BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯƠNG VĂN LỢI
KIẾN NGHỊ SỬA CHỮA THIẾU SĨT, VI PHẠM
TRONG CƠNG TÁC QUẢN LÝ CỦA TỊA ÁN
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KIẾN NGHỊ SỬA CHỮA THIẾU SĨT, VI PHẠM
TRONG CƠNG TÁC QUẢN LÝ CỦA TỊA ÁN
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chun ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Định hướng ứng dụng
Mã số: 8380104
Người hướng dẫn khoa học : TS. Lê Nguyên Thanh
Học viên
: Trương Văn Lợi
Lớp
: Cao học luật, An Giang khóa 2
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Kiến nghị sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong
cơng tác quản lý của Tịa án theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” là cơng trình
nghiên cứu do chính tơi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Lê Nguyên
Thanh. Các nội dung, thơng tin được trình bày trong luận văn là trung thực. Tôi xin
chịu trách nhiệm về lời cam đoan trên của mình.
Thành Phố Hồ Chí Minh, ngày 16 tháng 8 năm 2022
Tác giả
Trương Văn Lợi
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Từ, cụm từ được viết tắt
Từ, cụm từ viết tắt
1
Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi,
bổ sung năm 2017)
BLHS
2
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
BLTTHS
3
Hội đồng xét xử
HĐXX
4
Tố tụng hình sự
TTHS
5
Tiến hành tố tụng
THTT
6
Viện Kiểm sát
VKS
TT
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. CĂN CỨ VÀ THỦ TỤC TÒA ÁN KIẾN NGHỊ CƠ QUAN, TỔ
CHỨC HỮU QUAN SỬA CHỮA THIẾU SĨT, VI PHẠM TRONG CƠNG
TÁC QUẢN LÝ ......................................................................................................... 6
1.1. Nhận thức và pháp luật tố tụng hình sự về căn cứ và thủ tục Tịa án kiến
nghị cơ quan, tổ chức hữu quan sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong cơng tác
quản lý .................................................................................................................... 6
1.1.1. Nhận thức về căn cứ và thủ tục Tòa án kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu
quan sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý .................................... 6
1.1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về căn cứ và thủ tục Tòa án kiến
nghị cơ quan, tổ chức hữu quan sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong cơng tác
quản lý .................................................................................................................. 7
1.2. Thực tiễn Tịa án áp dụng thủ tục kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan
sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong cơng tác quản ............................................ 10
1.2.1. Tình hình Tịa án kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan sửa chữa thiếu
sót, vi phạm trong công tác quản lý ................................................................... 10
1.2.2. Những hạn chế trong việc áp dụng căn cứ và thủ tục kiến nghị của Tịa
án nhằm sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý và nguyên nhân . 10
1.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng căn cứ và thủ tục kiến nghị của
Tòa án đối với cơ quan, tổ chức hữu quan về việc sửa chữa thiếu sót, vi
phạm trong công tác quản lý ............................................................................. 19
1.3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và hướng dẫn áp dụng pháp luật về căn
cứ, thủ tục kiến nghị Tòa án nhằm sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong cơng tác
quản lý ................................................................................................................ 19
1.3.2. Giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng thủ tục về kiến nghị của
Tòa án nhằm sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong cơng tác quản lý..................... 21
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................ 22
CHƯƠNG 2. TRÁCH NHIỆM THỰC HIỆN KIẾN NGHỊ CỦA TỊA ÁN VÀ
THƠNG BÁO VIỆC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP SỬA CHỮA THIẾU SÓT, VI
PHẠM TRONG CÔNG TÁC QUẢN LÝ ............................................................. 23
2.1. Nhận thức và pháp luật tố tụng hình sự về trách nhiệm thực hiện kiến
nghị của Tòa án và thông báo việc áp dụng biện pháp sửa chữa thiếu sót, vi
phạm trong cơng tác quản lý ............................................................................. 23
2.1.1. Nhận thức về trách nhiệm thực hiện kiến nghị của Tòa án và thông báo
việc áp dụng biện pháp sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong cơng tác quản lý .... 23
2.1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về trách nhiệm thực hiện kiến
nghị và thông báo việc áp dụng các biện pháp sửa chữa thiếu sót, vi phạm
trong công tác quản lý ........................................................................................ 25
2.2. Thực tiễn thực hiện kiến nghị và thông báo việc áp dụng các biện pháp
sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong cơng tác quản lý ........................................ 27
2.2.1. Những kết quả tích cực của việc thực hiện kiến nghị của Tịa án và thơng
báo việc áp dụng các biện pháp sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác
quản lý ................................................................................................................ 27
2.2.2. Những hạn chế của việc thực hiện kiến nghị của Tòa án và thông báo
việc áp dụng biện pháp sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong cơng tác quản lý và
ngun nhân ........................................................................................................ 28
2.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện kiến nghị của Tịa án và thơng
báo việc áp dụng các biện pháp sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong cơng tác
quản lý .................................................................................................................. 35
2.3.1. Giải pháp hồn thiện pháp luật và hướng dẫn áp dụng pháp luật về thực
hiện kiến nghị của Tịa án và thơng báo việc áp dụng các biện pháp sửa chữa
thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý .......................................................... 35
2.3.2. Giải pháp khác nhằm bảo đảm thực hiện kiến nghị của Tòa án và thơng
báo việc áp dụng biện pháp sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý .
............................................................................................................................ 37
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................ 39
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 40
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực tư pháp ngày càng
được đổi mới, cụ thể hóa bằng các nghị quyết, đó là: Nghị quyết số 08-NQ/TW,
ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm cơng tác tư pháp
trong thời gian tới”; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 25/4/2005 của Bộ Chính trị về
“Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010,
định hướng đến năm 2020”; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ
Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”;… góp phần thể chế hố
đường lối lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của
Nhà nước, đẩy mạnh phát triển kinh tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất
nước. Trên cơ sở đó, Hiến pháp năm 2013 cũng đã quy định: “Bản án, quyết định
của Tồ án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn
trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”1.
Việc kiến nghị sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong cơng tác quản lý của Tịa án
đối với cơ quan, tổ chức hữu quan cũng là một trong những hoạt động quan trọng
của tư pháp nói chung và hoạt động giải quyết vụ án nói riêng, nhằm đưa bản án,
quyết định của tịa án đã có hiệu lực pháp luật thi hành. Đồng thời, đây còn là nhiệm
vụ của quá trình giải quyết vụ án, có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tập thể và cơng dân, góp phần phịng ngừa, ngăn
chặn tội phạm, bảo vệ công lý, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Mặc dù pháp luật đã có quy định khá cụ thể, tuy nhiên, việc nhận thức và áp
dụng pháp luật trên thực tế về việc kiến nghị sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong cơng
tác quản lý của Tịa án đối với cơ quan, tổ chức hữu quan cịn nhiều bất cập, khó
khăn, vướng mắc trong q trình thực hiện. Khó khăn nhất là quy định trong thời
hạn (30 ngày) kể từ ngày nhận được kiến nghị của Tòa án, các cơ quan, tổ chức
nhận được kiến nghị phải thông báo bằng văn bản cho Tòa án biết về những biện
pháp áp dụng. Thực tế rất khó thực hiện u cầu của Tịa án trong thời hạn luật định
đối với những lĩnh vực phức tạp như quản lý và sử dụng đất đai đối với các khu dân
cư tự phát; lợi dụng chính sách hoàn thuế của Nhà nước để mua bán trái phép hóa
đơn thuế giá trị gia tăng… Việc này, thực tế ở An Giang thời gian qua áp dụng rất
1
Điều 106 Hiến pháp 2013.
