Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Xử lý vật chứng theo luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (35.5 MB, 106 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

HUỲNH THỊ MỘNG TUYỀN

XỬ LÝ VẬT CHỨNG
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

XỬ LÝ VẬT CHỨNG
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Định hướng ứng dụng
Mã số: 8380104

Người hướng dẫn khoa học : Ts. Lê Huỳnh Tấn Duy
Học viên
: Huỳnh Thị Mộng Tuyền
Lớp
: Cao học luật, An Giang, khóa 2

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022



LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tơi. Các số
liệu, trích dẫn trong Luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác, trung thực và được
trích dẫn theo đúng quy định của Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ cơng trình nghiên cứu
khoa học nào.
Nếu có gì khơng đúng sự thật tơi hồn tồn chịu trách nhiệm.
Tác giả

Huỳnh Thị Mộng Tuyền


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU.............................................................................................................1
CHƯƠNG 1. XỬ LÝ VẬT CHỨNG LÀ CÔNG CỤ, PHƯƠNG TIỆN PHẠM
TỘI ............................................................................................................................... 7
1.1. Quy định của luật tố tụng hình sự về xử lý vật chứng là công cụ, phương
tiện phạm tội ...........................................................................................................7
1.2. Thực tiễn xử lý vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội ..................12
1.2.1. Thực tiễn xử lý vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội thuộc sở hữu
của bị cáo .............................................................................................................13
1.2.2. Thực tiễn xử lý vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội thuộc tài sản
chung của vợ chồng .............................................................................................15
1.2.3. Thực tiễn xử lý vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội khơng có giá
trị hoặc giá trị sử dụng không đáng kể ...............................................................17
1.2.4. Xử lý vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội của hai hay nhiều vụ
án độc lập .............................................................................................................19
1.3. Kiến nghị hoàn thiện quy định của luật tố tụng hình sự và nâng cao hiệu
quả xử lý vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội ....................................19

Kết luận Chương 1 ...............................................................................................23
CHƯƠNG 2. XỬ LÝ VẬT CHỨNG LÀ TIỀN BẠC HOẶC TÀI SẢN DO
PHẠM TỘI MÀ CĨ .................................................................................................24
2.1. Quy định của luật tố tụng hình sự về xử lý vật chứng là tiền bạc hoặc tài
sản do phạm tội mà có .........................................................................................24
2.2. Thực tiễn xử lý vật chứng là tiền bạc hoặc tài sản do phạm tội mà có ...26
2.2.1. Thực tiễn xử lý vật chứng là tiền bạc do phạm tội mà có .........................26
2.2.2. Thực tiễn xử lý xử lý vật chứng là tài sản do phạm tội mà có ..................33
2.3. Kiến nghị hồn thiện quy định của luật tố tụng hình sự và nâng cao hiệu
quả xử lý vật chứng là tiền bạc hoặc tài sản do phạm tội mà có ....................40
Kết luận Chương 2 ...............................................................................................45
KẾT LUẬN ...............................................................................................................46
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1
LỜI NĨI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong cơng cuộc cải cách tư pháp Đảng ta đã chỉ rõ tại Nghị quyết số 08NQ/TW 02/01/2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị:
“Tịa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm”. Muốn chứng minh
và làm rõ sự thật khách quan của vụ án xét xử đúng người, đúng tội thì các cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải xác định được những chứng cứ cần
thiết làm cơ sở cho việc chứng minh. Chứng cứ là phương tiện của việc chứng
minh, thông qua chứng cứ có thể giúp cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng xác định được những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án.
Trong một vụ án hình sự để chứng minh một người có tội và làm rõ các tình
tiết khác trong vụ án hình sự cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải
tiến hành thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ. Trong số các nguồn chứng cứ vật
chứng được xem là một trong những nguồn chứng cứ quan trọng được quy định

trong Bộ luật Tố tụng hình sự đã tạo hành lang pháp lý giúp cho hoạt động thu thập,
bảo quản và xử lý vật chứng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
trong thực tiễn được tiến hành nhanh chóng và thuận lợi, góp phần quan trọng trong
cơng tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
Tuy nhiên, khơng phải tài liệu, đồ vật nào cũng là vật chứng trong vụ án. Nếu
tài liệu, đồ vật được thu thập trong vụ án không phải là vật chứng và khơng thuộc
trường hợp cấm lưu hành, thì đương nhiên phải trả lại. Còn nếu tài liệu, đồ vật là
vật chứng thì phải xem xét tịch thu nộp ngân sách Nhà nước, tịch thu tiêu hủy hoặc
trả lại cho chủ sở hữu. Do vậy, cần phải xác định rõ tài liệu, đồ vật nào là vật chứng,
tài liệu, đồ vật nào không phải là vật chứng, thuộc quyền sở hữu của ai để có cơ sở
xem xét, xử lý. Tuy nhiên, trong thời gian qua việc vận dụng các quy định về vật
chứng còn bộc lộ nhiều hạn chế, thiếu sót nhất định như: có sự lẫn lộn về nhận thức
vật chứng trong tố tụng hình sự và các tài liệu, đồ vật khác bị thu giữ trong quá
trình giải quyết vụ án; việc thu thập chứng cứ không đầy đủ, kịp thời dẫn đến vật
chứng bị mất, hư hỏng không thể phục hồi hay việc xử lý vật chứng không đúng,
dẫn đến các quyết định thiếu căn cứ, khơng có sức thuyết phục.
Điều này xuất phát từ một số nguyên nhân như: sự hạn chế về trình độ, năng
lực chuyên môn nghiệp vụ; thiếu tinh thần trách nhiệm, ý thức tôn trọng và chấp
hành pháp luật của một số cán bộ thi hành công vụ. Bên cạnh đó, ngay chính các


2
quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự về vật chứng cũng thể hiện nhiều vướng
mắc dẫn đến việc áp dụng pháp luật tùy tiện, không thống nhất.
Vấn đề xử lý vật chứng mặc dù đã được một số tác giả quan tâm nghiên
cứu, tuy nhiên vẫn còn nhiều nội dung chưa được đề cập hoặc tuy được đề cập
nhưng vẫn còn quan điểm chưa thống nhất, đòi hỏi phải được tiếp tục nghiên cứu
một cách toàn diện, sâu sắc hơn nữa. Do đó, việc đi sâu nghiên cứu, luận giải một
cách thấu đáo các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về xử lý vật chứng, một
số quy định trong các văn bản pháp luật khác có liên quan đến vấn đề này, từ đó đi

đến nhận thức sâu sắc hơn về căn cứ xử lý, cách thức xử lý vật chứng trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự, đồng thời, chỉ ra những hạn chế, vướng mắc,
nguyên nhân và đề xuất hướng hoàn thiện quy định của pháp luật về xử lý vật
chứng là yêu cầu rất cần thiết trong thực tiễn. Với lý do đó, tác giả lựa chọn đề tài
“Xử lý vật chứng theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ
với mong muốn góp phần vào việc hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự
về lĩnh vực này để đảm bảo tính khả thi, góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng
pháp luật vào thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Qua khảo sát tác giả nhận thấy có những cơng trình nghiên cứu liên quan đến
đề tài xử lý vật chứng trong tố tụng hình sự Việt Nam đã được thực hiện trong thời
gian vừa qua, nổi bật bao gồm:.
Về sách chuyên khảo:
Chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam của Thạc sỹ Nguyễn Văn Cừ
(NXB Tư pháp, năm 2005); Chế định chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
của TS. Trần Quang Tiệp (NXB Chính trị quốc gia, năm 2011). Các cơng trình nêu
trên nghiên cứu vật chứng với tư cách là nguồn của chứng cứ, tuy có đề cập đến vấn
đề xử lý vật chứng nhưng chỉ dừng lại ở mức độ khái quát mà chưa đi sâu phân tích
những nội dung về chủ thể có thẩm quyền xử lý vật chứng, cách thức xử lý vật
chứng cũng như vướng mắc, bất cập trong thực tiễn tố tụng về xử lý vật chứng và
hơn nữa những quy định pháp luật từ thời gian đó đến nay cũng đã có nhiều sửa đổi,
bổ sung nên khơng cịn phù hợp với thực tiễn.
Về bài viết được cơng bố trên các tạp chí khoa học:
Xử lý vật chứng trong tố tụng hình sự của tác giả Lê Văn Sua, đăng trên Tạp
chí Dân chủ & Pháp luật số 8/2008; Cần sửa đổi Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự
và hướng dẫn thực hiện việc xử lý vật chứng cho thống nhất đăng trên Tạp chí


