BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
MƠN: LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỀ BÀI: 1
Tạm giữ theo quy định của BLTTHS 2015
LỚP
:
HỌ VÀ TÊN
:
MSSV
:
Hà Nội, 2022
MỤC LỤC
MỞ BÀI.............................................................................................................2
NỘI DUNG.......................................................................................................2
I.
Quy định về tạm giữ theo BLTTHS 2015...........................................2
1.
Tạm giữ là gì?....................................................................................2
2.
Đối tượng tạm giữ..............................................................................2
3.
Thẩm quyền ra lệnh tạm giữ............................................................4
4.
Thủ tục tạm giữ..................................................................................5
II. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định về tạm giữ theo BLTTHS 2015
........................................................................................................................8
1.
Nguyên nhân của những thiếu xót trong việc áp dụng biện pháp
tạm giữ........................................................................................................8
2.
Các biện pháp khắc phục những thiếu xót và hồn thiện pháp
luật về tạm giữ............................................................................................9
KẾT LUẬN.....................................................................................................11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................12
MỞ BÀI
Để tạo thuận lợi cho việc phòng chống tội phạm, pháp luật tố tụng hình
sự đã có nhiều biệ pháp để ngăn chặn hành vi phạm tội, bỏ trốn, thơng cung…
Một trong những biện pháp có tính nghiêm khắc nhất đó là tạm giữ, tạo điều
kiện cho cơ quan điều tra có đủ thì giờ thu thập tài liệu, chứng cứ, bước đầu
xác định hành vi phạm tội và lí lịch, nhân than của người phạm tội cũng như
các tình tiết khác liên quan đến vụ án làm căn cứ ra các quyết định tố tụng
khác như: khởi tố vụ án, khởi tố bị can, ra lệnh tạm giam hoặc trả tự do cho
người bị tạm giữ, áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác. Để làm rõ vấn để
trên, em xin lựa chọn đề bài 1: “Tạm giữ theo quy định của BLTTHS 2015”
để làm bài luận của mình.
Do kiến thức còn hạn chế cũng như thời gian làm bài ngắn nên bài làm
không tránh khỏi việc còn tồn tại nhiều thiếu sót. Em mong nhận được góp ý
của thầy cô để bài làm được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
NỘI DUNG
I.
Quy định về tạm giữ theo BLTTHS 2015
1. Tạm giữ là gì?
Tạm giữ người theo thủ tục tố tụng hình sự là biện pháp ngăn chặn
được quy định trong Bộ luật Tố tụng Hình sự (gọi tắt là BLTTHS), do người
có thẩm quyền áp dụng đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm
tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo
quyết định truy nã nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn người bị bắt trốn
tránh việc điều tra; để xác minh tội phạm và để quyết định việc truy cứu trách
nhiệm hình sự (khởi tố bị can) đối với họ.
2. Đối tượng tạm giữ
Theo khoản 1 Điều 117 BLTTHS 2015 tạm giữ có thể áp dụng đối với
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm
tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo
quyết định truy nã.
Thứ nhất, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp là người mà khi có căn cứ để cho rằng người đó đang
chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng; Ngươi mà người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính
mắt trơng thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy
cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn; Hoặc Khi thấy có dấu vết của tội
phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy
cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu huỷ chứng cứ. Khơng phải
mọi trường hợp bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đều áp dụng biện pháp tạm
giữ. Biện pháp này chỉ áp dụng khi xét thấy cần thiết.
Thứ hai, người phạm tội quả tang. Người phạm tội quả tang là người
đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện
hoặc bị đuổi bắt. Việc phát hiện tội phạm đang thực hiện; ngay sau khi thực
hiện tội phạm và việc đuổi bắt phải kế tục, liên tiếp về mặt thời gian.
Thứ ba, người phạm tội tự thú. Tự thú là việc người phạm tội tự nguyện
khai báo với cơ quan, tổ chức về hành vi phạm tội của mình. Việc khai báo
thực hiện trước khi tội phạm hoặc người phạm tội bị phát hiện.
Thứ tư, người phạm tội đầu thú. Đầu thú là việc người phạm tội sau khi
bị phát hiện đã tự nguyện ra trình diện và khai báo với cơ quan có thẩm quyền
về hành vi phạm tội của mình.
Thứ năm, người phạm tội bị bắt theo quyết định truy nã.
