Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Sự sụp đổ của ngân hàng northern rock và bài học kinh nghiệm đối với việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 97 trang )




TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
o0o





KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP


Đề tài:

SỰ SỤP ĐỔ CỦA NGÂN HÀNG NORTHERN ROCK
VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM





Sinh viên thực hiện : Bùi Thị Mai Hƣơng
Lớp : Pháp 4
Khoá : 44
Giáo viên hướng dẫn : Lê Thị Thanh






Hà Nội, 5/2009


1
MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 5
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG KINH DOANH
NGÂN HÀNG 6
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ RỦI RO TRONG KINH DOANH
NGÂN HÀNG 6
1. ĐẶC TRƯNG TRONG KINH DOANH NGÂN HÀNG 6
2. CÁC LOẠI RỦI RO TRONG KINH DOANH NGÂN HÀNG 8
3. ẢNH HƯỞNG CỦA RỦI RO TRONG KINH DOANH NGÂN
HÀNG 13
II. QUẢN LÝ RỦI RO 14
1. QUẢN LÝ RỦI RO LÃI SUẤT. 14
2. QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG 15
3. QUẢN LÝ RỦI RO THANH KHOẢN 17
4. QUẢN LÝ CÁC RỦI RO KHÁC 19
III. SỰ SỤP ĐỔ CỦA MỘT SỐ NGÂN HÀNG Ở MỸ 20
1. INDYMAC 20
2. LEHMAN BROTHERS 24
3. WASHINGTON MUTUAL 29
CHƯƠNG II: QUÁ TRÌNH SỤP ĐỔ CỦA NORTHERN ROCK VÀ BÀI HỌC
KINH NGHIỆM 33
I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ NORTHERN ROCK 33

1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN 33
2. MÔ HÌNH HUY ĐỘNG VỐN CỦA NORTHERN ROCK 36
II. QUÁ TRÌNH SỤP ĐỔ CỦA NORTHERN ROCK 39
1. NHỮNG DẤU HIỆU ĐÁNG LO NGẠI ĐẦU TIÊN 39


2
2. KHỦNG HOẢNG THANH KHOẢN 43
3. QUÁ TRÌNH TÌM GIẢI PHÁP 50
III. NGUYÊN NHÂN THẤT BẠI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM 57
1. NGUYÊN NHÂN THẤT BẠI 57
2. BÀI HỌC KINH NGHIỆM 66
CHƯƠNG III: BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM 70
I. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHÒNG NGỪA VÀ ĐỐI PHÓ VỚI
RỦI RO TRONG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM 70
1. DIỄN BIẾN HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT
NAM TỪ NĂM 2007 ĐẾN NAY 70
2. NHỮNG HẠN CHẾ TRONG CÔNG TÁC QUẢN LÝ RỦI RO
CỦA CÁC NGÂN HÀNG VIỆT NAM 75
3. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT TÀI CHÍNH Ở VIỆT
NAM 78
4. VAI TRÒ CỦA BẢO HIỂM TIỀN GỬI VIỆT NAM TRONG HỆ
THỐNG GIÁM SÁT TÀI CHÍNH 80
II. BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM 82
1. NÂNG CAO CÔNG TÁC QUẢN LÝ RỦI RO TẠI CÁC NGÂN
HÀNG 83
2. XÂY DỰNG HỆ THỐNG GIÁM SÁT TÀI CHÍNH QUỐC GIA
HIỆU QUẢ 86
3. NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA BẢO HIỂM TIỀN GỬI VIỆT NAM 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO 94

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ 96



3
LỜI MỞ ĐẦU

Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Năm 2008 là một bức tranh ảm đạm của nền kinh tế thế giới dưới sự
ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính. Cựu chủ tịch Cục Dự trữ Liên
bang Mỹ đã gọi cuộc khủng hoảng này là “cơn bão tài chính” nghiêm trọng
nhất từ trước đến nay. Cuộc khủng hoảng đã gây ra sự sụp đổ dây chuyền của
một loạt các tổ chức tài chính lớn mạnh ở Mỹ như Lehman Brothers, Merrill
Lynch, Washington Mutual, AIG, Fannie Mae và Freddie Mac… Và nạn nhân
đầu tiên của cuộc khủng hoảng tại Anh là ngân hàng Northern Rock - ngân
hàng cho vay thế chấp lớn thứ năm ở nước này.
Tình trạng đóng băng của thị trường tiền tệ liên ngân hàng và sự mất
lòng tin từ phía khách hàng đã khiến Norhthern Rock nhanh chóng rơi vào
tình trạng khủng hoảng thanh khoản. Và hình ảnh hàng nghìn người xếp hàng
dài trước các chi nhánh của Northern Rock để rút tiền đã trở thành một trong
những hình ảnh đáng nhớ nhất và đáng kinh hoàng nhất năm 2007 nếu không
muốn nói là của cả một thập kỉ Không ai có thể tin được rằng điều này lại có
thể xảy ra tại nước Anh vào thế kỉ 21. Đó cũng là minh chứng sống động
chứng minh cho lịch sử thấy điều gì sẽ xảy ra khi niềm tin của dân chúng vào
một ngân hàng biến mất.
Việt Nam đang trong quá trình cải cách hệ thống tài chính ngân hàng
theo hướng mở cửa và hiện đại hóa. Do đó, mặc dù không phải chịu ảnh
hưởng trực tiếp từ cuộc khủng hoảng thì những bài học rút ra từ sự sụp đổ của
Northern Rock vẫn rất có ý nghĩa thời sự, cần được nghiên cứu, học tập một
cách nghiêm túc để không có hiện tượng “Northern Rock thứ hai” xảy ra tại

Việt Nam. Vì vậy, em đã quyết định chọn đề tài “Sự sụp đổ của ngân hàng


4
Northern Rock và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam” cho khóa luận của
mình.
Trong khóa luận này, em đã cố gắng tổng kết toàn bộ quá trình từ khi
còn là một ngân hàng thành công với mức tăng trưởng hàng năm đáng mơ
ước cho đến khi bị thua lỗ nặng nề và bị quốc hữu hóa của Northern Rock. Để
có cái nhìn toàn diện và khái quát hơn, khóa luận cũng bao gồm cả những
kiến thức tổng quan về quản trị rủi ro trong lĩnh vực ngân hàng và sự sụp đổ
của một vài ngân hàng ở Mỹ. Cuối cùng, từ những nội dung đã phân tích ở
trên kết hợp với tình hình thực tiễn ở Việt Nam, em xin đưa ra một số kiến
nghị góp phần nâng cao hiệu quả của công tác phòng ngừa và đối phó với rủi
ro trong kinh doanh ngân hàng ở Việt Nam.
Bên cạnh việc vận dụng những kiến thức đã thu nhận được từ 4 năm
học tập tại trường đại học Ngoại Thương, để hoàn thành khóa luận này, em đã
nghiên cứu, sử dụng rất nhiều tài liệu tham khảo từ sách báo, tạp chí, các
website, cũng như các gợi ý, hướng dẫn của các giảng viên, đặc biệt là cô Lê
Thị Thanh.
Kết cấu của khóa luận bao gồm 3 chương:
Chương I: Tổng quan về quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
Chương II: Quá trình sụp đổ của Northern Rock và bài học kinh
nghiệm
Chương III: Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn các giảng viên trường đại học
Ngoại Thương, đặc biệt là cô Lê Thị Thanh đã tận tình hướng dẫn, giúp em
hoàn thành khóa luận này.