2
khó khăn, địi hỏi cần nhiều thời gian. Mặt khác, các văn bản luật chuyên ngành
như: Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Xây dựng… thời gian qua chưa có sự đồng bộ,
thống nhất, tạo kẻ hở pháp luật bị lợi dụng.
Chính vì vậy, vấn đề kiến nghị sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong cơng tác
quản lý của Tịa án ở Việt Nam có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Thông qua
nghiên cứu đề tài để làm rõ quy định của pháp luật về vấn đề này từ đó có nhận thức
và áp dụng pháp luật thống nhất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp
luật tố tụng hình sự về kiến nghị sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong cơng tác quản lý
cho phù hợp với yêu cầu của công tác đấu tranh, phòng, chống tội phạm mà thực
tiễn đặt ra ở các cơ quan, tổ chức hữu quan. Với những lý do trên tôi chọn đề tài
“Kiến nghị sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong cơng tác quản lý của Tịa án theo
Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” để làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua, trong sách báo pháp lý nước ta, vấn đề Tòa án ra kiến
nghị sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong cơng tác quản lý theo Điều 264 Bộ Luật Tố
tụng Hình sự được nghiên cứu khá ít. Vấn đề nhận thức đối tượng nghiên cứu
trong luận văn chủ yếu ở các tài liệu nghiên cứu cơ bản về luật TTHS như giáo
trình luật tố tụng hình sự Việt Nam và các sách Bình luận khoa học về luật TTHS
Việt Nam.
Về giáo trình, có thể tham khảo Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam
của Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, do Nguyễn Thị Kim Oanh (chủ
biên) và tập thể tác giả biên soạn (NXB Hồng Đức, Hội Luật gia Việt Nam, năm
2019). Tài liệu này cũng đề cập kiến chung về luật TTHS, địa vị pháp lý của Thẩm
phán và thi hành bản án của Tịa án.
Sách Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự, NXB chính trị quốc gia sự
thật năm 2018 do GS.TS Nguyễn Ngọc Anh và Luật sư, Tiến sĩ Phan Trung Hoài
làm đồng Chủ biên; Sách chuyên khảo Những nội dung mới trong Bộ luật tố tụng
hình sự 2015, do PGS.TS Nguyễn Hịa Bình làm Chủ biên. Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, năm 2016. Những tài liệu này cũng cung cấp kiến thức cơ bản về luật
TTHS, về bản án và thi hành bản án.
Nhìn chung các tài liệu trên khơng nghiên cứu chuyên sâu về kiến nghị
sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong cơng tác quản lý của Tịa án. Các diễn đàn
3
khoa học khác hầu như không nghiên cứu về vấn đề này, vì vậy tài liệu tham
khảo để thực hiện luận văn này rất hạn chế. Đó cũng là những khó khăn khi triển
khai các nội dung nghiên cứu, đồng thời cũng cho thấy vấn đề nghiên cứu là
hoàn toàn mới mẻ.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Việc thực hiện đề tài nhằm làm rõ vấn đề nhận thức, pháp luật và thực tiễn
việc kiến nghị của Tòa án đối với các cơ quan, tổ chức hữu quan sửa chữa thiếu sót,
vi phạm trong cơng tác quản lý, từ đó, đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả
thực hiện các kiến nghị này góp phần phịng ngừa tội phạm.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu nêu trên, q trình tổ chức thực hiện
cần hồn thành các nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu vấn đề nhận thức và phân tích các quy định của pháp luật tố tụng
hình sự về căn cứ, thủ tục Tòa án kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan sửa chữa
thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý và trách nhiệm thực hiện kiến nghị của
Tịa án, thơng báo việc áp dụng biện pháp sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong cơng
tác quản lý.
- Tìm hiểu thực trạng áp dụng pháp luật tố tụng hình sự về áp dụng căn cứ,
thủ tục Tòa án kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan sửa chữa thiếu sót, vi phạm
trong cơng tác quản lý cũng như trách nhiệm thực hiện kiến nghị của Tòa án và
thông báo việc áp dụng biện pháp sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong cơng tác
quản lý.
- Kiến nghị một số giải pháp bảo đảm thực hiện căn cứ, thủ tục Tòa án kiến
nghị cơ quan, tổ chức hữu quan sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong cơng tác quản lý
và trách nhiệm thực hiện kiến nghị của Tòa án, thông báo việc áp dụng biện pháp
sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong cơng tác quản lý.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu là quản điểm lý luận, bản chất pháp lý và thực tiễn áp dụng
căn cứ, thủ tục Tòa án kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan sửa chữa thiếu sót, vi
4
phạm trong công tác quản lý và trách nhiệm thực hiện kiến nghị của Tịa án, thơng
báo việc áp dụng biện pháp sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong cơng tác quản lý.
- Phạm vi nghiên cứu:
Về nội dung: vấn đề kiến nghị, sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong cơng tác
quản lý của Tịa án theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam tương đối rộng, tuy nhiên
luận văn chỉ tập trung nghiên cứu hai vấn đề cơ bản: Một là, căn cứ và thủ tục Tòa
án kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác
quản lý; Hai là, trách nhiệm thực hiện kiến nghị của Tịa án và thơng báo việc áp
dụng biện pháp sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý.
Về không gian: luận văn nghiên cứu số liệu thống kê chung về tình hình kiến
nghị khắc phục thiếu sót, vi phạm trong cơng tác quản lý trong cả nước và một số
vụ án cụ thể trên địa bàn tỉnh An Giang.
Về thời gian: luận văn nghiên cứu thực tiễn từ năm 2015 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh;
những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vai trò của Tòa án trong phòng,
chống tội phạm hiện nay.
- Phương pháp nghiên cứu cụ thể: các phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
phương pháp phân tích, phương pháp so sánh và phương pháp tổng hợp; các
phương pháp nghiên cứu thực tiễn: phương pháp thống kê, phương pháp nghiên cứu
vụ án điển hình.
6. Những đóng góp mới của đề tài
- Góp phần nâng cao nhận thức lý luận và pháp luật về kiến nghị của Tòa án
đối với các cơ quan, tổ chức hữu quan trong việc sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong
cơng tác quản lý để phòng ngừa tội phạm.
- Phát hiện những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân trong việc áp dụng các
biện pháp của cơ quan, tổ chức hữu quan theo kiến nghị của Toà án.
- Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả kiến nghị cũng như bảo đảm áp
dụng các biện pháp theo kiến nghị của Tồ án nhằm sửa chữa thiếu sót, vi phạm
trong cơng tác quản lý.
5
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
7.1. Ý nghĩa lý luận
kết quả nghiên cứu đề tài sẽ góp phần bổ sung lý luận về kiến nghị sửa chữa
thiếu sót, vi phạm trong cơng tác quản lý của Tịa án theo Luật Tố tụng hình sự
Việt Nam.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài được sử dụng làm tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu tham khảo,
giảng dạy và học tập ở các trường có đào tại về luật.
Đối với các giải pháp đề xuất trong đề tài này, cơ quan tiến hành tố tụng,
người liến hành tố tụng, cơ quan, tổ chức hữu quan, người tham gia tố tụng trong
các vụ án hình sự có thể tham khảo và vận dụng trong thực tiễn cho việc khắc phục
nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm tại các cơ quan, tổ chức theo kiến nghị
của Tòa án.
8. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn được chia thành 2 chương, cụ thể:
Chương 1: Căn cứ và thủ tục Tòa án kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan
sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý.
Chương 2: Trách nhiệm thực hiện kiến nghị của Tịa án và thơng báo việc áp
dụng biện pháp sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong cơng tác quản lý.
6
CHƯƠNG 1
CĂN CỨ VÀ THỦ TỤC TÒA ÁN KIẾN NGHỊ CƠ QUAN,
TỔ CHỨC HỮU QUAN SỬA CHỮA THIẾU SÓT, VI PHẠM
TRONG CÔNG TÁC QUẢN LÝ
1.1. Nhận thức và pháp luật tố tụng hình sự về căn cứ và thủ tục Tòa án
kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong cơng
tác quản lý
1.1.1. Nhận thức về căn cứ và thủ tục Tòa án kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu
quan sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý
Theo Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) định
nghĩa: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình
sự, do người có năng lực, trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện
một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ, Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phịng,
an ninh, trật tự, an tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm
những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ
luật này phải bị xử lý hình sự.
Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã
hội khơng đáng kể thì khơng phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác.
Tình hình tội phạm là hiện tượng xã hội tiêu cực, tồn tại trên nhiều lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội. Do vậy, nó có mối quan hệ và tác động qua lại với các
hiện tượng q trình xã hội khác mang tính chất tiêu cực và cả những hiện tượng xã
hội tích cực. Nó chịu sự chi phối, quyết định của các hiện tượng, quá trình xã hội.
Quá trình giải quyết vụ án hình sự các ngun nhân, điều kiện phạm tội ln
được nhận thức. Tòa án cũng nhận thức được nguyên nhân, điều kiện phạm tội đối
với tội phạm và vụ án do Tịa án xét xử. Cụ thể đó là, những thiếu sót, vi phạm trong
cơng tác quản lý đã dẫn đến tội phạm được thực hiện, bị phát hiện và đưa ra xét xử.
Tòa án với chức năng xét xử, khơng chỉ có nhiệm vụ xét xử vụ án hình sự,
kết tội và quyết định hình phạt, giải quyết vấn đề bồi thường nếu có mà cịn có trách
nhiệm phát hiện những thiếu sót, vi phạm trong cơng tác quản lý để kiến nghị cùng
với bản án nhằm khắc phục các ngun nhân, điều kiện phạm tội, góp phần phịng
ngừa tội phạm.
7
Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố nếu Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
không thực hiện nhiệm vụ kiến nghị các cơ quan, tổ chức hữu quan khắc phục thiếu
sót, vi phạm trong cơng tác quản lý hoặc có kiến nghị nhưng chưa được khắc phục
và thơng báo kết quả thì Tịa án tiếp tục kiến nghị để khắc phục những thiếu sót, vi
phạm đó. Có như vậy mới góp phần phịng ngừa tội phạm, ngăn ngừa thiệt hại,
đồng thời giải quyết triệt để vụ án hình sự.
Việc khắc phục phải dựa vào căn cứ phản ánh những thiếu sót, vi phạm trong
quản lý làm phát sinh tội phạm.
Kiến nghị của Tòa án cần theo thủ tục như hình thức văn bản, thời hạn, cơng
bố hoặc gửi văn bản… để các cá nhân, tổ chức liên quan có trách nhiệm thi hành.
Từ đó cho thấy, từng cơ quan, tổ chức hữu quan phải làm tốt công tác phịng
ngừa nhằm làm hạn chế số lượng, tính chất tội phạm phát sinh. Đồng thời, cơ quan
có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm phát hiện nguyên nhân và điều kiện
tội phạm, yêu cầu kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc
phục và phịng ngừa cụ thể là vi phạm, thiếu sót trong cơng tác quản lý.
Như vậy, có thể hiểu căn cứ Tòa án kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan sửa
chữa thiếu sót, vi phạm trong cơng tác quản lý là những nguyên nhân, điều kiện dẫn
đến phạm tội mà Tòa án đã đưa ra xét xử xuất phát từ những thiếu sót, vi phạm
trong cơng tác quản lý của chính cơ quan, tổ chức đó. Việc khắc phục các thiếu sót,
vi phạm này góp phần phịng ngừa tội phạm.
Thủ tục Tòa án kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan sửa chữa thiếu sót, vi
phạm trong cơng tác quản lý là cách thức, quy trình Tịa án ban hành và đề nghị cơ
quan thẩm quyền khắc phục những thiếu sót vi phạm trong cơng tác quản lý của các
cơ quan có thẩm quyền được phát hiện qua cơng tác xét xử nhằm làm tốt cơng tác
phịng ngừa tội phạm.
1.1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về căn cứ và thủ tục Tòa án
kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác
quản lý
1.1.2.1. Về căn cứ
Công tác kiến nghị sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong cơng tác quản lý của
các cơ quan, tổ chức hữu quan khi tiến hành xét xử vụ án hình sự là một trong
những hoạt động thực hiện chức năng của Tòa án nhân dân. Chức năng kiến nghị
8
này được quy định tại Khoản 1 Điều 264 Bộ luật TTHS năm 2015, cụ thể: “Cùng
với việc ra bản án, Tòa án ra kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng biện
pháp cần thiết để khắc phục nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm tại các cơ
quan, tổ chức đó…”. Như vậy, trong q trình xét xử vụ án hình sự các cấp, Tịa án
khơng chỉ giải quyết nội dung vụ án mà cịn có quyền kiến nghị khắc phục nguyên
nhân và điều kiện phát sinh tội phạm tại các cơ quan, tổ chức đó. Hiện nay, pháp
luật Việt Nam, bao gồm Bộ luật TTHS năm 2015 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân
năm 2014, không quy định chi tiết về căn cứ để Tịa án kiến nghị, tuy nhiên có thể
xác định các căn cứ này là khi Tòa án xác định các cơ quan, tổ chức hữu quan trong
vụ án hình sự được xét xử đang tồn tại những thiếu sót hoặc những vi phạm trong
công tác quản lý của họ và những thiết sót, vi phạm đó là những yếu tố làm nảy
sinh, thúc đẩy sự phát triển của tội phạm, cụ thể:
Thứ nhất, có thiếu sót hoặc vi phạm trong công tác quản lý tại cơ quan, tổ chức
hữu quan đến vụ án hình sự. Tịa án cần xác định các cơ quan, tổ chức hữu quan đang
có những sơ hở, hạn chế hoặc sai phạm trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của họ. Đối với những vụ án hình sự được xét xử, Tịa án có thể phát
hiện nhiều dạng thiếu sót, vi phạm khác nhau. Điển hình như việc qua xét xử, Tịa án
phát hiện các cơ quan, tổ chức ban hành những văn bản chỉ đạo, văn bản điều hành,
quy chế hoạt động thiếu chặt chẽ, thiếu minh bạch, đa nghĩa, trái với Hiến pháp và
pháp luật… Tuy nhiên, nếu vi phạm của cơ quan, tổ chức hữu quan đến mức xử lý
hình sự thì Tịa án khơng kiến nghị sửa chữa mà giao cơ quan có thẩm quyền điều tra
theo quy định Bộ luật TTHS nhằm đảm bảo không bỏ lọt tội phạm.