3
Kiểm sát số 9/2009, và Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về xử lý vật chứng và

những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng của Thạc sỹ Nguyễn Văn Trượng, đăng
trên Tạp chí Dân chủ & Pháp luật số 9/2010; Một số trường hợp xử lý vật chứng
chưa có căn cứ viện dẫn của tác giả Quách Thành Vinh đăng trên Tạp chí TAND số
4/2010; Bàn về quy định xử lý vật chứng trong tố tụng hình sự của tác giả Đặng Văn
Quý đăng trên Cổng thông tin điện tử TANDTC năm 2011; Hoàn thiện quy định về
vật chứng theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam của Thạc sỹ Thái Chí Bình, đăng
trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 17/2012; Thực trạng quy định của Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2003 về vật chứng của PGS. TS. Hoàng Thị Minh Sơn, đăng trên
Tạp chí Luật học số 6/2013; Hồn thiện biện pháp xử lý vật chứng tại Điều 106 Bộ
luật Tố tụng hình sự 2015 của tác giả Nguyễn Ngọc Lĩnh (Tòa án quân sự Khu vực
1 Quân khu 5) đăng trên Tạp chí Tịa án 9/2020.
Nghiên cứu các bài viết trên cho thấy, các tác giả đã phản ánh chân thực, sát
đúng về thực trạng thi hành các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và
Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 về xử lý vật chứng trong tố tụng hình sự; một số kiến
giải, đề xuất nhằm khắc phục hạn chế, vướng mắc trong hoạt động xử lý vật chứng
được các tác giả đưa ra khá chặt chẽ và hợp lý. Tuy nhiên, trong phạm vi của bài
viết nghiên cứu khoa học, các tác giả mới chỉ tập trung đề cập tới một (hoặc một số)
vấn đề nổi bật của hoạt động xử lý vật chứng nói chung, mà chưa tập trung, đi sâu
đề cập vấn đề xử lý vật chứng trong vụ án hình sự.
Về luận văn thạc sĩ:
Đề tài luận văn thạc sĩ “Hoàn thiện quy định về vật chứng trong tố tụng hình
sự”, của tác giả Chung Thị Bích Phượng, năm 2013. Cơng trình đề cập tới vấn đề
vật chứng trong tố tụng hình sự với phạm vi khá rộng, bao gồm khái niệm, đặc
điểm, vai trò của vật chứng, phân loại vật chứng cũng như hoạt động thu thập, bảo
quản và xử lý vật chứng... Qua tìm hiểu luận văn này, tác giả nhận thấy, xử lý vật
chứng không phải là nội dung trọng tâm của luận văn nên chưa được tác giả Chung
Thị Bích Phượng đi sâu nghiên cứu một cách kỹ lưỡng và thấu đáo, mới chỉ đề cập
một cách sơ lược, ở mức độ khái quát.
Đề tài luận văn thạc sĩ “Xử lý vật chứng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự từ thực tiễn các tịa án quân sự Việt Nam” của tác giả Bùi Mạnh Thuyết

năm 2018. Đề tài nghiên cứu các vấn đề lý luận về xử lý vật chứng, trong đó tác giả
tập trung làm rõ các khái niệm vật chứng trong vụ án hình sự, xử lý vật chứng trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự; đặc điểm vật chứng trong vụ án hình sự và


4
phân biệt chúng với các đối tượng vật chất khác; các hình thức xử lý vật chứng, ý
nghĩa và các nguyên tắc cơ bản điều chỉnh hoạt động này và thực tiễn xử lý vật
chứng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm trong các Tòa án quân sự. Tuy nhiên, đề tài
chỉ tập trung nghiên cứu trong phạm vi hẹp xử lý vật chứng trong các Tòa án quân
sự nên chưa mang tính bao qt cao.
Qua q trình tìm hiểu và nghiên cứu cho thấy các cơng trình nghiên cứu trên
đây cũng chỉ dừng lại ở việc xử lý vật chứng một cách chung nhất trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Cho đến nay chưa có một cơng trình nào nghiên cứu
sâu về xử lý vật chứng đối với từng trường hợp cụ thể theo định hướng ứng dụng.
Đồng thời, phần lớn các cơng trình nghiên cứu hầu hết đều được thực hiện từ khá
lâu, chưa cập nhật, bổ sung, phân tích chuyên sâu đối với những quy định mới. Từ
đó, tác giả thấy rằng việc nghiên cứu đề tài “Xử lý vật chứng theo Bộ luật Tố tụng
hình sự Việt Nam” từ góc độ thực tiễn là cần thiết.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu chính của luận văn là đề xuất những giải pháp cụ thể
nhằm góp phần hồn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về xử lý vật
chứng và nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn giải quyết vụ án hình sự ở
nước ta.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nói trên, luận văn cần thực hiện những
nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:
- Phân tích và đánh giá quy định của pháp luật tố tụng hình sự về xử lý vật
chứng;

- Trình bày và đánh giá thực tiễn xử lý vật chứng, phát hiện những hạn chế
và xác định nguyên nhân;
- Đưa ra các kiến nghị cụ thể nhằm sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật
tố tụng hình sự về xử lý vật chứng và nâng cao hiệu quả áp dụng.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quy định của pháp luật tố tụng
hình sự và thực tiễn áp dụng trong việc xử lý vật chứng. Luận văn tập trung nghiên
cứu việc xử lý hai nhóm vật chứng bao gồm: (1) Vật chứng là cơng cụ, phương tiện
phạm tội và (2) Vật chứng là tiền bạc hoặc tài sản do phạm tội mà có.


5
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận văn nghiên cứu quy định của pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam, tập trung vào Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 và các văn bản hướng dẫn thi
hành, về hai nhóm vật chứng như đã xác định trong phần đối tượng nghiên cứu.
Những vấn đề khác như bảo quản vật chứng, xử lý các loại vật chứng khác không
thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn này.
Về không gian và thời gian: Luận văn khảo sát thực tiễn xử lý vật chứng là
công cụ, phương tiện phạm tội và vật chứng là tiền bạc hoặc tài sản do phạm tội mà
có trên phạm vi cả nước trong giai đoạn từ năm 2018 đến khi hoàn thành luận văn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu luận văn được xuyên suốt đúng với mục đích và phạm vi đã
đặt ra, trong quá trình nghiên cứu tác giả đã sử dụng nhiều phương pháp, cụ thể:
Đối với Chương 1, tác giả sử dụng phương pháp phân tích, bình luận để làm
rõ các quy định hiện hành, thơng qua đó đánh giá về tính khả thi của pháp luật về
căn cứ áp dụng, sự phù hợp của quy định trên thực tế. Song song với phương pháp
phân tích và bình luận thì phương pháp tổng hợp được sử dụng tại phần kết luận của
mỗi chương để khái quát những nội dung đã trình bày và đề xuất một số kiến nghị

nhằm hoàn thiện những quy định của pháp luật.
Tại Chương 2, tương tự như Chương 1 tại phần kết luận của từng mục và kết
luận chương, phương pháp tổng hợp được vận dụng để khái quát những vấn đề
pháp lý tác giả đã phân tích nhằm rút ra những kiến nghị, đề xuất để hoàn thiện quy
định của pháp luật.
Đặc biệt, luận văn chú trọng đến việc sử dụng phương pháp nghiên cứu tình
huống (nghiên cứu án điển hình) để làm nổi bật lên tính khả thi cũng như xem xét
tính đúng đắn, hợp pháp của việc áp dụng pháp luật vào với thực tiễn xét xử của
Tịa án trong q trình giải quyết các vụ án.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn “Xử lý vật chứng theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” có ý nghĩa
khoa học và thực tiễn nhất định, được thể hiện ở những phương diện sau đây:
- Về mặt lý luận: Tạo cơ sở cho việc thống nhất trong cách hiểu về vật
chứng là công cụ, phương tiện phạm tội và vật chứng là tiền bạc hoặc tài sản do
phạm tội mà có. Từ đó nâng cao hiệu quả trong hoạt động xét xử thông qua đó bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, nâng cao niềm tin của nhân dân với
Đảng, Nhà nước.