Mục đích tạm giữ là: Nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn người bị
bắt trốn việc điều tra, xác minh, và để quyết định việc khởi tố bị can, tạm
giam hoặc trả tự do cho người bị bắt.
Như vậy tạm giữ chỉ là biện pháp ngăn chặn đầu tiên và chặn đứng các
âm mưu hoặc các hoạt động phạm tội mà họ có thể tiếp tục gây ra tiếp, tạm
giữ cịn có mục đích để các cấp các cơ quan có thẩm quyền điều tra xét hỏi,
tạo điều kiện thuận lợi cho công tác điều tra để xử lý đúng người, đúng tội
khơng để xót tội phạm hoặc gây oan ức cho người vô tội.
Tuy nhiên khơng phải bất kì trường hợp nào người bị bắt trong trường
hợp phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú đều bị ra lệnh tạm giữ.
Nếu phạm tội ít nghiêm trọng, sự việc đơn giản, khơng có căn cứ cho rằng
người phạm tội bỏ trốn, thông cung, cản trở điều tra hoặc tiếp tục phạm tội, có
nơi cư trú rõ ràng thì có thể khơng bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ.
Trong trường hợp này, cơ quan có thẩm quyền phải nhanh chóng lấy lời khai,
xác minh những tình tiết có liên quan đến hành vi phạm tội, nhân thân người
phạm tội để làm căn cứ ra quyết định khởi tố bị can, áp dụng các biện pháp
ngăn chặn khác hoặc trả tự do cho người đó.
3. Thẩm quyền ra lệnh tạm giữ
Khoản 2 Điều 117 quy định: “Những người có thẩm quyền ra lệnh giữ
người quy định tại khoản 2 Điều 110 của Bộ luật này có quyền ra quyết định
tạm giữ”.
Đồng thời, tại khoản 2 Điều 110 quy định về thẩm quyền ra lệnh giữ
người trong trường hợp khẩn cấp như sau: “a) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng
Cơ quan điều tra các cấp; b) Thủ trưởng đơn vị độc lập cấp trung đoàn và
tương đương, Đồn trưởng Đồn biên phòng, Chỉ huy trưởng Biên phòng Cửa
khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đợi biên phịng tỉnh, thành phố trực truộc trung
ương, Cục trưởng Cục trinh sát biên phòng Bộ đội biên phòng, Cục trưởng
Cục phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phịng, Đồn trưởng Đồn
đặc nhiệm phịng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng; Tư lệnh vùng
lực lượng Cảnh sát biển, Cục trưởng Cục Nghiệp vụ và pháp luật lực lượng
Cảnh sát biển, Đồn trưởng Đồn đặc nhiệm phịng, chống tội phạm ma túy
lực lượng Cảnh sát biển; Chi cục trưởng Chi cục Kiểm ngư vùng; c) Người
chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng.”1
1
Khoản 2 Điều 110 BLTTHS năm 2015
Xem xét quy định này cho thấy, những chủ thể được quy định tại điểm
a và điểm b là những chủ thể thuộc cơ quan điều tra, cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
BLTTHS năm 2015 đặc cách cho các chủ thể ở điểm c Điều 110
BLTTHS có quyền ra lệnh tạm giữ vậy thì những chủ thể này ra lệnh tạm giữ
trong trường hợp nào? Bởi vì, theo quy định tại Điều 117 thì khi rơi vào
những trường hợp sau mới được giữ người đó là “Tạm giữ có thể áp dụng đối
với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp
phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt
theo quyết định truy nã.”
Đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, thì tại khoản 4 Điều
110 quy định: “Sau khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, những người
quy định tại điểm c khoản 2 Điều này phải giải ngay người bị giữ kèm theo tài
liệu liên quan đến việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp đến Cơ quan
điều tra nơi có sân bay hoặc bến cảng đầu tiên tàu trở về.”. Nếu những chủ thể
tại điểm c khoản 2 phải giải người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp ngay sau
khi cập bến thì khơng thể ra quyết định tạm giữ được.
Nếu như chủ thể tại điểm c khoản 2 Điều 110 có quyền ra lệnh giữ
người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hay người bị bắt theo quyết
định truy nã thì lại mâu thuẫn với Điều 111 và Điều 112. Công việc đầu tiên
khi bắt người đang bị truy nã hoặc phạm tội quả tang là giải ngay người bị bắt
đến cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất chứ
không quy định được phép tạm giữ trong trường hợp này. Còn đối với trường
hợp người phạm tội tự thú hoặc đầu thú với những chủ thể quy định tại điểm c
khoản 2 cũng không phải là những cơ quan, tổ chức để người phạm tội đến tự
nguyện khai báo hành vi của mình. Nên quy định tất cả những chủ thể tại
điểm c khoản 2 Điều 110 được quyền ra lệnh tạm giữ là không hợp lý.
