện lịch sử, những con người lịch sử đã đi vào huyền thoại. Đó
là người anh hùng Thân Cảnh Phúc, Đại Huề, Đại Liệu, Hồng Đình Kinh,
Hồng Văn Thụ, Lương Văn Tri cùng các đồng chí Hồng Văn Hán, Hồng Văn
Kiểu, Nguyễn Văn Ninh… những người con yêu nước của quê hương Xứ Lạng
nguyện là những hạt nhân tiên phong theo cách mạng góp phần làm nên những
kỳ tích lịch sử của quê hương. Các chiến sỹ cộng sản Bắc Sơn như: Hồng Văn
Hán, Dương Cơng Kỳ, Dương Cơng Eng, Dương Văn Vân… cũng là nguồn cảm
hứng để các nhà văn viết nên các tiểu thuyết lịch sử của mình.
Vì vậy cảm hứng viết về đề tài lịch sử của văn học Lạng Sơn được khơi
dậy mạnh mẽ và tiếp nối lưu truyền qua các thế hệ người cầm bút. Quả thực,
không thể phủ nhận rằng văn học viết về đề tài lịch sử là một bộ phận văn học
phát triển mạnh nhất và chiếm ưu thế nổi bật, là một nhánh lớn trong dòng chảy
chung của văn học xứ Lạng. Ngay từ thế kỉ XIV, Phạm Sư Mạnh đã ca ngợi lịch
sử dân tộc hào hùng ghi dấu tại ải Chi Lăng qua bài thơ Chi Lăng động:
“Thiên lý tuần biên ẩn cổ bề,
Phiên thành man trại nhất ê kê.
Giản nam giản bắc hồng kỳ chuyển,
Quân hậu quân tiền thanh huỷ đề”
14
Dịch thơ:
“Nổi trống tuần biên bước dặm ngàn,
Xem tày trùng nhỏ khóm Phiên, Man.
Quạt cờ đồng đội che đầu núi,
Gầm thét ba quân kéo một đoàn” [28-37]
Những câu thơ âm vang, hào hùng như tiếng trống xung trận tự thửa xưa
vọng về, mang đến bao xúc cảm tự hào, ngợi ca về một dải đất anh hùng đã gánh
vác những trọng trách lớn lao mà lịch sử giao phó. Xúc cảm về dân tộc, về lịch
sử khơng chỉ có trong các sáng tác của các nhà nho, sứ giả của những thế hệ
trước mà còn được nhắc đến trong cuộc chiến đấu chống Pháp, cuộc vận động
Duy Tân sau này. Trong bài phú của Phạm Văn Nghị có đoạn:
“Sóng Bạch Đằng, máu bá linh thửa nọ, lưỡi gươm thương còn nhấp nháy
sóng bình sa.
Núi Mã n, thây Liễu tướng ngày nào, ngọn cờ vẫn phất phơ tầng mây
tỏa” [28- 37,38]
Trong cuộc bão táo của cách mạng Duy Tân, ngọn cờ của nghĩa quân Lam
Sơn phất phơ giữa mây trời Chi Lăng, bay trên đỉnh núi Mã Yên sừng sững đã
trở thành niềm cổ vũ, khích lệ to lớn tinh thần và ý chí của qn và dân cả nước.