6
- Về mặt thực tiễn: Từ việc phân tích các quy định pháp luật, chỉ ra những
hạn chế, tồn tại góp phần giải quyết những khó khăn phát sinh trong thực tiễn công
tác từ đó giúp các cơ quan hữu quan thuận lợi hơn trong việc vận dụng quy định
pháp luật về xử lý vật chứng.
- Về mặt lập pháp: Tạo cơ sở cho các cơ quan xây dựng pháp luật hoàn thiện
hơn nữa các quy định của Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự về áp dụng quy
định xử lý vật chứng trên thực tế.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính
của luận văn được kết cấu như sau:

Chương 1. Xử lý vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội
Chương 2. Xử lý vật chứng là tiền bạc hoặc tài sản do phạm tội mà có


7
CHƯƠNG 1
XỬ LÝ VẬT CHỨNG LÀ CÔNG CỤ, PHƯƠNG TIỆN PHẠM TỘI
1.1. Quy định của luật tố tụng hình sự về xử lý vật chứng là công cụ,
phương tiện phạm tội
* Khái niệm vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 thì: “Vật chứng là vật được
dùng làm cơng cụ, phương tiện phạm tội, vật mang dấu vết tội phạm, vật là đối
tượng của tội phạm, tiền hoặc vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người
phạm tội hoặc có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án”1.
Công cụ, phương tiện phạm tội là những khái niệm quen thuộc trong pháp
luật hình sự. Theo đó, “Phương tiện phạm tội là đối tượng vật chất được chủ thể của
tội phạm sử dụng trợ giúp cho việc thực hiện hành vi phạm tội. Phương tiện phạm
tội có nhiều dạng khác nhau trong đó có dạng được coi là cơng cụ phạm tội”; và
“Công cụ phạm tội là dạng cụ thể của phương tiện phạm tội được chủ thể sử dụng
tác động đến đối tượng tác động của tội phạm”2. Hiện nay, chưa có văn bản pháp lý
nào quy định loại tội phạm nào thì có cơng cụ, phương tiện phạm tội, loại tội phạm
nào thì khơng. Tuy nhiên, dựa vào thực tiễn tố tụng hình sự thì vấn đề công cụ,
phương tiện phạm tội chỉ đặt ra đối với những tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý,
còn đối với những tội phạm được thực hiện với lỗi vơ ý thì khơng có cơng cụ,
phương tiện phạm tội, trường hợp nếu có thì chỉ là vật mang dấu vết tội phạm hoặc
vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội.
Theo đó cần hiểu rằng cơng cụ, phương tiện phạm tội có thể là vật của người
phạm tội hoặc của Nhà nước, tổ chức, cá nhân bị chiếm đoạt hoặc dùng làm công
cụ, phương tiện phạm tội. Việc phân biệt công cụ, phương tiện phạm tội trong thực
tiễn phần lớn chỉ cần căn cứ vào cách thức mà người phạm tội sử dụng đối tượng

vật chất vào quá trình thực hiện tội phạm, cũng như vai trò của đối tượng vật chất
đối với tội phạm đã được thực hiện là có thể nhận thức, phân biệt được. Đôi khi,
cùng là một đối tượng vật chất, trong hồn cảnh này được xác định là cơng cụ phạm
tội, nhưng trường hợp khác lại được xác định là phương tiện phạm tội. Ví dụ: Khi
xe mơ tơ được dùng để vận chuyển tài sản vừa cướp được, vận chuyển chất ma
túy... thì nó là phương tiện phạm tội nhưng cũng có khi chiếc xe mơ tơ lại là cơng
Điều 89 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
Trần Văn Độ (2011), Giáo trình luật Tố tụng hình sự Việt Nam, (Dùng trong các trường ĐH,CĐ Luật, An
ninh, Cảnh sát, Học viện tư pháp). NXB Giáo dục Việt Nam, tr 175.
1
2


8
cụ phạm tội, ví dụ: Do mâu thuẫn với nhau nên người phạm tội đã cố ý đâm xe
thẳng vào người khác để gây thương tích.
Từ đó có thể hiểu cơng cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội chính là
những vật (của bị cáo hoặc không phải của bị cáo) được dùng để hỗ trợ cho hành vi
phạm tội đã được quy định trong Bộ luật hình sự.
* Đặc điểm của vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội
Công cụ, phương tiện phạm tội là một dạng của vật chứng gắn liền với tội
phạm, vì vậy cũng có một số đặc điểm cơ bản của vật chứng:
- Thứ nhất, là những vật thể nhất định tồn tại trong thế giới khách quan mà
các chủ thể giải quyết vụ án có thể tri giác được. Các vật thể mang tính hữu hình cụ
thể con người có thể nhận biết được thơng qua cảm nhận giác quan đều có thể trở
thành cơng cụ, phương tiện phạm tội. Những gì khơng tồn tại dưới dạng vật thể nhất
định thì sẽ khơng được xem là công cụ, phương tiện phạm tội. Công cụ, phương
tiện phạm tội có thể là những vật thể to lớn dễ nhìn thấy nhưng cũng có thể chỉ là
một vật thể nhỏ bé cần phải quan sát tỉ mỉ hoặc có sự hỗ trợ của các phương tiện
khoa học kỹ thuật phù hợp mới có thể nhìn thấy được. Cũng chính vì là những vật

thể vơ tri, vơ giác tồn tại trong thế giới khách quan nên công cụ, phương tiện phạm
tội cũng có tính khách quan cao, không bị chi phối bởi các yếu tố tâm lý, tình cảm,
song cũng dễ bị tác động bởi các yếu tố khác nhau trong môi trường tự nhiên dẫn
đến thay đổi, biến dạng hoặc hủy hoại.
- Thứ hai, chứa đựng những thơng tin, tình tiết có thể được sử dụng để làm
chứng cứ hoặc có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án hình sự. Căn cứ và những
thơng tin, tình tiết đó, các chủ thể giải quyết vụ án có thể tìm ra được những chứng
cứ cần thiết để làm sáng tỏ những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hoặc có
những ý nghĩa nhất định trong việc giải quyết vụ án.
- Thứ ba, mang tính pháp lý tố tụng hình sự. Xuất phát từ đặc điểm chứa đựng
những thơng tin, tình tiết phản ánh về vụ án có thể được các cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng xác định làm chứng cứ phục vụ cho quá trình giải quyết
vụ án hình sự. Vì vậy, để đảm bảo cho những thơng tin, tình tiết rút ra từ việc phân
tích cơng cụ, phương tiện có giá trị chứng minh thì u cầu chúng phải được thu thập
theo những trình tự, thủ tục nhất định do pháp luật tố tụng hình sự quy định.
* Phân loại vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội
Mục đích của việc phân chia vật chứng thành các loại khác nhau nhằm giúp
cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nhận thức đầy đủ, rõ