5
DANH MC CC CH VIT TT

1. BHTG
Bo him tin gi
2. DIV
C quan Bo him tin gi Vit Nam
3. FDIC
Tp on Bo him tin gi Liờn bang
4. FED
Cc D tr Liờn bang M
5. FSA
C quan Dch v Ti chớnh ca Anh
6. NFSC
y ban Giỏm sỏt Ti chớnh quc gia
7. MBS
Chng khoỏn m bo bng ti sn th chp
8. OTS
y ban Giỏm sỏt Tit kim ca M
9. TCTD
Tổ chức tín dụng
10. TSC
Tài sản có
11. TSN
Tài sản nợ
12. TTLNH
Thị tr-ờng liên ngân hàng
13. TTM
Thị tr-ờng mở
14. WaMu

Ngân hàng Washington Mutual



6
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG
KINH DOANH NGÂN HÀNG
Cuộc khủng hoảng tài chính đã gây ra hậu quả nặng nề cho hệ thống
ngân hàng ở Mỹ cũng như các nước khác trên thế giới khi nó đã làm cho hàng
loạt các ngân hàng lâm vào tình trạng khó khăn, thậm chí phải phá sản, bị
quốc hữu hóa hoặc bị mua lại. Ngoài những nguyên nhân khách quan cũng
như các yếu tố mang tính chu kỳ thì hầu hết các ngân hàng này bị sụp đổ là do
những quyết định kinh doanh tiềm ẩn rủi ro quá lớn của họ. Do đó, để có cơ
sở lý luận vững chắc trong việc phân tích sự sụp đổ của ngân hàng Northern
Rock, thì trước hết, chúng ta sẽ đi vào nghiên cứu những kiến thức cơ bản về
quản lý rủi ro trong kinh doanh ngân hàng sau đây.
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ RỦI RO TRONG KINH DOANH
NGÂN HÀNG
Để một nền kinh tế phát triển lành mạnh, tốc độ tăng trưởng cao, bền
vững đòi hỏi các ngân hàng luôn phải làm tốt công tác luân chuyển vốn từ
những người tiết kiệm đến các nhà đầu tư, sản xuất. Hoạt động của ngân hàng
có ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế và ảnh hưởng của nó mang tính
dây chuyền, lây lan và sâu rộng. Vì vậy, ngân hàng là một loại hình kinh
doanh đặc biệt và những rủi ro trong lĩnh vực này cũng mang tính đặc thù,
khác với các ngành nghề kinh doanh khác.
1. Đặc trưng trong kinh doanh ngân hàng
Hoạt động kinh doanh của ngân hàng có những đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, ngân hàng là kênh dẫn vốn quan trọng trong nền kinh tế.
Ngân hàng đóng vai trò làm trung gian giữa người có vốn nhàn rỗi và người
thiếu vốn để phát triển sản xuất, kinh doanh. Tại các nước đang phát triển, nơi

thị trường tài chính chưa phát triển, thì kênh dẫn vốn qua ngân hàng là kênh


7
cơ bản, cung cấp vốn giữa nhà đầu tư và doanh nghiệp, dân cư. Ngày nay, có
rất nhiều tổ chức cung cấp dịch vụ ngân hàng ra đời và phát triển. Song ngân
hàng vẫn là trung gian tài chính quan trọng nhất cung cấp vốn ngắn, trung và
dài hạn cho nền kinh tế.
Thứ hai, hoạt động của ngân hàng có tính nhạy cảm cao và luôn chịu
sự giám sát chặt chẽ của pháp luật. Kinh doanh ngân hàng dựa trên niềm tin,
vì vậy tính nhạy cảm trong kinh doanh rất cao. Chỉ cần một biến động nhỏ
cũng có thể gây tác động đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng (ví dụ như
một sự thay đổi nhỏ về lãi suất cũng có thể dẫn đến sự dịch chuyển khách
hàng từ ngân hàng này sang ngân hàng khác). Nếu ngân hàng hoạt động tốt sẽ
góp phần tiết kiệm các nguồn lực, giảm thiểu chi phí cho xã hội, tạo điều kiện
cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển bền vững. Ngược lại, khi ngân hàng
bị phá sản sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến những người gửi tiền, và sự phá sản của
ngân hàng luôn có hiệu ứng dây chuyền, lây lan và tác động xấu tới đời sống
kinh tế - xã hội. Do hậu quả của việc phá sản của ngân hàng đến hoạt động
kinh tế cho nên hoạt động kinh doanh của ngân hàng phải được giám sát chặt
chẽ, thường xuyên. Những quy chế giám sát phổ biến là: quy chế về an toàn
trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, quy chế về phân phối tín dụng, quy
chế về bảo vệ nhà đầu tư…
Thứ ba, các sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng mang tính tương đồng,
dễ bắt chước và gắn với yếu tố thời gian. Các sản phẩm và dịch vụ mà ngân
hàng cung cấp cho khách hàng rất đa dạng nhưng phần lớn các sản phẩm của
mỗi ngân hàng này lại tương đồng với các sản phẩm của các ngân hàng khác,
đặc biệt là các sản phẩm truyền thống như cho vay, huy động vốn, thanh
toán… Nếu một ngân hàng vừa thực hiện một loại dịch vụ nào đó có hiệu quả
thì ngay lập tức có thể bị các ngân hàng khác thực hiện theo. Như vậy, khái

niệm sản phẩm, dịch vụ mới của ngân hàng chỉ được hiểu là sản phẩm, dịch
vụ mà ngân hàng đó đưa ra thị trường trước các đối thủ cạnh tranh. Mặt khác,


