Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Định giá tài sản theo luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (27.23 MB, 121 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

VÕ VĂN HỒNG

ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Định hướng ứng dụng
Mã số: 8380104

Người hướng dẫn khoa học : TS. Lê Nguyên Thanh
Học viên
: Võ Văn Hoàng
Lớp
: Cao học luật, An Giang khóa 2

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các kết quả
nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu,
ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Võ Văn Hoàng


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. CĂN CỨ XÁC ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN TRONG ĐỊNH GIÁ TÀI
SẢN ............................................................................................................................. 6
1.1. Nhận thức khái quát và quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về căn
cứ xác định giá tài sản .......................................................................................... 6
1.1.1. Nhận thức khái quát về căn cứ xác định giá tài sản .................................. 6
1.1.2. Quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về căn cứ xác định giá tài sản ... 8
1.2. Thực tiễn áp dụng căn cứ xác định giá tài sản .......................................... 14
1.2.1. Khái quát tình hình áp dụng các quy định về căn cứ xác định giá tài sản ..
............................................................................................................................ 14
1.2.2. Những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng căn cứ xác định giá
tài sản và nguyên nhân ....................................................................................... 16
1.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các căn cứ xác định giá tài sản... 18
1.3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật, hướng dẫn áp dụng pháp luật về căn cứ
xác định giá tài sản ............................................................................................. 18
1.3.2. Giải pháp khác nâng cao hiệu quả áp dụng căn cứ xác định giá tài sản ....
............................................................................................................................ 19

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................ 23
CHƯƠNG 2. THỜI HẠN ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN VÀ KẾT LUẬN ĐỊNH GIÁ
TÀI SẢN ................................................................................................................... 24
2.1. Nhận thức khái quát và quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về thời
hạn định giá tài sản và kết luận định giá tài sản .............................................. 24
2.1.1. Nhận thức khái quát và quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về thời
hạn định giá tài sản ............................................................................................ 24
2.1.2. Nhận thức khái quát và quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về kết
luận định giá tài sản ........................................................................................... 26
2.2. Thực tiễn về thời hạn định giá tài sản và kết luận định giá tài sản ........ 33
2.2.1. Khái quát tình hình thực hiện thời hạn định giá tài sản và kết luận định
giá tài sản ........................................................................................................... 33
2.2.2. Những hạn chế, vướng mắc về thời hạn định giá tài sản và kết luận định
giá tài sản và nguyên nhân ................................................................................. 35


2.3. Giải pháp bảo đảm về thời hạn định giá tài sản và kết luận định giá tài
sản ......................................................................................................................... 41
2.3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thời hạn định giá tài sản và kết luận
định giá tài sản ................................................................................................... 41
2.3.2. Giải pháp khác bảo đảm áp dụng đúng thời hạn định giá tài sản và kết
luận định giá tài sản ........................................................................................... 42
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................ 45
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 46
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Kết luận định giá tài sản được Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015
được ghi nhận là một trong những nguồn chứng cứ quan trọng trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự mà hành vi phạm tội gây thiệt hại về tài sản (hư hỏng, hủy hoại,
chiếm đoạt, chiếm giữ, sử dụng trái phép …). Vì vậy, việc xác định giá trị tài sản bị
xâm phạm có ý nghĩa quan trọng và bắt buộc để xác định hành vi xâm phạm về tài
sản có phải là tội phạm hay không. Định giá tài sản đúng sẽ giúp cho việc khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự mà hành vi phạm tội gây thiệt hại về tài
sản được chính xác, khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, tránh để xảy
ra oan, sai, bỏ lọt tội phạm và góp phần quan trọng trong việc đảm bảo trật tự an
toàn xã hội, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định đất nước.
BLTTHS năm 2015 quy định Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng, các tổ chức định giá về căn cứ, trình tự, thủ tục, thời hạn định giá tài sản, từ đó số
lượng và chất lượng của kết luận định giá tài sản được từng bước nâng lên, phục vụ kịp
thời cho việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, khởi tố, điều
tra, truy tố và xét xử. Tuy nhiên vẫn cịn những khó khăn, vướng mắc trong quy định
của BLTTHS năm 2015 (Chương 15, từ Điều 205 đến Điều 222) về căn cứ, trình tự,
thủ tục, thời hạn định giá tài sản trong giải quyết các vụ án hình sự…Thực tiễn giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
cho thấy các vụ án hình sự liên quan đến tội danh quy định yếu tố giá trị tài sản bị xâm
phạm mà Cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định trưng cầu định giá tài sản tại cơ
quan, tổ chức định giá nào, trình tự, thủ tục, thời hạn định giá là bao lâu; những trường
hợp nào bắt buộc phải trưng cầu định giá tài sản, cũng như những trường hợp nào thì
cơ quan tổ chức, cá nhân được quyền từ chối định giá tài sản; hoặc nếu có kết quả định
giá tài sản thì khơng rõ ràng, đầy đủ; trong khi luật quy định giới hạn thời gian tiến
hành tố tụng nên ảnh hưởng đến tiến độ, chất lượng điều tra giải quyết các vụ án bị kéo
dài hoặc dẫn đến phải tạm đình chỉ điều tra vụ án. Đây là những vấn đề gặp khó khăn,
vướng mắc trong công tác định giá tài sản để giải quyết vụ án hình sự.
Xuất phát từ u cầu đấu tranh, phịng chống tội phạm, xử lý đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, tránh làm oan sai, bỏ lọt tội phạm và giữ vững an ninh

chính trị và trật tự an tồn xã hội góp phần tạo mơi trường thuận lợi, an toàn, ổn
định cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, việc đánh giá đúng thực trạng
định giá tài sản trong các vụ án hình sự liên quan đến tội danh quy định yếu tố giá


2
trị tài sản bị xâm phạm để đưa ra giải pháp thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả cơng
tác định giá tài sản phục vụ tốt cho công tác giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
và kiến nghị khởi tố, công tác khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử là rất cần thiết góp
phần giải quyết các vụ án một cách khoa học, khách quan. Từ đó đảm bảo điều ra,
truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, không làm oan người vô tội và không bỏ lọt tội
phạm. Với những lý do trên tôi chọn đề tài “Định giá tài sản theo Luật tố tụng
hình sự Việt Nam” để làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua đã có một số cơng trình đề cập đến hoạt động định giá tài
sản theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam, thể hiện trên nhiều phương diện khác nhau,
bao gồm các nghiên cứu cơ bản về TTHS và một số cơng trình nghiên cứu chun sâu.
Thứ nhất, các tài liệu nghiên cứu cơ bản về TTHS, bao gồm các giáo trình
luật TTHS của các cơ sở đào tạo luật, các sách bình luận khoa học về luật TTHS.
Những tài liệu này cung cấp những kiến thức cơ bản về TTHS nói chung và định
giá tài sản nói riêng, cụ thể:
- Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự, NXB Tư pháp, Hà Nội (2011)
của tác giả Võ Khánh Vinh. Tại cơng trình này tác giả bình luận các quy định của
BLTTHS năm 2003, trong đó có nói khái quát về hoạt động định giá tài sản. Tuy
nhiên tác giả chỉ đưa ra các vấn đề lý luận chứ chưa đề cập đến thực tiễn áp dụng
các quy định của pháp luật về định giá tài sản trong TTHS.
- Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia sự thật
(2016) của tác giả TS. Phạm Mạnh Hùng. Tại cơng trình nghiên cứu này tác giả chỉ
mang tính khát quát chung nhất về yêu cầu định giá tài sản, chưa đi nghiên cứu sâu
về trình tự, thủ tục tiến hành hoạt động định giá tài sản, nhất là định giá tài sản trong

trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc khơng cịn.
- Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, NXB Hồng Đức, Hà
Nội (2016) của tác giả TS. Trần Văn Biên – ThS. Đinh Thế Hưng. Tại Công trình
này các tác giả bình luận các quy định về các quy định về BLTTHS năm 2015,
trong đó đưa ra cơ sở lý luận về hoạt động định giá tài sản, định giá tài sản trong
trường hợp bị thất lạc hoặc khơng cịn nhưng chưa đi sâu, phân tích việc áp dụng
các quy định của pháp luật này trong thực tiễn.
Sách chuyên khảo "Bình luận những điểm mới cơ bản của Bộ Luật Tố Tụng
Hình Sự 2015" (TS. Võ Thị Kim Oanh chủ biên (2020), NXB Hồng Đức). Nội dung
sách chun khảo đã trình bày, phân tích và có sự so sánh giữa các điều luật tương ứng