4. Thủ tục tạm giữ
Tạm giữ là biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự, nó đụng chạm
đến quyền tự do danh dự của công dân, quyền bất khả xâm phạm về thân
thể. Ngồi ra cịn ảnh hưởng đến tâm tư tình cảm gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp khu phố hàng xóm nơi họ sinh sống làm việc. Vì vậy, việc tiến hành
hoạt động tạm giữ người phải được tiến hành theo đúng thủ tục như quy
định của pháp luật.
Việc tạm giữ phải có lệnh viết của người có thẩm quyền.Quyết định
tạm giữ phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người bị tạm giữ, lý do tạm giữ, giờ,
ngày bắt đầu và giờ, ngày hết thời hạn tạm giữ và các nội dung quy định tại
khoản 2 Điều 132 của Bộ luật này. Quyết định tạm giữ phải giao cho người
bị tạm giữ. Người thi hành quyết định tạm giữ phải thông báo, giải thích
quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ quy định tại Điều 59 của Bộ luật
này.
Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi ra quyết định tạm giữ, người ra quyết
định tạm giữ phải gửi quyết định tạm giữ kèm theo các tài liệu làm căn cứ
tạm giữ cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền. Nếu
xét thấy việc tạm giữ khơng có căn cứ hoặc khơng cần thiết thì Viện kiểm
sát ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và người ra quyết định tạm giữ
phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ. ( khoản 4 Điều 117 BLTTHS)
a. Thời hạn tạm giữ
Thời hạn tạm giữ không quá 03 ngày kể từ khi Cơ quan điều tra, cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhận người bị
giữ, người bị bắt hoặc áp giải người bị giữ, người bị bắt về trụ sở của mình
hoặc kể từ khi Cơ quan điều tra ra quyết định tạm giữ người phạm tội tự thú,
đầu thú.
Trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm
giữ nhưng không quá 03 ngày. Trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm
giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai nhưng không quá 03 ngày.
Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải được Viện kiểm sát cùng cấp
hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền phê chuẩn. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi
nhận hồ sơ đề nghị gia hạn tạm giữ, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê
chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn.
Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì Cơ quan điều
tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải trả
tự do ngay cho người bị tạm giữ; trường hợp đã gia hạn tạm giữ thì Viện kiểm
sát phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.
Thời gian tạm giữ được trừ vào thời hạn tạm giam. Một ngày tạm giữ
được tính bằng một ngày tạm giam2.
BLTTHS 2015 đã có thêm quy định mới về thời hạn tạm giữ đối với
người phạm tội tự thú, đầu thú thì thời hạn tạm giữ khơng q 03 ngày kể từ
khi Cơ quan điều tra ra quyết định tạm giữ người phạm tội tự thú, đầu
thú.Quy định này hồn tồn phù hợp, khắc phục được sự thiếu xót, chưa rõ
ràng, cụ thể của bộ luật cũ, giúp cơ quan có thẩm quyền dễ dàng áp dụng
Tuy nhiên quy định về tạm giữ còn một số vướng mắc.
Một là , trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn
tạm giữ lần thứ hai nhưng không quá 03 ngày.Vậy “trường hợp đặc biệt”
trong điều luật này là trường hợp như thê nào , quy định ra sao , quy định ở
đâu, pháp luật chưa rõ ràng và cụ thể, có thể dẫn tới sự áp dụng không thống
nhất quy định này trong việc gia hạn tạm giữ.