8
thời gian chính là yếu tố quan trọng thể hiện giá trị của sản phẩm, đồng thời
cũng là một trong những yếu tố quyết định giá cả của sản phẩm dịch vụ ngân
hàng. Vì vậy, các sản phẩm của ngân hàng luôn gắn chặt với yếu tố thời gian.
Thứ tư, khách hàng của ngân hàng rất đông đảo và đa dạng. Khách
hàng của ngân hàng rất đa dạng nên những đòi hỏi của họ đối với các sản
phẩm dịch vụ của ngân hàng cũng rất khác nhau. Vì vậy, mỗi ngân hàng phải
nghiên cứu, xây dựng chiến lược khách hàng cho phù hợp.
Thứ năm, tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản rất thấp. So với các
loại hình doanh nghiệp khác, ngân hàng có tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài
sản rất thấp, con số này theo quy định chỉ là 4%. Trong khi vốn huy động từ
dân cư và các tổ chức thường có thời hạn ngắn thì nhu cầu vốn của các doanh
nghiệp thường rất lớn và có thời gian dài hơn. Chính sự khác biệt giữa nhu
cầu vốn huy động và vốn cho vay đã khiến cho các ngân hàng rất dễ gặp phải
các rủi ro như rủi ro lãi suất, rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản,… Vì vậy,
kinh doanh ngân hàng gắn liền với yếu tố rủi ro. Rủi ro trong kinh doanh ngân
hàng có tính chất lan truyền và để lại hậu quả to lớn, không chỉ ảnh hưởng
đến hoạt động của ngành mà còn ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực khác trong
nền kinh tế, không chỉ trong phạm vi một quốc gia mà còn ảnh hưởng đến
nhiều quốc gia khác.
2. Các loại rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
Trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động kinh doanh đều chứa đựng
những rủi ro tiềm ẩn. Hoạt động kinh doanh ngân hàng cũng không tránh khỏi
rủi ro. Vậy rủi ro là gì? Rủi ro là sự kiện xảy ra ngoài ý muốn và ảnh hưởng
xấu đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Do đặc điểm về đối tượng kinh
doanh, về tính hệ thống nên kinh doanh trong ngân hàng tiềm ẩn rủi ro cao

hơn so với các doanh nghiệp kinh doanh trong các lĩnh vực khác. Những rủi


9
ro mà ngân hàng thường gặp phải là: rủi ro lãi suất, rủi ro tín dụng, rủi ro
thanh khoản và các loại rủi ro khác…
2.1. Rủi ro lãi suất
Lãi suất là giá cả của sản phẩm ngân hàng nên có tác động trực tiếp đến
giá trị tài sản có (TSC) và tài sản nợ (TSN) của ngân hàng. Mọi sự thay đổi lãi
suất đều có ảnh hưởng đến sự tăng, giảm thu nhập, chi phí và lợi nhuận của
ngân hàng. Nếu thu nhập từ lãi suất không lớn hơn chi phí và lãi thì ngân
hàng sẽ gặp rủi ro về lãi suất. Rủi ro lãi suất bao gồm hai loại:
- Rủi ro lãi suất tái tài trợ TSN hoặc tái đầu tư TSC.
Nếu ngân hàng duy trì TSC có kỳ hạn dài hơn so với TSN thì ngân
hàng luôn đứng trước rủi ro về lãi suất trong việc tái tài trợ đối với TSN khi
lãi suất tăng. Ngược lại, ngân hàng luôn gặp rủi ro về lãi suất tái đầu tư (tái
cho vay) TSC trong trường hợp TSC có kỳ hạn ngắn hơn so với TSN khi lãi
suất giảm.
- Rủi ro giảm giá trị tài sản
Giá trị thị trường của TSC hay TSN đều dựa trên khái niệm giá trị hiện
tại của tiền tệ. Do đó, nếu lãi suất thị trường tăng lên thì mức chiết khấu giá trị
tài sản cũng tăng lên làm cho giá trị hiện tại của TSC và TSN giảm xuống.
Ngược lại, nếu lãi suất thị trường giảm thì giá trị của TSC và TSN sẽ tăng lên.
Do đó, kỳ hạn của TSC và TSN không cân xứng nhau là nguyên nhân
chính gây nên rủi ro lãi suất đối với các ngân hàng, chẳng hạn như khi TSC
có kỳ hạn dài hơn TSN thì khi lãi suất thị trường tăng, giá trị của TSC sẽ giảm
nhanh hơn và nhiều hơn TSN.
Trong cơ chế thị trường, lãi suất luôn biến động, quá trình này có thể
gây tổn thất cho ngân hàng. Chẳng hạn, ngân hàng đã ký hợp đồng cho vay kỳ
hạn với lãi suất cố định, sự thiệt hại của ngân hàng sẽ diễn ra khi lãi suất thị

trường tăng lên. Ngược lại, khi nhận vốn với một thời hạn và lãi suất ấn định,
ngân hàng sẽ bị thiệt hại khi lãi suất thị trường giảm xuống.


10
Rủi ro lãi suất là loại rủi ro do sự biến động của các yếu tố trên thị
trường tiền tệ. Rủi ro lãi suất xảy ra trong các trường hợp sau:
- Lạm phát tăng, lãi suất buộc phải điều chỉnh theo xu hướng tăng lên,
chi phí của ngân hàng do đó cũng tăng lên, và làm giảm thu nhập của ngân
hàng. Khi lạm phát cao thường có lợi cho người vay vốn, bất lợi đối với
người cho vay.
- Do cơ cấu của TSC và TSN của ngân hàng không hợp lý. Ngân hàng
dùng TSN ngắn hạn để đầu tư cho TSC dài hạn. Nếu lãi suất ngắn hạn tăng,
chi phí ngân hàng tăng lên, trong khi thu nhập của TSC dài hạn vẫn giữ
nguyên, như vậy thu nhập của ngân hàng không đủ để bù đắp chi phí kinh
doanh, dẫn đến ăn mòn vào vốn.
- Ngoài ra, rủi ro lãi suất còn có thể xảy ra do tác động bởi các yếu tố
như cung, cầu, yếu tố thị trường; hoặc khi nhà nước có quyết định điều chỉnh
lãi suất…
2.2. Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là rủi ro phát sinh khi một hoặc các bên tham gia hợp
đồng tín dụng không có khả năng thanh toán cho các bên còn lại. Đối với
ngân hàng, rủi ro tín dụng phát sinh trong trường hợp ngân hàng không thu
được đầy đủ cả gốc lẫn lãi của các khoản cho vay hoặc là việc thanh toán nợ
gốc và lãi vay không đúng hạn. Nếu tất cả các khoản cho vay của ngân hàng
đều được thanh toán đầy đủ và đúng hạn cả gốc và lãi thì ngân hàng không bị
rủi ro tín dụng. Ngược lại, nếu người vay tiền không có khả năng trả nợ hoặc
cố ý không trả nợ thì rủi ro tín dụng nảy sinh.
Rủi ro tín dụng không chỉ giới hạn ở hoạt động cho vay mà còn bao
gồm các hoạt động mang tính chất tín dụng khác của ngân hàng như hoạt