Thứ hai, những thiếu sót hoặc vi phạm trong cơng tác quản lý đang tồn tại là
nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm tại chính các cơ quan, tổ chức hữu
quan đến vụ án hình sự. Căn cứ này thể hiện tính liên quan và mối quan hệ nhân quả
giữa những thiếu sót hoặc vi phạm trong cơng tác quản lý đối với việc hình thành và
phát triển của tội phạm. Trường hợp các cơ quan, tổ chức hữu quan tuy có thiếu sót,
vi phạm nhưng khơng liên quan đến nguyên nhân và điều kiện của tội phạm thì
khơng thuộc thẩm quyền của Tịa án. Ngồi ra, Tịa án cũng không tiến hành kiến
nghị đối với cơ quan, tổ chức khơng liên quan đến vụ án hình sự đang được xét xử.
1.1.2.2. Về thủ tục
Mặc dù trong nội dung Bộ luật TTHS năm 2015 khơng có điều luật nào quy
định trực tiếp đối với thủ tục kiến nghị sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong cơng tác
9
quản lý nhưng tại Điều 264 đã chỉ rõ thời điểm phát hành, nội dung, đối tượng tiếp
nhận, hình thức công bố và cách thức phản hồi đối với kiến nghị.
Thời điểm Tòa án phát hành bản kiến nghị là cùng thời điểm với việc ra bản
án. Nội dung của kiến nghị được lập thành văn bản riêng và phải ghi nhận cụ thể biện
pháp cần áp dụng để khắc phục nguyên nhân và điều kiện của tội phạm; đối tượng
tiếp nhận kiến nghị là cơ quan, tổ chức hữu quan đối với vụ án đang được xét xử.
Tùy theo trường hợp, Tịa án có thể đọc kiến nghị tại phiên tòa hoặc gửi riêng
cho cơ quan, tổ chức hữu quan. Bởi vì, kiến nghị của Tịa án có thể ảnh hưởng đến
uy tín hoặc liên quan đến bí mật cơng tác, bí mật Nhà nước, bí mật kinh doanh...
của cơ quan, tổ chức được kiến nghị nên nội dung kiến nghị khắc phục nguyên
nhân, điều kiện phát sinh tội phạm có thể khơng được đọc tại phiên tịa mà gửi riêng
cho từng trường hợp đối với những vụ án có liên quan đến an ninh quốc gia, bí mật
qn sự, bí mật cơng tác và trong kinh doanh… Đối với những trường hợp đại diện
cơ quan, tổ chức không có mặt tại phiên tịa thì Hội đồng xét xử quyết định gửi
riêng kiến nghị cho cơ quan, tổ chức đó mà khơng cần cơng bố cơng khai tại phiên
tịa. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp khơng ảnh hưởng đến bí mật quốc gia
hay bí mật trong cơng tác, kinh doanh… thì Tịa án đọc kiến nghị tại phiên tịa cũng
nhằm mục đích thực hiện cơng tác giáo dục, cảnh tỉnh, tuyên truyền cho các tổ
chức, cá nhân biết và có ý thức chấp hành pháp luật phịng ngừa tội phạm.
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày tiếp nhận (bằng cách đọc tại phiên tòa
hoặc gửi riêng), cơ quan, tổ chức nhận được kiến nghị phải phản hồi bằng văn bản
cho Tòa án biết về những biện pháp được áp dụng.
Như vậy, ngồi ý nghĩa góp phần phịng ngừa tội phạm tương tự xảy ra, bằng
hoạt động kiến nghị này, Tịa án góp phần nâng cao nhận thức của một bộ phận cán
bộ, đảng viên, nhân dân và cơ quan, tổ chức hữu quan về những thiếu sót, vi phạm
trong công tác quản lý của cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan. Qua việc kiến nghị đối
với cơ quan hữu quan, góp phần giáo dục cơng dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm
chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu
tranh phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác. Cùng với bản án, bản
kiến nghị đóng vai trị quan trọng đối với hiệu quả cơng tác xét xử vụ án hình sự theo
chức năng của Tòa án. Tuy nhiên, những quy định hiện hành của Bộ luật TTHS năm
2015 về căn cứ và thủ tục Tòa án kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan sửa chữa thiếu
sót, vi phạm trong cơng tác quản lý vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác xét
10
xử vụ án hình sự. Nhiều nội dung quy định chưa rõ dẫn đến việc áp dụng ở nhiều địa
phương, nhiều cấp xét xử thiếu nhất qn. Vì thế địi hỏi cần phải tiếp tục nghiên cứu
và bổ sung để dễ dàng áp dụng thống nhất trong thực tiễn.
1.2. Thực tiễn Tòa án áp dụng thủ tục kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu
quan sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong cơng tác quản
1.2.1. Tình hình Tịa án kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan sửa chữa thiếu
sót, vi phạm trong công tác quản lý
Trong thời gian qua, ở giai đoạn xét xử đã có những kiến nghị cơ quan, tổ
chức hữu quan sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý như sau (xem
bảng thống kê).
2015
2016
2017
2018
2019
Cấp xét xử
ST
PT
ST
PT
ST
PT
ST
PT
ST
PT
Số kiến nghị
101
16
77
33
98
27
50
23
54
40
(Thống kê kết quả thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp
của ngành kiểm sát nhân dân các năm 2015, 2016, 2017, 2018, 2019)
Những vụ án, đặc biệt là các vụ án kinh tế, tham nhũng, xâm phạm trật tự
quản lý hành chính đều ít nhiều có ngun nhân, điều kiện từ cơng tác quản lý.