9
ràng hơn về vật chứng, từ đó có những biện pháp xử lý vật chứng cho phù hợp
trong quá trình giải quyết vụ án.
- Căn cứ vào chủ sở hữu của vật chứng thì vật chứng được phân thành: Vật
chứng thuộc sở hữu của người bị buộc tội, vật chứng thuộc sở hữu của người khác,
vật chứng thuộc sở hữu chung của vợ chồng.
- Căn cứ vào tình trạng của vật chứng mà vật chứng được phân thành: Vật
chứng còn giá trị; vật chứng khơng cịn hoặc cịn nhưng khơng có giá trị đáng kể.
Theo đó, một số vật chứng tuy có giá trị sử dụng ở một mức độ nào đó, nhưng giá
trị quy đổi thành tiền không đáng kể so với chi phí bảo quản, lưu giữ, thanh lý hóa

giá theo quy định của pháp luật. Việc xác định vật chứng cịn giá trị hay khơng do
cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu cơ quan tài chính thẩm định và quyết định.
Từ việc phân loại trên, ta thấy rằng, tùy theo tiêu chí khác nhau mà cơng cụ,
phương tiện phạm tội được phân ra thành các loại khác nhau, nhưng mỗi cách có
những ưu điểm và hạn chế của nó, cho nên phân loại vật chứng là cơng cụ, phương
tiện phạm tội theo tiêu chí nào phụ thuộc vào mục đích đặt ra nhằm tận dụng ưu
điểm của mỗi căn cứ.
* Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 về cách thức xử lý vật chứng là
công cụ, phương tiện phạm tội
Vật chứng trong vụ án hình sự là một nguồn chứng cứ quan trọng để chứng
minh tội phạm. Vật chứng là những vật thể tồn tại ngồi thế giới khách quan có
chứa đựng dấu vết của tội phạm được các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập dùng
làm căn cứ để chứng minh tội phạm. Mặc dù Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 có đề
cập đến khái niệm về vật chứng, tuy nhiên nội dung khái niệm cũng chỉ mới được
nêu một cách chung chung, vấn đề ngoại diên của vật chứng chứ chưa đề cập một
cách cụ thể vấn đề nội hàm của vật chứng mà nội hàm khái niệm vật chứng phải đi
từ nội hàm của khái niệm vật và ý nghĩa của nó trong tố tụng hình sự. Theo Từ điển
tiếng Việt thì vật là cái có hình khối và có thể nhận biết được. Thơng qua định nghĩa
về vật ta có thể hiểu cái có hình khối, có kích thước mà con người có thể nhận biết
được thơng qua các giác quan như mắt nhìn, tay sờ, cầm, nắm, xúc chạm; thông qua
các giác quan đó chúng ta cảm giác được sức nặng, nhẹ, to, nhỏ… các sự vật hiện
tượng mang tính hữu hình cụ thể đều thuộc khái niệm vật và có thể là vật chứng
trong vụ án hình sự. Vì vậy, khái niệm về vật chứng tại Điều 89 Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2015 chưa khái quát hết nội dung được thể hiện trong thực tiễn nên cần
bổ sung thêm nội hàm của vật chứng để phù hợp với thực tiễn khách quan.


10
Khi thu được vật chứng là tài sản nói chung, tuỳ vào từng vụ án cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng sẽ xử lý vật chứng theo nguyên tắc chung là tịch thu

nộp ngân sách nhà nước, tịch thu tiêu huỷ, trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp
pháp, bán hoặc giao cho cơ quan quản lý chuyên ngành xử lý. Việc xử lý vật chứng
phải tuân thủ đúng các quy định của pháp luật, nó tước đoạt quyền sở hữu đối với
các tài sản của người thực hiện hành vi phạm tội, khôi phục lại quyền sở hữu cho
chủ sở hữu, quyền chiếm hữu cho người quản lý hợp pháp. Căn cứ quy định tại
khoản 2, 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, vật chứng được xử lý như sau:
“2. …
a) Vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội, vật cấm tàng trữ, lưu hành
thì bị tịch thu, nộp ngân sách nhà nước hoặc tiêu hủy;
b) Vật chứng là tiền bạc hoặc tài sản do phạm tội mà có thì bị tịch thu, nộp
ngân sách nhà nước;
c) Vật chứng khơng có giá trị hoặc khơng sử dụng được thì bị tịch thu và tiêu hủy.
3. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan, người có thẩm quyền
quy định tại khoản 1 Điều này có quyền:
a) Trả lại ngay tài sản đã thu giữ, tạm giữ nhưng không phải là vật chứng
cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp tài sản đó;
b) Trả lại ngay vật chứng cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp nếu
xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án;
c) Vật chứng thuộc loại mau hỏng hoặc khó bảo quản thì có thể được bán
theo quy định của pháp luật; trường hợp không bán được thì tiêu hủy;
d) Vật chứng là động vật hoang dã và thực vật ngoại lai thì ngay sau khi có
kết luận giám định phải giao cho cơ quan quản lý chuyên ngành có thẩm quyền xử
lý theo quy định của pháp luật.”
Bộ luật Hình sự 2015 cũng có quy định tương tự, cụ thể trong trường hợp vật
chứng là công cụ, phương tiện phạm tội, vật cấm tàng trữ, lưu hành thì bị tịch thu,
nộp ngân sách nhà nước hoặc tiêu hủy3. Hình thức tịch thu nộp ngân sách nhà nước
được áp dụng đối với những vật có giá trị; đối với những vật khơng có giá trị, hoặc
giá trị khơng đáng kể so với chi phí để thực hiện việc hóa giá, thanh lý thì cũng
được tịch thu tiêu hủy. Việc tịch thu, xử lý vật chứng là công cụ, phương tiện phạm
tội theo các cách thức nêu trên là phù hợp, bởi lẽ đây là những đối tượng vật chất

được người phạm tội sử dụng một cách có ý thức, nhằm mục đích trợ giúp, phục vụ
3

Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015.


11
cho việc thực hiện tội phạm. Hơn nữa, đây còn là việc áp dụng biện pháp tư pháp
theo quy định của Bộ luật Hình sự, qua đó thể hiện sự nghiêm khắc của pháp luật
hình sự đối với tội phạm. Mặc dù Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 khơng quy định
nhưng cần lưu ý là, nếu đồ vật, tài sản của người khác bị người phạm tội sử dụng
làm cơng cụ, phương tiện phạm tội thì chỉ tịch thu, nộp ngân sách nhà nước hoặc
tiêu hủy khi người đó có lỗi để cho người phạm tội sử dụng vào việc thực hiện tội
phạm.4 Nếu những công cụ, phương tiện phạm tội bị người phạm tội chiếm đoạt, sử
dụng trái phép, thì theo khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015 không tịch thu mà
trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp. Để giải quyết vấn đề trên, khi phải
xử lý vật chứng thuộc loại này, trước hết, chủ thể có thẩm quyền xử lý cần đánh giá
đầy đủ, đúng đắn tính chất của từng vật chứng, nhất là giá trị sử dụng của vật
chứng. Do hiện tại chưa có văn bản hướng dẫn về giá trị, giá trị sử dụng của vật
chứng nên trong trường hợp cần thiết có thể làm văn bản trưng cầu giám định của
cơ quan chun mơn. Trường hợp cịn giá trị sử dụng hoặc giá trị sử dụng khơng
nhiều thì tịch thu tiêu hủy; nếu còn giá trị sử dụng, mặc dù Điều luật khơng quy
định nhưng vẫn có thể tịch thu và chuyển giao cho cơ quan có thẩm quyền quản lý,
khai thác. Tuy vậy, để có thể thống nhất trong việc xử lý, tránh ý kiến bất đồng giữa
các cơ quan tố tụng vẫn cần phải có sự hướng dẫn của cơ quan tư pháp Trung ương
về hình thức xử lý đối với vật chứng này.
Qua so sánh Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015 và khoản 2, 3 Điều 106 Bộ luật
Tố tụng hình sự 2015 cho thấy quy định về biện pháp tư pháp và quy định về xử lý
vật chứng thuộc hai ngành luật khác nhau, vì vậy khơng thể đồng nhất về nội dung,
phạm vi áp dụng, thẩm quyền áp dụng và thủ tục áp dụng trong quy định ở hai điều

luật này. Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015 chỉ quy định ba hình thức xử lý là tịch thu
nộp ngân sách nhà nước, tịch thu tiêu hủy và trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản
lý hợp pháp, còn Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định thêm hai biện
pháp là bán theo quy định của pháp luật và giao cho cơ quan chuyên ngành có thẩm
quyền. Theo Điều 47 Bộ luật Hình sự quy định về biện pháp tư pháp nên việc tịch
thu và trả lại vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm chỉ được áp dụng khi vụ án
được xét xử tại phiên tòa sơ thẩm hoặc phúc thẩm, tức là do Hội đồng xét xử quyết
định; cịn theo Bộ luật Tố tụng hình sự việc xử lý vật chứng không chỉ được tiến
hành tại phiên tịa mà cịn có thể được tiến hành trước khi mở phiên tòa như trong
giai đoạn điều tra, truy tố và trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án hình sự.
4

Khoản 3 Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015.