động bảo lãnh, tài trợ ngoại thương, cho thuê tài chính…
Rủi ro tín dụng là rủi ro cơ bản nhất của ngân hàng. Nguyên nhân gây
ra rủi ro tín dụng thường do:


11
- Người vay vốn lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính nên không có
đủ khả năng thanh toán nợ cho ngân hàng.
- Do thiếu thông tin về khách hàng nên ngân hàng đã cho những khách
hàng kinh doanh kém hiệu quả vay vốn, dẫn đến việc thu nợ gặp khó khăn,
đến hạn khách hàng không trả được nợ cho ngân hàng.
- Cán bộ ngân hàng bất cập về trình độ hoặc vi phạm đạo đức trong
kinh doanh, dẫn đến cho vay khống, cho vay không đúng mục đích, thẩm định
dự án đầu tư, phương án kinh doanh không chính xác.
- Giá trị tài sản đảm bảo tiền vay không đáp ứng được yêu cầu thu nợ
của ngân hàng.
- Ngân hàng quá chú trọng vào lợi tức, đặt kỳ vọng vào lợi tức cao hơn
khoản cho vay lành mạnh.
Mức độ rủi ro của tín dụng thường được đánh giá qua các chỉ tiêu như:
Tỷ lệ nợ quá hạn/Tổng dư nợ, Tỷ lệ nợ khó đòi/Tổng dư nợ quá hạn,… Các
chỉ tiêu này có kết quả càng nhỏ thì thể hiện chất lượng tín dụng của ngân
hàng càng cao và rủi ro tín dụng của ngân hàng càng thấp.
2.3. Rủi ro thanh khoản
Rủi ro thanh khoản là rủi ro nguy hiểm nhất của một ngân hàng, có liên
quan đến sự sống còn của ngân hàng đó. Một ngân hàng hoạt động bình
thường phải đảm bảo được khả năng thanh khoản, tức là phải đáp ứng được
các nhu cầu thanh toán trong hiện tại, tương lai và các nhu cầu thanh toán đột
xuất. Nếu không đáp ứng được các nhu cầu thanh toán đó, ngân hàng có thể bị
mất khả năng thanh khoản và có nguy cơ phá sản.
Đặc trưng cơ bản của rủi ro thanh khoản là tính lỏng của TSC thấp hơn

TSN nên ngân hàng có thể không đáp ứng được đầy đủ các nhu cầu thanh
toán. Rủi ro thanh khoản xuất hiện do hai nguyên nhân chính, đó là nguyên
nhân từ phía TSC và nguyên nhân từ phía TSN.


12
Nguyên nhân từ phía TSN phát sinh do ngân hàng không đáp ứng được
các nhu cầu thanh toán nên buộc phải nhượng bán các tài sản khác với giá
thấp hơn giá thị trường. Mặt khác, để có thu nhập cao, hầu hết các ngân hàng
đều giảm dự trữ tiền mặt, và tăng đầu tư vào các tài sản có tính thanh khoản
thấp, thời hạn dài. Do vậy, khi những người gửi tiền đồng thời có nhu cầu rút
tiền ngay lập tức thì ngân hàng rất dễ bị rủi ro.
Nguyên nhân từ phía TSC phát sinh trong trường hợp một số khoản tín
dụng đã cấp không được hoàn trả đúng hạn. Trong khi vốn huy động đã đến
hạn thanh toán và các hợp đồng tín dụng đã ký hết hạn giải ngân. Trong
trường hợp này, ngân hàng phải tìm ngay các nguồn vốn khác để tài trợ. Để
đáp ứng kịp thời các nhu cầu thanh toán phát sinh buộc ngân hàng phải sử
dụng tiền mặt dự trữ, hoặc bán các tài sản có khác, hoặc đi vay từ bên ngoài.
Điều này lại có thể dẫn đến các rủi ro về tài sản nợ cho ngân hàng, hoặc làm
giảm thu nhập, tăng chi phí của ngân hàng.
Ngoài ra còn có thể do kẻ gian cố ý làm chứng từ giả, truy cập vào
mạng của ngân hàng để ăn cắp tiền, nếu không được phát hiện kịp thời thì rủi
ro thanh toán sẽ nảy sinh.
2.4. Các rủi ro khác
Ngoài những rủi ro cơ bản trên, hoạt động kinh doanh ngân hàng còn
gặp phải các rủi ro khác như:
- Rủi ro hối đoái: là rủi ro do sự biến động của tỷ giá hối đoái gây ra.
Những rủi ro này có thể phát sinh trong tất cả các nghiệp vụ liên quan đến
ngoại tệ của ngân hàng như: cho vay, huy động vốn bằng ngoại tệ; mua bán
ngoại tệ; đầu tư chứng khoán bằng ngoại tệ…

- Rủi ro môi trường: là rủi ro do môi trường hoạt động của ngân hàng
gây nên, bao gồm: rủi ro do sự biến động về thiên nhiên (lũ lụt, động đất), rủi
ro về kinh tế (khủng hoảng, suy thoái kinh tế), rủi ro do sự thay đổi chính
sách pháp luật của nhà nước gây bất lợi cho ngân hàng. Rủi ro môi trường là


13
rủi ro mà ngân hàng khó có thể kiểm soát được, chúng có thể làm suy yếu khả
năng chịu đựng rủi ro của ngân hàng hoặc gây cho ngân hàng những thiệt hại
về tài chính.
- Rủi ro về công nghệ: loại rủi ro này thường xảy ra trong trường hợp
ngân hàng đã đầu tư lớn vào phát triển công nghệ nhưng hiệu quả sử dụng lại
không cao, không tiết kiệm chi phí cho ngân hàng như mong muốn; hoặc hệ
thống của ngân hàng gặp trục trặc làm ảnh hưởng đến việc điều hành hoạt
động kinh doanh của ngân hàng gây ra những tổn thất nhất định.
- Các rủi ro khác như: rủi ro hoạt động, rủi ro quốc gia…
3. Ảnh hưởng của rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
Cũng như mọi doanh nghiệp khác, ngân hàng cũng có thể gặp rủi ro và
có thể bị mất vốn. Nhưng do kinh doanh trong lĩnh vực đặc biệt nên rủi ro
trong kinh doanh ngân hàng không chỉ ảnh hưởng đến bản thân ngân hàng đó
mà còn gây tác động xấu đến nền kinh tế - xã hội. Cụ thể:
- Rủi ro xảy ra tạo cho ngân hàng những tổn thất về mặt tài chính.
Bất kỳ một rủi ro nào xảy ra cũng gây ra những tổn thất về tài chính
cho ngân hàng: hoặc làm tăng chi phí hoạt động cho ngân hàng, hoặc làm
giảm thu nhập của ngân hàng. Nếu thu không đủ chi, ngân hàng sẽ bị lỗ,
nghiêm trọng hơn, ngân hàng có thể bị phá sản. Nhưng, rủi ro và tổn thất là
điều khó có thể tránh khỏi trong việc tìm kiếm lợi nhuận, hoạt động nào có
khả năng sinh lợi cao thì bao giờ cũng tiềm ẩn rủi ro lớn. Vì vậy, các ngân
hàng cần phải cân nhắc kĩ càng trong việc lựa chọn phương án kinh doanh
nhằm đạt được sự cân bằng hợp lý giữa rủi ro, tổn thất và lợi nhuận.