Đó là niềm tự hào đồng thời cũng là khát vọng giải phóng quê hương đất nước
thấm sâu trong từng trái tim, dòng máu của con người Việt Nam. Kế thừa mạch
nguồn cảm hứng bất tận đó, đến thời hiện đại, khuynh hướng sáng tác về đề tài
lịch sử trở thành một khuynh hướng nổi bật, mang đến nhiều thành công cho các
cây bút xứ Lạng, như một sự phát triển tất yếu và tạo nên chất riêng biệt cho văn
học nơi đây. Đó là các tác phẩm: Ngả đường khiếp sợ của Nông Văn Côn,
Những người con núi mẹ(nhiều tác giả - Ty Văn hóa thơng tin xuất bản năm
1980), Điểm tựa, Pháo đài Đồng Đăng (nhiều tác giả), Mũi tên thần của
Nguyễn Quang Huynh, Khau Slin hùng vĩ của Vũ Ngọc Chương …Nổi bật nhất
trong số những tác giả khai thác đề tài lịch sử chính là Nguyễn Trường Thanh
15
với những cuốn biên niên sử đậm chất văn chương như Kì tích Chi Lăng, Lũng
Xá bình n, Hoa trong bão, Tướng khơng phong hàm, Hoa bất tử, Mạch
Nguồn,… Kì tích Chi Lăng là một cuốn sách rất thành cơng của Nguyễn
Trường Thanh khi nhà văn đã kể về một chặng đường lịch sử trên mảnh đất Chi
Lăng anh hùng. Qua ngòi bút của Nguyễn Trường Thanh, 52 câu chuyện trong
Kỳ Tích Chi Lăng đã bao qt cả khơng gian rộng lớn cùng với dịng chảy
khơng ngừng nghỉ của thời gian. Xuyên suốt tác phẩm là các địa danh lịch sử,
những địa danh mà chỉ cần nhắc đến tên thôi đã khiến cho kẻ thù phải kinh hồn
bạt vía như Núi Phượng Hoàng, Mã Yên Sơn; Núi Vua Ngự đến Núi Mặt Quỷ,
Quỷ Môn Quan; Bến Tuần; Cầu Quan Âm; Núi Kỳ Lân…. Thời gian trong tập
truyện trải dài từ khi nước ta bị nhà Đường đô hộ cho đến liên tiếp các cuộc khởi
nghĩa của các dân tộc Chi Lăng, các vùng phụ cận cùng nhân dân cả nước đứng
lên đánh đuổi bọn phong kiến phương Bắc. Mỗi bài ghi chép là cả tâm huyết của
tác giả. Tất cả các câu truyện kể này có chứa đựng các chi tiết hư cấu, tuy nhiên
nhân vật chính và sự kiện chính thì được sáng tạo trên các sử liệu xác thực trong
lịch sử. Hoa trong bão lại là cuốn tiểu thuyết phác họa lại cuộc khởi nghĩa Bắc
Sơn năm 1940 oanh liệt. Từng trang viết của tác phẩm đã dựng lên chân dung
của những người anh hùng chân đất, của đồng bào dân tộc đứng lên dưới sự lãnh
đạo của Đảng làm nên kỳ tích của một thời kỳ lịch sử. Tác phẩm cho chúng ta
thấy rõ hơn bản anh hùng ca của Bắc Sơn anh hùng. Trong khi đó, với độ dài
500 trang, tiểu thuyết Hoa bất tử lại là pho sử ghi chép về thân thế, sự nghiệp
của đồng chí Hồng Văn Thụ, cũng như mối tình huyền thoại giữa người chiến
sĩ gang thép ấy với nữ chiến sĩ cộng sản Hồng Ngân. Hình tượng nhân vật
chính trong các tác phẩm khai thác đề tài lịch sử thường là những thủ lĩnh kháng
chiến, những anh hùng áo vải hay đơn giản chỉ là những chàng trai, cô gái bình
thường, những em nhỏ…Người đọc sẽ bắt gặp những cuộc đời khác nhau, thân
phận khác nhau như hình ảnh người chiến sĩ cách mạng Hồng Văn Thụ trong
Tướng khơng phong hàm khi bị tuyên án tử hình, anh vẫn dõng dạc tuyên bố
16
với bọn địch: “Trong cuộc đấu tranh sinh tử giữa chúng tôi, những người mất
nước, và các ông, những kẻ cướp nước, sự hy sinh của những người như tôi là lẽ
dĩ nhiên. Chỉ biết rằng, cuối cùng chúng tôi sẽ thắng” [62-422]. Hay một Dương
Văn Vân trong Hoa trong bão, dù bị tra tấn tàn bạo nhưng vẫn cắn răng chịu