3
của hai BLTTHS (BLTTHS năm 2003 và BLTTHS năm 2015) để chỉ ra những điểm
mới cơ bản của BLTTHS năm 2015, làm sáng tỏ hơn các nội dung mới được sửa đổi,
bổ sung trong BLTTHS năm 2015, trong đó có các quy định về định giá tài sản.
Thứ hai, một số bài viết nghiên cứu chuyên sâu về định giá tài sản:
- Bài viết “Một số vướng mắc về định giá tài sản, thẩm định giá tài sản trong
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015” của ThS. Nguyễn Nam Hưng, đăng trên Tạp chí
Kiểm sát số 9/2018. Nội dung bài tạp chí đã trình bày những điểm mới về định giá
tài sản, thẩm định giá tài sản trong quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
và những vấn đề vướng mắc trong các hoạt động này.
- Bài viết “Vấn đề định giá tài sản trong tố tụng hình sự - Một số vướng mắc,
bất cập và hướng hoàn thiện” của tác giả Nguyễn Xuân Kỳ, đăng trên Tạp chí Tịa
án nhân dân điện tử ngày 01/02/2021. Tác giả bài viết đã phân tích quy định của
pháp luật về định giá tài sản, đồng thời xác định một số vướng mắc, bất cập và đề
xuất, kiến nghị những giải pháp để giải quyết.
- Bài viết “Một số điểm mới về định giá tài sản tố tụng hình sự theo Nghị
định 30/2018/NĐ-CP, có hiệu lực từ ngày 01/5/2018”, đăng trên Tạp chí Cảnh sát
nhân dân, tháng 4/2018 của tác giả Trần Thu Hiền. Các cơng trình nghiên cứu trên

là nguồn tài liệu quan trọng về hoạt động định giá tài sản; làm cơ sở để học viên
tham khảo, kế thừa và đặt ra vấn đề mới cần phải tiếp tục nghiên cứu về định giá tài
sản để chọn làm đề tài luận văn thạc sĩ. Đề tài “Định giá tài sản theo Luật tố tụng
hình sự Việt Nam” chưa trùng lặp với các cơng trình khoa học đã cơng bố.
Ngồi ra, liên quan đến vấn đề nghiên cứu cịn có các tài liệu được đăng tải
trên Internet: qua khảo sát tác giả nhận thấy có một số bài viết được đăng tải trên các
Website uy tín của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có liên quan đến kết
luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự. Có thể đề cập một số bài viết sau:
+ Trần Văn Huy, Tăng cường kiểm sát việc yêu cầu và định giá tài sản trong tố
tụng hình sự. Nguồn: />+ Đỗ Minh Tuấn, Bàn về định giá tài sản trong tố tụng hình sự, nguồn:
/>-su-6891.html. truy cập 25/7/2019;
+ Trung tâm dữ liệu quốc gia và dịch vụ về giá (Cục quản lý giá), Những nội
dung mới của Nghị định số 30/2018/NĐ-CP. Nguồn: http:// trungtamgiaquocgia.mof.
gov.vn/nhung-noi-dung-moi-cua-nghi-dinh-so-302018nd-cp-nd45529.html;


4
Nhìn chung, vấn đề định giá tài sản chưa được quan tâm nghiên cứu nhiều ở
Việt Nam, vì vậy rất ít tài liệu tham khảo. Vấn đề nghiên cứu trong luận văn này là
những vấn đề mới.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu nhằm làm rõ vấn đề nhận thức, pháp luật và thực trạng liên quan
đến căn cứ xác định giá tài sản, thời hạn định giá tài sản và kết luận định giá tài sản.
Từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động định giá tài sản
trong TTHS.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, đề tài xác định những nhiệm vụ nghiên cứu cụ
thể sau:
- Làm rõ một số vấn đề nhận thức và pháp lý về căn cứ xác định giá tài sản,

thời hạn định giá tài sản và kết luận định giá tài sản.
- Đánh giá thực trạng về căn cứ xác định giá tài sản, thời hạn định giá tài sản
và kết luận định giá tài sản và nguyên nhân.
- Kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động định giá tài sản trên cơ
sở kết quả nghiên cứu các căn cứ xác định giá tài sản, thời hạn định giá tài sản và
kết luận định giá tài sản.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đó là quan điểm nhận thức, bản chất pháp lý và thực tiễn áp dụng căn cứ xác
định giá tài sản, thời hạn định giá tài sản và kết luận định giá tài sản trong TTHS.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Đề tài chỉ nghiên cứu căn cứ xác định giá tài sản, thời hạn
định giá tài sản và kết luận định giá tài sản trong TTHS.
- Về địa bàn nghiên cứu khảo sát: địa bàn tỉnh An Giang, tỉnh Đồng Tháp và
Thành phố Cần Thơ.
- Về thời gian nghiên cứu, khảo sát: Từ năm 2016 đến năm 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Cơ sở phương pháp luận để tiếp cận vấn đề nghiên cứu là Chủ nghĩa Duy vật
biện chứng, Chủ nghĩa Duy vật lịch sử; quan điểm của Đảng và Nhà nước về chính
sách hình sự, bảo đảm quyền con người.


5
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Trong quá trình nghiên cứu đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ
thể như sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết như: phân tích, so sánh, tổng hợp để làm
rõ bản chất pháp lý, pháp luật và thực tiễn định giá tài sản trong TTHS.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn và nghiên cứu vụ án điển hình. Tác giả

khảo sát số liệu thống kê về tình hình hoạt động định giá tài sản trong TTHS và một
số vụ án điển hình trên địa bàn tỉnh An Giang, tỉnh Đồng Tháp và Thành phố Cần
Thơ (từ năm 2016 -2020). Ngoài ra, tác giả trao đổi với các cán bộ có nhiều kinh
nghiệm tham gia Hội đồng định giá tài sản để đánh giá đúng thực trạng và có giải
pháp đối với việc áp dụng các quy định liên quan đến căn cứ xác định về giá tài sản,
thời hạn định giá tài sản và kết luận định giá tài sản.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận văn được chia thành 2 chương, cụ thể:
Chương 1. Căn cứ xác định giá tài sản trong định giá tài sản.
Chương 2. Thời hạn định giá tài sản và kết luận định giá tài sản.


