Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Hỏi cung bị can của điều tra viên theo luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (13.18 MB, 85 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

PHÙNG QUỐC KHỞI

HỎI CUNG BỊ CAN CỦA ĐIỀU TRA VIÊN
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

HỎI CUNG BỊ CAN CỦA ĐIỀU TRA VIÊN
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chun ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Định hướng ứng dụng
Mã số: 8380104

Người hướng dẫn khoa học : TS. Lê Nguyên Thanh
Học viên
: Phùng Quốc Khởi
Lớp
: Cao học Luật, An Giang khóa 2

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong Luận văn thạc sĩ Luật
học “Hỏi cung bị can của điều tra viên theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” là
hồn tồn trung thực và không trùng với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực. Các
thơng tin, tài liệu trình bày trong Luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc.
Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân dưới sự hướng dẫn khoa
học của TS. Lê Ngun Thanh.
Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về lời cam kết.
Tác giả

Phùng Quốc Khởi


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TỪ VIẾT TẮT

VIẾT ĐẦY ĐỦ

1

BLHS

Bộ luật Hình sự

2

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự


3

CQANĐT

Cơ quan An ninh điều tra

4

CQCSĐT

Cơ quan Cảnh sát điều tra

5

CQĐT

Cơ quan Điều tra

6

ĐTV

Điều tra viên

7

KSV

Kiểm sát viên


8

NBC

Người bào chữa

9

TTHS

Tố tụng hình sự

STT


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. HỎI CUNG BỊ CAN CỦA ĐIỀU TRA VIÊN CĨ GHI ÂM
HOẶC GHI HÌNH CĨ ÂM THANH ......................................................................6
1.1. Nhận thức khái quát và quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam về hỏi cung bị can của Điều tra viên có ghi âm hoặc ghi hình có âm
thanh ......................................................................................................................6
1.1.1. Nhận thức khái qt về hỏi cung bị can của Điếu tra viên có ghi âm
hoặc ghi hình có âm thanh .................................................................................6
1.1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về hỏi cung bị can của Điều tra
viên có ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh .........................................................7
1.2. Thực tiễn hỏi cung bị can của Điều tra viên có ghi âm hoặc ghi hình có
âm thanh ..............................................................................................................12
1.2.1. Khái qt tình hình hỏi cung bị can của Điều tra viên có ghi âm hoặc

ghi hình có âm thanh và những hạn chế, vướng mắc.......................................12
1.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn hỏi cung bị
can của Điều tra viên có ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh...........................19
1.3. Giải pháp bảo đảm hỏi cung bị can của Điều tra viên có ghi âm hoặc ghi
hình có âm thanh.................................................................................................21
1.3.1. Giải pháp hướng dẫn áp dụng pháp luật ...............................................21
1.3.2. Các giải pháp khác bảo đảm tổ chức hỏi cung bị can của Điều tra viên
có ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh ..............................................................23
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................25
CHƯƠNG 2. HỎI CUNG BỊ CAN CỦA ĐIỀU TRA VIÊN VỚI SỰ CÓ MẶT
CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA ....................................................................................26
2.1. Nhận thức khái quát và pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về hỏi cung
bị can của điều tra viên với sự có mặt của người bào chữa ............................26
2.1.1. Nhận thức khái quát về hỏi cung bị can của điều tra viên với sự có mặt
của người bào chữa ..........................................................................................26
2.1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về hỏi cung bị can của Điều tra
viên với sự có mặt của người bào chữa............................................................28
2.2. Thực tiễn hỏi cung bị can của Điều tra viên với sự có mặt người bào
chữa ......................................................................................................................33


2.2.1. Khái quát tình hình hỏi cung bị can của Điều tra viên với sự có mặt của
người bào chữa và những hạn chế, vướng mắc ...............................................33
2.2.2. Nguyên nhân của hạn chế, vướng mắc trong hỏi cung bị can của Điều
tra viên với sự có mặt người bào chữa .............................................................42
2.3. Các biện pháp bảo đảm hỏi cung bị can của điều tra viên với sự có mặt
của người bào chữa .............................................................................................45
2.3.1. Biện pháp hướng dẫn áp dụng pháp luật ...............................................45
2.3.2. Biện pháp khác để bảo đảm hỏi cung bị can của Điều tra viên với sự có
mặt của người bào chữa ...................................................................................46

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................48
KẾT LUẬN ..............................................................................................................49
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong cơng cuộc xây dựng Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định cải cách tư pháp là mục tiêu, vừa là động
lực, vừa là nhiệm vụ để xây dựng Nhà nước pháp quyền, trong những nhiệm vụ đó
cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm chiếm vị trí trọng yếu, từng bước được
khẳng định trong đời sống xã hội, đặc biệt là sự đóng góp của lượng lực Cơng an
Nhân dân nói chung và hoạt động của Điều tra viên đã góp phần giữ vững được sự
ổn định tình hình an ninh - chính trị, trật tự an tồn xã hội, tạo môi trường an ninh
ổn định, thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế, bảo vệ cuộc sống
bình yên của nhân dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Hiến pháp năm 2013, đã ghi nhận rất nhiều quyền của con người, của công
dân, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, khơng bị tra tấn, bức
cung nhục hình hay bất cứ một hình thức đối xử nào khác xâm phạm đến thân thể,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm nhằm bảo đảm quyền con người, quyền cơng dân.
Để phát hiện chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội,
phịng ngừa, ngăn chặn tội phạm, khơng để lọt tội phạm, khơng làm oan người vơ
tội, góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, hạn chế
hiện tượng bức cung, nhục hình, pháp luật tố tụng hình sự quy định khi Điều tra
viên tiến hành hỏi cung bị can tại cơ sở giam giữ hoặc tại Cơ quan điều tra phải
được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh, đồng thời cũng quy định hỏi cung bị can
của Điều tra viên với sự có mặt của người bào chữa tham gia nhằm giúp làm sáng tỏ

những tình tiết liên quan đến sự thật của vụ án, chứng cứ được thu thập từ hỏi cung
bị can của Điều tra viên có tính xác thực, khách quan.
Những quy định của pháp luật về hỏi cung bị can của Điều tra viên có ghi âm
hoặc ghi hình có âm thanh cịn hạn chế, bất cặp; Điều tra viên còn trường hợp chưa
thực hiện đầy đủ về quyền của Người bào chữa được hỏi khi tham gia hỏi cung bị
can; Biên bản hỏi cung bị can không ghi nội dung câu hỏi của người bào chữa và
câu trả lời của bị can.
Chính vì vậy, Việc lựa chọn nghiên cứu đề tài “Hỏi cung bị can của Điều tra
viên theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
Thông qua nghiên cứu đề tài làm rõ quy định của pháp luật về vấn đề này, từ đó có


2
nhận thức và áp dụng pháp luật thống nhất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoàn thiện
các quy định của pháp luật về tố tụng hình sự cho phù hợp u cầu của cơng tác đấu
tranh, phịng chống tội phạm mà thực tiễn đặt ra.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua khảo sát thì chủ đề về “hỏi cung bị can của Điều tra viên theo TTHS
Việt Nam” đã được nhiều nhà nghiên cứu bàn luận. Trước hết là công trình nghiên
cứu dưới dạng tài liệu khoa học cơ bản như Giáo trình, Bình luận khoa học về
TTHS và khoa học điều tra hình sự. Những tài liệu này, cung cấp những kiến thức
lý luận cơ bản về TTHS và khoa học điều tra hình sự, trong đó có hỏi cung bị can:
- Nhóm tài liệu khoa học pháp lý cơ bản như sách, giáo trình:
Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự, Nhà
xuất bản Công an nhân dân.
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình Luật Tố tụng hình
sự Việt Nam, Võ Thị Kim Oanh chủ biên, Nhà xuất bản Hồng Đức.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2001), Giáo trình khoa học điều tra hình sự,
Nhà xuất bản Cơng an nhân dân.
Nguyễn Ngọc Anh và Phan Trung Hoài (năm 2018), Bình luận khoa học Bộ

luật Tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia sự thật.
Các Giáo trình và sách Bình luận khoa học về TTHS trên đã giới thiệu, phân
tích cơ bản các quy định của BLTTHS, trong đó có nhiều nội dung liên quan đến
hỏi cung bị can
Ngoài ra, nội dung các tài liệu này còn tập trung phân tích những điểm mới
của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 so với Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
Đây là nguồn tài liệu, tham khảo quý giá, có giá trị cho tác giả khi thực hiện Luận
văn để nghiên cứu thêm những vấn đề về lý luận cũng như thực tiễn “Hỏi cung bị
can của Điều tra viên theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam”
- Nhóm tài liệu khoa học và một số bài viết chuyên sâu gồm các tập chí, Luận
văn Thạc sỹ được cơng bố liên quan đến đề tài:
- Bài viết về ghi nhận ý kiến PGS.TS Nguyễn Thái Phúc ghi âm, ghi hình khi
hỏi cung sẽ hạn chế bức cung, nhục hình đăng trên chuyên mục pháp luật Báo tiếng
nói Việt Nam ( ngày 16/12/2015).
- Các luận văn Thạc sỹ luật học


3
- Võ Minh Đạt (2018) “Hỏi cung bị can theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam”,
Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Thành Lợi (2018) “Hỏi cung bị can theo Luật tố tụng hình sự Việt
Nam”, Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh;
- Phạm Văn Phúc (2019) “Hỏi cung bị can là người dưới 18 tuổi theo Luật tố
tụng hình sự Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
Các cơng trình nghiên cứu về những vấn đề lý luận chung có liên quan đến
hỏi cung bị can và phân tích đánh giá việc áp dụng các quy định của pháp luật tố
tụng hình sự hiện hành. Tuy nhiên, các cơng trình này ở những mức độ khác nhau
đề cập đến quy định của pháp luật hỏi cung bị can chủ thể có thẩm quyền hỏi cung,
trình tự thủ tục hỏi cung.

Để phân tích các bất cập, hạn chế liên quan đến nhận thức, pháp lý và thực
tiễn hỏi cung bị can, phổ biến nhất là hỏi cung bị can do Điều tra viên tiến hành, từ
đó đưa ra đề xuất về giải pháp bảo đảm hỏi cung bị can trong tố tụng hình sự, tác
giả chọn đề tài “Hỏi cung bị can của Điều tra viên theo Luật Tố tụng hình sự Việt
Nam” này làm Luận văn thạc sỹ luật học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu một số quy định của pháp luật tố tụng hình sự về hỏi
cung bị can và thực tiễn áp dụng có liên quan đến trường hợp hỏi cung bị can của
Điều tra viên với sự có mặt của người bào chữa, từ đó kiến nghị các biện pháp nhằm
nâng cao hiệu quả hỏi cung bị can của Điều tra viên.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ một số vấn đề nhận thức khái quát về hỏi cung bị can của Điều tra
viên liên quan đến quy định ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh và hỏi cung bị can
với sự có người bào chữa.
- Phân tích đánh giá các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về hỏi cung bị
can của Điều tra viên liên quan đến quy định ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh và
hỏi cung bị can với sự có mặt của người bào chữa
- Đánh giá thực trạng hỏi cung bị can của Điều tra viên trong các vụ án hình sự
chủ yếu trên địa bàn tỉnh An Giang và tỉnh Đồng Tháp trong phạm vi nghiên cứu trên.
- Kiến nghị một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hỏi cung bị can bảo
đảm thủ tục ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh và hỏi cung bị can với sự có mặt của
người bào chữa.


4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đó là những vấn đề mang tính lý luận, pháp lý và thực tiễn về hỏi cung bị can
của Điều tra viên có ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh và hỏi cung bị can với sự có

mặt của người bào chữa theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Đề tài chỉ nghiên cứu về hỏi cung bị can của Điều tra viên được
ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh; hỏi cung bị can của Điều tra viên với sự có mặt
người bào chữa theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, các văn bản dưới luật.
Về địa bàn nghiên cứu, khảo sát: Địa bàn tỉnh An Giang và tỉnh Đồng Tháp.
Về thời gian nghiên cứu, khảo sát: Từ năm 2018 đến năm 2021.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận:
Đề tài nghiên cứu dựa trên phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về
bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết, gồm phương pháp phân tích, phương
pháp so sánh và phương pháp tổng hợp; Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
phương pháp nghiên cứu vụ án.
6. Những đóng góp mới của đề tài
Góp phần nâng cao nhận thức lý luận về hỏi cung bị can của người tiến hành
tố tụng, người tham gia tố tụng theo Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam.
Phát hiện những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế về hỏi
cung bị can Điều tra viên tại tỉnh An Giang và tỉnh Đồng Tháp.
Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả hỏi cung bị can của Điều tra viên.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
7.1. Ý nghĩa lý luận:
Kết quả nghiên cứu đề tài sẽ góp phần bổ sung lý luận về hỏi cung bị can của
Điều tra viên trong vụ án hình sự.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn:
Đề tài được sử dụng làm tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu tham khảo,
giảng dạy và học tập ở các trường đại học luật, tài liệu tham khảo tại thư viện
Trường Đại học luật Thành phố Hồ Chí Minh.



5
Đối với các giải pháp đề xuất trong đề tài này, cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong các vụ án hình sự có thể tham
khảo và vận dụng trong thực tiễn hoạt động hỏi cung bị can.
Cơ cấu luận văn
Ngoài phần Mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn được chia thành 2 chương, cụ thể như sau:
Chương 1. Hỏi cung bị can của Điều tra viên có ghi âm hoặc ghi hình có
âm thanh
Chương 2. Hỏi cung bị can của Điều tra viên với sự có mặt của người bào chữa


6
CHƯƠNG 1
HỎI CUNG BỊ CAN CỦA ĐIỀU TRA VIÊN
CÓ GHI ÂM HOẶC GHI HÌNH CĨ ÂM THANH
1.1. Nhận thức khái quát và quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam về hỏi cung bị can của Điều tra viên có ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh
1.1.1. Nhận thức khái quát về hỏi cung bị can của Điếu tra viên có ghi âm
hoặc ghi hình có âm thanh
Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, bị can là người hoặc
pháp nhân bị khởi tố về hình sự1. Hỏi cung bị can là biện pháp phát hiện, thu thập
chứng cứ trong tố tụng hình sự, do ĐTV tiến hành bằng cách đặt câu hỏi để bị can
trả lời và ghi nhận lại thông qua việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh trong biên
bản hỏi cung bị can2.
Hoạt động hỏi cung bị can của ĐTV có ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh là
việc CQĐT và ĐTV sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật để ghi lại âm thanh hoặc
hình ảnh có âm thanh trong q trình hỏi cung bị can;3 bằng phương tiện, thiết bị kỹ

thuật sử dụng để ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh, phương tiện, thiết bị ghi âm
thanh hoặc ghi hình có âm thanh gồm: Thiết bị thu hình ảnh, âm thanh, đầu ghi
hình, máy chủ, các phương tiện thiết bị kỹ thuật khác sử dụng để ghi âm hoặc ghi
hình có âm thanh theo quy định4.
Hỏi cung bị can có ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh trong hoạt động hỏi
cung bị can của ĐTV được tiến hành nơi có điều kiện ghi âm hoặc ghi hình có âm
thanh là bắt buộc tại cơ sở giam giữ hoặc tại trụ sở CQĐT, cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Việc quy định này, có ý nghĩa rất
quan trọng không chỉ bảo đảm quyền con người, quyền của bị can mà còn tăng
cường giám sát hoạt động TTHS, hoạt động hỏi cung bị can của ĐTV được thận
trọng hơn, khách quan, không lạm quyền của những người tiến hành tố tụng.
Hoạt động hỏi cung bị can của ĐTV có ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh là
hoạt động thu thập chứng cứ của vụ án, giúp các cơ quan tiến hành tố tụng chứng
minh hành vi phạm tội, xác định sự thật khách quan của vụ án. Hơn nữa, việc ghi
âm hoặc ghi hình có âm thanh là căn cứ để cho những người tiến hành tố tụng
Quy định tại điểm a khoản 2 Điều 60 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
Nguyễn Ngọc Anh, Phan Trung Hồi (2018), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, nhà xuất
bản Chính trị quốc gia sự thật
3
Quy định tại khoản 1 Điều 2 (Thông tư liên tịch số 03/2018)
4
Quy định tại khoản 2 Điều 2 (Thông tư liên tịch số 03/2018)
1
2


7
khơng bị ghi ngờ trong q trình hỏi cung, có bức cung, dùng nhục hình…Hỏi cung
bị can ở giai đoạn điều tra, thường thu thập được những thông tin ban đầu rất quan
trọng làm cơ sở mở rộng điều tra vụ án.

Với những cách tiếp cận vấn đề như trên, có thể hiểu: Hỏi cung bị can có ghi
âm hoặc ghi hình có âm thanh là thủ tục hỏi cung được quy định trong pháp luật
TTHS, theo đó việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh được thực hiện nhằm bảo
đảm tính khách quan, trung thực của hoạt động hỏi cung bị can, đồng thời phòng
ngừa hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình hỏi cung bị can.
1.1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về hỏi cung bị can của Điều tra
viên có ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh
Khoản 1 Điều 183 BLTTHS năm 2015 quy định “…việc hỏi cung bị can do
Điều tra viên tiến hành ngay sau khi có quyết định khởi tố bị can…”. Hỏi cung bị
can là một trong những nhiệm vụ của ĐTV trong giai đoạn điều tra, ngoài việc tuân
thủ các quy định của pháp luật TTHS trong q trình điều tra vụ án, ĐTV cịn có
kiến thức xã hội, am hiểu tâm lý tội phạm, có trình độ nghiệp vụ.
Để hoạt động hỏi cung bị can được khách quan, bảo đảm quyền lợi hợp pháp
của bị can, khoản 6 Điều 183 BLTTHS năm 2015 quy định: “Việc hỏi cung bị can
tại cơ sở giam giữ hoặc tại trụ sở Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra phải được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh. Việc
hỏi cung bị can tại địa điểm khác được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh theo u
cầu của bị can hoặc của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng”.
BLTTHS năm 2015 quy định các biện pháp bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp
của bị can, nhưng chưa quy định cụ thể về trình tự, thủ tục thực hiện ghi âm hoặc ghi
hình có âm thanh. Do đó, Thơng tư liên tịch số 03/2018/TTLT-BCA-VKSNDTCTANDTC-BQP ngày 01/02/2018 của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Quốc phòng hướng dẫn về trình tự, thủ tục thực hiện
ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh; Bảo quản, lưu trữ kết quả ghi âm hoặc ghi hình
có âm thanh trong q trình điều tra, truy tố, xét xử (Ghi tắt Thơng tư liên tịch số
03/2018) đã được ban hành và cụ thể hóa việc hỏi cung bị can có ghi âm hoặc ghi
hình có âm thanh.
Việc bảo đảm tơn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố
tụng được quy định trong BLTTHS năm 2015, khi tiến hành hỏi cung bị can có ghi
âm hoặc ghi hình có âm thanh, ĐTV phải bảo đảm quyền của bị can theo quy định
của pháp luật TTHS, như: tại điểm e khoản 2 Điều 60 BLTTHS năm 2015 quy định



8
bị can trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá. Tại điểm g khoản 2 Điều 60
BLTTHS năm 2015 quy định đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng. Tại điểm i khoản 2 Điều 60 BLTTHS năm 2015 quy định đọc, ghi chép bản
sao tài liệu hoặc tài liệu bị số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội. Tại điểm k
khoản 2 Điều 60 BLTTHS năm 2015 quy định khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng
của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Quá trình tiến hành hỏi cung bị can phải đảm bảo nguyên tắc tuyệt đối khách
quan, thận trọng, nguyên tắc pháp chế, ngun tắc đảm bảo tính tồn diện, đầy đủ,
bí mật thơng tin. Pháp luật cũng nghiêm cấm người có thẩm quyền sử dụng các hình
thức mớm cung, dụ cung, bức cung hoặc nhục hình, các hành vi này có thể dẫn tới
hậu quả xấu, bất lợi cho bị can.
Để cụ thể hóa những quy định của pháp luật TTHS, Thông tư liên tịch số
03/2018 đã quy định một cách chi tiết về trình tự, thủ tục thực hiện ghi âm hoặc ghi
hình có âm thanh việc hỏi cung bị can của ĐTV như:
Việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh phải bảo đảm tính khách quan, minh
bạch, nguyên vẹn của dữ liệu ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh. Dữ liệu ghi âm hoặc
ghi hình có âm thanh là một bộ phận của hồ sơ vụ án hình sự được sử dụng, bảo quản,
lưu trữ theo quy định của pháp luật về sử dụng, bảo quản và lưu trữ hồ sơ vụ án hình
sự5. Việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh; sử dụng, bảo quản, lưu trữ, kết quả ghi âm
hoặc ghi hình có âm thanh trong q trình điều tra phải tn thủ các quy định của
BLTTHS và theo đúng trình tự, thủ tục hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 03/2018.
Khi ĐTV tiến hành hoạt động hỏi cung bị can có ghi âm hoặc ghi hình có âm
thanh tại cơ sở giam giữ, trụ sở CQĐT phải là phòng chuyên dụng bảo đảm đủ điều
kiện về diện tích, ánh sáng, an toàn và được trang bị phương tiện, thiết bị kỹ thuật
sử dụng để ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh đạt chất lượng về âm thanh và hình
ảnh6. Đồng thời, phải có cán bộ chun mơn là cán bộ thuộc CQĐT có trình độ

chun mơn kỹ thuật và sử dụng thành thạo các phương tiện, thiết bị kỹ thuật ghi
âm hoặc ghi hình có âm thanh, có trách nhiệm trong việc quản lý hệ thống phương
tiện, thiết bị kỹ thuật sử dụng để ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh và bảo quản, lưu
trữ kết quả dữ liệu ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh7.
Quy định tại khoản 1 Điều 3 (Thông tư liên tịch số 03/2018).
Quy định tại khoản 4 Điều 2 (Thông tư liên tịch số 03/2018)
7
Quy định tại khoản 5 Điều 2 (Thông tư liên tịch số 03/2018)
5
6


9
Trường hợp hỏi cung bị can tại địa điểm khác thì ĐTV phải đăng ký với Bộ
phận phụ trách kỹ thuật để được hỗ trợ thực hiện các hoạt động ghi âm hoặc ghi
hình có âm thanh và bố trí cán bộ chuyên môn đi cùng; liên hệ với cơ quan, tổ chức
hữu quan để được bố trí phịng làm việc, đảm bảo điều kiện về âm thanh, ánh sáng,
không gian theo quy định. ĐTV phải phối hợp với cán bộ kỹ thuật khảo sát trước để
bố trí thiết bị, vị trí ngồi của người hỏi cung, bị can và những người khác. Trích
xuất hoặc triệu tập bị can, ĐTV làm thủ tục trích xuất bị can bị tạm giam hoặc triệu
tập bị can tại ngoại; không được đưa bị can tại ngoại vào hỏi cung ở cơ sở giam giữ,
trừ trường hợp đối chất với bị can đang bị tạm giam; thông báo cho bị can biết về
việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh, việc thơng báo phải ghi vào biên bản sau đó
tiến hành làm việc. Trường hợp khơng bố trí được thiết bị ghi âm hoặc ghi hình có
âm thanh thì khơng được tiến hành hỏi cung.
Quyết định lựa chọn hình thức ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh, thành phần
tham gia thực hiện việc ghi âm, ghi hình, đối tượng ghi âm ghi hình, việc bố trí chỗ
ngồi của ĐTV, bị can, KSV (nếu có), NBC (nếu có), cán bộ kỹ thuật theo quy định.
Việc chuẩn bị trang thiết bị phương tiện có đủ điều kiện ghi âm hoặc ghi hình có âm
thanh hay không?, kiểm tra hoạt động của Camera, micro và các điều kiện kỹ thuật

khác để đảm bảo việc thu nhận tín hiệu đạt hiệu quả tốt nhất.
Việc xây dựng kế hoạch hỏi cung bị can, trước khi tiến hành các hoạt động
hỏi cung bị can thì ĐTV được phân công điều tra vụ án phải xây dựng kế hoạch hỏi
cung có ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh, trình lãnh đạo có thẩm quyền phê duyệt,
nội dung kế hoạch phải đề xuất nêu rõ: địa điểm hỏi cung; thời gian hỏi cung; lựa
chọn hình thức ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh (cố định hoặc cơ động).
Thực hiện thông báo khi tiến hành hỏi cung bị can, ĐTV thông báo kế hoạch
hỏi cung cho KSV về việc hỏi cung bị can có ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh
theo Điều 183 BLTTHS năm 2015. Nếu vụ án có NBC thì thơng báo cho NBC biết
về việc tiến hành hỏi cung bị can, thông báo phải đầy đủ thông tin về thời gian bắt
đầu tiến hành hỏi cung bị can, địa điểm tiến hành hỏi cung bị can. Trường hợp NBC
tham gia buổi hỏi cung bị can thì hỗ trợ tạo điều kiện cho NBC thực hiện quyền bào
chữa theo quy định của pháp luật.
Về đăng ký địa điểm hỏi cung bị can, ĐTV đăng ký với cơ sở giam giữ hoặc
cơ quan có thẩm quyền điều tra để được bố trí phịng chun dụng, ĐTV phải đăng
ký với cán bộ chuyên môn kỹ thuật để được hướng dẫn về quy trình, thao tác kỹ
thuật thực hiện việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh và trực tiếp thực hiện các


10
thao tác. Cán bộ chun mơn có trách nhiệm hỗ trợ tại phòng máy hoặc bộ thiết bị
ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh cơ động.
Về trình tự bắt đầu, tạm dừng, kết thúc việc hỏi cung bị can có ghi âm hoặc
ghi hình có âm thanh thực hiện như sau: hoạt động hỏi cung bị can có ghi âm hoặc
ghi hình có âm thanh bắt đầu từ khi ĐTV nhấn nút bắt đầu, phải đọc thời gian bắt
đầu và ghi rõ trong biên bản. Trong quá trình hỏi cung có thể tạm dừng ghi âm hoặc
ghi hình có âm thanh bằng cách nhấn nút tạm dừng. Trước khi tạm dừng, ĐTV hỏi
cung phải đọc rõ thời gian tạm dừng, lý do tạm dừng, khi tiếp tục làm việc cũng
phải đọc rõ thời gian tiếp tục, quá trình này được ghi rỏ trong biên bản. Kết thúc
buổi làm việc, ĐTV hỏi cung thông báo cho bị can biết buổi hỏi cung kết thúc và

nhấn nút kết thúc, thời gian kết thúc ghi rõ trong biên bản.
Trường hợp đang hỏi cung bị can mà xảy ra sự cố kỹ thuật khơng ghi âm
hoặc ghi hình được thì dừng ngay buổi hỏi cung báo cho bị can biết, phải ghi rõ
trong biên bản lý do dừng, có xác nhận của cán bộ chuyên môn. Trường hợp bị can
đồng ý tiếp tục làm việc thì vẫn tiến hành hỏi cung. Nếu họ khơng đồng ý tiếp tục
làm việc thì dừng buổi hỏi cung, việc này phải ghi rõ trong biên bản, có xác nhận
của cán bộ chuyên môn. Trường hợp bị can muốn khai bổ sung hoặc đề nghị sửa
chữa biên bản hỏi cung hoặc tự viết bổ sung vào biên bản hỏi cung thì vẫn phải ghi
âm hoặc ghi hình có âm thanh.
Bảo quản, lưu trữ kết quả ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi cung bị
can của Điều tra viên
Hệ thống máy chủ đặt tại trụ sở CQĐT, cử cán bộ chuyên môn quản lý, bảo
quản; Hệ thống máy chủ đặt tại cơ sở giam giữ do CQĐT có thẩm quyền cử cán bộ
chun mơn của CQĐT quản lý, bảo quản. Đối với các phương tiện, thiết bị ghi âm
hoặc ghi hình có âm thanh di động thì đơn vị nào đang thụ lý, giải quyết vụ án thì
đơn vị đó có trách nhiệm quản lý, bảo quản. Kết quả ghi âm, ghi hình có âm thanh
việc hỏi cung bị can phải được bảo quản lưu trữ đầy đủ tại hệ thống máy chủ để
đảm bảo an tồn, bí mật.
Khi kết thúc giai đoạn điều tra vụ án hình sự, cán bộ chun mơn sao chép dữ
liệu kết quả ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh vào thiết bị ngoại vi lưu trữ dữ liệu
và bàn giao cho ĐTV, bàn giao thiết bị ngoại vi lưu trữ dữ liệu cùng hồ sơ vụ án
phục vụ điều tra
Trường hợp các vụ án, vụ việc chuyển để điều tra xử lý theo thẩm quyền thì
cơ quan chuyển giao vụ án, vụ việc có trách nhiệm chuyễn cả thiết bị ngoại vi lưu


11
dữ liệu ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh thu thập được cùng với hồ sơ vụ án, vụ
việc đến cơ quan tiếp nhận để tiếp tục khai thác, sử dụng và bảo quản, lưu trữ theo
quy định của Thông tư liên tịch số 03/2018.

Khi trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung, điều tra lại thì các thiết bị ngoại vi
lưu trữ dữ liệu ghi âm, ghi hình có âm thanh cũng được trả lại và bàn giao cùng hồ
sơ vụ án hình sự. Việc bàn giao dữ liệu ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi
cung bị can phải được lập biên bản.
Trường hợp tiến hành ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh tại cơ sở giam giữ
thì ngay sau khi kết thúc buổi hỏi cung ĐTV phối hợp với cán bộ chuyên môn sao
chép ra thiết bị lưu trữ và lập biên bản giao nhận. Thiết bị đã lưu trữ dữ liệu và biên
bản giao nhận phải được đưa vào hồ sơ vụ án để phục vụ điều tra. Trường hợp ghi
âm hoặc ghi hình có âm thanh tại địa điểm khác thì ngay sau khi kết thúc buổi hỏi
cung ĐTV sao chép ngay dữ liệu buổi hỏi cung, trên máy lưu động ra thiết bị lưu
trữ để lưu hồ sơ vụ án.
Sử dụng kết quả ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi cung bị can của
Điều tra viên
Trong giai đoạn điều tra: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT; Cấp trưởng,
cấp phó cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, ĐTV sử
dụng kết quả ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh để phục vụ công tác điều tra trong
trường hợp bị can thay đổi lời khai so với lời khai đã khai trước đó. Sử dụng, đánh
giá chứng cứ để làm rõ hành vi phạm tội của bị can và đồng phạm khác (nếu có),
đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện. Đồng thời, kiểm tra
việc chấp hành pháp luật của ĐTV trong quá trình hỏi cung.
Kết quả ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh cũng được sử dụng trong quá trình
kiểm tra việc chấp hành pháp luật trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử; giải
quyết khiếu nại, tố cáo; thẩm định vụ án hình sự. Những người có thẩm quyền quy
định có thể sao chép kết quả ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh tại hệ thống máy chủ
để phục vụ công tác điều tra, truy tố.
Trường hợp ở những nơi khơng có điều kiện để ghi âm hoặc ghi hình có âm
thanh khi ĐTV tiến hành hỏi cung bị can thì ĐTV giải thích cho bị can biết là buổi
hỏi cung hơm nay khơng có ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh, bị can đồng ý thì
mới được tiến hành hỏi cung bị can. Trường hợp bị can không đồng ý thì khơng tiến
hành hỏi cung bị can. ĐTV báo cáo người có thẩm quyền để đề nghị cơ quan cấp

trên hỗ trợ, trang bị máy và thiết bị ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh.


12
Hành vi bị nghiêm cấm việc hỏi cung bị can của Điều tra viên có ghi âm hoặc
ghi hình có âm thanh
Các hành vi bị nghiêm cấm gồm: Tự ý chỉnh sửa, cắt, ghép, giả mạo, hủy trái
phép, làm sai lệch, làm hư hỏng, làm thất lạc dữ liệu ghi âm hoặc ghi hình có âm
thanh. Sao chép, phát tán, khai thác, sử dụng kết quả ghi âm hoặc ghi hình có âm
thanh. Làm lộ, lọt thơng tin vụ án hoặc xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp, uy tín,
danh dự của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Phá hủy cơ sở vật chất, cố ý làm hư hỏng
hoặc sử dụng khơng đúng mục đích các phương tiện, thiết bị kỹ thuật sử dụng để
ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh. Người thực hiện các hành vi này tùy tính chất,
mức độ vi phạm mà bị xử lý trách nhiệm theo quy định của pháp luật8.
1.2. Thực tiễn hỏi cung bị can của Điều tra viên có ghi âm hoặc ghi hình
có âm thanh
1.2.1. Khái qt tình hình hỏi cung bị can của Điều tra viên có ghi âm hoặc
ghi hình có âm thanh và những hạn chế, vướng mắc
Tình hình hoạt động hỏi cung bị can của ĐTV có ghi âm hoặc ghi hình có âm
cịn nhiều nơi để xảy ra vi phạm, chưa thực hiện đúng quy định của pháp luật, tình
trạng hỏi cung bị can khơng có ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh của ĐTV diễn ra
ở nhiều nơi, cả ở thành phố, nông thơn, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn,
điều kiện cơ sở vật chất của CQĐT ở nhiều nơi chưa thể đáp ứng. Để thực hiện việc
ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh khi hỏi cung bị can phải ra văn bản đề nghị cấp
trên chỉ đạo đơn vị nghiệp vụ cử cán bộ kỹ thuật, sử dụng thiết bị hỗ trợ, thực hiện
việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh nên cịn rất nhiều khó khăn, vướng mắc chưa
thể giải quyết ngay được.
Về vấn đề này, ngày 01/01/2020, Thủ tướng phê duyệt Đề án cơ sở vật chất,
cán bộ và lộ trình thực hiện việc ghi âm, ghi hình có âm thanh trong hỏi cung bị can
trên phạm vi cả nước, theo đó ý kiến của ông Nguyễn Ngọc Anh, nguyên Cục

trưởng Cục pháp chế - Bộ Công an, cho rằng đây là một chủ trương lớn, địi hỏi nỗ
lực của các bộ ngành, trong đó Bộ Công an được giao xây dựng đề án. Bộ Công an
đã thành lập ban nghiên cứu cũng như xây dựng Đề án và được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt đề án ghi âm, ghi hình có âm thanh trong hoạt động tố tụng hình sự.
Theo Đề án về cơ sở vật chất, bộ máy, cán bộ và lộ trình cụ thể thực hiện việc ghi
âm hoặc ghi hình có âm thanh, việc hỏi cung bị can theo quy định của Bộ luật Tố
8

Quy định tại Điều 4 (Thông tư liên tịch số 03/2018)


13
tụng hình sự năm 2015 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 11/9/2019 sẽ bắt
đầu thực hiện trên toàn quốc bắt đầu từ 1/1/2020.
Mục tiêu của Đề án là tổ chức thực hiện quy định của Thông tư liên tịch số
03/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP đến các cán bộ có liên quan việc
thực hiện ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh trong hoạt động hỏi cung bị can (như
cán bộ kỹ thuật của lực lượng hồ sơ, điều tra viên, cán bộ thực hiện công tác tạm
giữ, tạm giam...). Chuẩn bị các điều kiện vật chất, kỹ thuật phục vụ ghi âm hoặc ghi
hình có âm thanh việc hỏi cung bị can phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ và thực tiễn
công tác hỏi cung bị can trong hoạt động tố tụng hình sự. Xây dựng bộ máy, cán bộ,
đào tạo bồi dưỡng cán bộ, chiến sĩ để thực hiện ghi âm, ghi hình có âm thanh việc
hỏi cung bị can; xây dựng lộ trình và phân cơng nhiệm vụ cụ thể đối với cán bộ, cơ
quan, đơn vị trong việc tổ chức triển khai thực hiện ghi âm hoặc ghi hình có âm
thanh việc hỏi cung bị can trên phạm vi tồn quốc.
Để đề án có thể triển khai cần thời gian và nguồn kinh phí lớn, các phương
tiện phải đảm bảo an tồn kỹ thuật, Bộ Cơng an đã tổ chức thí điểm tại 5 tỉnh, thành
phố là Bắc Giang, Công An TP Hà Nội, Công An TP HCM, cơ sở giam giữ của Cơ
quan An ninh điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra với 45 buồng hỏi cung đủ tiêu
chuẩn kỹ thuật. Hiện nay, Bộ Công An quản lý 69 trại tạm giam, trong đó có nhiều

buồng hỏi cung đảm bảo chuẩn. Từ trước đến nay, ngành Công an đã làm và đạt kết
quả tốt. Tuy vậy, điều kiện thực tiễn vẫn cần có thêm thời gian chuẩn bị để triển
khai đồng bộ. Do đó, Bộ Cơng an sẽ báo cáo cấp thẩm quyền lùi thời hạn áp dụng vì
cần xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật đảm bảo, tổ chức tập huấn cán bộ và có những
yêu cầu đảm bảo kỹ thuật đòi hỏi nỗ lực lớn hơn9.
Theo kết quả sơ kết một năm thực hiện ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh
trong hoạt động hỏi cung bị can của CQCSĐT Công An tỉnh Thừa Thiên Huế
được đánh giá như sau: số vụ án có thực hiện ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh
đạt tỷ lệ 49%, chưa đạt theo yêu cầu là do CQĐT một số địa phương chưa triển
khai việc ghi âm, ghi hình có âm thanh và ở một số vụ án đơn giản, chứng cứ rõ
ràng, bị can phối hợp với CQĐT trong việc khai báo phục vụ cho công tác điều tra
được thuận lợi nên cũng không tiến hành ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh khi
hỏi cung bị can10.

9

Trích Báo điện tử cơng lý Cơ quan của Tịa án Nhân dân tối cao ngày 24/12/2019
Trích Báo điện tử “kiểm sát.vn” ngày 02/3/2021

10


14
Đề làm rõ hơn về những hoạt động hỏi cung bị can của ĐTV có có ghi âm
hoặc ghi hình có âm thanh, qua khảo sát các biên bản hỏi cung bị can của ĐTV đối
với các bị can trong các vụ án về ma túy, cụ thể:
Vụ án thứ nhất: Theo Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 02/QĐKTĐCKLB ngày 14/5/2020 của Đồn Biên phòng cửa khẩu Long Bình – Bộ chỉ huy Bộ
đội Biên phịng tỉnh An Giang, đã khởi tố vụ án hình sự “ Vận chuyển trái phép chất
ma túy” xảy ra tại Tổ 19, ấp Đồng ky, xã Quốc Thái, huyện An Phú, tỉnh An Giang
do Trung tá Đinh Quang Điềm – Đồn trưởng ký.

Quyết định khởi tố bị can số 68/QĐ-PC04 ngày 15/5/2020 của CQCSĐT
Công an tỉnh An Giang, đối với An Ngọc Hà, giới tính Nam; sinh năm 1985, cư trú:
thơn Nga Khê, xã Nguyên Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam; có hành vi “Vận
chuyển trái phép chất ma túy”, quy định tại Điều 250 Bộ luật Hình sự năm 2015, do
Thượng tá Trần Việt Dũng, Phó Thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra ký.
Biên bản hỏi cung bị can An Ngọc Hà (theo Mẫu số 177 BH theo Thông tư
số 61/2017/TT-BCA ngày 14/12/2017 của Bộ Công an), được tiến hành lúc 8 giờ 00
phút ngày 14/8/2020, tại trại Tạm giam Công an tỉnh An Giang, do Điều tra viên
Dương Văn Tốt tiến hành, có sự tham gia của KSV – Nguyễn Hoàng Anh Thảo,
Người bào chữa – Luật sư Trần Đức Nguyên, Đoàn Luật sư tỉnh An Giang. Biên
bản hỏi cung bị can có ghi hình có âm thanh.
Về quá trình diễn biến vụ việc bị bắt quả tang vận chuyển trái pháp chất ma
túy: Bị can hiện nay chưa có việc làm, đang ở nhà trọ tại khu vực đường Lê Trọng
Tấn, quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh, do có quen biết từ trước với Ngao
nên ngày 3/5/2020, Ngao có điện thoại cho bị can rủ đi sang Campuchia, đến
khoảng 19 giờ 00 cùng ngày đến khu vực biên giới thuộc huyện An Phú tiếp tục đi
đò tiếp sang Campuchia. Đến khoảng 17 giờ 00, ngày 08/5/2020, có một người đàn
ơng biết nói tiếng Việt đến khách sạn đưa vào phòng của bị can và Tài bốn túi
nilong. Đến khoảng 18 giờ 00 cùng ngày, thì xe ơ tơ đến, bị can mang theo hai túi
nilong, Tài mang hai túi ni long và Ngao mang hai túi nilong để vào xe, khi đến khu
vực biên giới đi đị về Việt Nam thì bị lực lượng Bộ đội Biên phòng tỉnh An Giang
chặn lại kiểm tra phát hiện 6 túi nilong có chứa Ma túy nên bị bắt quả tang.
Biên bản hỏi cung bị can An Ngọc Hà (theo Mẫu số 177 BH theo Thông tư
số 61/2017/TT-BCA ngày 14/12/2017 của Bộ Công an) việc hỏi cung được tiến
hành lúc 8 giờ 00 phút ngày 15/9/2020, tại trại Tạm giam Công an tỉnh An Giang,
do Điều tra viên Dương Văn Tốt tiến hành, có sự tham gia của Kiểm sát viên –


15
Nguyễn Hoàng Anh Thảo, Người bào chữa – Luật sư Trần Đức Nguyên, Đoàn Luật

sư tỉnh An Giang; cơ quan điều tra đã ghi đầy đủ vào biên bản hỏi cung ngày
14/8/2020, buổi hỏi cung có luật sư và Kiểm sát viên tham gia, buổi hỏi cung được
ghi âm, ghi hình có âm thanh.
- Quyết định khởi tố bị can số 69/QĐ-PC04 ngày 15/5/2020 của Cơ quan
Cảnh sát Điều tra – Công an tỉnh An Giang, do Thượng tá Trần Việt Dũng, Phó Thủ
trưởng ký đối với Nguyễn Văn Tài, giới tính Nam; sinh năm 2000, Nơi cư trú: Thơn
Đại Trà, xã Đông Phương, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phịng; đã có hành vi “
Vận chuyển trái phép chất ma túy” quy định tại Điều 250 Bộ luật Hình sự.
Biên bản hỏi cung bị can Nguyễn Văn Tài (theo Mẫu số 177 BH theo Thông
tư số 61/2017/TT-BCA ngày 14/12/2017 của Bộ Công an) việc hỏi cung được tiến
hành lúc 14 giờ 00 phút ngày 16/9/2020, tại trại Tạm giam Công an tỉnh An Giang,
do Điều tra viên Dương Văn Tốt tiến hành, có sự tham gia của Kiểm sát viên –
Nguyễn Hoàng Anh Thảo, người bào chữa – Luật sư Nguyễn Trọng Bình; Buổi hỏi
cung hơm nay có Luật sư, Kiểm sát viên tham gia, buổi hỏi cung hôm nay được ghi
âm, ghi hình có âm thanh.
Về q trình tham gia vận chuyển ma túy: ngày 07/5/2020, bị can đang uống
nước tại quán trên đường Lý Thường Kiết, Thành phố Hồ Chí Minh thì tình cờ biết
được Hiếu, khi nói chuyện với nhau, bị can có cho Hiếu biết là đang đi tìm việc
làm, Hiếu có giới thiệu cho tôi biết sang Campuchia làm việc ở Casino mỗi tháng
15.000.000đ/tháng, bị can đồng ý nên Hiếu điện thoại cho Ngao để đến gặp bị can
và hướng dẫn bị can cùng Hà sang Camphuchia, khi sang Campuchia bị can mang
hai túi nilong và Hà mang hai túi nilong màu đen đã dán kinh trọng lượng khoảng
từ 5 kg đến 10 kg khi về đến Việt Nam thì bị chặn xe lại kiểm tra trong túi nilong có
ma túy nên bị bắt.
Vụ án thứ hai: Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 07/QĐ-PC04 ngày
10/01/2020 của cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an tỉnh An Giang, khởi tố vụ án
hình sự “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 4 Điều 251 Bộ luật
Hình sự năm 2015, xảy ra khóm Châu thới 3, phường Châu phú B, thành phố Châu
đốc, tỉnh An Giang vào ngày 01/01/2020, do Thượng tá Trần Việt Dũng, Phó Thủ
trưởng cơ quan Cảnh sát điều tra ký.

- Quyết định khởi tố bị can số 13/QĐ-PC04 ngày 10/01/2020 đối với Phạm
Lê Minh Cường (tên khác Sữa), giới tính Nam; sinh năm 1993, Nơi cư trú: Tổ 2,
khu phố 2, thị trấn Cần Giuộc, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An; đã có hành vi “Mua


16
bán trái phép chất ma túy”, do Thượng tá Trần Việt Dũng, Phó Thủ trưởng cơ quan
Cảnh sát điều tra ký.
Biên bản hỏi cung bị can (theo Mẫu số 177 BH theo Thông tư số
61/2017/TT-BCA ngày 14/12/2017 của Bộ Công an) việc hỏi cung được tiến hành
lúc 8 giờ 00 phút ngày 25/02/2020, tại trại Tạm giam Công an tỉnh An Giang, do
Điều tra viên Phạm Đăng Khoa tiến hành, có sự tham gia của Người bào chữa –
Luật sư Phan Văn Bé, Đoàn Luật sư tỉnh An Giang. Buổi hỏi cung hơm nay, cơ
quan Cảnh sát điều tra có ghi âm, ghi hình có âm thanh.
Bị can xin trình bày, khoảng 11 giờ 00 ngày 30/12/2019, Tâm điều khiển xe ô
tô đến nhà của bị can tại tổ 2, khu phố 2, thị trấn Cần Giuộc, huyện Cần Giuộc, tỉnh
Long An, Tâm rủ vợ chồng bị can đi thành phố Châu Đốc chơi, đến khoảng 17 giờ
00 cùng ngày thì Tâm điều khiển xe ơ tơ chở bị can, vợ của bị can đến tỉnh Tây
Ninh đón em vợ của Tâm tên là Tân và con của Tân về Châu Đốc chơi. Đến khoản
3 giờ 00 ngày 31/12/2019, thì đến nhà của Tâm tại thành phố Châu Đốc, tỉnh An
Giang. Đến 20 giờ 00 cùng ngày Tâm kêu đặt xe khách Hùng Cường đi Thành phố
Hồ Chí Minh lúc để chuyển 04 (bốn) bọc nilong có chứa ma túy đá. Khi bị can đang
đứng chờ xe đến đón thì bị lực lượng Công an đến mời về Công an phường Châu
Phú B và kiểm tra phát hiện có 04 bọc ni long chứa chất nghi vấn là ma túy đá nên
Công an lập biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang đối với bị can.
- Quyết định khởi tố bị can số 14/QĐ-PC04 ngày 10/01/2020 đối với Nguyễn
Thanh Sang, giới tính: Nam, tên gọi khác Heo, sinh năm 1991, nơi cư trú: tổ 6,
khóm Vĩnh Phú, phường Châu Phú A, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang, đã có
hành vi Mua bán trái phép chất ma túy, quy định tại Điều 251 Bộ luật Hình sự năm
2015, do Thượng tá Trần Việt Dũng, Phó Thủ trưởng cơ quan Cảnh sát điều tra ký.

Biên bản hỏi cung bị can Lê Thanh Sang (theo Mẫu số 177 BH theo Thông tư
số 61/2017/TT-BCA ngày 14/12/2017 của Bộ Công an) việc hỏi cung được tiến
hành lúc 8 giờ 00 phút ngày 03/11/2020, tại trại Tạm giam Công an tỉnh An Giang,
do Điều tra viên Phạm Đăng Khoa tiến hành, có sự tham gia của KSV Phạm Hải
Căng, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang, Người bào chữa – Luật sư Phan Văn
Bé, Đoàn Luật sư tỉnh An Giang; Buổi hỏi cung hơm nay, cơ quan Cảnh sát điều tra
có ghi hình có âm thanh, có luật sư Phan Văn Bé tham gia, bị can được Điều tra
viên giải thích quyền và nghĩa vụ của bị can theo quy định của pháp luật.
Bị can trình bày, khoảng 16 giờ 00, ngày 01/01/2020, bị can và Tâm đang ở
nhà thuê trọ thì Tâm nói đang để 02 (hai) bọc ma túy đá trong xe ơ tơ đang đậu phía


17
sau nhà của Tâm (cách nhà Tâm thuê khoảng 1000m2), khi nào Cường đi chơi về
lấy đưa cho Cường để vận chuyển lên Thành phố Hồ Chí Minh, bị can đồng ý nên
bị can đi về nhà của Tâm đợi Cường. Đến khoảng 19 giờ 00 cùng ngày Cường về
đến nhà của Tâm, do Tâm có nói trước đó nên bị can đi ra sau nhà nơi xe ô tô đang
đậu mở cửa xe sau lấy 02 (hai) bọc ma túy đưa cho Cường rồi bị can trở về nhà th
trọ. Sau đó, Cường bị Cơng an bắt quả tang đang vận chuyển ma túy, Công an đến
nhà của Tâm thuê bắt bị can và khám xét nơi ở của bị can.
Biên bản hỏi cung bị can Nguyễn Phước Lợi (theo Mẫu số 177 BH theo
Thông tư số 61/2017/TT-BCA ngày 14/12/2017 của Bộ Công an), được tiến hành
lúc 9 giờ 00 phút, ngày 30/6/2018 tại Nhà tạm giữ Công an huyện Tháp Mười, tỉnh
Đồng Tháp, do Điều tra viên Bùi Tấn Song tiến hành. Biên bản hỏi cung bị can
Nguyễn Phước Lợi thực hiện ghi âm, ghi hình có âm thanh.
Ngồi ra, học viên cịn thu thập ngẫu nhiên một số vụ án và biên bản hỏi
cung bị can không ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh, cụ thể như:
Vụ án thứ nhất: Theo Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 01/QĐKT-ĐLQ
ngày 25/12/2019 của Đồn Biên phịng Lạc Quới – Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng
tỉnh An Giang, đã khởi tố vụ án hình sự “Vận chuyển trái phép chất ma túy” quy