đựng, kiên quyết không hé nửa lời: “Ba tên đồ tể xơ lại trói chặt hai ngón tay
cái, hai ngón chân cái, chúng rút dây treo ơng lên sà nhà nện ông như đập đất,
ông oằn người, quằn quại trên khơng nghiến răng chịu địn. Khơng kêu van,
khơng rên rỉ, chỉ có tiếng hự hự, tiếng chửi thề của bọn đồ tể khi thay nhau nhảy
vào cắn xé ông cho đến khi ngất xỉu, chúng hạ xuống, đổ nước lã vào mặt, tỉnh
dậy lại hỏi, và chỉ một câu trả lời: “khơng biết” thì thào theo máu miệng trào ra”
[61-272]. Nhân vật Dương Công Eng trong tác phẩm kể trên cũng là một tấm
gương lịch sử tiêu biểu khi anh dõng dạc nói trước kẻ thù: “Dù có trăm phương
ngàn kế, dù gia đình nào ở Bắc Sơn cũng có khăn tang ngang đầu thì mày cũng
khơng mua chuộc nổi lòng son của dân Bắc Sơn với cách mạng, dân Bắc Sơn
cịn thì Trung ương cịn, dân Bắc Sơn cịn thì Đảng cịn” [61-282]. Điểm chung
ở họ là tình yêu tổ quốc, yêu quê hương núi rừng, yêu bản làng, mái nhà…và họ
sẵn sàng đứng lên để bảo vệ những điều thiêng liêng ấy bằng một bản lĩnh kiên
cường, một ý chí bất khuất khơng hề run sợ. Mỗi tác phẩm như một pho sử
sống, mỗi nhân vật như một chứng nhân lịch sử để kể lại cho muôn đời sau
những câu chuyện lịch sử, gửi gắm những bài học lịch sử bằng một cách kể tả,
cách biểu hiện đậm chất văn chương, vừa chân thật vừa vô cùng hấp dẫn của các
nhà văn, nhà thơ xứ Lạng.
Lạng Sơn là tỉnh miền núi với 253 km đường biên giới, có cửa khẩu
quốc tế và quốc gia, cửa ngõ giao lưu kinh tế và văn hóa với nước láng giềng
Trung Quốc. Đây là những nền tảng cơ bản tạo nên sự đa dạng, phong phú, giàu
bản sắc văn hoá của tỉnh Lạng Sơn. Từ hàng nghìn năm, bằng ý chí độc lập tự
cường dân tộc, nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã phát huy, giữ gìn bản sắc văn
hóa dân tộc, hòa nhập với cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Mảnh đất Lạng Sơn
17
là một vùng văn hóa đa sắc tộc phong phú và độc đáo, nơi hội tụ của nhiều dân
tộc thiểu số sinh sống như Nùng, Tày, Kinh, Dao, Hoa, Sán Chay, Mông,..với
nhiều phong tục tập quán khác nhau, nên đã trở thành một mảnh đất mang đậm
bản sắc dân tộc thiểu số vùng cao. Bản sắc đó được thể hiện đậm đà trong cả đời
sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân các dân tộc Lạng Sơn qua hàng
ngàn năm lịch sử. Mỗi người khi đến với Lạng Sơn cũng khơng thể qn được
những nét văn hố đặc sắc của đồng bào các dân tộc như lễ hội, ẩm thực, kiến
trúc, trang phục...Lễ hội Lồng Tồng, lễ hội Đầu Pháo - Kỳ Lừa, lễ hội Trị
Ngơ...là những lễ hội dân gian nổi tiếng của xứ Lạng, thu hút hàng ngàn du
khách thập phương hàng năm mỗi độ tết đến xuân về. Ẩm thực Lạng Sơn cũng
nổi tiếng khắp gần xa với rất nhiều món ăn thơm ngon, độc đáo như: thịt lợn
quay, vịt quay, khau nhục, bánh ngải, xơi cẩm, thạch đen…Lạng Sơn cịn nổi
tiếng với kho tàng dân ca, dân vũ vô cùng phong phú. Trong đó, khúc hát sli
mượt mà đã từng được đưa vào câu tục ngữ: "Đêm ốm dài, đêm sli ngắn", khúc
hát đồng dao tinh nghịch hay những đêm hát lượn của trai gái khi trưởng thành
như Đứng thuyền hái hoa, Bốn mùa…vẫn luôn là niềm tự hào của con người
xứ Lạng. Đặc biệt là những cuộc thi hát hội mùa xuân với những tiếng: “Nhì à!