- Rủi ro xảy ra làm giảm uy tín của ngân hàng.
Những thiệt hại về uy tín của ngân hàng, làm mất lòng tin của công
chúng là những tổn thất còn lớn hơn rất nhiều so với những tổn thất về mặt tài
chính. Các thua lỗ trong hoạt động của ngân hàng luôn có ảnh hưởng bất lợi


14
đến niềm tin của khách hàng. Và khi khách hàng đã thiếu tin tưởng vào khả
năng kinh doanh của ngân hàng, hoặc nghi ngờ ngân hàng mất khả năng thanh
toán, họ sẽ đồng loạt rút tiền gửi ra khỏi ngân hàng, dẫn đến việc đổ bể tài
chính hoặc phá sản của ngân hàng.
- Rủi ro còn gây ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế - xã hội.
Các thua lỗ của ngân hàng nếu nghiêm trọng có thể làm cổ đông mất
vốn đầu tư, những người gửi tiền mất đi những khoản tiền tiết kiệm mà suốt
đời mới dành dụm được. Tình trạng tài chính xấu của một ngân hàng còn có
thể tạo ra sự nghi ngờ của những người gửi tiền về sự ổn định và khả năng
thanh toán của cả hệ thống ngân hàng, gây tác động xấu đến tình hình tài
chính của các ngân hàng khác, kéo theo phản ứng dây truyền và phá vỡ tính
ổn định của thị trường tài chính.
II. QUẢN LÝ RỦI RO
Quản lý rủi ro luôn là hoạt động trung tâm trong các tổ chức tài chính -
ngân hàng, bởi kiểm soát và quản lý rủi ro chặt chẽ đồng nghĩa với việc sử
dụng một cách có hiệu quả nguồn vốn hoạt động. Mặt khác, trong nền kinh tế
thị trường, nếu không chấp nhận rủi ro thì không thể tạo ra các cơ hội đầu tư
và kinh doanh mới. Do đó, quản lý rủi ro là một yêu cầu tất yếu đặt ra trong
quá trình tồn tại và phát triển của các ngân hàng. Tuy vậy, quản lý rủi ro trong
kinh doanh ngân hàng luôn là công việc khó khăn, phức tạp.
1. Quản lý rủi ro lãi suất.
Như đã trình bày ở trên, nguyên nhân chính gây ra rủi ro lãi suất cho
các ngân hàng là sự không cân xứng về kì hạn của TSC và TSN. Có thể thấy

rõ ràng là nếu ngân hàng duy trì sự cân xứng về kỳ hạn của TSC và TSN thì
có thể hạn chế được rủi ro lãi suất. Tuy nhiên, trong thực tế phần lớn các ngân
hàng đều có kỳ hạn của TSC dài hơn kỳ hạn của TSN vì ngân hàng thường sử


15
dụng một phần nguồn vốn ngắn hạn để đầu tư, cho vay trung và dài hạn.
Trong trường hợp này, ngân hàng có thể phòng chống rủi ro lãi suất bằng
cách áp dụng chính sách lãi suất thay đổi với những khoản vay lớn, có kỳ hạn
dài. Cụ thể là trong hợp đồng cho vay sẽ có những điều khoản quy định về
việc lãi suất biến đổi - nghĩa là lãi suất được điều chỉnh lên hoặc xuống tùy
theo biến động của lãi suất cơ bản. Các điều khoản về thay đổi lãi suất thường
bao gồm các biên độ lãi suất cao nhất và lãi suất thấp nhất để lãi suất không
thể nằm ngoài phạm vi quy định. Việc áp dụng chính sách lãi suất này trong
cho vay làm tăng tính nhạy cảm đối với lãi suất của các TSC, phù hợp hơn với
tính chất ngắn hạn của nguồn vốn huy động của ngân hàng, làm giảm mức độ
chênh lệch (GAP) giữa các TSC và TSN nhạy cảm với lãi suất và như vậy sẽ
làm giảm rủi ro lãi suất cho các ngân hàng.
Trong thực tế, các ngân hàng có thể sử dụng các hợp đồng giao dịch kỳ
hạn, giao dịch tương lai, giao dịch quyền chọn và giao dịch hoán đổi nhằm
đảm bảo hạn chế rủi ro lãi suất khi không có sự cân xứng về kỳ hạn giữa TSC
và TSN của một ngân hàng.
2. Quản lý rủi ro tín dụng
Tín dụng là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu, đồng thời cũng là nghiệp vụ có
nguy cơ rủi ro cao nhất của ngân hàng. Do vậy, mối lo lắng lớn nhất trong
hoạt động tín dụng của ngân hàng cũng chính là rủi ro tín dụng. Để có thể hạn
chế rủi ro tín dụng đến mức thấp nhất, các tổ chức tín dụng thường áp dụng
các biện pháp quản lý sau:
- Sàng lọc, lựa chọn khách hàng
Muốn cho việc sàng lọc khách hàng vay có hiệu quả, ngân hàng phải

tập hợp các thông tin tin cậy về khách hàng. Trên cơ sở đó, ngân hàng tiến
hành tính điểm tín dụng, đánh giá, xếp loại khách hàng có triển vọng tốt hay
xấu để cho vay.