6
CHƯƠNG 1
CĂN CỨ XÁC ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN TRONG ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN
1.1. Nhận thức khái quát và quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về
căn cứ xác định giá tài sản
1.1.1. Nhận thức khái quát về căn cứ xác định giá tài sản
Hiện nay, theo pháp luật Hình sự của Việt Nam có rất nhiều tội danh quy định
yếu tố giá trị tài sản bị xâm phạm là một trong những dấu hiệu bắt buộc của cấu thành
tội phạm. Trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự mà hành vi phạm tội gây thiệt
hại về tài sản thì cơ quan tiến hành tố tụng cần phải xác định tính chất, mức độ thiệt
hại về tài sản do hành vi phạm tội gây ra bằng biện pháp định giá tài sản.
Định giá tài sản là biện pháp điều tra mới được quy định trong BLTTHS năm
2015. Việc xác định tính chất, mức độ thiệt hại về tài sản do hành vi phạm tội gây ra
có ý nghĩa rất quan trọng cho việc định tội, định khung, quyết định mức hình phạt
và mức bồi thường thiệt hại. Một nguồn chứng cứ để xác định tính chất, mức độ
thiệt hại về tài sản do hành vi phạm tội gây ra đó chính là bản kết luận định giá tài
sản. Định giá tài sản trong tố tụng hình sự là một phần hết sức quan trọng liên quan

đến một số loại tội phạm được quy định cụ thể trong bộ luật hình sự, việc định giá
tài sản trong tố tụng là căn cứ quan trọng trong việc xác định tội danh chính xác,
đúng quy định pháp luật. Mặt khác, định giá tài sản cũng là căn cứ để giải quyết
đồng thời các vấn đề dân sự trong vụ án hình sự từ đó đưa ra căn cứ chính xác để
người bị hại đưa ra yêu cầu bồi thường.
Theo Luật Giá năm 2012: Định giá là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền
hoặc tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh quy định giá cho hàng hóa, dịch vụ1.
Theo Từ điển tiếng Việt, thuật ngữ định giá được hiểu là “Xem xét, khảo sát, đánh
giá và kết luận về một sự vật hay hiện tượng mà cơ quan Nhà nước cần tìm hiểu và
xác định” (Viện Ngơn ngữ học năm 2003, Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng,
tr.389). Đồng thời, theo từ điển Bách Khoa Việt Nam về định giá trong ngành luật
là “Kiểm tra và kết luận về một hiện tượng hoặc một vấn đề mà cơ quan Nhà nước
cần tìm hiểu và xác định” (Nguyễn Như Ý năm 1996, Từ điển Tiếng Việt thông
dụng, NXB Giáo dục, tr.1211).
Để giải quyết những vấn đề liên quan đến tài sản trong tố tụng hình sự, theo
yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, việc định giá tài sản sẽ được tiến hành thông
1

Khoản 5, Điều 4, Văn bản hợp nhất số 10/VBHN-VPQH ngày 11tháng 12 năm 2014 về Luật Giá.


7
qua Hội đồng định giá tài sản. Định giá tài sản là hoạt động tố tụng hình sự do Hội
đồng định giá thực hiện về việc thành lập, quyền, nghĩa vụ và trình tự, thủ tục định
giá tài sản theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng nhằm xác định
giá trị của tài sản làm căn cứ để giải quyết vụ án hình sự. Việc xác định về giá tài
sản như thế nào (tùy thuộc loại tài sản, thời điểm xác định giá trị tài sản, nơi xác
định giá trị tài sản…) để làm căn cứ tính tổng thiệt hại do tội phạm gây ra, qua đó
đánh giá tính chất, mức độ phạm tội, để bồi thường, bồi hồn… là có ý nghĩa rất
quan trọng. Một trong những điều kiện để bảo đảm kết quả khách quan, tin cậy của

hoạt động định giá tài sản là căn cứ xác định về giá tài sản. Để xác định được giá
của tài sản, Hội đồng định giá tài sản phải dựa trên các căn cứ sau:
- Giá thị trường của tài sản là giá giao dịch phổ biến trên thị trường của tài
sản cần định giá hoặc tài sản tương tự với tài sản cần định giá tại thời điểm định giá
và địa điểm định giá được yêu cầu định giá.
- Giao dịch phổ biến trên thị trường là hoạt động mua, bán tài sản được tiến
hành hợp pháp và công khai trên thị trường. Một tài sản được coi là có giao dịch
phổ biến khi có ít nhất 03 tài sản tượng tự có giao dịch mua, bán trên thị trường.
Mức giá giao dịch phổ biến được thu thập là giá mua, bán thực tế của giao dịch
thành công; giá niêm yết của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch
vụ; giá chào bán, giá chào mua; giá kê khai; giá trúng thầu; giá ghi trên hóa đơn,
hợp đồng mua bán hồng hóa, dịch vụ…
+ Giá do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định, quyết định là mức
giá do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định hoặc quyết định đang có hiệu lực
áp dụng tại thời điểm được yêu cầu định giá. Trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quy định giá tối đa, giá tối thiểu, khung giá thì áp dụng mức giá cụ thể do cơ
quan hoặc đơn vị sản xuất kinh doanh quy định tại thời điểm được yêu cầu định giá;
+ Giá do doanh nghiệp thẩm định giá cung cấp là giá được xác định theo kết
quả thẩm định giá còn hiệu lực đối với tài sản được thuê thẩm định giá;
+ Giá trong tài liệu, hồ sơ hợp pháp về loại tài sản đó do các cơ quan có thẩm
quyền hoặc cơ quan yêu cầu định giá cung cấp;
+ Các căn cứ khác về giá hoặc giá trị của tài sản cần định giá là những thông
tin, tài liệu giúp xác định giá của tài sản cần định giá, như mức độ sử dụng tốt nhất
có khả năng mang lại giá trị cao nhất, hiệu quả nhất của tài sản; quan hệ cung cầu
về tài sản; ý kiến đánh giá về tài sản của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc
các tổ chức, cá nhân có kiến thức, hiểu biết về tài sản; lời khai và hồ sơ tài liệu của


8
các bên liên quan đến tài sản giá của tài sản tương tự với tài sản cần định giá trong

vụ án khác và đã được hội đồng định giá tài sản thực hiện định giá trước đó; giá của
tài sản tương tự với tài sản cần định giá thu thập được trên các trang thơng tin điện
tử chính thức của các cơ quan, tổ chức trong khu vực và trên thế giới khi Hội đồng
tiến hành mở rộng thu thập giá tại khu vực và thế giới.
Những quy định trên là căn cứ để xác định giá của tài sản nói chung, riêng
đối với những tài sản đã thất lạc hoặc khơng cịn thì việc xác định giá chủ yếu căn
cứ vào các tài liệu, chứng cứ có liên quan đến tài sản cần định giá, bao gồm:
- Lời khai của chủ sở hữu: là chủ tài sản nên biết rõ đặc điểm, tình trạng của
tài sản tại thời điểm cần định giá. Mặc dù tài sản đã thất lạc hoặc khơng cịn nhưng
lời khai của chủ sở hữu có ý nghĩa quan trọng nhằm xác định nguồn gốc, xuất xứ tài
sản, giá trị tài sản để cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể từ đó làm căn
cứ để thu thập các tài liệu có liên quan, phục vụ việc định giá.
- Lời khai người làm chứng: là lời trình bày của người biết được tài sản đã bị
thất lạc hoặc khơng cịn về tình trạng, đặc điểm tại thời điểm định giá hoặc biết được
nguồn gốc, xuất xứ của tài sản phục vụ cho việc thu thập chứng cứ để định giá.
- Các hóa đơn, chứng từ có liên quan đến tài sản: đây là một nguồn tài liệu,
chứng cứ rất quan trọng, có tính quyết định đối với việc định giá tài sản trong trường
hợp bị thất lạc hoặc khơng cịn, vì các tài liệu, chứng từ thường ghi chính xác nguồn
gốc xuất xứ, giá trị của tài sản, đặc điểm, tình trạng của tài sản như: hóa đơn mua bán
tài sản, giấy bảo hành, giấy xuất xưởng, giấy xác nhận đưa tài sản vào sử dụng, vận
hành hoặc lưu thông, giấy đăng kiểm… Các tài liệu, chứng từ tạo thuận lợi cho việc
định giá tài sản bị thất lạc hoặc khơng cịn, kết luận định giá thường khá chính xác.
Dựa vào những căn cứ trên Hội đồng tiến hành định giá tài sản và ra kết luận
định giá tài sản.
Như vậy, có thể hiểu căn cứ xác định về giá tài sản trong tố tụng hình sự là
các yếu tố được pháp luật quy định, được giao dịch thực tế làm cơ sở cho Hội đồng
định giá xem xét, đánh giá và kết luận về giá trị của loại tài sản khi tiến hành định
giá tài sản.
1.1.2. Quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về căn cứ xác định giá tài sản
Hoạt động định giá tài sản trong tố tụng hình sự trước đây được thực hiện

theo quy định tại Nghị định số 26/2005/NĐ-CP ngày 02/3/2005 của Chính phủ và
Thơng tư số 55/2006/TT-BTC ngày 22/6/2006 của Bộ Tài chính về Hội đồng định
giá tài sản trong tố tụng hình sự.