Những thiếu sót này có thể được lặp đi, lặp lại cần được sửa chữa khắc phục. Thực
tiễn các cơ quan THTT vẫn có những kiến nghị để sửa chữa. Tuy nhiên, qua số liệu
trên so với tổng số vụ án hình sự được đưa ra xét xử mỗi năm, cho thấy số kiến nghị
của Tòa án rất thấp, phần lớn các kiến nghị được VKS thực hiện trước khi đưa ra
xét xử sơ thẩm. Ngoài ra, vẫn cịn tình trạng các cơ quan THTT nói chung, Tịa án
nói riêng chưa quan tâm thực hiện quyền kiến nghi các cơ quan, tổ chức hữu quan
khắc phục, sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong cơng tác quản lý.
1.2.2. Những hạn chế trong việc áp dụng căn cứ và thủ tục kiến nghị của Tịa
án nhằm sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý và nguyên nhân
Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành cũng như thực tiễn thi hành
quy định của pháp luật tố tụng hình sự về việc Tịa án ra kiến nghị cơ quan, tổ chức
11
hữu quan áp dụng biện pháp cần thiết để khắc phục nguyên nhân và điều kiện phát
sinh tội phạm tại các cơ quan, tổ chức hữu quan vẫn còn bộc lộ một số điểm bất cập,
hạn chế, đó là:
Thứ nhất, có căn cứ nhưng cơ quan có thẩm quyền tố tụng hình sự khơng
kiến nghị, kể cả Tịa án cũng không kiến nghị các cơ quan, tổ chức hữu quan áp
dụng biện pháp cần thiết để khắc phục nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm
tại các cơ quan, tổ chức đó.
Trong thực tiễn, các bản án hình sự của Tịa án đã tun đa phần là khơng có
kiến nghị đối với các cơ quan, tổ chức hữu quan để có biện pháp áp dụng việc khắc
phục nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm.
Ví dụ: Bản án số: 44/2018/HS-ST ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh
Đồng Tháp.
Ngày 26 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp, xét
xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 34/2018/TLST-HS ngày 01 tháng 11
năm 2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2018/QĐXXST-HS ngày 05
tháng 11 năm 2018 và quyết định hỗn phiên tịa số 61/QĐ-HS ngày 16 tháng 11
năm 2018 đối với bị cáo Nguyễn Phước Lợi sinh ngày 22/6/1983, tại tỉnh Đồng
Tháp, nơi đăng ký hộ khẩu thường trú ấp Mỹ Tây 3, xã Mỹ Quí, huyện Tháp Mười,
tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: nhân viên Phòng giao dịch khu vực I tháp Mười.
Nội dung vụ án: Phòng giao dịch khu vực I Tháp Mười (gọi tắt là Phịng Giao
dịch) thuộc Ngân hàng Nơng nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) Chi nhánh huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp là đơn vị sở hữu vốn 100%; Phịng
giao dịch do ơng Võ Hồng Diệu là Phó Giám đốc phụ trách, bà Nguyễn Thị Hạnh
Dung Tổ trưởng Tổ kế tốn ngân quỹ.
Nguyễn Phước Lợi được phân cơng làm nhiệm vụ thủ quỹ Phòng giao dịch
thuộc Ngân hàng Nông nghiệp huyện Tháp Mười, đồng thời là thành viên Ban
quản lý kho quỹ, nhiệm vụ chính được phân cơng cất giữ, bảo quản tiền mặt tại
Phòng giao dịch.
Vào trước và sau mỗi buổi làm việc ông Diệu, bà Dung mở khóa kho ngồi
để Lợi vào kho trong mở cửa kho mang tiền, giấy tờ ra khu vực giao dịch để làm
việc và khóa kho lại. Cuối buổi thì ngược lại ơng Diệu, bà Dung mở khóa kho
ngồi, kiểm kê đối chiếu thu chi tiền mặt đúng đủ, kiểm soát việc Lợi bỏ tiền vào
12
kho trong và khóa lại (nếu số tiền trên 500 triệu đồng thì lãnh đạo Phịng Giao dịch
báo cáo lãnh đạo ngân hàng nông nghiệp điều phương tiện chuyển tiền).
Ngày 18/5/2018, ơng Võ Hồng Diệu, Phó Giám đốc - do học tập trung lớp
trung cấp lý luận chính trị nên ủy quyền lại cho ơng Võ Hồng Phi Long để điều
hành Phịng Giao dịch.
Q trình điều tra bị cáo Lợi khai nhận: khoảng trước tháng 6/2017, Lợi bắt
đầu tham gia đánh bạc dưới hình thức cá độ bóng đá qua mạng internet trên
SBOBET. Lợi bị thua nợ số tiền khoảng 02 tỷ đồng nên nảy sinh ý định chiếm đoạt
tiền của Phịng giao dịch để thanh tốn nợ.
Cuối giờ làm việc buổi sáng ngày 18/6/2018, bị cáo Lợi thấy Phòng giao dịch
khơng thực hiện quy trình khơng kiểm tra số tiền tồn thực tế cuối giờ giao dịch buổi
sáng, trong khi số tiền mặt thu được từ các hoạt động nhiều, tổng cộng khoảng
3.846.380.068 đồng, có mệnh giá lớn dễ cất giấu nên quyết định chiếm đoạt để sử
dụng cá nhân.
Khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày, Lợi lấy 3.300.000.000 đồng bỏ vào hai
bọc nolon màu đen cất giấu vào tủ chứa chứng từ kế toán, lấy 3.300.000 đồng bỏ
vào túi quần của Lợi đang mặc trên người, số tiền cịn lại 543.080.068 đồng, Lợi bỏ
vào kho quỹ, khóa cửa kho theo quy định, Lợi thay áo cùng mọi người ăn cơm tại
nhà ăn Phòng giao dịch, tranh thủ ăn trước để vào mở cửa sắt mở tủ chứng từ kế
toán lấy hai bọc chứa số tiền 3.300.000.000 đồng, lợi dụng lúc mọi người nghỉ trưa,
Lợi lấy lấy hai bọc màu đen chứa 3.300.000.000 đồng để lên xe và điều khiển xe ra
khỏi Phòng giao dịch bỏ trốn. Đến 16 giờ 50, ngày 18/6/2018, ơng Võ Hồng Phi
Long trình báo sự việc cho cơ quan Công an xác minh làm rõ. Tồn bộ q trình
thực hiện hành vi chiếm đoạt tiền của Lợi tại Phòng giao dịch được camera an ninh
của ngân hàng ghi lại, trích xuất giao nộp cho cơ quan điều tra.
Đến ngày 22/6/2018, Nguyễn Phước Lợi ra đầu thú, thu giữ số tiền
1.900.000.000 Ngày 23/6/2018, Trần Anh Thư (vợ bị cáo Lợi) đã nộp số tiền
1.353.000.000 đồng vào Ngân hàng Nông nghiệp Tháp Mười bồi thường thay cho
bị cáo Lợi. Như vậy, số tiền 3.303.300.000 đồng bị cáo Lợi đã chiếm đoạt của Ngân
hàng Agribank Việt Nam đã được bồi thường xong.
Tại phiên tòa, Nguyễn Phước Lợi đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình là
lợi dụng nhiệm vụ được giao để thực hiện hành vi chiếm đoạt số tiền 3.303.300.000
13
đồng do bị cáo trực tiếp quản lý rồi bỏ trốn. Số tiền chiếm đoạt được, bị cáo sử dụng
trả nợ thua độ bóng đá và tiêu xài cá nhân. Bản án chỉ tuyên hình phạt đối với bị cáo
mà khơng có kiến nghị gì để khắc phục thiếu sót, vi phạm trong cơng tác quản lý của
Phịng giao dịch. Rõ ràng vụ việc có căn cứ về những thiếu sót, vi phạm trong cơng
tác quản lý dẫn đến tội phạm nhưng các cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ án,
trong đó có Tịa án chưa quan tâm thực hiện nhiệm vụ kiến nghị khắc phục để phòng
ngừa tội phạm. Nguyên nhân để xảy ra tội phạm là do chủ quan, đơn giản trong công
tác quản lý của lãnh đạo, nhân viên Phòng giao dịch, của cán bộ ngân hàng, không
kiểm tra số tiền tồn thực tế theo quy định tại phòng giao dịch khu vực I Tháp Mười.
Từ những sơ hở này đã tạo điều kiện làm phát sinh tội phạm, nhưng Hội đồng xét xử
cũng như Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp khơng có kiến nghị, cũng khơng có văn
bản riêng gửi cho Ngân hàng Nơng nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam hoặc
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam Chi nhánh tỉnh Đồng
Tháp để có biện pháp khắc phục, sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong cơng tác quản lý
theo thẩm quyền được quy định tại Điều 264 Bộ luật TTHS năm 2015.
Thơng qua bản án cịn cho thấy bất cập là cho đến nay vẫn chưa có văn bản
hướng dẫn rõ ràng, chi tiết về trách nhiệm của Tòa án thực hiện kiến nghị khi vụ án
có căn cứ kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục
nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Đây là điều bất cập cần được sớm khắc phục
trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tịa án, góp phần
phịng ngừa, khắc phục ngun nhân và điều kiện phát sinh tội phạm tại các cơ
quan, tổ chức.
Thứ hai, Tịa án có kiến nghị nhưng nội dung kiến nghị sơ sài, không rõ;
kiến nghị chung trong bản án, khơng có văn bản kiến nghị riêng; thẩm quyền
khơng thống nhất là Chánh án Tịa án hay Hội đồng xét xử kiến nghị; Tịa án cũng
khơng quy định thời hạn (30 ngày) cho các cơ quan, tổ chức hữu quan khi nhận
được kiến nghị phải thông báo bằng văn bản cho Tòa án biết về những biện pháp
được áp dụng.
Đây cũng là điều bất cập trong quá trình Tịa án thực hiện thủ tục kiến nghị
cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng biện pháp cần thiết theo thẩm quyền để khắc
phục nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm theo Điều luật quy định.
Ví dụ: Bản án số 25/2018/HS/ST ngày 04/4/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh
An Giang.
14
Từ ngày 15/3/2018 - ngày 04/4/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh An
Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 02/2018/HSST ngày
06/02/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2018/QĐXXST-HS ngày
26/02/2018 đối với các bị cáo: Phạm Thanh Dũng, sinh năm 1969, nơi cư trú: Ấp
An Khánh, xã Khánh An, huyện An Phú, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: Giám đốc
Công ty Tân Thành Lợi và đồng phạm (26 bị cáo khác có liên quan trong vụ án).
Theo nội dung vụ án: ngày 19/11/2013, Tổng cục thuế - Bộ Tài chính có
Cơng văn số 3919/TCT-TTr về việc chuyển hồ sơ thanh tra thuế cho Tổng cục An
ninh II, Bộ Công an (Nay là Tổng cục An ninh). Theo đó, qua công tác thanh tra
việc chấp hành pháp luật thuế tại Công ty TNHH Tân Thành Lợi (Công ty Tân
Thành Lợi), địa chỉ: ấp An Khánh, xã Khánh An, huyện An Phú, tỉnh An Giang do
Phạm Thanh Dũng làm giám đốc, đại diện theo pháp luật có hành vi vi phạm về
nguồn tiền thanh toán qua tài khoản vãng lai của người nước ngoài mở tại Ngân
hàng thương mại Việt Nam không hợp pháp, vừa liên quan đến việc chiếm đoạt tiền
hoàn thuế giá trị gia tăng (GTGT), vừa liên quan đến vấn đề an ninh tiền tệ tại các
khu vực biên giới.
Kết quả điều tra, đã xác định được: Phạm Thanh Dũng thành lập và sử dụng
pháp nhân của Công ty Tân Thành Lợi, Công ty TNHH MTV Tân Thành Lợi An
Phú (Công ty Tân Thành Lợi An Phú) và Công ty TNHH MTV TM Tân Lợi Kim
(Công ty Tân Lợi Kim), liên hệ, thỏa thuận mua các hóa đơn GTGT khống đầu vào
của nhiều công ty, doanh nghiệp trong nước. Sau đó, Phạm Thanh Dũng và đồng
phạm móc nối, liên hệ với một số lãnh đạo, cán bộ Hải quan cửa khẩu Khánh Bình,
Bắc Đai và Cục thuế tỉnh An Giang, Chi cục thuế huyện An Phú, tỉnh An Giang,
nhằm tạo dựng hồ sơ xuất khẩu có số lượng hàng khống, làm thủ tục hoàn thuế
GTGT, chiếm đoạt một số lượng lớn tiền ngân sách Nhà nước.
Nhận định của Tịa án: với các tình tiết của vụ án đã được chứng minh tại
phiên tịa có đủ cơ sở để kết luận Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân tối cao truy tố
là có căn cứ, đúng pháp luật. Đây là vụ án đặc biệt nghiêm trọng, hành vi phạm tội
của các bị cáo đã xâm phạm đến hoạt động quản lý hàng hóa xuất nhập khẩu của
Nhà nước và ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh hợp pháp, sức cạnh tranh của các
doanh nghiệp trong nước. Các bị cáo đã lợi dụng chính sách ưu đãi của Nhà nước
đối với doanh nghiệp trong việc hoàn thuế GTGT, dùng thủ đoạn gian dối lập các
hợp đồng mua hóa đơn đầu vào “khống”, thực hiện các hợp đồng xuất khẩu để
15
chiếm đoạt tiền ngân sách Nhà nước. Xét về vai trò đồng phạm và trách nhiệm của
từng bị cáo trong vụ án này, nhận thấy đây là vụ án đồng phạm, có nhiều bị cáo
tham gia, có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau, các bị cáo có sự
phân hóa vai trị cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội.
Khi xét xử, kiến nghị của Hội đồng xét xử được ghi trong bản án và được
đọc cùng với bản án tại phiên tòa như sau: Hội đồng xét xử nhận thấy tại Chi cục
Hải quan cửa khẩu Bắc Đai đã xảy ra sai phạm trong suốt thời gian dài, gây hậu
quả đặc biệt nghiêm trọng không chỉ trong vụ án này mà còn một số sai phạm trong
các vụ án khác. Tuy nhiên, Lãnh đạo Cục Hải quan An Giang lại không phát hiện
xử lý kịp thời dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Do đó, đề nghị Lãnh đạo Cục
Hải quan tỉnh An Giang có biện pháp quản lý chặt chẽ hơn đối với các Chi cục Hải
quan thuộc địa phận do Cục quản lý để tránh những trường hợp sai phạm tương tự
xảy ra trong thời gian tới.