16
- Theo dõi, giám sát việc sử dụng vốn vay
Để hạn chế việc khách hàng sử dụng vốn sai mục đích hoặc sử dụng
vốn vào các hoạt động kinh doanh có mức độ rủi ro cao, dẫn đến ít có khả
năng thanh toán, nhân viên tín dụng thường xuyên phải kiểm tra đánh giá tình
hình sử dụng vốn vay của ngân hàng. Điều này đòi hỏi việc soạn thảo hợp
đồng tín dụng phải rõ ràng, đầy đủ, chính xác và chặt chẽ.
- Nâng cao hiệu quả thẩm định và bảo đảm tiền vay
Bảo đảm tiền vay là một trong những công cụ quan trọng để quản lý rủi
ro tín dụng. Biện pháp bảo đảm tiền vay hữu hiệu nhất là sử dụng tài sản cầm
cố thế chấp. Trong trường hợp khách hàng không hoàn trả được vốn vay và
lãi, ngân hàng có thể bán tài sản đảm bảo để bù lại tổn thất của mình do khách
hàng vay gây nên.
- Bảo hiểm tín dụng
Trong hoạt động tín dụng, có những khác hàng vay mang nhiều rủi ro,
nhưng là các khách hàng tiềm năng. Để có thể hạn chế rủi ro mà vẫn giữ được
khách hàng, ngân hàng có thể chuyển rủi ro sang các chủ thể khác có khả
năng chịu đựng rủi ro thông qua bảo hiểm tín dụng.
- Xây dựng quy trình quản lý rủi ro phù hợp với tình hình thực tế của
ngân hàng.
+ Nhận diện và phân loại rủi ro tín dụng:
Nhận diện rủi ro là một trong những khâu quan trọng nhất trong quy
trình quản lý rủi ro tín dụng. Trên cơ sở những dữ liệu thu thập được, ngân
hàng sẽ tiến hành so sánh các tiêu chuẩn, tham khảo dự báo sự phát triển của
các ngành nghề, mô hình chấm điểm, xếp loại từng khách hàng để có những

cảnh báo sớm, nhận diện rủi ro tín dụng tiềm ẩn.
+ Đánh giá và đo lường rủi ro:


17
Để đánh giá và đo lường rủi ro, người ta thường sử dụng một số mô
hình chấm điểm tín dụng như: mô hình điểm số Z-SCORE của ALTMAN;
mô hình rủi ro tín dụng ZETA.
- Lập quỹ dự phòng rủi ro
Quỹ dự phòng rủi ro tạo ra nguồn vốn bù đắp tổn thất cho ngân hàng
khi có rủi ro xảy ra. Do vậy, lập quỹ dự phòng rủi ro được coi là một trong
những biện pháp quan trọng để tăng khả năng chống đỡ với rủi ro của ngân
hàng, giúp ngân hàng có thể ổn định và phát triển được hoạt động kinh doanh
trong trường hợp có rủi ro xảy ra. Mỗi ngân hàng cần phải trích lập quỹ dự
phòng rủi ro đúng và đủ theo quy định của pháp luật.
3. Quản lý rủi ro thanh khoản
Rủi ro thanh khoản xuất hiện từ hai phía: TSN và TSC. Do đó, để hạn
chế rủi ro thanh khoản, các ngân hàng có thể phòng ngừa bằng cách quản lý
hiệu quả cấu trúc tính lỏng của TSC và quản lý tốt cấu trúc danh mục của
TSN.
3.1. Quản lý tài sản có
Như đã phân tích ở trên, rủi ro tín dụng chính là một trong những
nguyên nhân phát sinh rủi ro thanh khoản nên biện pháp để hạn chế rủi ro tín
dụng cũng chính là biện pháp để hạn chế rủi ro thanh khoản. Ngoài ra, để đáp
ứng các nhu cầu chi trả thường xuyên và đột xuất, các ngân hàng phải thiết
lập được một mức dự trữ các TSC lỏng hợp lý. Giải pháp cụ thể bao gồm:
- Xác định nhu cầu, khả năng thanh toán
Để xác định được giới hạn dự trữ cho các nhu cầu thanh khoản, trước
hết mỗi ngân hàng cần phải dự báo được những biến động thông thường của
thanh khoản. Đồng thời phải kiểm soát được các yếu tố có thể tác động làm

tăng hoặc giảm trạng thái thanh khoản.


18
Trạng thái thanh khoản cơ bản hàng ngày của ngân hàng được tính toán
dựa trên cơ sở số liệu lịch sử của hoạt động cho vay và huy động vốn tiền gửi,
kết hợp với việc xem xét các yếu tố tác động làm thay đổi nhu cầu thanh
khoản thường xuyên như: các cam kết tín dụng, yếu tố thời vụ, sở thích của
các nhà đầu tư…
- Quản lý quỹ đảm bảo thanh toán
Rủi ro thanh khoản của ngân hàng có thể được giảm bớt nếu ngân hàng
dự trữ một số lượng TSC lỏng như tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, các chứng từ
có giá. Nhưng bằng cách này sẽ làm cho ngân hàng mất đi các cơ hội kinh
doanh. Vì các TSC có tính thanh khoản cao thường mang lại thu nhập thấp,
ngược lại những tài sản có tính thanh khoản thấp thì thường mang lại lợi
nhuận cao cho ngân hàng. Do đó, để đạt được mục tiêu lợi nhuận cũng như
mục tiêu thanh khoản, mỗi ngân hàng phải thường xuyên điều chỉnh tỷ trọng
các loại TSC, đồng thời phải quản lý chặt chẽ mức dự trữ tối thiểu đối với
TSC lỏng.
3.2. Quản lý tài sản nợ
Cơ cấu TSN có ảnh hưởng rất lớn đến việc quản lý rủi ro thanh khoản.
Để hạn chế rủi ro thanh khoản, chiến lược quản lý TSN của ngân hàng là phải
xây dựng một kết cấu TSN hợp lý để giảm thấp mức độ ảnh hưởng của thị
trường, hạn chế tình trạng rút tiền ồ ạt của khách hàng.
- Phát triển ổn định thị trường bán lẻ
Chiến lược quản lý TSN đối với hầu hết các ngân hàng là phát triển
vững chắc thị trường bán lẻ. Những khoản tiền gửi lẻ là nguồn vốn chiến lược
hình thành sức mạnh của ngân hàng bởi chúng có đặc điểm là ổn định trong
dài hạn và có chi phí thấp hơn so với thị trường bán buôn.
- Đa dạng hóa các nguồn vốn

Trong kết cấu TSN của mỗi ngân hàng, những khoản tiền gửi không kỳ
hạn là nguồn vốn có chi phí tương đối thấp nhưng lại có thể bị rút ra bất cứ