soong hao…” (hai đứa mình, hai chúng mình…) làm xao xuyến lịng người;
nghe thấy tiếng sli lượn “người già thấy mình trẻ lại, người ốm như khỏi bệnh
muốn xuống nhà đi hội” bởi những lời ca say đắm, nồng nàn. Biết bao hạnh
phúc lứa đôi đã được khởi nguồn từ những bài ca, tiếng hát ngọt ngào thấm
đượm ân tình đó! Nơi đây cũng lưu giữ kho tàng văn học dân gian phong phú
của đồng bào các dân tộc với các thể loại đa dạng như truyền thuyết, cổ tích hay
những truyện thơ Nơm, câu đố, ca dao, đồng dao phong phú, đa sắc màu. Tất cả
tóat lên niềm đam mê sáng tạo cho riêng mình một đời sống tinh thần phong phú
và riêng biệt so với nhiều vùng văn hóa khác trên cả nước. Truyện kể dân gian là
một thể loại chiếm tỉ lệ lớn trong kho tàng văn học dân gian Lạng Sơn với
những cái tên như Cẩu Khây, Nàng Sáy, Ò Pja, Già dìn, Au pị ngù…Hầu hết
18
các truyện đều phản ánh thế giới quan, nhân sinh quan của đồng bào cũng như
quan niệm về thiên nhiên, nguồn gốc loài người, nguồn gốc các dân tộc, mối
quan hệ giữa con người và con người trong cộng đồng, cuộc đấu tranh chống lại
các thế lực bạo tàn, đặc biệt là về sự tích tên núi, tên sơng, tên suối…Truyện thơ
Nôm của dân tộc Tày cũng rất đa dạng: Bjooc Lả, Chiêu Đức - Kim Nữ, Đính
Quân, Lý Thế Khanh, Nam Kim - Thị Đan…Nội dung các truyện thơ Nơm là
phản ánh hiện thực, qua đó thể hiện ước mơ, hồi bão, khát vọng cơng bằng xã
hội và hạnh phúc của con người. Từ bao đời nay, dù cho cuộc sống cịn nhiều
khó khăn, vất vả, nhưng người dân xứ Lạng vẫn duy trì và vun đắp cho gia đình,
cho cộng đồng một đời sống văn hóa phong phú và đậm đà bản sắc.