Như vậy, Hội đồng xét xử nhận thấy Cục thuế tỉnh An Giang đã không kịp
thời ban hành văn bản hướng dẫn nghiệp vụ dẫn đến thiếu sót trong q trình kiểm
tra sau hồn thuế tại các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa qua Campuchia, gây hậu
quả đặc biệt nghiêm trọng, thất thoát số tiền thuế hoàn thuế GTGT đặc biệt lớn, lãnh
đạo Cục thuế tỉnh An Giang lại không phát hiện xử lý kịp thời. Do đó, đề nghị Lãnh
đạo Cục thuế tỉnh An Giang có biện pháp quản lý và sâu sát hơn trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ để tránh những sai phạm xảy ra. Điều cần quan tâm ở đây là nội
dung kiến nghị được ghi trong bản án và được đọc cùng với bản án tại phiên tòa.
Đây là vụ án đặc biệt nghiêm trọng, có tổ chức, liên quan đến nhiều tổ chức,
cá nhân là các công ty, doanh nghiệp, cán bộ, công chức ở ngành Thuế và Hải quan
đã phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tội "Mua bán trái phép hóa đơn thu nộp
ngân sách Nhà nước", tội "Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng". Hình
phạt (16 năm tù) rất nặng đối với người chủ mưu, nhưng việc kiến nghị của Tòa án
đối với cơ quan, tổ chức hữu quan trong bản án là chưa cụ thể, rõ ràng, cịn chung
chung, chưa mang tính răn đe, giáo dục, nhằm để phòng ngừa, khắc phục nguyên
nhân và điều kiện phát sinh phạm tội. Đồng thời, phần kiến nghị của Tịa án trong
bản án này cũng khơng quy định thời hạn (30 ngày) cho các cơ quan, tổ chức hữu
quan (Cục Thuế tỉnh và Cục Hải quan tỉnh An Giang) khi nhận được kiến nghị phải
thông báo bằng văn bản cho Tòa án biết về những biện pháp được áp dụng để phòng
ngừa, khắc phục nguyên nhân và điều kiện phát sinh phạm tội ở từng lĩnh vực. Hội
16
đồng xét xử cũng không nêu rõ những nguyên nhân, điều kiện nào từ phía cơ quan,
tổ chức được kiến nghị đã làm phát sinh hay thúc đẩy bị cáo phạm tội để khắc phục
nguyên nhân, điều kiện đó.
Mặt khác, những kiến nghị của Tòa án được ghi chung trong bản án, khơng
có văn bản kiến nghị riêng và được đọc cùng với bản án tại phiên xét xử của Tịa án.
Điều này có thể làm ảnh hưởng đến uy tín thương hiệu, hình ảnh trong hoạt động
kinh doanh của các cơng ty, doanh nghiệp có liên quan.
Thơng qua kiến nghị của Tòa án trong bản án nêu trên cho thấy, ngoài chức
năng2 xét xử, thực hiện quyền tư pháp, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân,… Tòa án còn phải là cơ quan tuyên truyền pháp luật đặc biệt của
Nhà nước, của chế độ đến từng tổ chức, cá nhân và người dân để hiểu, biết, chấp
hành, góp phần giáo dục cơng dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp
hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh
phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác.
Thứ ba, thực tiễn không thống nhất trường hợp nào Hội đồng xét xử đọc kiến
nghị cùng bản án, trường hợp nào gửi riêng cho cơ quan, tổ chức hữu quan; bao
lâu sau khi tuyên án thì gửi riêng kiến nghị cho cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng
biện pháp phòng ngừa tội phạm.
Đây cũng là điều khá phổ biến khi Hội đồng xét xử đọc bản án thì đọc ln
phần kiến nghị được ghi trong bản án. Bởi vì, Điều 264 Bộ luật TTHS khơng quy
định rõ trường hợp nào Hội đồng xét xử đọc kiến nghị cùng bản án, trường hợp nào
gửi riêng cho cơ quan, tổ chức hữu quan, việc này ít nhiều sẽ ảnh hưởng đến uy tín,
thương hiệu đối với các tổ chức, cơng ty, doanh nghiệp trong q trình kinh doanh
và cũng là điều bất cập trong quá trình áp dụng pháp luật của Tịa án khi có kiến
nghị đối với các cơ quan, tổ chức hữu quan.
Ví dụ: Bản án số 34/2020/HS-ST ngày 30/9/ 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh
An Giang.
Ngày 30 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử
sơ thẩm cơng khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 30/2020/TLST-HS ngày 19
tháng 08 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/QĐXXST-HS ngày
Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, quy định: Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án
nhân dân.
2
17
16 tháng 09 năm 2020, đối với bị cáo: Nguyễn Văn Phước; sinh năm: 1972 tại
huyện Phú Tân, tỉnh An Giang; nơi cư trú: Tổ 3, ấp Phú Cường B, xã Phú Thạnh,
huyện Phú Tân, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: Nguyên Cửa hàng trưởng Cửa hàng
xăng dầu Châu Đốc.
Nội dung vụ án:
Công ty xăng dầu An Giang là doanh nghiệp Nhà nước thuộc Tập đồn xăng
dầu Việt Nam, có trụ sở chính tại phường Mỹ Phước, thành phố Long Xuyên, tỉnh
An Giang. Ngày 27/3/2009, Công ty xăng dầu An Giang thành lập Cửa hàng xăng
dầu Châu Đốc theo Quyết định số 174/XDAG-QĐ. Theo đó, Nguyễn Văn Phước là
người đứng đầu chi nhánh được Công ty xăng dầu An Giang bổ nhiệm làm Cửa
hàng trưởng CHXD Châu Đốc, có trách nhiệm quản lý, điều hành trực tiếp, toàn
diện các mặt hoạt động (lao động, tiền, hàng hóa, tài sản) và chịu trách nhiệm trước
Giám đốc Công ty xăng dầu An Giang về mọi hoạt động của Cửa hàng; theo dõi,
quản lý việc bán hàng, phân công người lao động tại Cửa hàng phụ trách ca bán
hàng, khi kết thúc ca phải bàn giao tiền thu bán hàng cho Phước quản lý và trong
ngày Phước phải chuyển tiền thu bán hàng (sau khi đã trừ các chi phí sinh hoạt) vào
tài khoản của Công ty mở tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gịn Thương tín
Chi nhánh An Giang. Ngồi ra, Phước phải báo cáo việc bán hàng hóa gửi về Cơng
ty 05 ngày/lần, xuất hóa đơn bán hàng cho người mua và hàng tháng phải báo cáo
quyết toán cân đối tiền hàng, công nợ, hao hụt xăng dầu,… về Công ty để đối chiếu
kiểm tra theo quy định.