19
lúc nào. Ngược lại, những khoản tiền gửi có kì hạn có chi phí cao hơn nhưng
lại cung cấp cho ngân hàng một nguồn vốn ổn định và dài hạn. Như vậy, rõ
ràng một nguồn vốn đa dạng gồm nhiều loại kỳ hạn khác nhau sẽ giúp cho
ngân hàng hạn chế được rủi ro thanh toán do việc rút tiền ồ ạt gây nên.
- Tăng cường nguồn vốn dài hạn
Nguồn vốn dài hạn giúp ngân hàng giảm được rủi ro thanh khoản, tránh
phải dự trữ quá cao về thanh khoản. Song điều này lại làm cho chi phí ngân
hàng tăng lên. Do vậy, để đạt được mục tiêu thanh khoản và các mục tiêu hợp
lý khác, mỗi ngân hàng cần tăng cường nguồn vốn dài hạn, nhưng đồng thời
cũng cần điều chỉnh kết cấu các loại TSN cho phù hợp với mục tiêu, yêu cầu
của hoạt động kinh doanh.
4. Quản lý các rủi ro khác
Đối với các rủi ro khác, biện pháp cơ bản để quản lý là phải tăng khả
năng chống đỡ rủi ro của mỗi ngân hàng.
Khả năng chống đỡ rủi ro thể hiện năng lực chịu đựng rủi ro ở mức độ
nhất định của ngân hàng trong hoạt động kinh doanh. Đối với các ngân hàng,
nếu khả năng tự đề kháng yếu thì rủi ro sẽ dễ dàng nảy sinh; ngược lại, nếu
khả năng tự đề kháng của ngân hàng cao thì mức độ ảnh hưởng của rủi ro sẽ
giảm xuống, hoạt động kinh doanh sẽ có điều kiện phát triển tốt hơn. Việc giữ
vững và nâng cao khả năng tự đề kháng rủi ro chính là cách thức để ngân
hàng có thể tiếp nhận và vô hiệu hóa rủi ro, từ đó tối đa hóa lợi nhuận trong
kinh doanh.
Để giữ vững và nâng cao được khả năng chống đỡ rủi ro, mỗi ngân
hàng trước hết cần phải nâng cao mức vốn tự có để đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn
tối thiểu. Đồng thời thực hiện đầy đủ các quy định về đảm bảo an toàn trong

hoạt động kinh doanh như: quy định về phân tán rủi ro, luân chuyển vốn, vốn


20
khả dụng… Ngoài ra, ngân hàng phải biết nhận dạng các loại rủi ro, đánh giá
mức độ rủi ro và đề ra biện pháp giải quyết rủi ro.
III. SỰ SỤP ĐỔ CỦA MỘT SỐ NGÂN HÀNG Ở MỸ
Ngân hàng là một lĩnh vực kinh doanh nhạy cảm vì thế nó luôn tiềm ẩn
rủi ro rất lớn. Nếu các ngân hàng không cẩn trọng trong việc quản trị rủi ro,
cố gắng theo đuổi lợi nhuận cao thông qua việc đầu tư vào những lĩnh vực có
độ rủi ro lớn thì họ sẽ phải trả giá đắt. Cuộc khủng hoảng tài chính vừa rồi là
minh chứng chân thực nhất cho điều này. Cho dù đó là những ngân hàng đã
có lịch sử lâu đời, cho dù đó là những ngân hàng đã từng rất thành công với
những tỷ lệ tăng trưởng ngoạn mục thì họ vẫn hoàn toàn có thể bị sụp đổ như
trường hợp của Lehman Brothers, Washington Mutual hay IndyMac… Vì
vậy, để có cái nhìn tổng quát về sự sụp đổ của Northern Rock, khóa luận sẽ đề
cập sau đây sự sụp đổ của một số ngân hàng lớn ở Mỹ.
1. IndyMac
Các ngân hàng đầu tiên bị ảnh hưởng của khủng hoảng tín dụng chính
là các ngân hàng cho vay thế chấp. Khi giá nhà giảm mạnh, thị trường chứng
khoán tê liệt và thị trường liên ngân hàng đóng băng thì các ngân hàng này sẽ
khó có thể huy động được vốn trong khi các khoản thua lỗ thì ngày càng gia
tăng. Nếu Ban giám đốc của các ngân hàng này lại thiếu năng lực trong việc
đối phó với khủng hoảng thì hậu quả tất yếu sẽ là sự sụp đổ. Indymac Bank là
một trong những ngân hàng như vậy. Tại thời điểm vào tháng 07 năm 2008,
Indymac là ngân hàng lớn nhất được FDIC bảo hiểm bị sụp đổ kể từ năm
1984.
Biểu đồ 1: Biến động giá cổ phiếu của Indymac năm 2007-2008
Đơn vị: USD



21

Nguồn: BigCharts.com
Indymac Bank được sáng lập vào năm 1985 với vai trò là một bộ phận
của Countrywide. Ngân hàng có trụ sở chính ở thành phố Pasadena, bang
California và địa bàn hoạt động chính là ở bang này. Ngân hàng bắt đầu cho
vay thế chấp nhà ở vào những năm 1990 và trở nên độc lập hoàn toàn vào
năm 1997. Trong thời kỳ bùng nổ của thị trường nhà ở và xây dựng ở Mỹ,
ngân hàng đã phát triển rất nhanh chóng. Trong khoảng thời gian từ năm 2001
- 2006, lợi nhuận của Indymac đã tăng gấp ba lần. Sản phẩm đặc biệt của
ngân hàng này là các khoản vay loại Alt-A dành cho những người có tiền sử
tín dụng tốt. Khách hàng là những người muốn mua nhà mà không cần phải
cung cấp nhiều thông tin, hoặc thậm chí không phải cung cấp một thông tin
nào về thu nhập hoặc tài sản ngoài ngôi nhà mà họ sẽ mua. Khi giá nhà tăng
cao, các khoản vay này hầu như chẳng gây ra vấn đề gì cho IndyMac. Nếu
một người mua nhà không có khả năng trả nợ, ngân hàng sẽ tịch thu ngôi nhà
và bán được với giá cao hơn so với khoản vay. Ngân hàng này cũng có thể
tìm được các nhà đầu tư sẵn sàng mua lại các loại chứng khoán được chứng


22
khoán hóa từ các khoản vay này. Cũng như nhiều chuyên gia tài chính khác ở
phố Wall, Ban giám đốc ngân hàng chưa bao giờ nghĩ rằng giá nhà đất sẽ hạ.
Vì vậy Indymac đã tiến hàng cho vay rất nhiều với kỳ vọng thu được lợi
nhuận lớn nhờ giá nhà đất liên tục tăng.
Tuy nhiên, khi thị trường bất động sản đóng băng và giá nhà bắt đầu
giảm mạnh thì những khoản thua lỗ của IndyMac cũng bắt đầu tăng cao. Hơn
nữa, trong hoàn cảnh thị trường chứng khoán hóa tê liệt, ngân hàng đã không
còn có thể huy động được vốn cho các khoản vay mới. Trong khi đó, Ban