12
Như vậy, về bản chất, điều kiện áp dụng, hình thức áp dụng,… giữa biện
pháp tư pháp trong luật hình sự và các biện pháp xử lý vật chứng trong tố tụng hình
sự liên quan đến tài sản là khác nhau. Trong đó, với vai trò là biện pháp hỗ trợ hình
phạt, việc xem xét áp dụng biện pháp tư pháp có thể áp dụng đối với đối tượng
được xác định là vật chứng của vụ án hoặc chỉ liên quan trực tiếp đến tội phạm mà
không phải là vật chứng của vụ án5. Trong khi đó, điều tiên quyết khi áp dụng các
quy định về xử lý vật chứng thì tài sản bị xử lý phải là vật chứng của vụ án. Cho
nên khi đã xác định một vật là vật chứng thì bắt buộc phải áp dụng các quy định tại
khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự để xử lý. Việc cơ quan tiến
hành tố tụng có áp dụng thêm quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự hay khơng tùy
theo đánh giá của cơ quan tiến hành tố tụng. Nếu vật chứng là đối tượng xử lý theo
khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự đồng thời là tài sản thuộc đối tượng áp
dụng biện pháp tư pháp quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự thì mới áp dụng đồng
thời cả hai quy định trên để xử lý.

Từ thực tế cho thấy trong một vụ án, có thể chia hình thức xử lý vật chứng là
cơng cụ, phương tiện phạm tội thành 04 trường hợp như sau6:
– Vật chứng thuộc quyền sở hữu của bị cáo: Xử lý bằng cách bị tịch thu tiêu
hủy hoặc tịch thu nộp ngân sách nhà nước;
– Vật chứng thuộc quyền sở hữu, quản lý hợp pháp của người khác: Về
nguyên tắc là phải trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp; nếu chủ sở hữu
có lỗi trong việc quản lý tài sản, thì có thể bị tịch thu nộp ngân sách nhà nước;
– Vật không phải vật chứng thuộc quyền sở hữu của bị cáo: Trả lại cho bị cáo;
– Vật không phải vật chứng thuộc quyền sở hữu, quản lý hợp pháp của người
khác: Trả lại cho chủ sở hữu.
Tuy nhiên, trong 04 trường hợp trên, nếu là vật thuộc trường hợp Nhà nước
cấm lưu hành, thì không phân biệt là vật chứng hay không phải vật chứng, của bị
cáo hay không phải của bị cáo, đều phải bị xem xét tịch thu nộp ngân sách nhà nước
hoặc tịch thu tiêu hủy.
1.2. Thực tiễn xử lý vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội
Việc xử lý vật chứng tuân thủ đúng các quy định của pháp luật góp phần quan
trọng vào việc tước đoạt quyền sở hữu đối với các tài sản của người thực hiện hành vi
phạm tội nhằm xoá bỏ điều kiện phạm tội và khôi phục lại quyền sở hữu cho chủ sở
Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015.
Hà Thái Thơ (2020), “Xử lý vật chứng khi xét xử vụ án hình sự – Bất cập và kiến nghị”, Tạp chí Tịa án
nhân dân, số 5/2020, tr. 22-25;
5
6


13
hữu, quyền chiếm hữu cho người quản lý hợp pháp… Căn cứ điểm a khoản 2 Điều
106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định đối với vật chứng là cơng cụ, phương
tiện phạm tội thì tịch thu nộp ngân sách nhà nước hoặc tiêu hủy. Mặc dù Bộ luật Tố
tụng hình sự 2015 và một số văn bản hướng dẫn thi hành đã có quy định khá chi tiết

về việc xử lý vật chứng, trên thực tế cũng đã giúp hoạt động giải quyết vụ án hình
sự của các cơ quan tiến hành tố tụng đạt được hiệu quả tốt. Tuy nhiên, trong thực
tiễn áp dụng cũng đã phát sinh và tồn tại một số sai sót cần được khắc phục.
1.2.1. Thực tiễn xử lý vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội thuộc sở
hữu của bị cáo
Qua thực tiễn xét xử cho thấy, rất nhiều vụ án có vật chứng là cơng cụ,
phương tiện phạm tội (xe máy hoặc xe ô tô) thuộc sở hữu của bị cáo. Tuy nhiên, các
Tịa án khác nhau lại có cách xử lý khác nhau về loại vật chứng này. Điều cần thiết
phải xác định bản chất của vấn đề là vật chứng phải được dùng vào việc phạm tội
thì mới được xem là công cụ, phương tiện phạm tội. Nghĩa là, việc sử dụng vật
chứng có liên hệ mật thiết với tội phạm, nếu khơng thì tội phạm khơng thể hồn
thành hoặc khơng thể thực hiện trong tình huống cụ thể đó. Ngược lại, nếu vật
chứng chỉ là hình thức, phương tiện di chuyển để đưa đến địa điểm phạm tội, thì xác
định là phương tiện nhưng khơng dùng vào việc phạm tội, nên phải trả lại cho bị
cáo. Mặc dù vậy nhưng quy định trên vẫn có nhiều cách hiểu khác nhau, là nguyên
nhân dẫn đến công tác xử lý vật chứng gặp khó khăn. Thực trạng này được minh
chứng qua các vụ án sau:
Vụ án thứ nhất
Tóm tắt nội dung vụ án
Vào khoảng 08 giờ 30 phút ngày 19.11.2015, Đặng Hoàng M điều khiển xe
gắn máy biển kiểm soát 65FA-7860 chở Nguyễn Thanh V ngụ cùng khu vực Qui
Thạnh 2, phường Trung Kiên, quận Thốt Nốt, Tp. Cần Thơ ngồi phía sau, lưu
thơng trên Quốc lộ 91 theo hướng Ơ Mơn - Thốt Nốt. Khi đến đoạn đường thuộc
khu vực Tân Phước 1, phường Thuận Hưng, quận Thốt Nốt, TP. Cần Thơ, M điều
khiển xe lấn tuyến sang trái đụng vào xe mơ tơ biển kiểm sốt 65CA-011.35 do
Nguyễn Hà T điều khiển chở phía sau là Phan Gia B ngụ cùng khu vực Tân Lợi 1,
phường Tân Hưng, quận Thốt Nốt, TP. Cần Thơ chạy chiều ngược lại. Hậu quả
Nguyễn Hà T tử vong.
Tang vật thu giữ: xe mơ tơ biển kiểm sốt số 65FA-7860, 65CA-011.35
thuộc quyền sở hữu của bị cáo.



14
Hội đồng xét xử đã áp dụng: Điều 41 Bộ luật hình sự và Điều 76 Bộ luật tố
tụng hình sự 2003: Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 xe mơ tơ biển kiểm sốt 65FA7860 thu giữ của bị cáo Đặng Hoàng M do là phương tiện gây tai nạn7.
Vụ án thứ hai
Tóm tắt nội dung vụ án
Vào khoảng 15 giờ 15 phút ngày 06/8/2017 Nguyễn Văn T điều khiển xe mô
tô biển số 65G1-121.64 chở theo Đào Thị Q trên đường Võ Nguyên Giáp hướng từ
nút giao thông IC3 về cảng Cái Cui khi đến đoạn thuộc khu vực Phú Thuận A,
phường Tân Phú, quận Cái Răng thì xảy ra va chạm với xe mô tô biển số 65B1640.38 do ơng Võ Văn T điều khiển một mình lưu thông theo hướng ngược lại, làm
cho cả người và 2 xe té ngã trên đường. Hậu quả làm cho ông Võ Văn T tử vong tại
hiện trường. Quá trình điều tra xác định nguyên nhân lỗi là do Nguyễn Văn T điều
khiển xe trong tình trạng có sử dụng bia (rượu) nồng độ cồn trong máu là
268.7mg/100ml máu (vượt mức cho phép là 50mg/100ml máu), điều khiển xe đi
không đúng phần đường quy định nên dẫn đến vụ tại nạn giao thông.
Vật chứng thu giữ: 01 (một) xe mô tô biển số 65G1-121.64; 01 (một) giấy
chứng nhận đăng ký xe mô tô số 011472 và 01 (một) giấy phép lái xe hạng A1
mang tên Nguyễn Văn T; 01 (một) xe mô tô biển số 65B1-640.38 và 01 (một) giấy
đăng ký xe mô tô số 012843 mang tên Lý Hữu N. Cơ quan cảnh sát điều tra – Công
an quận Cái Răng đã ra quyết định xử lý vật chứng: Trả lại cho Nguyễn Văn T xe
mô tô hiệu Honda Wave Alpha, biển số 65G1-121.64, 01 (một) giấy chứng nhận
đăng ký xe mô tô số 011472; trả lại cho cho chủ sở hữu là Lý Hữu N (con rễ ông
Tiếp) 01 (một) xe mô tô biển số 65B1-640.38 và 01 (một) giấy đăng ký xe mô tô số
012843 mang tên Lý Hữu N 8.
Xét về bản chất thì quy định hình thức xử lý vật chứng đối với cơng cụ,
phương tiện phạm tội của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và Bộ luật Tố tụng
hình sự 2015 cơ bản là giống nhau. Tuy nhiên, trong hai vụ án nêu trên lại có
phương thức xử lý khác nhau.
Việc trả lại chiếc xe ô tô cho bị cáo trong vụ án trên là phù hợp. Thực tiễn

giải quyết các vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thơng đường
bộ bắt gặp khá nhiều tình huống như ví dụ vừa nêu. Đa phần Cơ quan điều tra, Viện
Bản án số: 50/2016/HSST ngày 10-6-2016 về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ” của Tòa án nhân dân quận Thốt Nốt thành phố Cần Thơ.
8
Bản án số 54/2018/HSST ngày 28-9-2018 về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ” của Tòa án nhân dân quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ
7


15
kiểm sát trả lại phương tiện liên quan đến tai nạn giao thông cho chủ sở hữu, người
quản lý hợp pháp trước khi chuyển hồ sơ vụ án sang Tòa án. Tuy nhiên, dù Tòa án
hay Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát xử lý dưới hình thức trả lại cho chủ sở hữu,
người quản lý hợp pháp thì lại khơng có căn cứ pháp lý bởi nếu viện dẫn Điều 106
Bộ luật Tố tụng hình sự sẽ khơng phù hợp.
Về nguyên tắc theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và
điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định thì những “Cơng cụ,
phương tiện dùng vào việc phạm tội” mới tịch thu sung quỹ Nhà nước, ngược lại thì
xem xét trả lại cho bị cáo. Tuy nhiên, việc xác định như thế nào là vật chứng là
công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội cịn có những cách hiểu khác nhau,
đặc biệt đối với xe mô tô, xe ô tô gây ra tai nạn trong vụ án giao thơng.
Có quan điểm cho rằng vật chứng là phương tiện giao thơng trong vụ án
hình sự khơng bị tịch thu, sung quỹ nhà nước do hành vi phạm tội là do lỗi vô ý và
phương tiện giao thông được người phạm tội dùng để di chuyển từ nơi này đến
nơi khác mà không phải dụng ý ban đầu là dùng vào việc phạm tội.
Quan điểm khác lại cho rằng dù tội vi phạm quy định về điều khiển phương
tiện giao thông đường bộ là lỗi vô ý nhưng trường hợp phương tiện giao thông
được người phạm tội điều khiển trong trạng thái phê chất ma túy, hoặc có nồng độ
cồn vượt quá mức cho phép, khi đó họ đã có lỗi cố ý về mặt hành vi là đã tự đặt

mình vào trong tình trạng say rượu, bia, chất kích thích khác khi vi phạm thì cần
phải tịch thu phương tiện để xử lý.
Quan điểm này xét trên thực tế đều có điểm phù hợp, tuy nhiên, tác giả đồng
tình với quan điểm thứ nhất, đối với xe máy trong vụ án tai nạn giao thơng thì việc
gây ra tai nạn là vô ý, do đó về ý thức chủ quan của bị cáo thì xe máy khơng phải
là công cụ, phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội nên không thể tịch thu.
1.2.2. Thực tiễn xử lý vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội thuộc tài
sản chung của vợ chồng
Trường hợp vật chứng là tài sản chung, thì về nguyên tắc cần phải làm rõ là
tài sản chung hợp nhất hay tài sản chung theo phần. Nếu tài sản chung theo phần mà
xác định tài sản đó dùng vào việc phạm tội, thì tịch thu nộp ngân sách nhà nước
phần tài sản của bị cáo. Nếu là tài sản chung hợp nhất, thì cần làm rõ tài sản chung
hợp nhất có phân chia được hay không. Nếu tài sản chung hợp nhất không phân
chia được và là tài sản duy nhất của gia đình, nếu bị tịch thu, có thể ảnh hưởng
nghiêm trọng đến các thành viên trong gia đình, thì xem xét khơng tịch thu mà thay


16
vào đó, có thể áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền nếu điều luật có quy định
hình phạt bổ sung.
Tuy nhiên, quá trình áp dụng pháp luật khi xử lý vật chứng và thực tiễn hiện
nay vẫn có nhiều nội dung luật chưa có quy định cụ thể và cũng chưa có văn bản
hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền, do vậy gây lúng túng cho cơ quan có thẩm
quyền khi tiến hành xử lý vật chứng và cịn có nhiều quan điểm khác nhau, cụ thể
như trong vụ án “Vận chuyển trái phép chất ma túy” sau đây:
Tóm tắt nội dung vụ án
Nguyễn Thanh T là đối tượng nghiện ma tuý. Vào ngày 08/3/2020, T điều
khiển xe mô tô BS 67B1- 286.85 chở bạn là Nguyễn Hồng S đi từ Long Xuyên đến
địa bàn xã Vĩnh Trinh, huyện Vĩnh Thạnh mua ma túy đem về sử dụng. Sau khi
mua được ma túy, trên đường về thì bị phát hiện bắt quả tang, thu giữ tồn bộ vật

chứng có liên quan, trong đó có chiếc xe mô tô BS 67B1- 286.85. Kết quả điều tra
xác định chiếc xe mô tô BS 67B1- 286.85 là do vợ của bị cáo T tên Đoàn Thị Kim P
mua lại của ông Võ Thành L trong thời kỳ hôn nhân, việc mua bán xe có giấy tờ
mua bán có cơng chứng, nhưng xe chưa sang tên theo quy định. Hàng ngày, chiếc
xe trên do bà P trực tiếp quản lý và sử dụng làm phương tiện đi lại trong gia đình.
Việc T sử dụng xe mơ tơ làm phương tiện đi mua ma túy bà P khơng biết. Có 03
quan điểm khác nhau trong quá trình xử lý đối với chiếc xe nêu trên:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Nguyễn Thanh T sử dụng chiếc xe mô tô đi
trộm cắp tài sản, chiếc xe này là phương tiện dùng vào việc phạm tội và việc xử lý
vật chứng là xử lý công cụ, phương tiện phạm tội, không phải xử lý giá trị hoặc
phần giá trị tài sản của công cụ, phương tiện phạm tội đó. Do vậy, căn cứ điểm a
khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015 và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng
hình sự 2015 tuyên tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước chiếc xe mô tô này.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Xe mô tô tuy là phương tiện dùng vào việc
phạm tội. Nhưng đây là tài sản chung giữa Nguyễn Thanh T và Đoàn Thị Kim P,
xét thấy hoàn cảnh gia đình khó khăn, chỉ có chiếc xe máy là phương tiện đi lại và
bà P không biết về hành vi phạm tội của T nên căn cứ khoản 2 Điều 47 Bộ luật
Hình sự 2015; điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 tuyên trả lại
chiếc xe máy cho chị bà P.
Quan điểm thứ ba cho rằng: Xe mô tô là phương tiện dùng vào việc phạm
tội. Đây là tài sản được hình thành trong thời kỳ hôn nhân giữa T và P nên căn cứ
Điều 33 Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014; điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật


17
Hình sự năm 2015; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 tuyên
tịch thu, nộp ngân sách nhà nước nộp ½ giá trị của xe mơ tơ, ½ giá trị của xe mơ tơ
trả lại cho bà P. Vì chiếc xe là tài sản chung của vợ chồng (tài sản phát sinh trong
thời kỳ hôn nhân) nên mỗi người có quyền sở hữu 1/2 giá trị chiếc xe. Do đó, cần
tịch thu nộp ngân sách nhà nước phần bị cáo T được hưởng tại thời điểm bán đấu

giá thành và trả lại bà P phần giá trị tài sản bà P được hưởng9.
Về nguyên tắc vật chứng được xử lý như sau: “a) Vật chứng là công cụ,
phương tiện phạm tội, vật cấm tàng trữ, lưu hành thì bị tịch thu, nộp ngân sách nhà
nước hoặc tiêu hủy10 .Tuy nhiên, quy định trên chưa phân biệt được vật chứng là
công cụ, phương tiện phạm tội thuộc quyền sở hữu của ai, họ có lỗi hay không đối
với việc để tài sản đó được sử dụng vào việc phạm tội mà đã quyết định tịch thu
sung quỹ là chưa chặt chẽ. Vật chứng theo quy định trên phải được hiểu là việc bị
cáo sử dụng công cụ, phương tiện vào việc thực hiện hành vi phạm tội mà công cụ,
phương tiện đó phải thuộc sở hữu của bị can, bị cáo hoặc người chủ sở hữu hay
người quản lý hợp pháp của tài sản đó phải có lỗi trong việc để bị can, bị cáo sử
dụng làm công cụ phương tiện thực hiện hành vi phạm tội. Do đây là tài sản chung
của T và bà P, vì tài sản này hình thành trong thời kỳ hơn nhân, bà P khơng có lỗi
trong việc để bị cáo T sử dụng chiếc xe này, vì vậy như trên đã phân tích việc tuyên
tịch thu 1/2 giá trị chiếc xe để sung công quỹ nhà nước là phù hợp.
Qua vụ án trên cho thấy do hiện nay do quy định pháp luật chưa rõ ràng, cụ
thể về cách thức xử lý vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội thuộc tài sản
chung của vợ chồng nên dẫn đến việc áp dụng pháp luật cịn nhiều khó khăn, lúng
túng và chưa thống nhất.
1.2.3. Thực tiễn xử lý vật chứng là cơng cụ, phương tiện phạm tội khơng có
giá trị hoặc giá trị sử dụng không đáng kể
Qua thực tế công tác xét xử tác giả nhận thấy một số khó khăn, vướng mắc
khi áp dụng quy định tại điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015:
“Vật chứng khơng có giá trị hoặc khơng sử dụng được thì bị tịch thu và tiêu hủy”.
Việc Bộ luật Tố tụng hình sự quy định tịch thu tiêu hủy vật chứng là cần thiết
nếu vật chứng đó khơng cịn giá trị sử dụng hoặc khơng sử dụng được. Tuy nhiên,
Bộ luật Tố tụng hình sự chưa quy định xử lý đối với vật chứng có giá trị sử dụng
Trần Thị Thu, “Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về xử lý vật chứng trong vụ án hình sự”, Viện kiểm
sát nhân dân thành phố Cần Thơ, truy cập ngày 20-6-2021.
10
Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

9


18
nhưng khơng đáng kể. Đồng thời, hiện nay chưa có quy định hoặc văn bản hướng
dẫn như thế nào là vật chứng khơng có giá trị hoặc có giá trị sử dụng nhưng không
đáng kể để xử lý dẫn đến việc xử lý cịn mang tính tùy tiền, khơng thống nhất. Việc
quy định trên chỉ mang tính chất định tính nên trong một số trường hợp các cơ quan
tiến hành tố tụng đã tự xác định, đánh giá vật chứng khơng cịn giá trị theo ý chí chủ
quan của mình để xử lý, từ đó dẫn tới việc xử lý vật chứng tùy tiện, khơng thống
nhất, điển hình như trong vụ án sau:
Tóm tắt nội dung vụ án
Khoảng 14 giờ ngày 31 tháng 7 năm 2019 Đinh Trung T điều khiển xe mô tô
biển số 65P5 – 6545 chở khách từ quận Ninh Kiều về quận Cái Răng, thành phố Cần
Thơ. Sau khi trả khách, T điều khiển xe chạy về hướng đường Phạm Hùng thuộc
phường Lê Bình, quận Cái Răng, T nhìn thấy nhà trọ Ngọc Trân thuộc khu vực n
Hịa, phường Lê Bình, quận Cái Răng khơng đóng cửa rào nên nảy sinh ý định trộm
cắp tài sản. T dừng xe lại, dẫn xe đi vào bên trong đến cuối dãy nhà trọ, thấy phịng trọ
số 9D khơng khóa cửa, anh Lê Xuân N đang nằm ngủ có để 01 máy laptop và 01 điện
thoại di động kế bên, T lấy điện thoại di động bỏ vào túi quần, lấy máy laptop để vào
trong áo phía trước bụng rồi điều khiển xe tẩu thoát. T mang điện thoại và laptop bán
cho anh Nguyễn Minh A là chủ cửa hàng điện thoại Minh Đ, địa chỉ: 329A, khu vực 3,
phường An Khánh, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ được số tiền 2.200.000 đồng
rồi tiêu xài cá nhân hết. Qua trích xuất camera lực lượng cơng an mời Đinh Trung T
làm việc, tại cơ quan điều tra T đã khai nhận theo đúng nội dung, diễn biến nêu trên.
Vật chứng thu giữ: 01 xe mô tô biển số 65P5 - 6545, số máy
TTJL1P52FMH041116; số khung: RRKWCHXUM5X04116; 01 nón bảo hiểm
màu xám; 01 đôi dép sọc trắng hiệu duwa; 01 áo sơ mi tay dài sọc xanh đen hiệu
P.S.FA; 01 laptop hiệu ACER màu xám đen, đối với điện thoại di động hiệu
Samsung galaxy S8 không thu hồi được.

Về xử lý vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra công an quận Cái Răng trả lại
01 máy laptop hiệu ACER cho bị hại Lê Xuân N; tịch thu tiêu hủy 01 nón bảo hiểm
màu xám; 01 đơi dép đen sọc trắng hiệu duwa; 01 áo sơ mi tay dài sọc xanh đen
hiệu P.S.FA; trả cho Cao Chí B xe mơ tô biển số 65P5 – 6545, số máy
VTTJL1P52FMH041116; số khung: RRKWCHXUM5X04116 theo Lệnh nhập kho
vật chứng số 44 ngày 13 tháng 8 năm 2019 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an
quận Cái Răng.11
Bản án số 54/2019/HSST ngày 22/10/2019 “Về tội Trộm cắp tài sản” của Tòa án nhân dân quận Cái Răng,
thành phố Cần Thơ.
11


19
Thực tiễn tố tụng cho thấy cơ quan tiến hành tố tụng xử lý nhiều vật chứng
loại này. Theo đó, đối với một số vật chứng tuy có giá trị sử dụng ở một mục đích
tiêu dùng nào đó, nhưng giá trị quy đổi thành tiền không đáng kể so với chi phí bảo
quản, lưu giữ, thanh lý hóa giá theo quy định của pháp luật thì cũng được tịch thu
và tiêu hủy mà không tuyên tịch thu nộp ngân sách như con dao, cái búa, chiếc điện
thoại đã cũ,… gây khó khăn cho cơng tác thi hành án. Vì vậy, việc nhận định vật
chứng có giá trị hay giá trị sử dụng hay không hiện tại dựa vào ý thức chủ quan của
cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.
1.2.4. Xử lý vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội của hai hay nhiều vụ
án độc lập
Trường hợp này học viên chưa tìm được những vụ án thực tế để minh chứng
mà chỉ dựa trên những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về xử lý
vật chứng để đưa ra dự đốn về tình huống pháp lý có khả năng xảy ra.
Các quy định về xử lý vật chứng trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 chỉ áp
dụng đối với vật được xác định là vật chứng của một vụ án. Đối với vật được xác
định là vật chứng của hai hay nhiều vụ án độc lập thì chưa có quy định nên xảy ra
vướng mắc. Chẳng hạn, con dao vừa là công cụ phạm tội trong vụ án Giết người,

vừa là công cụ phạm tội trong vụ án Cố ý gây thương tích nhưng vụ án Giết người
được đưa ra xét xử trước. Theo quy định khi xét xử vụ án Giết người, do con dao là
vật chứng nên phải áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 “vật chứng là công cụ,
phương tiện phạm tội” để tiêu hủy. Tuy nhiên, con dao này lại là vật chứng trong
vụ án Cố ý gây thương tích và vụ án này chưa được xét xử. Nếu Hội đồng xét xử
tuyên tiêu hủy thì trong vụ án Cố ý gây thương tích được xét xử sau sẽ khơng cịn
vật chứng để xem xét, do vậy bản án sẽ khơng có tính thuyết phục. Vì vậy, trong
thực tế giải quyết vụ án cơ quan tiến hành tố tụng có nhiều hướng giải quyết khác
nhau, trong đó cách giải quyết phù hợp nhất là vẫn tạm giữ con dao để phục vụ cho
việc giải quyết vụ án sau. Quan điểm trên là phù hợp với thực tiễn, tuy nhiên do
hiện nay luật chưa có quy định về trường hợp này nên khi áp dụng cịn thiếu căn cứ
pháp lý, gây khó khăn và cịn lúng túng. Vì vậy, phải có giải pháp phù hợp với thực
tiễn xét xử hiện nay.
1.3. Kiến nghị hoàn thiện quy định của luật tố tụng hình sự và nâng cao
hiệu quả xử lý vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội
Từ việc nghiên cứu, phân tích các quy định của pháp luật kết hợp với việc
làm rõ một số bất cập, sai sót trong q trình thu thập, xử lý vật chứng là công cụ,


20
phương tiện phạm tội của các cơ quan tiến hành tố tụng trong thời gian qua, tác giả
nêu lên một số kiến nghị nhằm sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật Tố tụng
hình sự 2015, góp phần hạn chế các sai sót, phục vụ cho hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử đạt hiệu quả cao, đáp ứng yêu cầu của tiến trình cải tư pháp hiện nay.
Thứ nhất, đối với khái niệm vật chứng, kiến nghị bổ sung nội hàm khái niệm
vật chứng vào Điều 89 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 để đảm bảo tính thống nhất
giữa nội hàm và ngoại diên của khái niệm vật chứng:
“1. Vật chứng là vật được thu thập theo trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng
hình sự quy định, chứa đựng các thông tin được xác định là chứng cứ có giá trị
chứng minh tội phạm, người phạm tội cũng như các tình tiết khác cần thiết cho việc

giải quyết đúng đắn vụ án.
2. Vật chứng bao gồm: Vật chứng là vật được dùng làm công cụ, phương tiện
phạm tội; vật mang dấu vết tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm, tiền bạc và vật
khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội”.
Thứ hai, để giải quyết vướng mắc trong trường hợp chủ sở hữu, người quản
lý hợp pháp không nhận lại vật chứng thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản
3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Theo đó, cần quy định bổ sung 01 điểm
sau vào điểm b khoản 3 Điều 106 trường hợp chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp
không nhận lại tài sản thì tịch thu sung quỹ Nhà nước hoặc tiêu hủy. Khi đó, điểm b
khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 sẽ được bổ sung như sau: “Trả lại
ngay vật chứng cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp nếu xét thấy không
ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án; Trường hợp không xác định được
chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp, hoặc xác định được nhưng họ không nhận lại
thì tịch thu, sung quỹ Nhà nước hoặc tiêu hủy đối với vật khơng có giá trị hoặc có
giá trị sử dụng nhưng không đáng kể.”
Thứ ba, từ những thiếu sót trong quy định vấn đề xử lý vật chứng chỉ áp dụng
đối với vật chứng của một vụ án mà chưa quy định trường hợp xử lý vật chứng là
công cụ, phương tiện phạm tội của hai vụ án độc lập; việc xử lý vật chứng khi chủ
sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp không nhận lại tài sản; vật chứng khơng có giá
trị sử dụng. Tác giả đưa ra giải pháp để khắc phục các vướng mắc trong hoạt động
xử lý vật chứng và kiến nghị sửa đổi, bổ sung Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự
2015 với các nội dung sau:
“Điều 106. Xử lý vật chứng
1. Việc xử lý vật chứng do… được ghi vào biên bản.


21
2. Vật chứng được xử lý bằng một trong các cách thức sau đây:
a) Vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội, vật cấm lưu hành thì bị
tịch thu sung quỹ Nhà nước nếu chúng còn giá trị sử dụng hoặc tịch thu tiêu huỷ

nếu chúng khơng cịn giá trị sử dụng hoặc không sử dụng được. Đối với vật
chứng được xác định là bộ phận tách bạch với phần khác của vật thì chỉ tịch thu
phần tách bạch mà khơng tịch thu tồn bộ vật;
b) Vật chứng là tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước, tổ chức, cá nhân bị
người phạm tội chiếm đoạt; dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội; mang dấu
vết tội phạm hoặc những vật khác có giá trị chứng minh tội phạm, người phạm
tội thì trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp nếu họ khơng có lỗi;
c) Vật chứng là tiền bạc hoặc tài sản do phạm tội mà có thì bị tịch thu, nộp
ngân sách nhà nước;
d) Vật chứng khơng có giá trị hoặc khơng sử dụng được thì bị tịch thu và tiêu
hủy. Việc xác định vật chứng khơng có giá trị hoặc khơng sử dụng được do cơ
quan tài chính quyết định.
3. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan có thẩm quyền quy định
tại khoản 1 Điều này có quyền:
a) Trả lại ngay tài sản đã thu giữ, tạm giữ nhưng không phải là vật chứng
cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp tài sản đó;
b) Trả lại ngay vật chứng cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp nếu
xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án.
c) Nếu vật được xác định là vật chứng của nhiều vụ án thì vụ án thứ nhất
vẫn áp dụng các hình thức xử lý như quy định tại khoản 2 Điều này nhưng khi
xét xử lần đầu thì phải tuyên tạm giữ vật chứng đó để làm căn cứ xem xét giải
quyết ở các vụ án khác có liên quan; việc thi hành xử lý vật chứng chỉ được tiến
hành khi tất cả các vụ án liên quan đã được xét xử.
d) Vật chứng thuộc loại mau hỏng hoặc khó bảo quản thì có thể được bán
theo quy định của pháp luật; trường hợp khơng bán được thì tiêu hủy;
đ) Vật chứng là động vật hoang dã và thực vật ngoại lai thì ngay sau khi có
kết luận giám định phải giao cho cơ quan quản lý chuyên ngành có thẩm quyền xử
lý theo quy định của pháp luật.
4. Trong trường hợp có tranh chấp về quyền sở hữu đối với vật chứng thì giải
quyết theo thủ tục tố tụng dân sự”.

Thứ tư, bổ sung quy định hướng dẫn về xử lý vật chứng.


×