Hai là, mâu thuẫn về thời điểm kết thúc thời hạn tạm giữ.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 134 BLTTHS, thời hạn mà Bộ luật này
quy định được tính theo giờ, ngày, tháng, năm. Đêm được tính từ 22 giờ đến
06 giờ sáng ngày hơm sau. Khi tính thời hạn theo ngày thì thời hạn sẽ hết vào
lúc 24 giờ ngày cuối cùng của thời hạn. Trong khi đó, khoản 1 Điều 118 Bộ
luật này lại quy định “Thời hạn tạm giữ không quá 03 ngày kể từ khi Cơ quan
điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
2
Điều 118 BLTTHS 2015
nhận người bị giữ, người bị bắt hoặc áp giải người bị giữ, người bị bắt về trụ
sở của mình hoặc kể từ khi Cơ quan điều tra ra quyết định tạm giữ người
phạm tội tự thú, đầu thú”. Với quy định trên, tác giả cho rằng dường như có
sự mâu thuẫn giữa Điều 118 và Điều 134 BLTTHS về thời điểm kết thúc của
thời hạn tạm giữ.3
Trong ví dụ , CQĐT đã quyết định tạm giữ 7 đối tượng từ 8 giờ 00
phút, ngày 24/3/2021. Nếu theo Điều 118 BLTTHS thì thời hạn tạm giữ hết
vào 8h00 phút, ngày 27/3/2021; còn theo Điều 134 Bộ luật này, thời hạn tạm
giữ sẽ hết vào lúc 24h ngày 27/3/2021.4
Trong thực tiễn tạm giữ, CQĐT vẫn áp dụng Điều 118 BLTTHS để
tính thời hạn tạm giữ, nhưng để thống nhất nhận thức, tác giả đề xuất cơ quan
có thẩm quyền giải thích, hướng dẫn.5
II. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định về tạm giữ theo BLTTHS
2015
1. Nguyên nhân của những thiếu xót trong việc áp dụng biện pháp
tạm giữ
Nguyên nhân khách quan:
Thứ nhất, một số văn bản pháp luật quy định về cơng tác quản lý tạm
giữ cịn bất cập, có nhiều cách hiểu khác nhau giữa các cơ quan thi hành, gây
khó khăn trong việc áp dụng pháp luật của các cơ quan có liên quan.
Thứ hai, tình hình các loại tội phạm trong thời gian qua diễn biến phức
tạp, có chiều hướng gia tăng các loại tội phạm có tổ chức. Số lượng người bị
bắt tạm giữ năm sau tăng hơn năm trước trong khi điều kiện cơ sở vật chất nơi
giam, giữ chưa đáp ứng đủ với quy mô và yêu cầu quản lý giam giữ.
3
2,3,4 />truy cập ngày 2/6/2022.
4
5
Thứ ba, chất lượng cơng trình, diện tích buồng giữ tại Nhà tạm giữ nhỏ,
hẹp xuống cấp, hư hỏng, xây dựng đã lâu, không đáp ứng được yêu cầu quản
lý giam giữ trong tình hình mới.
Thứ tư, cán bộ, Kiểm sát viên làm cơng tác tạm giữ cịn phải kiêm
nhiệm các công tác khác dẫn đến chất lượng công việc chuyên môn và hiệu
quả công tác được giao chưa được cao.
Nguyên nhân chủ quan:
Nhận thức pháp luật trong vận dụng, thực thi pháp luật một số bộ phận
chưa thấy hết tầm quan trọng và tính chất phức tạp của khâu công tác quản lý
tạm giữ chưa tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật và quy định công tác
quản lý giam giữ.
Trình độ, năng lực cán bộ, chiến sỹ công an làm công tác tạm giữ, tạm
giam và thi hành án hình sự có thời điểm chưa đồng đều, đa phần còn kiêm
nhiệm, thường xuyên luân chuyển điều động.
2. Các biện pháp khắc phục những thiếu xót và hoàn thiện pháp
luật về tạm giữ
Xuất phát từ những vi phạm trong công tác giam giữ, cũng như những
nguyên nhân chủ yếu của những vi phạm đó và nhằm làm cho các biện pháp
ngăn chặn nói chung và biện pháp tạm giữ nói riêng phát huy được tính cực,
vai trị của nó trong việc ngăn chặn các hành vi vi phạm, giúp cho cơng tác
điều tra nhanh chóng, kịp thời, làm cho quá trình giải quyết các vụ án đúng
người đúng tội. Vì vậy có thể đưa ra các biện pháp khắc phục những thiếu xót
và hồn thiện pháp luật về tạm giữ.
Một là, tiếp tục hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung, quy định một cách cụ thể,
phù hợp hơn nữa các vấn đề như thời hạn tạm giữ, đối tượng áp dụng biện
pháp này, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho quán trình giải quyết vụ án. Nên
sửa đổi cụm từ “ 3 ngày” trong khoản 1 Điều 118 BLTTHS thành “72 giờ”
để hợp lý hơn, hoặc cần giải thích rõ khái niệm ngày để có cách hiểu thống
nhất.6
Hai là, nên sửa đổi quy định ở khoản 2 Điều 117 theo hướng như
sau: “Những người có thẩm quyền ra lệnh giữ người quy định tại điểm a và
điểm b khoản 2 Điều 110 của Bộ luật này có quyền ra quyết định tạm giữ”.