Vùng đất xứ Lạng giàu truyền thống văn hóa, văn học với những lễ hội,
phong tục, tập quán đặc sắc cùng những câu ca dao, tục ngữ, câu truyện kể từ
ngàn xưa đã in sâu vào tâm thức của các nhà thơ, nhà văn xứ Lạng, trở thành
ngọn nguồn cảm hứng sáng tạo cho họ. Với cảm hứng trân trọng, yêu mến và tự
hào về truyền thống văn hóa của quê hương, các thế hệ nhà văn nhà thơ Lạng Sơn
đã có nhiều trang viết khá thành công về những phong tục, tập quán đẹp đẽ của
người Tày, Nùng, Dao, Sán chỉ…Hiện lên trên những trang văn là hình ảnh một
vùng quê giàu bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số- với những ngày hội
xn, chợ phiên, với hình ảnh những cơ gái trong những bộ trang phục dân tộc
rực rỡ sắc màu cùng những làn điệu dân ca, điệu hát giao duyên Sli, Then,
Lượn, Phong Slư…tha thiết, mượt mà, làm xao xuyến tâm hồn của trai làng, gái
bản. Có rất nhiều tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau in bóng hình ảnh đời
sống văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của nhân dân xứ Lạng. Trong các tác
phẩm của mình, Nguyễn Trường Thanh, Vũ Ngọc Chương, Nguyễn Thị Quỳnh
Nga, Lê Tiến Thức, Nơng Ngọc Bắc... đã đưa vào nhiều hình ảnh những ngày
hội mùa xuân, những ngày chợ phiên với những bài hát sli, lượn, khiến người
đọc được sống trong khơng khí văn hóa đậm đà màu sắc dân tộc. Đọc những
trang tiểu thuyết lịch sử của nhà văn Nguyễn Trường Thanh, chúng tôi nhận
19
thấy, ơng vẫn ln chú ý bộc lộ tình u mến, tự hào của mình đối với văn hóa
xứ Lạng qua việc đưa vào những hình ảnh của ngày lễ hội, ngày chợ phiên với
những giai điệu thiết tha của các làn điệu sli, lượn. Ở Một thời biên ải thì
Nguyễn Trường Thanh viết: “Những chợ hội, chợ phiên mà những làn điệu giao
duyên xao xuyến tâm hồn của Sli, Then, Lượn, Phong Slư mà các chàng trai, cô
gái từ khắp các bản làng với những bộ y phục độc đáo, rực rỡ sắc màu, tụ hội về
đây hát tình ca sáng đêm” [63-73]. Ơng viết về tình u của đồng bào dân tộc
đối với các làn điệu dân ca xứ Lạng: “Suốt dọc bờ sông Kỳ Cùng đầu cầu Kỳ
Lừa dọc phố chợ, đây đó từng tốp trai thanh gái lịch đang thi tài qua câu hát giao
duyên đằm thắm, ngọt ngào, bất chấp sự tấp nập ồn ào, bán mua rền rĩ, mọi thứ
âm thanh hỗn tạp của chợ phiên đều không tác động nổi vào tâm hồn của người
hát, hình như họ chỉ cịn tiếng hát ngự trị giữa đất trời, núi non, hang động” [6375]. Tiểu thuyết Khau Slin hùng vĩ của Vũ Ngọc Chương đã miêu tả những nét
đặc sắc của Hội Hoan, một lễ hội dân gian ở huyện Văn Lãng, Lạng Sơn gắn
liền với những câu chuyện tình lãng mạn, với tiếng lượn tha thiết đắm say. Vẻ
đẹp của các làn điệu sli, lượn cứ ngân vang: “Nguồn vui vô tận trong hội chợ là
những câu chuyện tâm tình, những làn điệu hát sli, hát lượn cất lên âm vang bầu
trời, lúc bổng như nước đổ trên guồng, lúc trầm như nước chảy trong mương.
Họ ca ngợi tình yêu, ca ngợi cuộc sống, họ biểu lộ tình cảm, bộc bạch niềm
thương nhớ, nỗi đau cách biệt do cảnh ngộ và một niềm ao ước vô vọng về sự
sum họp” [7-279]. Không chỉ chảy tràn trong văn xuôi mà cảm xúc về một Lạng
Sơn giàu bản sắc văn hóa cũng mang đến cho thơ ca những thi phẩm đặc sắc.
Các nhà thơ tiêu biểu như Mã Thế Vinh, Hàn Kỳ, Đinh Ích Tồn, Nguyễn Đình
Thọ, Vũ Kiều Oanh, Lộc Bích Kiệm, Nguyễn Viết Sơn, Đinh Thanh Huyền,
Vân Du, Ngơ Bá Hịa…đã cho ra đời những bài thơ, tập thơ ca ngợi bản sắc văn
hóa đa dạng của quê hương xứ Lạng. Cả một không gian văn hóa đặc sắc đã
hiện lên qua những câu thơ giản dị trong bài thơ Núi Đầu của Nguyễn Viết Sơn: