Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Giám định theo luật tố tụng hình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (35.71 MB, 123 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN AN HỮU

GIÁM ĐỊNH
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

GIÁM ĐỊNH
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Định hướng ứng dụng
Mã số: 8380104

Người hướng dẫn khoa học : TS. Lê Nguyên Thanh
Học viên
: Nguyễn An Hữu
Lớp
: Cao học luật, An Giang khóa 2

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Giám định theo luật tố tụng hình sự Việt Nam”
là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Lê
Nguyên Thanh. Các số liệu ghi trong luận văn là có thật, kết quả nghiên cứu là trung
thực. Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày
tháng
năm 2022
Tác giả luận văn

Nguyễn An Hữu


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TỪ VIẾT TẮT

TÊN ĐẦY ĐỦ

BLHS 2015

Bộ luật Hình sự năm 2015

BLTTHS 2015

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015

BCA


Bộ Cơng an

BTP

Bộ Tư pháp

TANDTC

Tịa án nhân dân tối cao

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

TNHS

Trách nhiệm hình sự

TTHS

Tố tụng hình sự

THTT

Tiến hành tố tụng

VAHS

Vụ án hình sự


CQĐT

Cơ quan điều tra

CSĐT

Cảnh sát điều tra

KLGĐ

Kết luận giám định


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. TRƯNG CẦU GIÁM ĐỊNH THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM ................................................................................................................5
1.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về trưng cầu giám định .............5
1.1.1. Thời điểm trưng cầu giám định ..................................................................5
1.1.2. Thẩm quyền trưng cầu giám định ...............................................................6
1.1.3. Trình tự, thủ tục trưng cầu giám định ......................................................13
1.2. Thực tiễn trưng cầu giám định trong tố tụng hình sự..............................14
1.2.1. Tình hình thực hiện hoạt động giám định ................................................14
1.2.2. Những hạn chế, vướng mắc về trưng cầu giám định................................15
1.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc về trưng cầu giám định ...22
1.3. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trưng cầu giám định trong tố tụng
hình sự ..................................................................................................................24
1.3.1. Hồn thiện hệ thống pháp luật tố tụng hình sự và hướng dẫn áp dụng về
trưng cầu giám định ...........................................................................................24
1.3.2. Giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả trưng cầu giám định trong tố

tụng hình sự ........................................................................................................25
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................27
CHƯƠNG 2. KẾT LUẬN GIÁM ĐỊNH THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM ..............................................................................................................28
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về kết luận giám định ..............28
2.1.1. Kết luận giám định và các loại kết luận giám định ..................................28
2.1.2. Hình thức và nội dung của kết luận giám định trong tố tụng hình sự......32
2.1.3. Đánh giá và sử dụng kết luận giám định ..................................................35
2.2. Thực tiễn về kết luận giám định trong tố tụng hình sự............................38
2.2.1. Thực tiễn về những hạn chế trong kết luận giám định .............................38
2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế .............................................................42
2.3. Giải pháp bảo đảm chất lượng kết luận giám định trong tố tụng hình sự
..............................................................................................................................44


2.3.1. Giải pháp hồn thiện pháp luật tố tụng hình sự về kết luận giám định ...44
2.3.2. Giải pháp khác nhằm bảo đảm chất lượng kết luận giám định ...............45
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................48
KẾT LUẬN ..............................................................................................................49
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong tố tụng hình sự, giám định là một cơng cụ quan trọng, phục vụ đắc lực
cho hoạt động điều tra, cung cấp nguồn chứng cứ khoa học làm căn cứ nhằm xác
định có hay khơng có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội, tính chất
và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. Giám định góp phần quan trọng vào

việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự được chính xác, khách quan và đúng
pháp luật.
Trong những năm qua, hoạt động bổ trợ tư pháp nói chung và hoạt động giám
định trong lĩnh vực tố tụng hình sự nói riêng đã có bước phát triển mạnh mẽ, nhiều
hoạt động có tính đột phá nhờ thực hiện chủ trương cải cách tư pháp theo tinh thần
Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược Cải cách
tư pháp đến năm 2020”, điển hình như: từng bước thực hiện xã hội hóa đối với các
lĩnh vực có nhu cầu giám định, xây dựng quy định chuẩn mực cho từng lĩnh vực và
xác định cơ chế đánh giá kết luận giám định bảo đảm đúng đắn, khách quan để làm
căn cứ giải quyết vụ việc. Đặc biệt với các quy định mới, sự tiến bộ của Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015, Luật giám định tư pháp năm 2012, sửa đổi, bổ sung năm
2020, hoạt động giám định trong tố tụng hình sự ngày càng được khẳng định và hồn
thiện. Theo đó, Bộ luật tố tụng hình sự 2015 đã có quy định mới về thời hạn giám
định cho từng trường hợp trưng cầu giám định (Điều 208), mở rộng thẩm quyền trưng
cầu giám định đối với cấp trưởng, cấp phó của các cơ quan Bộ đội biên phòng, Hải
quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư được giao một số nhiệm vụ tiến
hành hoạt động điều tra trong các trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội quả
tang, chứng cứ và lý lịch người phạm tội rõ ràng (điểm d khoản 2 Điều 39); Luật
giám định tư pháp năm 2012, sửa đổi, bổ sung năm 2020 đã mở rộng phạm vi giám
định tư pháp theo hướng được trưng cầu ngay từ giai đoạn khởi tố vụ án hình sự thay
cho từ giai đoạn điều tra như trước đây (khoản 1 Điều 2), quy định mới về nội dung
kết luận giám định phải rõ ràng, cụ thể về nội dung chuyên môn của đối tượng cần
giám định theo trưng cầu, yêu cầu giám định tư pháp (Điều 32).
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, thực tiễn hoạt động giám
định trong tố tụng hình sự vẫn cịn nhiều vướng mắc, hạn chế làm ảnh hưởng đến
tiến độ giải quyết vụ án cũng như quyền lợi hợp pháp của đương sự. Điển hình như
về giá trị pháp lý của kết luận giám định trong trường hợp giám định lại, cơ quan tố
tụng sẽ sử dụng kết luận nào để làm căn cứ truy tố, xét xử; kết luận giám định lần



2
hai có phải là kết quả cuối cùng hay khơng thì luật chưa quy định cụ thể. Về thời
hạn giám định, tuy Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có quy định thời hạn giám
định nhưng chưa quy định thời hạn cụ thể cho từng lĩnh vực. Công tác giám định
trong các lĩnh vực tài chính, kế tốn, ngân hàng, tiền tệ trong các vụ án kinh tế,
tham nhũng ở các địa phương cịn gặp nhiều khó khăn khi các đơn vị, tổ chức, cá
nhân có trách nhiệm giám định từ chối do năng lực trình độ chun mơn của giám
định viên bị hạn chế hoặc né tránh trách nhiệm. Mặt khác, dù hiện nay Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015 và Luật giám định tư pháp năm 2012, sửa đổi, bổ sung năm
2020 đã có hiệu lực thi hành nhưng việc ban hành Nghị định và các văn bản hướng
dẫn thi hành vẫn còn chậm, một số bộ, cơ quan ngang bộ chưa kịp thời ban hành
các văn bản hướng dẫn về giám định trong lĩnh vực chuyên ngành, một số quy định
còn chồng chéo, mâu thuẫn chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời.
Xuất phát từ yêu cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm, xử lý đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, tránh làm oan sai, bỏ lọt tội phạm và giữ vững an ninh
chính trị và trật tự an tồn xã hội góp phần tạo mơi trường thuận lợi, an tồn, ổn
định cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung, việc đánh giá đúng
thực trạng công tác giám định trong các vụ án để đưa ra giải pháp thích hợp nhằm
nâng cao hiệu quả công tác giám định phục vụ tốt cho công tác giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, công tác khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử là
rất cần thiết góp phần giải quyết các vụ án một cách khoa học, khách quan; đảm bảo
truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, không làm oan người vô tội và không bỏ lọt tội
phạm. Với những lý do trên tác giả chọn đề tài “Giám định theo luật tố tụng hình
sự Việt Nam” để làm luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua, các vấn đề liên quan đến giám định được sự quan tâm
của Đảng, Nhà nước, cán bộ hoạt động thực tiễn,… có nhiều bài viết về hoạt động
giám định nói chung như:
Về bài báo khoa học: Trần Việt Vân, Nâng cao hiệu quả hoạt động giám định
hình dấu đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới, Tạp chí Tịa án nhân dân, Số

13/2021; Phạm Long Hải, Trách nhiệm hành chính và trách nhiệm hình sự của
người giám định đối với hoạt động giám định tư pháp Tạp chí Tịa án nhân dân
năm, Số 22/2021; Đỗ Huy Bình – Đào Bảo Long, Một số khó khăn, vướng mắc
trong áp dụng pháp luật đối với tội mua bán trái phép chất ma túy và giải pháp
khắc phục, Tạp chí Tịa án nhân dân, Số 1/2022…


3
Nội dung của các bài báo chủ yếu phân tích quy định trách nhiệm của người
thực hiện giám định đối với hoạt động giám định tư pháp đồng thời kiến nghị một
số vấn đề nhằm triển khai có hiệu quả các quy định này trong thời gian tới.
Về góc độ nghiên cứu đã có một số đề tài nghiên cứu về vấn đề này:
Luận án Tiến sĩ của Nguyễn Thị Loan “Giám định tư pháp trong tố tụng hình
sự Việt Nam”, Học viện Khoa học xã hội năm 2014.
Luận án Tiến sĩ của Bùi Quang Anh “Giám định kỹ thuật hình sự trong điều tra
tội phạm của lực lượng Cảnh sát nhân dân”, Học viện Cảnh sát nhân dân khóa 2009.
Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Thị Thanh Thủy “Giám định tư pháp hình sự
theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng”, Học viện
Khoa học xã hội năm 2016.
Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Thị Kiều Trang “Kết luận giám định trong luật
TTHS Việt Nam”, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh năm 2018.
Các luận án và luận văn được viết theo định hướng nghiên cứu, phần nội dung
chủ yếu phân tích về mặt lý luận của hoạt động giám định nói chung và kết luận giám
định trong tố tụng hình sự theo Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và Luật giám định tư
pháp 2012, phần thực tiễn có đề cập nhưng chủ yếu phân tích chung chung.
Nghiên cứu các cơng trình trên đã giúp tác giả hiểu rõ hơn về đề tài mà mình
đã chọn. Tác giả sẽ tiếp tục kế thừa và phát triển những vấn đề về mặt lý luận của
hoạt động giám định trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên, để đảm bảo tính mới trong
luận văn của mình, phù hợp với yêu cầu của một luận văn theo định hướng ứng
dụng, tác giả sẽ tiến hành phân tích từng Chương là một vấn đề pháp lý độc lập trên

cơ sở các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Luật giám định tư pháp 2012,
sửa đổi, bổ sung năm 2020 và thực tiễn áp dụng hoạt động giám định trong giải
quyết các vụ án hình sự, từ đó nêu lên những khó khăn, vướng mắc trong quá trình
áp dụng và đề xuất những kiến nghị hoàn thiện pháp luật về giám định trong tố tụng
hình sự.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn được thực hiện nhằm làm rõ những vấn đề nhận thức, pháp luật và
thực tiễn, từ đó đưa ra các giải pháp đối với trưng cầu giám định và kết luận giám
định trong TTHS.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, đề tài cần giải quyết được các nhiệm vụ sau:


4
- Nghiên cứu vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về trưng cầu giám
định và kết luận giám định.
- Phân tích, đánh giá một số hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn TTHS về
trưng cầu giám định và kết luận giám định.
- Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trưng cầu giám định và
kết luận giám định.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Khía cạnh pháp lý và thực tiễn về trưng cầu giám định, kết luận giám định
trong TTHS.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: đề tài được nghiên cứu trong phạm vi trưng cầu giám định và
kết luận giám định theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và pháp luật
khác có liên quan đến giám định tư pháp.
- Về không gian vấn đề nghiên cứu được đánh giá chủ yếu: trên địa bàn tỉnh

An Giang và một số địa phương trong cả nước.
- Về thời gian: vấn đề nghiên cứu dựa vào tài liệu về thực tiễn giám định
được thực hiện từ năm 2015 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử; quan điểm của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp và phòng,
chống tội phạm.
- Luận văn có sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể:
- Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp về vấn đề nhận thức và quy định
của pháp luật TTHS liên quan đến trưng cầu giám định và kết luận giám định.
- Phương pháp thống kê về tình hình tiến hành các hoạt động giám định trong
TTHS ở An Giang.
- Phương pháp nghiên cứu tình huống pháp lý điển hình của một số vụ án nhằm
chứng minh những tồn tại, hạn chế của pháp luật và thực tiễn giám định hiện hành.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm hai chương:
Chương 1. Trưng cầu giám định theo luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Chương 2. Kết luận giám định theo luật tố tụng hình sự Việt Nam.


5
CHƯƠNG 1
TRƯNG CẦU GIÁM ĐỊNH THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về trưng cầu giám định
1.1.1. Thời điểm trưng cầu giám định
Về thời điểm trưng cầu giám định: có thể thực hiện ngay từ giai đoạn giải quyết
tin báo, tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố (khoản 3 Điều 147 BLTTHS 2015). Quy
định thời điểm trưng cầu giám định chưa được BLTTHS năm 2003 quy định ở một
điều luật cụ thể riêng biệt. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật giám định

tư pháp 2012 thì: “Giám định tư pháp là việc người giám định tư pháp sử dụng kiến
thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên
môn những vấn đề có liên quan đến hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
hình sự, giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính theo trưng cầu của cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc theo yêu
cầu của người yêu cầu giám định theo quy định của Luật này”. Do đó, căn cứ theo quy
định này có thể xác định thời điểm trưng cầu giám định là từ giai đoạn điều tra VAHS.
Khi BLTTHS 2015 được ban hành đã có những quy định mới về hoạt động
giám định như tách phần giám định định giá tài sản ra thành một chương riêng
(Chương XV), mở rộng thời điểm trưng cầu giám định sớm hơn khi cho phép cơ
quan có thẩm quyền khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố có
quyền trưng cầu giám định. Tại khoản 3 Điều 147 BLTTHS 2015 quy định: “Khi
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, cơ quan có thẩm quyền có
quyền tiến hành các hoạt động: a) Thu thập thông tin, tài liệu, đồ vật từ cơ quan, tổ
chức, cá nhân có liên quan để kiểm tra, xác minh nguồn tin; b) Khám nghiệm hiện
trường; c) Khám nghiệm tử thi; d) Trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản”1.
Ví dụ: trưng cầu giám định trong giải quyết nguồn tin về tội phạm của Cơ
quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Châu Đốc trong vụ án “Hiếp dâm người
dưới 16 tuổi” xảy ra tại khách sạn Đồng Xanh thuộc tổ 05, khóm Hịa Bình, phường
Vĩnh Mỹ, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang phát hiện ngày 12/02/2018”2.
Luật giám định tư pháp 2012, sửa đổi, bổ sung năm 2020 cũng có quy định
mới về sửa đổi thời điểm trưng cầu giám định, cho phép việc trưng cầu giám định
Khoản 3 Điều 147 BLTTHS 2015.
Thông báo số: 352, ngày 20/6/2018 của Cơ quan CSĐT Công an thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang thông
báo kết luận giám định đối với bà Phùng Thị Kim Ngân trong tố giác về tội phạm “Hiếp dâm người dưới 16
tuổi” xảy ra tại khách sạn Đồng Xanh thuộc tổ 5, khóm Hịa Bình, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang vào
khoảng tháng 10 năm 2017.
1
2



6
được thực hiện từ giai đoạn khởi tố VAHS. Theo đó, khoản 1 Điều 2 Luật giám
định tư pháp 2012, sửa đổi, bổ sung năm 2020 quy định: “Giám định tư pháp là việc
người giám định tư pháp sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ
thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn đề có liên quan đến hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử,…”. Kết luận trong trưng cầu giám định mang tính
khoa học, là một trong những nguồn chứng cứ được thu thập theo thủ tục tố tụng,
làm căn cứ cơ sở để các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng xem xét,
đánh giá và quyết định khi giải quyết vụ án.
1.1.2. Thẩm quyền trưng cầu giám định
Trưng cầu giám định có thể được tiến hành trong bất cứ giai đoạn tố tụng nào
của qua trình giải quyết vụ án. Do nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan THTT trong
mỗi giai đoạn tố tụng không giống nhau nên thẩm quyền trưng cầu giám định của
từng cơ quan THTT cũng khác nhau. Theo BLTTHS 2015, thẩm quyền trưng cầu
giám định thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Tòa án được quy định tại các Điều 36, 41,45, 205. Về nguyên tắc, cả ba cơ quan trên
đều có thẩm quyền áp dụng biện pháp trưng cầu giám định để thu thập chứng cứ phục
vụ cho việc giải quyết vụ án. Ngoài ra, tại Điều 39, 40 của BLTTHS 2015 cũng bổ
sung thêm thẩm quyền trưng cầu giám định của các Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra như: Các cơ quan của Bộ đội Biên phòng; Các cơ
quan của Hải quan; Các cơ quan của Kiểm lâm; Các cơ quan của lực lượng Cảnh sát
biển; Các cơ quan của Kiểm ngư; Các cơ quan của Công an nhân dân được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Các cơ quan khác trong Quân đội nhân
dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Các cơ quan cụ thể
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra quy định tại khoản này được
quy định tại Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự.
Để xác định cụ thể thẩm quyền trong từng giai đoạn không chỉ căn cứ vào
quy định của BLTTHS về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan và người tiến hành tố
tụng trong các giai đoạn mà còn căn cứ vào từng chức danh tố tụng quy định trong

phần “Những quy định chung” của BLTTHS.
“Người yêu cầu giám định” là khái niệm mới được Luật giám định tư pháp
2012 thể chế hóa, theo đó: “Người yêu cầu giám định là người có quyền tự mình
yêu cầu giám định sau khi đã đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu giám định mà khơng được chấp
nhận. Người có quyền tự mình u cầu giám định bao gồm đương sự trong vụ việc


7
dân sự, vụ án hành chính, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ, trừ
trường hợp việc yêu cầu giám định liên quan đến việc xác định trách nhiệm hình sự
của bị can, bị cáo” (Khoản 3 Điều 2 Luật Giám định tư pháp 2012).
1.1.2.1. Người có quyền trưng cầu giám định
Trưng cầu giám định là một trong những hoạt động tố tụng quan trọng do các
cơ quan THTT thực hiện nhằm thu thập chứng cứ phục vụ cho việc xác định sự thật
khách quan của VAHS. Khoản 1 Điều 205 BLTTHS năm 2015 quy định: “Khi
thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 206 của Bộ luật này hoặc khi xét
thấy cần thiết thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng ra quyết định trưng cầu
giám định”. Tại khoản 2 Điều 2 Luật giám định tư pháp 2012, sửa đổi, bổ sung năm
2020 quy định người trưng cầu giám định bao gồm cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Như vậy, căn cứ theo quy
định của BLTTHS năm 2015 và Luật giám định tư pháp 2012, sửa đổi, bổ sung năm
2020 thì thẩm quyền trưng cầu giám định thuộc về cơ quan có thẩm quyền THTT và
người có thẩm quyền THTT. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, trong giai đoạn khởi tố, điều tra VAHS: thẩm quyền trưng cầu giám
định của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra. Điều này được quy định tại
điểm d khoản 2 Điều 36 BLTTHS năm 2015: “Khi tiến hành tố tụng hình sự, Thủ
trưởng Cơ quan điều tra có những nhiệm vụ, quyền hạn: Quyết định trưng cầu giám
định...” và khoản 3 Điều 36 BLTTHS năm 2015: “Khi được phân công tiến hành việc

khởi tố, điều tra vụ án hình sự, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra có những nhiệm vụ,
quyền hạn quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, trừ quy định tại điểm b khoản 1
Điều này...”. Ngoài ra, để khắc phục những điểm hạn chế của BLTTHS năm 2003,
BLTTHS năm 2015 đã mở rộng thẩm quyền trưng cầu giám định đối với cấp trưởng,
cấp phó của các cơ quan Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát
biển, Kiểm ngư được giao một số nhiệm vụ tiến hành hoạt động điều tra trong các
trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội quả tang, chứng cứ và lý lịch người
phạm tội rõ theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 39 BLTTHS năm 2015.
Ví dụ: Vụ án: Leang Davy (Phan Thị Lan) “Vận chuyển trái phép chất ma
túy” của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang3; Trưng cầu giám định theo Quyết định
Quyết định trưng cầu giám định số: 06/QĐ-ĐCKLB, ngày 06/9/2020 của Đồn trưởng Đồn biên phòng Cửa
khẩu Long Bình, Bộ đội Biên phịng tỉnh An Giang; Kết luận giám định số: 225/KLGT-PC09(MT), ngày
07/9/2020 của phòng Kỹ thuật Hình sự, Cơng an tỉnh An Giang; Bản án số: 03/2021/HS-ST, ngày 12-3-2021
của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang.
3


8
của Đồn trưởng Đồn Biên phịng Cửa khẩu Long Bình, Bộ đội Biên phịng tỉnh An
Giang. Vụ án: Lê Hồng Anh (Béo) “Tàng trữ trái phép chất ma túy” của Tòa án
nhân dân huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau; Trưng cầu giám định theo Quyết định của
Thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau4.
Thứ hai, trong giai đoạn truy tố VAHS: thẩm quyền trưng cầu giám định của
Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát căn cứ quy định tại điểm đ khoản 2
Điều 41 BLTTHS năm 2015: “Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự, Viện trưởng Viện kiểm sát có những
nhiệm vụ, quyền hạn: Quyết định trưng cầu giám định” và khoản 3 Điều 41
BLTTHS năm 2015: “Khi được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát có
những nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, trừ quy định

tại điểm b khoản 1 Điều này”.
Thứ ba, trong giai đoạn xét xử: thẩm quyền trưng cầu giám định của Thẩm
phán chủ tọa phiên tòa được quy định tại khoản 2 Điều 45 BLTTHS năm 2015:
“Thẩm phán chủ tọa phiên tịa có những nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại khoản 1
Điều này và nhiệm vụ, quyền hạn: Quyết định trưng cầu giám định”. Việc quy định
Thẩm phán có quyền trưng cầu giám định là quy định mới trên cơ sở sửa đổi, bổ
sung Điều 39 BLTTHS năm 2003.
Tại khoản 1 Điều 207 BLTTHS 2015 quy định về yêu cầu giám định với nội
dung cụ thể như sau: “Đương sự hoặc người đại diện của họ có quyền đề nghị cơ quan
có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu giám định những vấn đề liên quan đến
quyền và lợi ích hợp pháp của họ, trừ trường hợp việc giám định liên quan đến việc xác
định trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội. Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày
nhận được văn bản đề nghị, cơ quan tiến hành tố tụng phải xem xét, ra quyết định trưng
cầu giám định. Trường hợp không chấp nhận đề nghị thì thơng báo cho người đã đề
nghị giám định biết bằng văn bản và nêu rõ lý do. Hết thời hạn này hoặc kể từ ngày
nhận được thông báo từ chối trưng cầu giám định của cơ quan có thẩm quyền tiến hành
tố tụng thì người đề nghị giám định có quyền tự mình u cầu giám định”.
Như vậy, BLTTHS 2015 đã có những quy định rất mở về đối tượng có quyền
trưng cầu giám định. Trưng cầu giám định có ý nghĩa vơ cùng quan trọng trong việc
xác lập, củng cố chứng cứ. Trong nhiều trường hợp, trưng cầu giám định có thể làm
thay đổi tính chất vụ án là một trong những yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến kết
4

Bản án số: 36/2018/HS-ST, ngày 28-9-2018 của Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.


9
quả của bản án. Vì vậy, để đảm bảo tính khác quan, công bằng, xét xử đúng người,
đúng tội, việc trưng cầu giám định không chỉ được quyết định bởi cơ quan, người
tiến hành tố tụng mà chính các đương sự của vụ án hình sự cũng được trao quyền

yêu cầu giám định.
Tuy nhiên, về người có thẩm quyền trưng cầu giám định, luật Tố tụng hình sự
chưa quy định đồng bộ giữa những người tiến hành tố tụng thuộc các cơ quan THTT.
Cụ thể là BLTTHS 2015 ở phần chung đã quy định thẩm quyền trưng cầu giám định
cho Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện
kiểm sát nhưng lại khơng quy định cụ thể thẩm quyền trưng cầu giám định cho Chánh
án, Phó chánh án Tịa án (Điều 36, Điều 41, Điều 44 BLTTHS 2015). Ngoài ra, Điều
tra viên được phân công tiến hành hoạt động khởi tố, điều tra vụ án hình sự được tiến
hành khám nghiệm hiện trường, khai quật tử thi, khám nghiệm tử thi... nhưng lại
khơng có thẩm quyền trưng cầu giám định là điều bất hợp lý.
1.1.2.2. Các trường hợp bắt buộc trưng cầu giám định
Trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định khi cần xác định những vấn
đề sau: Tình trạng tâm thần của người bị buộc tội khi có sự nghi ngờ về năng lực
trách nhiệm hình sự của họ; tình trạng tâm thần của người làm chứng hoặc bị hại
khi có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức, khả năng khai báo đúng đắn về những
tình tiết của vụ án; Tuổi của bị can, bị cáo, bị hại nếu việc đó có ý nghĩa đối với
việc giải quyết vụ án và khơng có tài liệu để xác định chính xác tuổi của họ hoặc có
nghi ngờ về tính xác thực của những tài liệu đó; Ngun nhân chết người; Tính chất
thương tích, mức độ tổn hại sức khoẻ hoặc khả năng lao động; Chất ma tuý, vũ khí
quân dụng, vật liệu nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, tiền giả, vàng, bạc, kim
khí quý, đá quý, đồ cổ; Mức độ ô nhiễm môi trường.
Ví dụ: Quyết định trưng cầu giám định của Thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát
điều tra, Công an huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang trưng cầu Phân viện Khoa học
hình sự Bộ Cơng an tại Thành phố Hồ Chí Minh giám định đạn5.
Như vậy, khi cần xác định một trong các vấn đề nêu trên thì bắt buộc phải
tiến hành trưng cầu giám định.
Về các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định được quy định tại Điều
206 BLTTHS năm 2015, khi cần phải xác định một trong các vấn đề sau:
Quyết định trưng cầu giám định số: 21/QĐ, ngày 18/02/2021 của Thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra
Công an huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang và Kết luận giám định số: 1186/C09B, ngày 19/02/2021 của Phân

viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh.
5


10
Một là, tình trạng tâm thần của người bị buộc tội khi có sự nghi ngờ về năng
lực trách nhiệm hình sự của họ; tình trạng tâm thần của người làm chứng hoặc bị
hại khi có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức, khả năng khai báo đúng đắn về
những tình tiết của vụ án. Người bị buộc tội gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo. Việc xác định người bị buộc tội có bị tâm thần hay giả tạo, bị trước khi
gây án hay sau khi gây án; tình trạng tâm thần của người làm chứng hoặc người bị
hại trong trường hợp có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức và khai báo đúng đắn
đối với những tình tiết của vụ án là rất quan trọng. Bởi nếu họ bị bệnh tâm thần thì
lời khai của họ khơng có giá trị pháp lý. So với BLTTHS năm 2003 thì quy định
này đã sửa cụm từ “bị can, bị cáo” thành cụm từ “người bị buộc tội” thể hiện đối
tượng giám định tình trạng tâm thần được mở rộng hơn.
Hai là, tuổi của bị can, bị cáo, bị hại nếu việc đó có ý nghĩa đối với việc giải
quyết vụ án và khơng có tài liệu để xác định chính xác tuổi của họ hoặc có nghi ngờ
về tính xác thực của những tài liệu đó. Bởi lẽ, việc xác định tuổi của bị can, bị cáo
là cơ sở để các cơ quan THTT xác định bị can, bị cáo có phải chịu trách nhiệm hình
sự hay khơng. Điều 12 BLHS 2015 đã quy định: Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải
chịu TNHS về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác;
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng,
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các Điều 123, 134, 141, 142,
143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266,
286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này. Bên cạnh đó, việc xác định
tuổi của bị hại để làm cơ sở cho các cơ quan THTT định tội danh. Ví dụ: trong các
tội xâm phạm tình dục, mặc dù hành vi phạm tội là giống nhau nhưng để xác định bị
can, bị cáo phạm tội hiếp dâm hay hiếp dâm người dưới 16 tuổi hoặc tội giao cấu
hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16

tuổi hoặc thậm chí khơng phạm tội thì phải căn cứ vào tuổi của nạn nhân. Việc xác
định tuổi của một người phải dựa vào giấy khai sinh, sổ đăng ký hộ khẩu hoặc
chứng minh nhân dân. Tuy nhiên, có một số trường hợp bị can, bị cáo hoặc bị hại là
trẻ em lang thang hoặc người khơng có nơi cư trú, khơng giấy tờ tùy thân thì rất khó
xác định tuổi nên cần phải trưng cầu giám định.
Ví dụ: Vụ án Bùi Văn Sơn (Út Lượm) “Giao cấu với trẻ em” của Tòa án nhân
dân huyện An Phú, tỉnh An Giang6.
6

Bản án số: 17/2018/HS-ST, ngày 04/4/2018 của Tòa án nhân dân huyện An Phú, tỉnh An Giang.


11
Ba là, nguyên nhân chết người. Cần giám định xác định nạn nhân chết do bệnh
lý hay do bị động tổn thương gây chết như bị đầu độc, bị đạn bắn, bị vết đâm,…
Bốn là, tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khoẻ hoặc khả năng lao
động. Căn cứ để đánh giá mức độ thương tích, mức độ tổn hại sức khỏe hoặc khả
năng lao động là kết quả giám định pháp y theo quy định tại Thông tư 20/2014/TTBYT ngày 02/6/2014 của Bộ trưởng Bộ Y tế quy định tỷ lệ tổn thương cơ thể sử
dụng trong giám định pháp y, pháp y tâm thần. Kết luận giám định có ý nghĩa trong
việc xác định tội phạm. Ví dụ hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác chỉ phạm tội khi tỷ lệ tổn thương cho cơ thể từ 11% trở lên
hoặc dưới 11% nhưng thuộc quy định tại Điều 134 BLHS.
Ví dụ: Vụ án Nguyễn Văn Tính “Cố ý gây thương tích” của Tịa án nhân dân
thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang7;
Năm là, chất ma túy, vũ khí quân dụng, vật liệu nổ, chất cháy, chất độc, chất
phóng xạ, tiền giả, vàng, bạc, kim khí q, đá quý, đồ cổ. Chất ma túy trong các vụ
phạm tội liên quan đến ma túy như sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái
phép các chất nghi là ma túy… Vũ khí quân dụng được giám định trong các vụ sử
dụng gây án hoặc thực hiện hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán
trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự. Giám

định vật liệu nổ, chất cháy trong các vụ cháy nổ. Chất độc thường được trưng cầu
giám định trong các vụ nghi ngờ bị đầu độc. Chất phóng xạ trong các vụ nghi vấn
sản xuất, bn bán chất phóng xạ… Tiền giả trong các vụ làm, tàng trữ, vận
chuyển, lưu hành tiền giả (tiền Việt Nam hay ngoại tệ như Đô la Mỹ, đồng Yên
Nhật nghi giả thu được) cần phải giám định.
Ví dụ: Quyết định trưng cầu giám định của Thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát
Điều tra Công an huyện Châu Phú, tỉnh An Giang trưng cầu Phịng Kỹ thuật hình sự
Cơng an tỉnh An Giang giám định tiền thật hay tiền giả8.
Ở quy định này, BLTTHS 2015 có quy định mới so với BLTTHS 2003, đó là
bổ sung đối tượng cần giám định là vũ khí quân dụng, vật liệu nổ, chất cháy, vàng,
bạc, kim khí q, đá q, đồ cổ.
Sáu là, mức độ ơ nhiễm mơi trường gồm: khơng khí, nguồn nước, đất. Mức
độ ô nhiễm môi trường cấu thành tội phạm theo quy định tại Chương XIX của
Bản án số: 91/2019/HS-ST, ngày 16/9/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.
Quyết định trưng cầu giám định số: 21/QĐ, ngày 18/02/2021 của Thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra
Công an huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang và Kết luận giám định số: 06/KLGT-PC09 (TL), ngày 28/01/2021
của Phòng Kỹ thuật hình sự Cơng an tỉnh An Giang.
7
8


12
BLHS. Đây cũng là quy định mới được bổ sung của BLTTHS 2015 so với
BLTTHS 2003.
Ngoài ra, nhằm tạo điều kiện thuận lợi trong công tác đấu tranh, giải quyết các
tội phạm tham nhũng, kinh tế đang có chiều hướng gia tăng hiện nay. Năm 2017, Viện
kiểm sát nhân tối cao, Tịa án nhân dân tối cao, Bộ Cơng an và Bộ Tư pháp đã phối hợp
ban hành Thông tư liên tịch số: 01/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP
ngày 13/12/2017 quy định những trường hợp cần thiết phải trưng cầu giám định tư
pháp trong giải quyết vụ án, vụ việc về tham nhũng, kinh tế (sau đây gọi tắt là Thông tư

liên tịch số 01/2017), Thơng tư này có hiệu lực ngày 01/02/2018. Cụ thể như sau:
- Khi cần xác định chất lượng, nguồn gốc, xuất xứ của tài sản, hàng hóa, hàng
giả, hàng thật, hàng cấm;
- Khi cần truy nguyên về tài liệu, đồ vật, chữ ký, chữ viết, con dấu, dấu vết,
dữ liệu điện tử;
- Khi cần xác định tính chính xác của các dụng cụ cân, đo, đong, đếm và các
máy móc, thiết bị khác;
- Khi cần xác định hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực đầu tư, gồm:
- Về lập, thẩm định, quyết định chủ trương đầu tư; quyết định đầu tư dự án;
- Về đấu thầu;
- Về khảo sát, tư vấn thiết kế, thi công, giám sát, nghiệm thu, thanh quyết toán;
- Về quản lý vốn đầu tư như: Tạm ứng vốn không đúng quy định; sử dụng
vốn thi cơng khơng đúng mục đích; bảo lãnh cho vay vốn, tạm ứng vốn, thực hiện
hợp đồng hoặc điều chuyển vốn cho vay; cho vay vốn không đúng chế độ;
- Hành vi khác vi phạm pháp luật trong lĩnh vực đầu tư.
- Trường hợp gặp khó khăn, vướng mắc trong việc xác định mức độ thiệt hại
do hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực đầu tư gây ra, thì mức độ thiệt hại được
xác định theo nguyên tắc lấy tổng chi phí đầu tư dự án trừ đi chi phí hợp lý, hợp lệ
hoặc được xác định theo một hoặc trong các cách thức sau đây:
+ Tiền lãi suất ngân hàng của khoản tiền đã tạm ứng vốn mà sử dụng khoản
tiền này khơng đúng mục đích dẫn đến khơng có khả năng thu hồi hoặc làm mất vốn
đầu tư;
+ Tiền lãi suất ngân hàng của các khoản đầu tư cho vay, ủy thác hoặc điều
chuyển vốn, sử dụng vốn không đúng quy định của pháp luật gây thất thốt, lãng phí;
+ Khoản chi phí phát sinh về tiền lãi vay của khoản vốn đã đầu tư và các chi
phí khác đối với dự án kể từ khi dự án ngừng thi công hoặc ngừng hoạt động;


13
+ Tổng mức đầu tư phải điều chỉnh tăng lên so với tổng mức đầu tư ban đầu

mà nguyên nhân do có hành vi vi phạm pháp luật dẫn đến phải kéo dài thời gian
thực hiện dự án hoặc làm chậm tiến độ thực hiện dự án.
- Khi cần xác định hành vi vi phạm pháp luật về thuế, tài chính, kế tốn, bảo
hiểm, ngân hàng, chứng khốn, đất đai, tài nguyên, nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy
lợi và các lĩnh vực khác khi xét thấy cần thiết.
1.1.3. Trình tự, thủ tục trưng cầu giám định
Theo Thông tư liên tịch số: 01/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP
ngày 13/12/2017 của Viện Kiểm sát nhân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công
an và Bộ Tư pháp quy định những trường hợp cần thiết phải trưng cầu giám định tư
pháp trong giải quyết vụ án, vụ việc về tham nhũng, kinh tế. Trong đó, trình tự, thủ
tục trưng cầu giám định như sau:
Khi thuộc trường hợp cần thiết phải trưng cầu giám định theo quy định, cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải xác định rõ nội dung, lĩnh vực
hoặc chuyên ngành cần giám định; lựa chọn tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện thực
hiện giám định để ra quyết định trưng cầu giám định. Quyết định trưng cầu giám
định phải có đầy đủ nội dung theo quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự. Nội dung
trưng cầu giám định chỉ nêu u cầu mang tính chun mơn ở lĩnh vực hoặc chuyên
ngành cần giám định, không nêu yêu cầu mang tính pháp lý.
Trường hợp cần thiết, trước khi ra quyết định trưng cầu giám định, cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải phối hợp, trao đổi với cơ quan, tổ
chức, cá nhân dự kiến được trưng cầu giám định và cơ quan, tổ chức, cá nhân có
liên quan để thống nhất về nội dung trưng cầu giám định, thời hạn giám định và vấn
đề khác (nếu có). Trường hợp có nhiều nội dung cần giám định hoặc nội dung phức
tạp, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có thể tách thành nhiều nội
dung trưng cầu giám định khác nhau, ra nhiều lần quyết định trưng cầu giám định
để bảo đảm đáp ứng yêu cầu về tiến độ giải quyết vụ án, vụ việc.
Trường hợp nội dung trưng cầu giám định liên quan đến nhiều lĩnh vực,
thuộc trách nhiệm của nhiều cơ quan, tổ chức thì cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng phải xác định lĩnh vực chính để giao trách nhiệm cho cơ quan, tổ
chức chủ trì và cơ quan, tổ chức phối hợp thực hiện giám định. Cơ quan, tổ chức

được giao trách nhiệm chủ trì thực hiện giám định phải làm đầu mối, tổ chức việc
thực hiện và ký, đóng dấu xác nhận trong kết luận giám định. Cơ quan, tổ chức phối
hợp phải cử người tham gia thực hiện giám định.


14
Trường hợp phát sinh vấn đề vướng mắc trong việc phối hợp trưng cầu, thực
hiện giám định, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng chủ trì, phối hợp
với cơ quan, tổ chức được trưng cầu, giám định và cơ quan, tổ chức liên quan để
giải quyết.
1.2. Thực tiễn trưng cầu giám định trong tố tụng hình sự
1.2.1. Tình hình thực hiện hoạt động giám định
Trong tố tụng hình sự, thực hiện trưng cầu giám định là một công cụ quan
trọng, phục vụ đắc lực cho hoạt động điều tra cung cấp nguồn chứng cứ khoa học làm
căn cứ để xác định có hay khơng có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm
tội, tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra, những tình tiết liên quan
đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt và
những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án, góp phần quan trọng vào
việc điều tra, truy tố, xét xử các vụ án được chính xác, khách quan và đúng pháp luật.
Qua nghiên cứu số liệu báo cáo kết quả công tác giám định trong giải quyết
các vụ việc, vụ án tham nhũng, kinh tế, tiêu cực trên địa bàn tỉnh An Giang, từ năm
2017 đến năm 2021, các cơ quan có thẩm quyền THTT đã thụ lý tổng cộng 111 vụ
án tham nhũng, kinh tế có áp dụng biện pháp trưng cầu giám định, trong đó có 97
vụ có kết luận giám định đúng hạn, có 12 quyết định trưng cầu bị cơ quan giám
định từ chối giám định và 01 vụ chưa có kết luận giám định. Cụ thể:
- Năm 2017: Tổng thụ lý giải quyết 10 vụ án tham nhũng, kinh tế có áp dụng
biện pháp trưng cầu giám định thì có 10 vụ có KLGĐ đúng hạn, chiếm tỷ lệ 100%,
khơng có quyết định trưng cầu giám định lại hoặc giám định bổ sung.
- Năm 2018: Tổng thụ lý giải quyết 11 vụ án tham nhũng, kinh tế có áp dụng
biện pháp trưng cầu giám định thì có 10 vụ có KLGĐ, trong đó có 09 KLGĐ đúng

thời hạn, chiếm tỷ lệ 82%; 01 vụ chưa có KLGĐ, chiếm tỷ lệ 9%; khơng có quyết
định trưng cầu giám định lại hoặc giám định bổ sung.
- Năm 2019: Tổng thụ lý giải quyết 16 vụ án tham nhũng, kinh tế có áp dụng
biện pháp trưng cầu giám định thì có 16 vụ có KLGĐ đúng hạn, chiếm tỷ lệ 100%;
khơng có quyết định trưng cầu giám định lại hoặc giám định bổ sung.
- Năm 2020: Tổng thụ lý giải quyết 28 vụ án tham nhũng, kinh tế có áp dụng
biện pháp trưng cầu giám định thì có 28 vụ có KLGĐ đúng hạn, chiếm tỷ lệ 100%;
khơng có quyết định trưng cầu giám định lại hoặc giám định bổ sung.
- Năm 2021: Tổng thụ lý giải quyết 46 vụ án tham nhũng, kinh tế có áp dụng
biện pháp trưng cầu giám định thì có 33 vụ có KLGĐ và đúng thời hạn, chiếm tỷ lệ


15
71,73%; 12 vụ bị từ chối giám định, chiếm tỷ lệ 26%; 01 vụ chưa có KLGĐ, chiếm
tỷ lệ 2,2% (Xem bảng Phụ lục 1).
Ví dụ: việc trưng cầu giám định kéo dài trong vụ án Bùi Văn Sơn (Út
Lượm) “Giao cấu với trẻ em” do Tòa án nhân dân huyện An Phú, tỉnh An Giang
xét xử sơ thẩm9. Trong q trình điều tra, CQĐT Cơng an tỉnh An Giang đã 2 lần
ra quyết định trưng cầu giám định ADN đối với con của Linh: Lần thứ 1 tại Phân
viện Khoa học hình sự Bộ Cơng an vào tháng 9/2012 và Lần thứ 2 tại Phân viện
Pháp y quốc gia tại TP.HCM vào tháng 10/2012. Cả hai kết quả giám định đều
khẳng định con của Linh khơng có quan hệ huyết thống với Sơn. Sau khi khởi tố
vụ án, ngày 07/11/2014, CQĐT Công an tỉnh An Giang trưng cầu giám định Lần
thứ 3 tại Viện Pháp y Quân đội và đưa mẹ con Linh ra Hà Nội để lấy mẫu giám
định lại. Kết quả lần giám định này cũng kết luận Sơn không phải là cha đẻ của
con của Linh.
Đến ngày 03/4/2018, Tòa án nhân dân huyện An Phú mới đưa vụ án ra xét xử
sơ thẩm sau nhiều lần hỗn phiên tịa, trả hồ sơ điều tra bổ sung gây dư luận trong
xã hội.
1.2.2. Những hạn chế, vướng mắc về trưng cầu giám định

Tại Điều 206 BLTTHS năm 2015 quy định 06 trường hợp bắt buộc phải trưng
cầu giám định. Tuy nhiên trên thực tiễn, trong công tác đấu tranh phịng chống tội
phạm nhất là các tội phạm có liên quan đến xây dựng cơ bản, liên quan đến các định
chế tài chính như ngân hàng, chứng khốn, bảo hiểm thì cần thiết phải bổ sung vào là
trường hợp bắt buộc theo quy định tại Điều 206 BLTTHS năm 2015.
Ví dụ cụ thể: Trong vụ sập cầu Cái Đơi Vàm tại huyện Phú Tân, tỉnh Cà
Mau, khoảng 8 giờ 30 ngày 21/12/2021, nhà thầu quan trắc bằng máy thủy bình thì
phát hiện trụ T7 bị lún 3,2cm, khi đó mặt cầu và gờ lan can xuất hiện nhiều vết nứt
rộng từ 3-4cm. Liên tiếp 2 tiếng sau thì trụ T7 bị lún nhiều. Đến 11 giờ 45 ngày
21/12, nhịp cầu 33m (nhịp số 8) bị đứt phần còn treo trên trụ T8 và rơi xuống sơng.
Khi đó trụ T7 bị lún sâu khoảng 6,3m; kéo theo nhịp số 7 (dài 18m) bị sụp một đầu
xuống đất, một đầu kê trên trụ T6, các nhịp số 6, số 9 và số 10 bị lệch, trượt khỏi đá
kê gối. Trong quá trình điều tra, Cục Cảnh sát Điều tra tội phạm về tham nhũng,
kinh tế, buôn lậu đã trưng cầu Phân viện khoa học Cơng nghệ giao thơng vận tải
phía Nam về nguyên nhân sự cố.
Bản án số: 17/2018 /HS-ST, ngày 04-4-2018 của Tòa án nhân dân huyện An Phú, tỉnh An Giang.

9


16
Các tội phạm xảy ra trong Lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm, các
CQĐT đều trưng cầu giám định cơ quan giám định của Bộ Tài chính, Ngân hàng nhà
nước để xác định nguyên nhân. Như vậy mặc dù Điều 206 khơng có quy định và
cũng khơng có quy định trường hợp CQĐT thấy cần thiết nhưng thực tiễn các cơ
quan này vẫn tiến hành trưng cầu để làm cơ sở cho các bước điều tra tiếp theo.
Số liệu thống kê về hoạt động giám định trong giải quyết các vụ việc, vụ án
tham nhũng, kinh tế, tiêu cực trên địa bàn tỉnh An Giang thể hiện các cơ quan tiến
hành giám định đã cung cấp KLGĐ kịp thời, có hiệu quả cho cơng tác điều tra, truy
tố, xét xử tội phạm; khơng có số KLGĐ mà người có thẩm quyền và cơ quan có

thẩm quyền THTT đề nghị cơ quan giám định giải thích, làm rõ KLGĐ; khơng có
vụ án phải trưng cầu giám định lại hoặc giám định bổ sung.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn cịn tồn tại 01 vụ có KLGĐ quá hạn luật định do
Sở Tài chính An Giang khơng có giám định viên và 12 vụ bị từ chối giám định do Sở
tài chính An Giang khơng có giám định viên thực hiện công tác giám định và quyết
định trưng cầu giám định khơng thuộc vai trị chủ trì của Sở Tài chính An Giang; cơ
quan yêu cầu giám định chưa cung cấp thơng tin kịp thời cho cơ quan giám định.
Điển hình như: vụ Giám định tài liệu có liên quan đến hồ sơ đấu giá của Trung tâm
dịch vụ Bán đấu giá An Giang theo quyết định trưng cầu giám định số 11/CSĐT ngày
30/12/2021 của Cơ quan Cảnh sát điều Công an tỉnh An Giang, tổ chức được trưng
cầu giám định là Bộ Tư pháp, nội dung trưng cầu giám định tài liệu có liên quan đến
hồ sơ đấu giá của Trung tâm dịch vụ Bán đấu giá An Giang, thời hạn ban hành
KLGĐ 30 ngày nhưng đến nay chưa có KLGĐ là do Cơ quan Cảnh sát điều tra
(PC03) khi gửi hồ sơ giám định sơ sót khơng thực hiện đúng Điều 27 Luật giám định
tư pháp năm 2020 khi gửi hồ sơ tài liệu giám định qua đường bưu chính. Đối với các
vụ Giám định thuế đối với Cơng ty TNHH Thiên Sứ, Giám định thuế đối với Hộ kinh
doanh Nguyễn Hoàng Út, vụ Giám định thuế đối với Cơng ty TNHH Bình Kim An
theo các quyết định trưng cầu giám định cùng ngày 27/9/2021 của Cơ quan CSĐT
Công an tỉnh An Giang thì tổ chức được trưng cầu giám định là Cục Thuế tỉnh An
Giang, nội dung trưng cầu giám định về thuế, không ghi thời hạn ban hành KLGĐ: đã
bị cơ quan giám định là Cục Thuế tỉnh từ chối giám định vì Cục Thuế đã có Công văn
đề nghị Cơ quan CSĐT Công an tỉnh An Giang cung cấp thêm thông tin nhưng trên
20 ngày Cục Thuế không thấy thông tin phản hồi của CQĐT (Xem bảng Phụ lục 2).
Kết quả công tác giám định trong giải quyết các vụ việc, vụ án tham nhũng, kinh
tế, tiêu cực trên địa bàn tỉnh An Giang, từ năm 2017 đến năm 2021 cũng thể hiện


17
những tồn tại, hạn chế khác như: tài liệu phục vụ cơng tác giám định trong một số vụ
án có lúc chưa đầy đủ theo yêu cầu giám định, như chưa xác định được doanh thu trốn

thuế theo niên độ kế tốn thơng qua các sổ phụ, bảng kê từ ngân hàng… nên thiếu cơ
sở pháp lý để kết luận giám định. Việc xác định cơ quan, tổ chức chủ trì việc giám định
trong trường hợp trưng cầu giám định nhiều nội dung, liên quan đến trách nhiệm giám
định của nhiều cơ quan, tổ chức giám định thường gặp khó khăn do không thống nhất
được ý kến của bên trưng cầu và bên thực hiện việc trưng cầu. Hiện nay tỉnh có 02 vụ
án thuộc diện ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực theo dõi,
chỉ đạo cịn khó khăn, vướng mắc về giám định tài chính, ngân hàng điển hình là: Vụ
án “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” xảy ra tại Công ty sản xuất TMDV Thuận An, vụ án
“Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng” và “Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản” xảy ra tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Chi nhánh tỉnh An
Giang và các Công ty Cổ phần Việt An, Công ty Cổ phần XNK Bình Minh, Cơng ty
TNHH Minh Giàu; vướng mắc về giám định thuế, điển hình là vụ án “Bn lậu” (51
kg vàng 9999 qua biên giới) và vụ “Buôn lậu” (đường cát, quần áo, túi xách, giày
dép…) do bị can Nguyễn Thị Kim Hạnh (Mười Tường) cầm đầu và đồng phạm. Trong
đó, phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung 04 vụ, 01 vụ án tạm đình chỉ điều tra10.
Về thời hạn trưng cầu giám định
Mặc dù BLTTHS 2015, Luật giám định tư pháp 2012, sửa đổi, bổ sung 2020
và Thơng tư liên tịch số 01/2017 đã có quy định về thời hạn trưng cầu giám định.
Tuy nhiên, các quy định này chỉ nêu thời hạn cụ thể đối với một số trường hợp, như
quy định tại khoản 1 Điều 208 BLTTHS hoặc quy định tại khoản 3 Điều 5 Thông tư
liên tịch số 01/2017. Trong khi thực tiễn tố tụng hình sự, có những VAHS phát sinh
những trường hợp cần thiết phải trưng cầu giám định ngoài các trường hợp đã được
liệt kê thì chưa được pháp luật quy định cụ thể.
Tác giả xin nêu ví dụ điển hình như sau: Điều 206 BLTTHS quy định 06
trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định và Thông tư liên tịch số
01/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP ngày 13/12/2017 của Liên ngành
Trung ương quy định có 06 trường hợp cần thiết phải trưng cầu giám định thì “động
vật hoang dã” khơng thuộc trường hợp bắt buộc hoặc cần thiết phải trưng cầu giám
định; trong khi điểm d khoản 3 Điều 106 BLTTHS năm 2015 lại quy định: “Vật


Báo cáo số 170-BC/TU, ngày 19/5/2022 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về kết quả công tác giám định trong
giải quyết các vụ việc, vụ án tham nhũng, kinh tế, tiêu cực trên địa bàn tỉnh An Giang.
10


18
chứng là động vật hoang dã và thực vật ngoại lai thì ngay sau khi có kết luận giám
định phải giao cho cơ quan quản lý chuyên ngành có thẩm quyền xử lý theo quy định
của pháp luật”. Mâu thuẫn, bất cập này khiến các Cơ quan có thẩm quyền tiến hành
tố tụng gặp khó khăn, vướng mắc khi xử lý các vụ án, vụ việc liên quan đến động vật
hoang dã. Những bất cập này cũng đã được TS. Phạm Minh Tuyên nhận xét: “Qua
công tác điều tra, truy tố và xét xử các vụ án xâm phạm hoạt động bảo vệ động vật
hoang dã, động vật nguy cấp quý hiếm cho thấy một số quy định, thủ tục liên quan
đến cơng tác giám định hiện nay cịn nhiều khó khăn, vướng mắc và bất cập khiến
hiệu quả giám định chưa cao và chưa hỗ trợ được nhiều cho quá trình điều tra, xử lý
các hành vi xâm phạm trong hoạt động buôn bán động hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm
trái phép ở Việt Nam11. Theo đó, những khó khăn, vướng mắc trong việc giám định
mẫu vật động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm gồm:
Một là, giám định tư pháp đối với tang vật, vật chứng là quy trình, thủ tục bắt
buộc các cơ quan chức năng phải thực hiện trong quá trình xử lý vụ án (hành chính,
hình sự) theo quy định của pháp luật. Việc không trưng cầu giám định hoặc thực
hiện giám định tư pháp không đúng quy định của pháp luật là vi phạm trình tự, thủ
tục theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, pháp luật về tố tụng
hình sự. Đặc biệt, kết quả giám định tư pháp là cơ sở để quyết định, xác định mức
độ phạm tội. Tuy nhiên, việc giám định hiện nay thường được thực hiện chậm, tốn
kém và gặp rất nhiều khó khăn, xuất phát từ các quy định của pháp luật về giám
định tư pháp. Các thủ tục, quy trình giám định mẫu vật hiện cũng chưa rõ ràng dẫn
tới cán bộ thực thi thường né tránh việc giám định và thường quy về xử lý hành
chính. Bên cạnh đó, quá trình lấy mẫu giám định cũng chưa quy định cụ thể về thời
gian trưng cầu giám định mẫu vật; cách thức lấy mẫu đối với các loài động, thực vật

hoang dã (cá thể sống và chết); cách bảo quản, bàn giao mẫu vật và đưa ra kết quả
giám định mẫu vật… Trong khi đó, các bước này rất cần được thực hiện theo quy
trình và có chữ ký xác nhận của các bên liên quan cũng như tổ chức, cá nhân làm
chứng để đảm bảo tính minh bạch, chính xác và khoa học.
Hai là, trước đây chưa có cơ quan nào được chỉ định là cơ quan khoa học
CITES để giám định những mẫu vật nghi có nguồn gốc từ động vật hoang dã như ngà
voi, sừng tê giác… Đa số các địa phương trưng cầu giám định của Viện Sinh thái và
Phạm Minh Tuyên, truy cập ngày 11/4/2022
11


19
Tài nguyên sinh vật thuộc Viện hàn lâm khoa học Việt Nam nhưng cũng có nơi cơ
quan tiến hành tố tụng trưng cầu giám định của Viện khoa học hình sự Bộ Công an.
Cho tới ngày 17/6/2020, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban
hành Quyết định số 2249/QĐ-BNN-TCLN ngày 17/6/2020 của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn về Chỉ định Cơ quan Khoa học CITES Việt Nam.
Nghị định số: 06/2019/NĐ-CP ngày 22/01/2019 của Chính phủ (sau đây gọi
tắt là Nghị định 06) về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm và
thực thi Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy
cấp quy định như sau: Khoản 4 Điều 31 Mục 5 Chương III về thực thi CITES quy
định: “Cơ quan khoa học CITES Việt Nam” là cơ quan giám định mẫu vật CITES.
Điểm d khoản 2 Điều 34 Mục 6 Chương III về biện pháp bảo đảm thực thi CITES
quy định chức năng, nhiệm vụ của Cơ quan khoa học CITES Việt Nam “giám định
mẫu vật động vật, thực vật hoang dã”. Như vậy, theo quy định của pháp luật chỉ có
“cơ quan khoa học CITES Việt Nam” là có tư cách pháp nhân “giám định mẫu vật
động vật, thực vật hoang dã”. Điều này dẫn đến các cơ quan chức năng trong q
trình trưng cầu giám định gặp khó khăn về thủ tục, thời gian và tốn kém chi phí.
Ba là, đối với các mẫu vật thuộc Phụ lục I CITES tịch thu được hiện nay, các
cơ quan thu giữ đều phải tiến hành trưng cầu giám định ở các cơ quan khác nhau

như Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật (đối với mẫu động vật) hoặc Viện khoa
học Lâm nghiệp (đối với mẫu thực vật). Với các cơ quan ở phía Nam, do điều kiện
địa lý, việc trưng cầu giám định thường được đặt ra đối với Viện Sinh học nhiệt đới
(ITB) và Viện Khoa học Hình sự phía Nam (C54B)… Tuy nhiên, trên thực tế, do
trang thiết bị, kinh nghiệm và kỹ năng giám định khác nhau nên nhiều khi kết quả
giám định của cùng một mẫu tại các đơn vị nhưng lại vênh nhau hoặc trái chiều, gây
lúng túng cho cơ quan xử lý vụ việc”12.
Bên cạnh đó, theo Báo cáo tham luận của Vụ Thực hành quyền công tố và kiểm
sát điều tra án tham nhũng, chức vụ (Vụ 5) Viện kiểm sát nhân dân tối cao tại Hội nghị
triển khai công tác năm 2022 thể hiện: “Theo quy định của pháp luật tố tụng, trong
trường hợp bắt buộc hoặc khi xét thấy cần thiết thì cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết
định trưng cầu giám định như một biện pháp điều tra, thu thập chứng cứ. Tùy thuộc
vào tính chất, nội dung cần giám định mà cơ quan tiến hành tố tụng có thể trưng cầu tổ
Phạm Minh Tuyên, />-chung-dinh-gia-dong-vat-hoang-da-dong-vat-nguy-cap-quy-hiem-trong-to-tung-hinh-su-vuong-mac-va-kien
-nghi-hoan-thien, truy cập ngày 11/4/2022.
12


×