9
BLTTHS năm 2015 ra đời, đã quy định cụ thể về định giá tài sản bao gồm:
Yêu cầu định giá tài sản; thời hạn định giá tài sản; tiến hành định giá, định giá lại tài
sản; định giá tài sản trong trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc không còn; định giá lại
tài sản trong trường hợp đặc biệt; kết luận định giá tài sản; quyền của bị can, bị cáo,
bị hại, người tham gia tố tụng khác đối với kết luận định giá tài sản.
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 30/2018/NĐ-CP ngày 07/3/2018; Nghị
định số 97/2019/NĐ-CP ngày 23/12/2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị
định số 30/2018/NĐ-CP ngày 7/3/2018 để hướng dẫn thi hành Bộ luật Tố tụng hình
sự năm 2015 về định giá tài sản trong tố tụng hình sự. Theo đó, quy định chi tiết
việc thành lập và hoạt động của Hội đồng định giá tài sản; trình tự, thủ tục định giá
tài sản trong tố tụng hình sự theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng khi cần xác định giá của tài sản để giải quyết vụ án hình sự.
Để hướng dẫn thi hành Nghị định của Chính phủ về định giá tài sản, Bộ Tài
chính đã ban hành Thơng tư 43/2018/TT-BTC ngày 07/5/2018; sau đó ban hành
Thông tư 30/2020/TT-BTC ngày 17/4/2020 để hướng dẫn Nghị định số 30/2018/NĐCP ngày 07/3/2018; Nghị định số 97/2019/NĐ-CP ngày 23/12/2019, thay thế Thông
tư 43/2018/TT-BTC ngày 07/5/2018. Quy định về phân loại tài sản cần định giá, cung
cấp hồ sơ, tài liệu liên quan đến yêu cầu định giá tài sản; tiếp nhận và triển khai yêu
cầu định giá tài sản; thành lập Hội đồng định giá tài sản; quyền và nghĩa vụ của Hội
đồng định giá tài sản, Tổ giúp việc Hội đồng định giá tài sản; căn cứ định giá tài sản;
lập kế hoạch định giá tài sản; khảo sát giá, thu thập thông tin liên quan đến tài sản cần
định giá; yêu cầu khi áp dụng phương pháp định giá tài sản; chi phí định giá, định giá
lại tài sản trong tố tụng hình sự.
Như vậy, những văn bản quy phạm pháp luật trên tương ứng với từng thời
điểm văn bản có hiệu lực, chính là cơ sở pháp lý để các cơ quan có thẩm quyền xác

định căn cứ định giá tài sản đối với từng loại tài sản cụ thể trong từng thời điểm và
địa điểm nhất định. Trên cơ sở các văn bản pháp luật nêu trên, có thể hiểu căn cứ
xác định giá tài sản như sau:
Thứ nhất, xác định giá tài sản dựa vào loại tài sản:
Nghị định 30/2018/NĐ-CP ngày 07/03/2018 của Chính phủ đã chia tài sản
định giá thành hai loại là tài sản không phải là hàng cấm và tài sản là hàng cấm và
quy định cụ thể căn cứ định giá đối với từng loại. Trường hợp thu thập nguồn thông
tin về mức giá tài sản tại thời điểm khác hoặc ở địa phương khác thì mức giá đó cần
được điều chỉnh phù hợp về thời điểm và nơi tài sản được yêu cầu định giá. Đồng


10
thời, căn cứ vào loại tài sản; thông tin và đặc điểm của tài sản; tình hình khảo sát
giá, thu thập thông tin liên quan đến tài sản cần định giá, Hội đồng định giá thực
hiện định giá tài sản theo tiêu chuẩn về thẩm định giá, phương pháp định giá chung
đối với hàng hóa, dịch vụ và các tiêu chuẩn, phương pháp định giá quy định tại
pháp luật chuyên ngành liên quan đến tài sản cần định giá. Căn cứ xác định giá tài
sản cụ thể như sau:
- Xác để như sau: giá thực hiệnkhông phải là hàng cấm:
Việc định giá tài sản phải dựa trên ít nhất một trong các căn cứ định giá tài
sản quy định tại Điều 15 Nghị định số 30/2018/NĐ-CP và Điều 8 Thông tư số
30/2020/TT-BTC. Các căn cứ bao gồm:
Một là, giá thị trường của tài sản là giá giao dịch phổ biến trên thị trường của
loại tài sản cần định giá hoặc tài sản tương tự với tài sản cần định giá tại thời điểm
định giá và địa điểm định giá được yêu cầu định giá. Giao dịch phổ biến trên thị
trường là hoạt động mua, bán tài sản được tiến hành hợp pháp và công khai trên thị
trường. Một tài sản được coi là có giao dịch phổ biến khi có ít nhất 03 tài sản tương
tự có giao dịch mua, bán trên thị trường. Mức giá giao dịch phổ biến được thu thập
là giá mua, bán thực tế của giao dịch thành công; giá niêm yết của tổ chức, cá nhân
sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; giá chào bán, giá chào mua; giá kê khai; giá

trúng thầu; giá ghi trên hóa đơn, hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ...
Hai là, giá do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định, quyết định là mức
giá do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định hoặc quyết định đang có hiệu lực áp
dụng tại thời điểm được yêu cầu định giá. Trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quy định giá tối đa, giá tối thiểu, khung giá thì áp dụng mức giá cụ thể do cơ
quan hoặc đơn vị sản xuất kinh doanh quy định tại thời điểm được yêu cầu định giá.
Ba là, giá do doanh nghiệp thẩm định giá cung cấp là giá được xác định theo
kết quả thẩm định giá tại Chứng thư thẩm định giá và Báo cáo kết quả thẩm định giá
của doanh nghiệp thẩm định giá còn hiệu lực đối với tài sản được thẩm định giá.
Bốn là, giá trong tài liệu, hồ sơ hợp pháp về loại tài sản đó do các cơ quan có
thẩm quyền hoặc cơ quan yêu cầu định giá cung cấp.
Năm là, các căn cứ khác về giá hoặc giá trị của tài sản cần định giá là những
thông tin, tài liệu giúp xác định giá của tài sản cần định giá, như mức độ sử dụng tốt
nhất có khả năng mang lại giá trị cao nhất, hiệu quả nhất của tài sản; quan hệ cung
cầu về tài sản; ý kiến đánh giá về giá trị của tài sản của các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền hoặc các tổ chức, cá nhân có kiến thức, hiểu biết về tài sản; lời khai và hồ sơ


11
tài liệu của các bên liên quan đến tài sản; giá của tài sản tương tự với tài sản cần định
giá trong vụ án khác và đã được Hội đồng định giá thực hiện định giá trước đó; giá
của tài sản tương tự với tài sản cần định giá thu thập được trên các trang thơng tin
điện tử chính thức của các cơ quan, tổ chức trong khu vực và trên thế giới khi Hội
đồng định giá tiến hành mở rộng thu thập giá tại khu vực và thế giới.2
Tương ứng với từng loại tài sản, trong từng trường hợp cụ thể, Hội đồng định
giá có thể chọn một hoặc nhiều căn cứ cùng lúc để xác định giá của tài sản. Các căn
cứ xác định giá tài sản không phải là hàng cấm có giá trị như nhau, khơng có căn cứ
nào quan trọng hơn các căn cứ khác. Trường hợp có từ hai căn cứ trở lên, Hội đồng
định giá tài sản tùy theo tính chất, đặc điểm tài sản cần định giá và tình hình thơng
tin thu thập được liên quan đến tài sản để xác định thứ tự ưu tiên của các căn cứ

định giá tài sản cho hợp lý.
- Xác định giá đối với tài sản là hàng cấm:
Khác với tài sản không phải là hàng cấm, căn cứ định giá tài sản là hàng cấm
phải có mức độ ưu tiên khác nhau. Việc định giá tài sản là hàng cấm dựa trên ít nhất
một trong các căn cứ theo thứ tự ưu tiên từ trên xuống dưới như sau:
+ Giá mua bán thu thập được trên thị trường khơng chính thức tại thời điểm
và tại nơi tài sản là hàng cấm được yêu cầu định giá hoặc tại địa phương khác. Tuy
nhiên, hiện tại chưa có hướng dẫn cụ thể thế nào là thị trường khơng chính thức nên
quan điểm về việc sử dụng căn cứ này để định giá tài sản là hàng cấm có sự khác
biệt ở những địa phương khác nhau.
+ Giá ghi trên hợp đồng hoặc hóa đơn mua bán hoặc tờ khai nhập khẩu hàng
cấm (nếu có).
+ Giá do doanh nghiệp thẩm định giá cung cấp: là giá được xác định theo kết
quả thẩm định giá tại Chứng thư thẩm định giá và Báo cáo kết quả thẩm định giá của
doanh nghiệp thẩm định giá còn hiệu lực đối với tài sản được thẩm định giá. Báo cáo
kết quả thẩm định giá là văn bản do doanh nghiệp thẩm định giá lập, trong đó nêu rõ
q trình thẩm định giá, kết quả thẩm định giá và ý kiến của doanh nghiệp thẩm định
giá về giá trị của tài sản được thẩm định để khách hàng và các bên liên quan có căn
cứ sử dụng cho mục đích ghi trong hợp đồng thẩm định giá. Chứng thư thẩm định giá
Bộ Tài chính (2020), Thơng tư số 30/2020/TT-BTC ngày 17 tháng 4 năm 2020, hướng dẫn một số Điều của
Nghị định số 30/2018/NĐ-CP ngày 07 tháng 3 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết việc thành lập và
hoạt động của Hội đồng định giá tài sản; trình tự, thủ tục định giá tài sản trong tố tụng hình sự và Nghị định
số 97/2019/NĐ-CP ngày 23 tháng 12 năm 2019 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị định
số 30/2018/NĐ-CP, Hà Nội.
2


12
là văn bản do doanh nghiệp thẩm định giá lập để thông báo cho khách hàng và các
bên liên quan về những nội dung cơ bản của báo cáo kết quả thẩm định giá.

+ Giá thị trường trong khu vực hoặc thế giới của hàng cấm do cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền thơng báo hoặc cung cấp thơng tin.
+ Giá niêm yết, giá ghi trên hợp đồng hoặc hóa đơn mua bán hoặc tờ khai nhập
khẩu của tài sản tương tự được phép kinh doanh, lưu hành, sử dụng tại Việt Nam.
+ Giá thị trường trong khu vực và thế giới của tài sản tương tự được phép kinh
doanh, lưu hành, sử dụng tại các thị trường này: là giá do cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật nước sở tại được phép
thông báo, cung cấp thông tin hoặc công bố công khai trên các trang thông tin điện tử
chính thức của các cơ quan, tổ chức này theo quy định của pháp luật nước sở tại.
+ Các căn cứ khác giúp xác định giá trị của tài sản cần định giá do cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự cung cấp và chịu trách nhiệm về tính chính
xác, tin cậy của các căn cứ này3.
Quy định về xác định giá tài sản là hàng cấm đã góp phần quan trọng trong
cơng tác điều tra, khám phá, xử lý đúng người, đúng tội các vụ án, vụ việc liên quan
đến các loại hàng hóa bị Nhà nước cấm kinh doanh như: hàng cấm là các chất ma tuý
được quy định là đối tượng của các tội phạm về ma tuý: hàng cấm là vũ khí quân
dụng, là vật liệu nổ, là chất phóng xạ, là chất độc, là văn hoá phẩm đổi trụy...
Thứ hai, xác định giá tài sản dựa vào thời điểm và địa điểm xác định giá:
Các căn cứ xác định giá tài sản trong tố tụng hình sự (bao gồm tài sản là hàng
cấm và tài sản không phải là hàng cấm) được ưu tiên xác định tại thời điểm và tại
địa điểm của tài sản được yêu cầu định giá theo yêu cầu định giá của cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, trong thực tiễn phát sinh những trường
hợp không thu thập được những thông tin, tài liệu cần thiết tại đúng thời điểm hoặc
địa điểm cần định giá thì pháp luật về định giá cho phép chọn thời điểm hoặc địa
điểm gần kề để xác định giá. Cụ thể:
- Đối với trường hợp tại thời điểm được yêu cầu định giá không thu thập
được các mức giá của tài sản cần định giá hoặc tài sản tương tự thì áp dụng tại thời
điểm gần thời điểm được yêu cầu định giá nhưng không quá 02 năm (24 tháng) tính
đến thời điểm được yêu cầu định giá. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có
trách nhiệm ghi rõ thời điểm yêu cầu định giá tại văn bản yêu cầu định giá.

Chính phủ (2018), Nghị định số 30/2018/NĐ-CP ngày 07 tháng 3 năm 2018, quy định chi tiết việc thành lập
và hoạt động của Hội đồng định giá tài sản; trình tự, thủ tục định giá tài sản trong tố tụng hình sự, Hà Nội.
3


13
- Đối với trường hợp tại địa điểm được yêu cầu định giá không thu thập được
các mức giá của tài sản cần định giá hoặc tài sản tương tự thì mở rộng phạm vi thu
thập thơng tin về giá theo nguyên tắc lựa chọn thu thập tại các địa điểm từ gần đến
xa và có đặc điểm thị trường tương tự với địa điểm được yêu cầu định giá. Trường
hợp không thu thập được các mức giá của tài sản cần định giá hoặc tài sản tương tự
trong lãnh thổ Việt Nam, thì mở rộng việc thu thập giá tại khu vực và thế giới trên
các trang thông tin điện tử chính thức của các cơ quan, tổ chức sản xuất, kinh doanh
tại khu vực và thế giới.
Khi thu thập các mức giá trong các trường hợp trên, các mức giá đó cần được
điều chỉnh về thời điểm và địa điểm được yêu cầu định giá căn cứ theo phương
pháp định giá tài sản do Hội đồng định giá quyết định thực hiện theo yêu cầu khi áp
dụng phương pháp định giá, trong đó:
- Tài sản chưa qua sử dụng được xác định theo giá của tài sản giống hệt mới
hoặc tài sản tương tự mới theo hướng có điều chỉnh để phù hợp với hiện trạng của
tài sản cần định giá tại thời điểm cần định giá.
- Trường hợp sử dụng từ hai phương pháp định giá tài sản trở lên, Hội đồng
định giá cần đánh giá, phân tích, tính tốn hoặc lựa chọn để đi đến kết luận cuối
cùng về mức giá của tài sản cần định giá.
Quy định này đã góp phần tháo gỡ những khó khăn trong thực tiễn xác định
giá tài sản, qua đó góp phần giải quyết đúng đắn vụ án hình sự, vì thực tế, khơng
phải trường hợp nào các cơ quan tiến hành tố tụng cũng có thể thu thập đầy đủ
thông tin cần thiết để cung cấp cho Hội đồng định giá.
Ngoài ra, xác định giá tài sản trong một số trường hợp cụ thể còn được xác
định theo các căn cứ sau:

Một là, đối với tài sản chưa qua sử dụng: Hội đồng định giá xác định giá của
tài sản theo giá của tài sản giống hệt còn mới hoặc tài sản tương tự cịn mới (nếu
khơng có tài sản giống hệt).
Hai là, đối với tài sản đã qua sử dụng: Hội đồng định giá xác định giá của tài
sản trên cơ sở xác định giá trị thực tế của tài sản.
Ba là, đối với tài sản bị hủy hoại, hư hỏng một phần; tài sản bị hủy hoại, hư
hỏng tồn bộ nhưng vẫn có khả năng khơi phục lại tình trạng của tài sản trước khi bị
hủy hoại, hư hỏng: Trường hợp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng yêu cầu
xác định giá trị thiệt hại của tài sản bị hủy hoại, hư hỏng một phần hoặc toàn bộ,
Hội đồng định giá xác định giá trên cơ sở chi phí khơi phục lại tình trạng ban đầu
của tài sản trước khi bị hủy hoại, hư hỏng một phần hoặc toàn bộ.


14
Bốn là, đối với tài sản bị mất, thất lạc; tài sản bị hủy hoại, hư hỏng tồn bộ và
khơng có khả năng khơi phục lại tình trạng của tài sản trước khi bị hủy hoại, hư
hỏng: Hội đồng định giá xác định giá của tài sản theo hồ sơ của tài sản trên cơ sở
các thông tin, tài liệu thu thập được về tài sản cần định giá.
Năm là, đối với tài sản là hàng giả: Hội đồng định giá xác định giá tài sản theo
giá của hàng thật hoặc giá của tài sản tương tự theo quy định của Bộ luật Hình sự.
Sáu là, đối với tài sản không mua bán phổ biến trên thị trường; tài sản là kim
khí quý, đá quý, di vật, cổ vật hoặc vật có giá trị văn hóa, tơn giáo, khảo cổ, kiến
trúc, lịch sử: Hội đồng định giá xác định giá tài sản dựa trên kết quả giám định, ý
kiến đánh giá của cơ quan có thẩm quyền và chuyên gia về lĩnh vực này hoặc giá trị
ghi trong hồ sơ, tài liệu của tài sản.
Tóm lại, trong những trường hợp định giá cụ thể, Hội đồng định giá cần xác
định loại tài sản để áp dụng những căn cứ xác định tài sản cho phù hợp với quy định
của pháp luật tố tụng hình sự nói chung, các văn bản quy phạm pháp luật về định
giá tài sản hiện hành nói riêng.
1.2. Thực tiễn áp dụng căn cứ xác định giá tài sản

1.2.1. Khái quát tình hình áp dụng các quy định về căn cứ xác định giá tài sản
Qua con số thống kê trên địa bàn tỉnh An Giang, tỉnh Đồng Tháp, thành phố
Cần Thơ, từ năm 2016 đến năm 2020, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
đã thụ lý tổng cộng 33.042 vụ án hình sự có áp dụng biện pháp định giá tài sản, trong
đó có 17.646 vụ án có áp dụng biện pháp định giá tài sản không phải là hàng cấm,
chiếm tỷ lệ 53,4% (tỉnh An Giang có 5.835 vụ, chiếm tỷ lệ 33,1%; tỉnh Đồng Tháp có
4.786 vụ, chiếm tỷ lệ 27,1%; thành phố Cần Thơ có 7.025 vụ, chiếm tỷ lệ 39,8%);
15.396 vụ án có áp dụng biện pháp định giá tài sản là hàng cấm, chiếm tỷ lệ 46,6%
(tỉnh An Giang có 5.683 vụ, chiếm tỷ lệ 36,9%; tỉnh Đồng Tháp có 5.375 vụ, chiếm
tỷ lệ 34,9%; thành phố Cần Thơ có 4.338 vụ, chiếm tỷ lệ 28,2%). [xem Bảng số 1.1;
Biểu đồ số 1.1. – Phụ lục]. Căn cứ xác định giá trong các vụ án trên cụ thể như sau:
- Đối với 17.646 vụ án có áp dụng biện pháp định giá tài sản không phải là
hàng cấm trong giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020, trong đó có 1.668 vụ (chiếm
tỷ lệ 9,5%) sử dụng từ 02 căn cứ xác định giá trở lên, bao gồm:
+ Sử dụng căn cứ xác định giá là giá thị trường của tài sản là giá giao dịch
phổ biến trên thị trường của loại tài sản cần định giá hoặc tài sản tương tự với tài
sản cần định giá tại thời điểm định giá và địa điểm định giá được yêu cầu định giá:
tổng cộng có 9.069 vụ, chiếm tỷ lệ 51,4%.


15
+ Sử dụng căn cứ xác định giá là giá do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quy định, quyết định là mức giá do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định hoặc
quyết định đang có hiệu lực áp dụng tại thời điểm được yêu cầu định giá: tổng cộng
có 3.003 vụ, chiếm tỷ lệ 17,0%.
+ Sử dụng căn cứ xác định giá là giá do doanh nghiệp thẩm định giá cung cấp
là giá được xác định theo kết quả thẩm định giá tại Chứng thư thẩm định giá và Báo
cáo kết quả thẩm định giá của doanh nghiệp thẩm định giá còn hiệu lực đối với tài
sản được thẩm định giá: tổng cộng có 5.124 vụ, chiếm tỷ lệ 29,0%.
+ Sử dụng căn cứ xác định giá là giá trong tài liệu, hồ sơ hợp pháp về loại tài

sản đó do các cơ quan có thẩm quyền hoặc cơ quan yêu cầu định giá cung cấp: tổng
cộng có 2.118 vụ, chiếm tỷ lệ 12,0%.
+ Sử dụng căn cứ khác để xác định giá: Khơng có ghi nhận trường hợp nào
sử dụng căn cứ khác xác định giá [xem Bảng số 1.2; Biểu đồ số 1.2 – Phụ lục]
- Đối với 15.396 vụ án có áp dụng biện pháp định giá tài sản là hàng cấm
trong giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020, trong đó có 711 vụ (chiếm tỷ lệ 4,6%)
sử dụng từ 02 căn cứ xác định giá trở lên, bao gồm:
+ Sử dụng căn cứ xác định giá là giá mua bán thu thập được trên thị trường
khơng chính thức tại thời điểm và tại nơi tài sản là hàng cấm được yêu cầu định giá
hoặc tại địa phương khác: tổng cộng có 7.290 vụ, chiếm tỷ lệ 47,3%.
+ Sử dụng căn cứ xác định giá là giá ghi trên hợp đồng hoặc hóa đơn mua
bán hoặc tờ khai nhập khẩu hàng cấm: tổng cộng có 609 vụ, chiếm tỷ lệ 4,0%.
- Sử dụng căn cứ xác định giá là giá do doanh nghiệp thẩm định giá cung cấp:
là giá được xác định theo kết quả thẩm định giá tại Chứng thư thẩm định giá và Báo
cáo kết quả thẩm định giá của doanh nghiệp thẩm định giá còn hiệu lực đối với tài
sản được thẩm định giá: tổng cộng có 21 vụ, chiếm tỷ lệ 0,1%.
+ Sử dụng căn cứ xác định giá là giá thị trường trong khu vực hoặc thế giới
của hàng cấm do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thơng báo hoặc cung cấp thơng
tin: tổng cộng có 5.886 vụ, chiếm tỷ lệ 38,2%.
+ Sử dụng căn cứ xác định giá là giá niêm yết, giá ghi trên hợp đồng hoặc
hóa đơn mua bán hoặc tờ khai nhập khẩu của tài sản tương tự được phép kinh
doanh, lưu hành, sử dụng tại Việt Nam: tổng cộng có 837 vụ, chiếm tỷ lệ 5,4%.
+ Sử dụng căn cứ xác định giá là giá thị trường trong khu vực và thế giới của
tài sản tương tự được phép kinh doanh, lưu hành, sử dụng tại các thị trường này:
tổng cộng có 1.464 vụ, chiếm tỷ lệ 9,5%.


16
+ Sử dụng căn cứ khác để xác định giá: Khơng có ghi nhận trường hợp nào
sử dụng căn cứ khác xác định giá. [xem Bảng số 1.3; Biểu đồ số 1.3 – Phụ lục].

Qua số liệu thống kê cho thấy, căn cứ xác định giá:
- Đối với tài sản không phải là hàng cấm được Hội đồng định giá sử dụng để
định giá chủ yếu là giá thị trường của tài sản (51,4%) và giá do doanh nghiệp thẩm
định giá cung cấp (29%);
- Đối với tài sản là hàng cấm được Hội đồng định giá sử dụng để định giá chủ
yếu là giá mua bán thu thập được trên thị trường khơng chính thức tại thời điểm và
tại nơi tài sản là hàng cấm được yêu cầu định giá hoặc tại địa phương khác (47,3%)
và giá thị trường trong khu vực hoặc thế giới của hàng cấm do cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền thơng báo hoặc cung cấp thông tin (38,2%).
- Do quy định của pháp luật tố tụng hình sự về định giá tài sản chưa hướng
dẫn cụ thể các căn cứ khác nên chưa ghi nhận trường hợp nào sử dụng căn cứ khác
để định giá.
Phân tích diễn biến qua từng năm cho thấy tỷ lệ Hội đồng định giá sử dụng các
căn cứ xác định giá tài sản tăng giảm không đều trong giai đoạn khảo sát từ 2016 đến
2020. Qua toạ đàm trao đổi với các thành viên Hội đồng định giá được biết nguyên
nhân của xu hướng trên phụ thuộc vào các yếu tố chính: loại tài sản cần phải định giá,
thời hạn định giá và năng lực cá nhân của thành viên Hội đồng định giá.
1.2.2. Những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng căn cứ xác định
giá tài sản và ngun nhân
Thứ nhất, tình trạng khó khăn, thiếu thống nhất khi áp dụng căn cứ xác định
giá đối với tài sản trong những trường hợp đặc biệt.
Pháp luật tố tụng hình sự hiện hành đã quy định các căn cứ xác định giá tài
sản, phương pháp định giá tài sản cũng như làm rõ phương pháp định giá một số
trường hợp cụ thể. Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng pháp luật về định giá tài sản
phát sinh nhiều tình huống vướng mắc, khó khăn khi tiến hành định giá các loại tài
sản trong những trường hợp đặc biệt như: tài sản là gia súc, gia cầm, thú nuôi; tài
sản là động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm; tài sản là chứng thư, giấy xác định
quyền tài sản; tài sản không mua bán phổ biến trên thị trường (tài sản là quyền sở
hữu trí tuệ, tác phẩm nghệ thuật, di vật, cổ vật hoặc vật có giá trị văn hóa, tơn giáo,
khảo cổ, kiến trúc, lịch sử); tài sản khi định giá cần giám định, khi khơng có kết

luận giám định hoặc không giám định được; trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc
khơng cịn; trường hợp tài sản bị thiệt hại liên quan đến từ hai người bị hại trở lên


17
nhưng có người từ chối định giá tài sản, khơng cung cấp thông tin về tài sản cần
định giá, không yêu cầu bồi thường thiệt hại…
Thứ hai, việc xác định giá tài sản còn chủ quan, tùy tiện và chưa có sự phối
hợp giữa cơ quan chun mơn quản lý về các lĩnh vực cần định giá và cơ quan quản
lý nhà nước.
Qua trao đổi trực tiếp với các thành viên Hội đồng định giá, cho thấy còn tồn
tại những cán bộ chưa nhận thức đầy đủ về bản chất, vai trị, tầm quan trọng của cơng
tác định giá tài sản. Nhiều trường hợp chủ quan trong quyết định chọn căn cứ xác
định giá dẫn đến việc áp dụng căn cứ xác định giá không phù hợp đối với tài sản cần
định giá. Ngược lại, trong nhiều trường hợp, tuy xác định đúng căn cứ định giá nhưng
Hội đồng định giá chưa được tạo điều kiện tốt nhất về thời gian, công cụ, phương tiện
để thực hiện nhiệm vụ xác định giá theo sự phân công, thiếu sự hỗ trợ từ các cơ quan
chức năng có liên quan. Điều này tác động không nhỏ đến tổ chức và hoạt động cũng
như chất lượng, hiệu quả xác định giá tài sản. Nhận thức đúng đắn về căn cứ định giá
tài sản vừa là địi hỏi từ phía Nhà nước vừa là địi hỏi đối với cơng dân, tổ chức và
chính đội ngũ những người làm công tác định giá tài sản. Bởi vì chỉ khi nhận thức
đúng căn cứ định giá tài sản, Nhà nước mới tổ chức, quản lý tốt hoạt động định giá tài
sản; công dân và tổ chức mới biết sử dụng kết quả định giá tài sản để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình dưới các hình thức phù hợp; người định giá tài sản mới
tích cực, chủ động, tự giác, khách quan, vơ tư khi tham gia vào hoạt động định giá tài
sản để bảo vệ công lý, công bằng xã hội và uy tín, đạo đức nghề nghiệp của mình.
Ngun nhân của vướng mắc trên xuất phát từ việc xác định giá trị tài sản bị
thiệt hại, Nghị định số 30/2018/NĐ-CP ngày 07/3/2018; Nghị định số 97/2019/NĐCP ngày 23/12/2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 30/2018/NĐ-CP
ngày 7/3/2018 để hướng dẫn thi hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về định giá
tài sản trong tố tụng hình sự đã quy định việc định giá phải phù hợp với giá thị

trường của tài sản cần định giá hoặc tài sản tương tự với tài sản cần định giá tại thời
điểm và nơi tài sản được yêu cầu định giá. Một trong các căn cứ định giá tài sản là
giá thị trường của tài sản, có thể được xác định theo giá bán buôn, giá bán lẻ của tài
sản cùng loại hoặc tài sản tương tự. Quy định chung là như vậy, tuy nhiên đối với
một số tài sản có tính năng đặc biệt như trên thì việc định giá chưa được thực hiện
đúng theo quy định trên mà phần lớn dựa vào nhận thức chủ quan của các cơ quan,
người tiến hành tố tụng và thành viên Hội đồng định giá để vận dụng trong thực
tiễn. Hệ quả là việc nhận thức và vận dụng pháp luật nói trên chưa đảm bảo quyền


18
lợi của bị hại, là kẽ hở khiến tội phạm khơng bị xử lý đúng quy định. Điển hình vụ
án Hà Minh Phúc cùng đồng phạm can tội “Trộm cắp tài sản” xảy ra ngày
06/6/2016, tại huyện Châu Thành tỉnh An Giang: Phúc cùng Tâm, Trọn lấy trộm bộ
lư đồng của Hội quán Phật giáo Hòa Hảo; ngày 07/6/2016 Cơ quan cảnh sát điều tra
Công an huyện Châu Thành ra Quyết định định giá tài sản số 104 ngày 07/6/2016;
ngày 09/6/2016 Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Châu Thành
chỉ dựa vào nhận thức chủ quan của các thành viên trong hội đồng để đưa ra kết
luận về việc định giá tài sản tang vật; cụ thể: “Qua xem xét, hội đồng nhận thấy tài
sản là kim loại có giá trị, sự ăn mịn kim loại khơng đáng kể. Do đó, hội đồng thống
nhất xác định giá trị của loại tài sản như sau: Một bộ lư hương bằng đồng, cao 50cm
và hai chân đèn bằng đồng, mỗi chân cao 43 cm, đã qua sử dụng, giá trị sử dụng cịn
lại tương đương 100%, có giá trị là 2.500.000 đồng x 100% = 2.500.000 đồng.
Trong khi đó đại diện Hội qn Phật giáo Hịa Hảo khai xác định bộ lư đồng mua
giá 6.000.000 đồng, hiện cịn giá trị 70%, có giá trị là 4.000.000 đồng. Từ việc chỉ
dựa vào nhận thức chủ quan của các thành viên trong hội đồng để đưa ra kết luận về
việc định giá tài sản tang vật như vậy dẫn đến chưa đảm bảo quyền lợi của người bị
hại, là kẽ hở khiến tội phạm không bị xử lý đúng quy định.
1.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các căn cứ xác định giá tài sản
1.3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật, hướng dẫn áp dụng pháp luật về căn