giám đốc của Indymac đã nhìn ra những vấn đề của ngân hàng quá muộn.
Cho đến tận tháng 2/2008, giám đốc điều hành của ngân hàng - Micheal Perry
vẫn cho rằng ngân hàng sẽ trụ vững trong sự đi xuống của thị trường nhà đất
và có thể thu được lợi nhuận trong năm 2009. Do đó, năm 2007, ngân hàng
này đã lỗ khoảng 614 triệu USD và trong quý I năm 2008, IndyMac cũng đã
lỗ khoảng 184,2 triệu USD. Những khoản lỗ này chủ yếu là do ngân hàng đã
quá tập trung vào lĩnh vực cho vay thế chấp với các khoản vay Alt-A. Trong
vòng hai năm 2006 - 2008, cổ phiếu của IndyMac đã mất 95% giá trị tương
đương với khoảng 3,5 tỷ USD giá trị vốn hóa thị trường. Ở thời điểm thứ sáu
ngày 04 tháng 08 năm 2008, giá cổ phiếu của IndyMac chỉ còn 0,28 USD/cổ
phiếu.
Indymac không đầu tư nhiều vào loại hình cho vay dưới chuẩn. Tuy
nhiên, số vụ vỡ nợ tăng cao ở những khoản vay Alt-A và những khoản vay
đạt chuẩn cũng đủ để khiến cho ngân hàng này gặp khủng hoảng. Trước tình
hình trên, các nhà lãnh đạo của ngân hàng đã cố gắng tìm mọi biện pháp cải
thiện tình hình khi họ tiến hành thương lượng với các nhà đầu tư để tìm một
tổ chức mua lại ngân hàng, đồng thời họ cũng bắt đầu bán các bộ phận khác
nhau của ngân hàng. Nhưng cho đến tháng 6/2008, Ban giám đốc vẫn không
tìm được tổ chức nào thích hợp, họ đành phải lên kế hoạch đóng cửa bộ phận
cho vay thế chấp và sa thải một nửa số nhân viên.


23
Trong khi tình hình hoạt động của ngân hàng ngày một xấu đi thì vào
ngày 26/06, Thượng nghị sỹ đảng Dân chủ bang New York - ông Charles
Schumer đã công bố bức thư gửi cho OTS và FDIC có liên quan đến những
nghi vấn của ông về khả năng tài chính của Indymac. Mặc dù ngài Thượng
nghị sỹ cũng trấn an dư luận rằng Ban giám đốc ngân hàng vẫn làm chủ được
tình hình song lòng tin của người dân vào ngân hàng này đã bị ảnh hưởng
nghiêm trọng. Ngay sau đó, khách hàng của Indymac đã đổ xô đến ngân hàng

để rút tiền. Tính đến ngày 11/7, ngân hàng đã bị rút khoảng 1,3 tỷ và lâm vào
tình trạng khủng hoảng thanh khoản. Vì thế OTS đã buộc phải ra lệnh phong
tỏa ngân hàng và giao cho FDIC tiếp quản.
Sau khi bị phong tỏa, toàn bộ cơ sở, chi nhánh, điểm giao dịch của
Indymac đã lần lượt được bàn giao lại cho FDIC. Giám đốc điều hành -
Micheal Perry đã phải từ chức và được thay thế bằng một quan chức của
FDIC. Ngân hàng cũng được đổi tên thành Indymac Federal Bank. Các cá
nhân, tổ chức gửi tiền tiết kiệm tại ngân hàng dưới 100.000 USD sẽ được
FDIC trả lại toàn bộ ngay. Còn nếu gửi trên 100.000 USD thì sẽ được trả
thêm 50% số tiền vượt trên mức 100.000. Có tới 95% trong tổng số tiền gửi
tiết kiệm 19 tỷ USD của khách hàng được bảo hiểm nhưng vẫn còn 1 tỷ USD
nằm trong diện không được bảo hiểm do đó sẽ có khoảng 10.000 khách hàng
mất mất tổng số tiền là 500 triệu USD. FDIC đã phải chi trên 8 tỷ USD cho
vụ tiếp quản này.
Tuy là ngân hàng cấp tiểu bang song Indymac có quy mô không nhỏ.
Với tổng tài sản hơn 32 tỷ USD và tiền gửi huy động được theo sổ sách là
19,1 tỷ USD, Indymac đứng thứ 10 trong số các ngân hàng cho vay thế chấp
nhà ở Mỹ. Từ đầu năm 2007 đến tháng 7/08, đã có 8 ngân hàng Mỹ bị sụp đổ
song so với 7 ngân hàng kia, Indymac lớn gấp hàng chục lần. Hai ngân hàng
có quy mô lớn nhất là NetBank ở bang Georgia vào tháng 9/07 và ANB
Financial ở bang Arkansas vào tháng 5/08 chỉ có tổng tài sản tương ứng là 2,5


24
tỷ và 2,1 tỷ USD, tức là kém Indymac hơn chục lần. Hơn nữa, bang California
lại là một trong những bang lớn nhất nước Mỹ nên việc sụp đổ của Indymac
cũng ảnh hưởng xấu đến tình hình kinh tế xã hội của bang này.
2. Lehman Brothers
Trong giai đoạn phát triển nóng của thị trường tín dụng và nhà đất ở
Mỹ, các ngân hàng đầu tư nước này đã thu được rất nhiều lợi nhuận thông qua

nghiệp vụ chứng khoán hóa các khoản vay bất động sản. Nhưng khi khủng
hoảng xảy ra thì rủi ro tín dụng từ các loại chứng khoán này đã khiến các
ngân hàng bị thua lỗ nặng nề. Hậu quả là trong 5 ngân hàng đầu tư lớn ở phố
Wall, Bear Stearns và Merrill Lynch đã bị ngân hàng khác mua lại, Morgan
Stanley và Goldman Sachs thì buộc phải chuyển sang hình thức ngân hàng đa
năng, nhưng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất là ngân hàng Lehman Brothers khi
ngân hàng này buộc phải nộp đơn xin phá sản vào ngày 15 tháng 9 với khoản
thua lỗ lên đến 613 tỷ USD. Đây là vụ phá sản lớn nhất trong lịch sử ngân
hàng Mỹ.
Lehman Brothers được thành lập năm 1850 bởi anh em nhà Lehman,
sau đó sát nhập với American Express năm 1969 rồi lại tách ra năm 1994.
Lehman Brothers là một định chế tài chính hoạt động trên các lĩnh vực chủ
yếu là: đầu tư cổ phiếu, trái phiếu và thu nhập cố định (fixed income); ngân
hàng đầu tư; quản lý quỹ. Thế mạnh của Lehman Brothers là thị trường trái
phiếu và tín dụng bất động sản. Năm 2007, tổng doanh thu của họ đạt 59 tỷ,
trong đó doanh thu từ lãi và cổ tức chiếm đến 70%.
Biểu đồ 2: Biến động giá cổ phiếu của Lehman năm 2007-2008
Đơn vị: USD

×