Ba là, hiện nay BLTTHS không quy định việc khi cơ quan có thẩm
quyền quyết định trả tự do cho người bị giữ thì có cần phải gửi lệnh giữ người
trong trường hợp khẩn cấp, quyết định trả tự do và những tài liệu có liên quan
cho Viện Kiểm sát hay không? Điều này gây ra nhiều cách hiểu khác nhau và
lúng túng trong áp dụng pháp luật.
Em đồng tình với quan điểm của tác giả Vũ Minh Phương khi cho
rằng: “Cần bổ sung quy định gửi hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc trả tự do
cho người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp cho Viện kiểm sát” 7. Bởi lẽ, việc
bổ sung quy định này sẽ đảm bảo sự thống nhất về nhận thức và thực tiễn áp
dụng. Đồng thời, việc làm này sẽ tạo điều kiện thuận lợi để Viện kiểm sát
thực hiện chức năng “kiểm sát chặt chẽ căn cứ giữ người”, vừa đảm bảo sự
nhất quán giữa các quy định của BLTTHS năm 2015 về chức năng, nhiệm vụ
của Viện kiểm sát trong quá trình tố tụng, vừa đảm bảo sự khách quan, hợp
lý, có căn cứ khi áp dụng biện pháp này. Đồng thời, qua đó góp phần đảm bảo
các giá trị về quyền con người, quyền cơng dân trong q trình tố tụng hình
sự.
Bốn là: vận dụng linh hoạt các phương thức kiểm sát gắn với hoạt động
thực tế ở từng đơn vị để nâng cao chất lượng công tác kiểm sát, đảm bảo kiểm
sát tồn diện, có trọng tâm, phát hiện kịp thời các vi phạm và có biện pháp xử
lý hiệu quả. Khi thực hiện nhiệm vụ kiểm sát việc tạm giữ, Kiểm sát viên
phải kịp thời nắm bắt tình hình chấp hành pháp luật trong Nhà tạm giữ, Cơ
Hoàn thiện quy định về tạm giữ trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam, Hồng Văn Hạnh, tạp chí Luật
học.Trường Đại học Luật Hà Nội, Số 7/2008, tr. 12 - 16.
7
Tiếp tục hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về biện pháp giữ người trong trường
hợp khẩn cấp, Vũ Minh Phương, Tạp chí An ninh nhân dân, số 98 (7/2020), Tr.97-99.
6
quan thi hành án hình sự nhằm phát hiện kịp thời những vi phạm pháp luật
trong việc bắt, tạm giữ,
Năm là, tăng cường kiểm sát định kỳ và đột xuất nhằm kịp thời phát
hiện vi phạm và áp dụng các biện pháp pháp luật để loại trừ vi phạm để đảm
bảo chế độ, chính sách, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, tạm
giam được thực hiện đúng quy định của pháp luật.8
KẾT LUẬN
Trong hệ thống những biện pháp cưỡng chế của tố tụng hình sự nói
chung và các biện pháp ngăn chặn nói riêng, Tạm giữu là một trong những
biện pháp quan trọng nhất được quy định ở Điều 117 BLTTHS 2015. So với
các chế định khác, tạm giữ không chỉ là công cụ, phương tiện để các cơ quan
tiến hành tố tụng sử dụng nhằm ngăn chặn các tội phạm, hoặc các hành vi gây
khó khăn trong công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, mà
chúng cịn là những biện pháp góp phần bảo đảm việc thực hiện các quyền tự
do, dân chủ của nhân dân, làm cho công dân không bị tạm giữ một cách tùy
tiện, trái pháp luật.
8
truy cập ngày 3/6/2022.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật tố tụng hình sự 2015;
2. Hồn thiện quy định về tạm giữ trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt
Nam, Hồng Văn Hạnh, tạp chí Luật học, Trường đại học Luật Hà Nội, số
7/2008;
3. Tiếp tục hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
về biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, Vũ Minh Phương, Tạp
chí An ninh nhân dân, số 98 (7/2020);
4. />5. />module=tinhoatdong&act=view&cat=40&id=1420