cứ xác định giá tài sản
Thứ nhất, hoàn thiện quy định về quyền yêu cầu định giá tài sản của Tòa án
và quyền của những người tham gia tố tụng đối với việc đề nghị lựa chọn căn cứ
định giá tài sản.
Quy định tại Điều 215 và Điều 252 BLTTHS sự năm 2015 về quyền yêu cầu
định giá tài sản của Tịa án có sự mâu thuẫn và chưa phù hợp. Theo quy định tại
Điều 215 BLTTHS năm 2015 Tòa án được quyền yêu cầu định giá tài sản khi cần
xác định giá của tài sản để giải quyết vụ án, còn Điều 215 BLTTHS năm 2015 Tòa
án chỉ được yêu cầu định giá tài sản ngoài những trường hợp cần định giá tại Điều
215. Tuy nhiên, tại Điều 215 không liệt kê cụ thể các trường hợp cần yêu cầu định
giá tài sản mà chỉ quy định chung chung là khi cần xác định giá tài sản để giải quyết
vụ án. Như vậy, ngoài các trường hợp cần định giá theo quy định tại Điều 215
BLTTHS sự năm 2015 là trường hợp nào thì khơng thể xác định.
Để hoàn thiện quy định này cần xác định những trường hợp BLTTHS năm
2015 Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát phải yêu cầu định giá tài sản để giải quyết vụ


19
án là trường hợp nào. Ngoài trường hợp Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát u cầu thì
Tịa án được quyền yêu cầu định giá tài sản.
Khoản 3 và khoản 4 của Điều 222 BLTTHS năm 2015 quy định về quyền
của những người tham gia tố tụng đối với kết luận định giá tài sản, theo đó: bị can,
bị cáo, bị hại, người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến của mình về
kết luận định giá tài sản; được đề nghị định giá lại tài sản nhưng họ khơng có quyền
đối với việc đề nghị lựa chọn căn cứ xác định giá tài sản. Việc lựa chọn căn cứ xác
định giá phụ thuộc hoàn toàn vào quan điểm của Hội đồng định giá mà chưa có sự
thống nhất, phối hợp với những người tham gia tố tụng. Thực tế, các căn cứ xác
định giá khác nhau sẽ dẫn đến sự chênh lệch về kết quả định giá, qua đó trực tiếp
ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, bị hại hoặc người tham
gia tố tụng khác. Do đó, cần thiết phải bổ sung quyền của những người tham gia tố

tụng đối với việc đề nghị lựa chọn căn cứ định giá tài sản để đảm bảo kết luận định
giá mang tính khách quan và thống nhất, hạn chế phải định giá lại nhiều lần.
Hai là, ban hành bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật các quy định
việc căn cứ xác định giá tài sản trong trường hợp đặc biệt đã xảy ra phổ biến
trong thực tiễn.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã có những sửa đổi, bổ sung so với
BLTTHS năm 2003, quy định hẳn một chương về giám định và định giá tài sản,
đã tháo gỡ những vướng mắc cho các cơ quan tiến hành tố tụng về định giá tài
sản. Tuy nhiên, để việc áp dụng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về định giá
tài sản, cần ban hành bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật các quy định về căn
cứ xác định giá tài sản trong trường hợp đặc biệt đã xảy ra phổ biến trong thực
tiễn như:
- Bổ sung quy định về việc người bị thiệt hại về tài sản khơng đề nghị định
giá tài sản thì buộc họ phải cung cấp tài liệu, thông tin liên quan đến tài sản được
định giá để làm căn cứ xác định giá tài sản và hướng giải quyết vụ án theo quy định
của pháp luật.
- Hướng dẫn thống nhất căn cứ xác định giá trị tài sản đối với tài sản là gia
súc, gia cầm, thú nuôi, chứng thư, giấy xác định quyền tài sản… bị chiếm đoạt trái
pháp luật.
1.3.2. Giải pháp khác nâng cao hiệu quả áp dụng căn cứ xác định giá tài sản
Thứ nhất, cần đảm bảo số lượng và trình độ chun mơn của thành viên Hội
đồng định giá thường xuyên và các cán bộ chuyên môn trong lĩnh vực giá.


20
Thành viên các Hội đồng định giá thường xuyên và cán bộ chun mơn trong
lĩnh vực giá đóng vai trị quyết định đến kết quả hoạt động xác định giá tài sản. Do
đó, để đảm bảo cơng tác này đạt hiệu quả, cần thiết phải bổ sung về số lượng và
nâng cao nhận thức, trình độ nghiệp vụ chun mơn của các thành viên của Hội
đồng định giá (cả Hội đồng định giá thường xuyên và Hội động định giá theo vụ

việc). Cụ thể:
- Bố trí đủ số lượng thành viên Hội đồng định giá thường xuyên ở các 03 cấp:
cấp huyện, cấp tỉnh và cấp trung ương. Cử cán bộ đi học tập, đào tạo bậc đại học,
trên đại học trong và ngồi nước theo các chương trình học bổng của Nhà nước và
nước ngoài tài trợ; tổ chức đoàn khảo sát, học tập kinh nghiệm nước ngoài về định
giá tài sản.
- Tăng cường các hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ xác định giá đối với các
chủ thể được giao nhiệm vụ xác định giá tài sản, giúp cho họ nhận thức được tầm
quan trọng của công tác định giá nói chung và việc xác định căn cứ định giá phù
hợp nói riêng trong q trình giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Các đơn vị có thẩm
quyền cần định kỳ tổ chức 01 đến 02 buổi tập huấn bồi dưỡng công tác định giá tài
sản hàng năm ở cấp tỉnh, 01 đợt tập huấn mỗi 3-5 năm ở cấp trung ương cho lực
lượng thành viên các Hội đồng định giá thường xuyên và các cán bộ chuyên mơn
trong lĩnh vực giá.
- Bộ Tài chính cần chủ trì nghiên cứu, xây dựng và chuẩn hóa các tài liệu đào
tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ xác định giá. Trong đó hướng dẫn rõ biện pháp, cách thức,
quy trình xác định giá tài sản trong các trường hợp phổ biến cụ thể.
Thứ hai, xây dựng Trung tâm Dữ liệu quốc gia về căn cứ xác định giá tài sản.
Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước là xu
thế tất yếu, là mơ hình phổ biến của nhiều quốc gia trên thế giới. Đảng và Nhà nước
ta đã và đang thực hiện mạnh mẽ chủ trương ứng dụng công nghệ thông tin nhằm
nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cơ quan nhà nước, tăng cường cơng khai,
minh bạch thơng tin, tiết kiệm chi phí. Theo xu hướng đó, việc ứng dụng cơng nghệ
thơng tin vào công tác định giá tài sản trong tố tụng hình sự cũng mang nhiều ý
nghĩa tích cực. Cơ sở dữ liệu và các thông tin liên quan đến tài sản cần định giá
không chỉ là một trong những đầu vào tiên quyết của q trình định giá mà cịn góp
phần quyết định thời hạn, chất lượng, hiệu quả của công tác định giá tài sản. Hiện
nay, việc thiếu cơ sở dữ liệu để xác định giá và hệ thống quản lý các dữ liệu này đã
gây khó khăn về thời gian, cơng sức và kinh phí khơng nhỏ cho hoạt động xác định



×