định tại Điều 250 Bộ luật Hình sự năm 2015, xảy ra tại ấp Vĩnh Quới, xã Lạc Quới,
huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang do thượng tá Lê Xuân Thị, Đồn trưởng ký.
Quyết định khởi tố bị can số 11/QĐ-PC04 ngày 30/12/2019 của Cơ quan
Cảnh sát Điều tra Công an tỉnh An Giang, đối với Mean Vuth Thi, giới tính Nam;
sinh năm 1993, nơi cư trú: ấp Rơ Liek, xã Tà Ơ, huyện Kiri Vong, tỉnh Tà Keo,
Camphuchia, đã có hành vi “Vận chuyển trái phép chất ma túy”, quy định tại khoản
3 Điều 250 Bộ luật Hình sự năm 2015, do Thượng tá Trần Việt Dũng, Phó Thủ
trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra ký.
Biên bản hỏi cung bị can Mean Vuth Thi (theo Mẫu số 177 BH theo Thông
tư số 61/2017/TT-BCA ngày 14/12/2017 của Bộ Công an), được tiến hành lúc 7 giờ
30 phút ngày 06/3/2020, tại trại Tạm giam Công an tỉnh An Giang, do Điều tra viên
Dương Văn Tốt tiến hành, có sự tham gia của ơng Chau Sóc Xua, là người phiên
dịch. Biên bản hỏi cung bị can Mean Vuth Thi khơng thực hiện ghi âm hoặc ghi
hình có âm thanh. Biên bản hỏi cung bị can không ghi nhận ý kiến của bị can về
việc không thực hiện việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh.
Vụ án thứ hai: Theo Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 07/QĐ-PC04 ngày
10/01/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh An Giang, đã khởi tố vụ án


18
hình sự “Mua bán trái phép chất ma túy” xảy ra tại phường Châu Phú A, thành phố
Châu Đốc, tỉnh An Giang do thượng tá Trần Việt Dũng, Phó thủ trưởng cơ quan
Cảnh sát điều tra ký.
Quyết định khởi tố bị can số 15/QĐ-PC04 ngày 10/01/2020 của Cơ quan
Cảnh sát Điều tra Công an tỉnh An Giang, đối với Huỳnh Tấn Phong, giới tính
Nam; sinh năm 1988, cư trú: số 229/3/6, khóm 2, phường Châu Phù A, thành phố
Châu Đốc, đã có hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 2
Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, do thượng tá Trần Việt Dũng, Phó thủ trưởng
cơ quan Cảnh sát điều tra ký.
Biên bản hỏi cung bị can Huỳnh Tấn Phong (theo Mẫu số 177 BH theo Thông

tư số 61/2017/TT-BCA ngày14/12/2017 của Bộ Công an), được tiến hành lúc 8 giờ
00 phút ngày 14/01/2020 tại trại Tạm giam Công an tỉnh An Giang, do Điều tra viên
Nguyễn Văn Ây tiến hành, biên bản hỏi cung bị can Huỳnh Tấn Phong không thực
hiện ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh. Biên bản hỏi cung bị can không ghi nhận ý
kiến của bị can về việc khơng thực hiện việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh.
Biên bản hỏi cung bị can Nguyễn Phước Lợi (theo Mẫu số 177 BH theo
Thông tư số 61/2017/TT-BCA ngày 14/12/2017 của Bộ Công an), được tiến hành
lúc 8 giờ 30 phút, ngày 28/8/2018 tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Đồng Tháp, do
Điều tra viên Lê Thanh Bình tiến hành. Biên bản hỏi cung bị can Nguyễn Phước
Lợi không thực hiện ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh, không ghi nhận ý kiến của
bị can về việc không thực hiện việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh.
Như vậy, hoạt động hỏi cung bị can của ĐTV có thực hiện việc ghi âm hoặc
ghi hình có âm thanh, thể hiện sự tuân thủ quy định pháp luật TTHS của ĐTV khi
tiến hành hoạt động hỏi cung bị can. Tuy nhiên, hoạt động hỏi cung bị can của ĐTV
vẫn còn xuất hiện một số hạn chế, vướng mắc, trường hợp khi tiến hành hỏi cung bị
can của ĐTV chưa thực hiện ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh. ĐTV khơng giải
thích cho bị can biết là buổi hỏi cung bị can khơng có ghi âm hoặc ghi hình có âm
thanh và cũng khơng ghi nhận ý kiến hoặc yêu cầu của bị can về việc không ghi âm
hoặc ghi hình có âm thanh. Trong khi đó theo Thông tư liên tịch số 03/2018 quy
định trường hợp khi tiến hành hỏi cung bị can phải ghi âm hoặc ghi hình có âm
thanh nếu khơng ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh thì phải có ý kiến đồng ý của bị
can và được ghi vào biên bản hỏi cung.
Về bảo quản, lưu giữ, sao chép dữ liệu chưa được thực hiện thống nhất, như
việc bảo quản, lưu giữ dữ liệu thì cán bộ chun mơn kỹ thuật có trách nhiệm bảo


19
quản, lưu giữ dữ liệu ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh hay là ĐTV thực hiện việc
bảo quản, lưu giữ cùng với hồ sơ vụ án. Việc niêm phong dữ liệu, sao chép dữ liệu
chưa được quy định rõ để thuận lợi trong quá trình thực hiện và đúng quy định của

pháp luật, trường hợp có thể xảy ra là dữ liệu bị mất, hư hỏng thì cũng chưa được
quy định cụ thể. Trong khi đó, pháp luật chỉ quy định kết quả ghi âm, ghi hình có
âm thanh việc hỏi cung bị can phải được bảo quản lưu giữ đầy đủ tại hệ thống máy
chủ để đảm bảo an tồn, bí mật.
1.2.2. Ngun nhân của những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn hỏi cung
bị can của Điều tra viên có ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh
- Nguyên nhân từ quy định của pháp luật:
Để tiến tới xây dựng nhà nước pháp quyền thì địi hỏi phải hồn thiện hơn
nữa hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật TTHS nói riêng, cho nên cần tiếp tục
nghiên cứu để bổ sung cho phù hợp với tình hình hiện nay, trong đó có những quy
định của Thơng tư liên tịch số 03/2018 cịn chưa đầy đủ đã gây khó khăn cho việc
nhận thức, áp dụng pháp luật của ĐTV làm ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động hỏi
cung bị can, thực tiễn cho thấy nhiều vụ án bị can có thể thay đổi lời khai, khơng
thừa nhận hành vi phạm tội dẫn đến khó khăn cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành
tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Để tránh hiện tượng này và bảo vệ
chính những người tiến hành tố tụng thì việc quy định chặt chẽ trình tự, thủ tục
trong hỏi cung bị can, đặc biệt là việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh khi ĐTV
tiến hành hỏi cung bị can là rất cần thiết.
Quy định trình tự, thủ tục niêm phong dữ liệu ghi âm hoặc ghi hình có âm
thanh như thế nào? Khi tiến hành niêm phong thì thành phần tham gia, nhằm bảo
đảm được dữ liệu ghi âm ghi hình khơng bị chỉnh sửa, cắt, ghép trái quy định của
pháp luật. Sau khi ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh, cán bộ chun môn kỹ thuật
sao lưu dữ liệu và giao lại cho ĐTV để chuyển theo hồ sơ vụ án, còn bản gốc thì
khơng thể hiện trên hồ sơ là cơ quan nào quản lý và lưu kết quả ghi âm hoặc ghi
hình có âm thanh thời gian là bao lâu?
Khi làm hư hỏng, làm thất lạc, sao chép, phát tán kết quả ghi âm hoặc ghi
hình có âm thanh trái quy định của pháp luật thì bị can, NBC thực hiện quyền phản
ánh, kiến nghị, khiếu nại và yêu cầu đến cơ quan nào để được xem xét giải quyết?
Trong khi đó Thơng tư liên tịch số 03/2018 chỉ quy định người thực hiện hành vi bị
nghiêm cấm tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý trách nhiệm theo quy

định của pháp luật.


×