Trong thời gian quản lý CHXD Châu Đốc, Phước lợi dụng chức vụ, quyền
hạn được giao, đã giữ lại tiền thu bán hàng được trong ngày, mỗi lần từ 20.000.000
đến 50.000.000 đồng tiêu xài cá nhân, không nộp về Công ty. Để tránh bị phát hiện,
Phước báo cáo số liệu kinh doanh, báo cáo công nợ phải thu của khách hàng cao
hơn so với thực tế gồm: Công ty TNHH Huệ Nghĩa mua xăng dầu tại Cửa hàng còn
nợ 711.504.000 đồng nhưng Phước báo nợ 884.199.500 đồng; Ban phát triển quỹ
đất Châu Đốc và Ban chỉ đạo phân giới cắm mốc An Giang không phát sinh nợ
nhưng lần lượt báo nợ là 35.688.750 đồng; 21.018.750 đồng; đồng thời hàng ngày
Phước chuyển tiền vào tài khoản của Cơng ty ít hơn doanh thu bán hàng được trong
ngày và báo cáo quỹ tiền mặt còn tồn ở Cửa hàng. Với cách thức trên, từ ngày
01/01/2013 đến đầu tháng 3/2013, Phước đã chiếm đoạt với số tiền 1.693.433.376
đồng của Công ty xăng dầu An Giang đem sang Campuchia đánh bạc thua hết.
18
Theo Phước khai, trong số tiền trên có 99.000.000 đồng do Lê Văn Ngọt (nhân viên
của Cửa hàng) lấy tiền trong ca sử dụng vào việc riêng, Phước đã vay tiền bên ngồi
trả lại cho Cơng ty, sau đó gia đình của Ngọt đã trả lại cho Phước 15.000.000 đồng.
Ngày 05/3/2013, Công ty xăng dầu An Giang kiểm tra đột xuất việc nhập, xuất
bán xăng, dầu, nhớt các loại và nộp tiền tại CHXD Châu Đốc, phát hiện Phước chiếm
đoạt tiền số tiền 1.693.433.376 đồng của Công ty nên đã ra Quyết định số
200/PLXAG-QĐ ngày 04/4/2013 về việc tạm đình chỉ cơng việc đối với Nguyễn Văn
Phước và có văn bản kiến nghị khởi tố. Sau đó, Phước bỏ trốn sang Campuchia, đến
ngày 29/12/2019 bị bắt theo Quyết định truy nã để điều tra, xử lý.
Căn cứ biên bản đối chiếu ngày 06/3/2013 của Cơ quan Cảnh sát điều tra
Công an tỉnh An Giang về việc nhập, xuất, nộp tiền xăng, dầu, nhớt các loại (từ
ngày 01/01/2013 đến ngày 06/3/2013) giữa CHXD Châu Đốc với Công ty xăng dầu
An Giang, xác định số tiền Nguyễn Văn Phước chiếm đoạt của Công ty là
1.693.433.376 đồng.
Tại Cáo trạng số 41/CT-VKSAG-P1 ngày 17/08/2020 của Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh An Giang đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn Phước về tội “Tham ô tài
sản” theo điểm a khoản 4 Điều 353 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ
sung năm 2017.
Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như nội dung
Cáo trạng truy tố. Bản thân bị cáo cũng thừa nhận sử dụng tiền chiếm đoạt vào mục
đích sang Campuchia đánh bạc. Hiện nay hồn cảnh khó khăn khơng có khả năng
khắc phục hậu quả, bị cáo đề nghị Công ty xem xét bán cổ phần và thanh tốn tiền
lương cịn lại, tiền bảo hiểm xã hội để khắc phục một phần thiệt hại cho cơng ty và
xin giảm nhẹ hình phạt.
Về kiến nghị sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong cơng tác quản lý và các vấn
đề khác trong bản án chỉ vỏn vẹn nội dung yêu cầu: Kiến nghị Lãnh đạo Công ty
xăng dầu An Giang phải khắc những sơ hở, thiếu sót trong công tác quản lý, điều
hành, công tác kiểm tra, giám sát, quản lý tài sản nói chung và quản lý tài chính nói
riêng, để tránh những vụ việc tương tự có thể xảy ra trong tương lai. Những nội
dung khác liên quan đến kiến nghị như thời hạn thông báo việc áp dụng các biện
pháp khắc phục, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức hữu quan trong việc thực hiện
nội dung kiến nghị chưa thể hiện rõ.
19
1.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng căn cứ và thủ tục kiến nghị
của Tòa án đối với cơ quan, tổ chức hữu quan về việc sửa chữa thiếu sót, vi
phạm trong cơng tác quản lý
1.3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và hướng dẫn áp dụng pháp luật về
căn cứ, thủ tục kiến nghị Tòa án nhằm sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong cơng tác
quản lý
Từ những bất cập, khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn khi áp dụng Điều
264 Bộ Luật TTHS năm 2015 về thủ tục kiến nghị sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong
cơng tác quản lý của Tịa án như đã nêu trên, tác giả xin kiến nghị, đề xuất bổ sung
hoàn thiện pháp luật như sau:
Thứ nhất, hướng dẫn áp dụng thống nhất căn cứ ban hành kiến nghị.
Tất nhiên không phải hễ có bất kỳ thiếu sót, vi phạm lớn nhỏ trong công tác
quản lý của các cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án đều phải ban hành kiến nghị
khắc phục. Theo đó, cần thống nhất căn cứ ban hành kiến nghị là những thiếu sót, vi
phạm trong cơng tác quản lý đến mức đã gây ra và sẽ gây ra tội phạm mà Tòa án
đang giải quyết. Nếu tồn tại thiếu sót, vi phạm trong cơng tác quản lý ở mức độ này
thì bắt buộc Tịa án phải kiến nghị nếu trước đó chưa được khắc phục, chưa được
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát kiến nghị.
Thứ hai, về thủ tục kiến nghị các cơ quan, tổ chức hữu quan khắc phục thiếu
sót, vi phạm trong cơng tác quản lý.
- Về thẩm quyền nên giao quyền cho Hội đồng xét xử; nhưng đối với việc cơ
quan, tổ chức hữu quan trả lời bằng văn bản về biện pháp thực hiện các kiến nghị
của Hội đồng xét xử thì gửi cho Tịa án, vì Hội đồng xét xử đã giải tán sau khi xử
xong. Theo đó, để đồng bộ, nên sửa đổi Điều 45 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định
rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán khi được phân công giải
quyết, xét xử vụ án hình sự. Trong đó, bổ sung thẩm quyền Thẩm phán chủ tọa
phiên tòa là được quyền ký các văn bản kiến nghị đối với cơ quan, tổ chức hữu quan
áp dụng các biện pháp khắc phục thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý làm phát
sinh tội phạm trên cơ sở ý kiến đã được HĐXX thảo luận.
- Thời điểm kiến nghị nên là kết thúc việc xét xử và được thảo luận tại phòng
nghị án. Nội dung kiến nghị như một phần thực hiện chức năng xét xử, tiến hành
cùng với việc xét xử.