Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Bài sáng kiến kinh nghiệm lớp 5 môn tập làm văn trong dạy học tả người cho học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (327.9 KB, 14 trang )

MỤC LỤC
Đề mục

TT
1

I. MỞ ĐẦU

2

1. Lí do chọn đề tài.

3

2. Mục đích nghiên cứu

4

3. Đối tượng nghiên cứu.

5

4. Phương pháp nghiên cứu.

6

II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

7

1. Cơ sở lý luận của vấn đề.



8

2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm.

9

3. Các biện pháp tiến hành để giải quyết vấn đề.

10

3.1. Biện pháp 1: Giúp học sinh nắm vững yêu cầu của đề
bài.

11

3.2. Biện pháp 2: Hướng dẫn học sinh tìm ý, lập dàn bài.

12

3.3. Biện pháp 3: Hướng dẫn học sinh có những kĩ năng
cần thiết để viết văn hay.

13

3.4. Biện pháp 4: Khích lệ hứng thú học tập của học sinh
bằng nhận xét, đánh giá.

14


4. Một số trò chơi học tập lồng ghép trong dạy học văn tả
người.

15

5. Hiệu quả của sáng kiến.

16

III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

Trang


I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Tiếng Việt là mơn học chủ cơng trong nhà trường tiểu học, góp phần đắc
lực thực hiện mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ. Việc dạy Tiếng Việt trong nhà trường
tạo cho học sinh năng lực sử dụng Tiếng Việt văn hoá để suy nghĩ, giao tiếp và
học tâp. Qua đó, rèn cho các em năng lực tư duy, phương pháp suy nghĩ, giáo
dục các em những tư tưởng lành mạnh, trong sáng.
Trong chương trình tiểu học mới, mơn Tiếng Việt được chia thành các
phân mơn, mỗi phân mơn có nhiệm vụ rèn cho HS một số kĩ năng nhất định.
Phân môn Tập làm văn là phân mơn mang tính tổng hợp cao nhất, rèn cho HS cả
bốn kĩ năng, trong đó chú trọng vào các kĩ năng nghe, nói, viết. Đối với phân
mơn này HS phải được hình thành và rèn luyện năng lực trình bày văn bản (nói
và viết) ở nhiều thể loại khác nhau.
Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy phân mơn Tập làm văn là phân mơn
khó trong các phân môn của Tiếng Việt. Để thực hiện được mục tiêu của phân

môn Tập làm văn, HS cần huy động tất cả kiến thức của Tiếng Việt thu được
qua việc học các phân môn khác. Trường Tiểu học Cẩm Sơn, số học sinh dân
tộc thiểu số chiếm trên 80%, đa số còn sai về phương ngữ nên việc giúp các em
đạt được các yêu cầu trên là vấn đề hết sức cần thiết. Với HS lớp 5, việc rèn kĩ
năng làm văn miêu tả cho HS là thiết thực. Học tốt văn miêu tả sẽ là điều kiện
thuận lợi để HS học tốt các môn học khác ở Tiểu học và học lên lớp trên.
Việc dạy Tập làm văn nói chung và dạy văn tả người nói riêng bên cạnh
những thành cơng cịn nhiều hạn chế. Học sinh thường có tâm trạng chung là
ngại viết và sợ viết văn. Các bài văn miêu tả của các em thường hời hợt, chung
chung, thiếu những sắc thái cảm xúc riêng biệt. Nhiều giáo viên còn lúng túng
trong phương pháp dạy văn mới, năng lực, sự am hiểu thực sự về môn học cịn
hạn chế...Chính vì vậy, kết quả làm văn của học sinh hầu như chưa được như

1/31


mong muốn, năng khiếu, sự sáng tạo của học sinh khá giỏi đa phần chưa được
phát huy.
Xuất phát từ những nhận thức trên, tơi đã trăn trở suy nghĩ, tìm tịi, học
hỏi và tìm ra biện pháp giúp học sinh viết văn miêu tả người được tốt, làm tiền
đề, cơ sở vững chắc để học sinh có thể học tốt ở những lớp cao hơn. Đó là lý do
tơi chọn: “Một số biện pháp trong dạy học văn tả người cho học sinh lớp 5” là
vấn đề nghiên cứu trong năm học ……..
2. Mục đích nghiên cứu
Bản thân chọn sáng kiến “Một số biện pháp trong dạy học văn tả người
cho học sinh lớp 5” nhằm tìm ra một số biện pháp và trị chơi học tập giúp các
em có thêm kĩ năng về viết văn miêu tả, nhất là kiểu bài “Tả người” được tốt
hơn, là điều kiện thuận lợi để HS học tốt các môn học khác ở Tiểu học và học
lên lớp trên.
3. Đối tượng nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: “Một số biện pháp trong dạy học văn tả người
cho học sinh lớp 5”.
- Khách thể nghiên cứu: Học sinh lớp 5A Trường Tiểu học Cẩm Sơn Cẩm Thủy - Thanh Hóa.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
+ Nghiên cứu tài liệu: Sách giáo khoa Tiếng Việt 5, sách giáo viên Tiếng
Việt 5, các loại sách tham khảo về Tiếng Việt 5.
+ Đọc các tài liệu sách, báo, tạp chí giáo dục có liên quan đến sáng kiến.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
+ Tìm hiểu về tình hình thực tế học sinh, phụ huynh ở địa phương.
+ Dự giờ đồng nghiệp, trao đổi ý kiến với đồng nghiệp về rèn kĩ năng làm
văn miêu tả cho học sinh.
+ Điều tra, thu thập thông tin.
2/31


+ Phương pháp quan sát, đàm thoại, thực nghiệm, kiểm tra…nội dung về
kiểu bài văn miêu tả.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Tập làm văn là một phân mơn mang tính tổng hợp và sáng tạo cao. Tổng
hợp các kiến thức, kĩ năng từ các phân môn Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả,
Luyện từ và câu,... để viết nên một bài văn hay. Góp phần cùng các mơn học
khác mở rộng vốn sống, rèn tư duy logic và bồi dưỡng tâm hồn cho trẻ.
Học làm văn là học làm Người, chính vì vậy mà mục đích dạy văn ở mọi
nhà trường, dù khác nhau do địi hỏi của mỗi thời kì lịch sử vẫn có nét chung là
vươn tới những giá trị tinh thần vĩnh cửu: Cái đẹp, lịng tốt, tình thương đồng
loại, đức hạnh, thuỷ chung,...
Trong phân môn Tập làm văn lớp 5, Miêu tả là thể loại văn điển hình,
chiếm số lượng lớn. Học miêu tả, học sinh có điều kiện tiếp cận với vẻ đẹp

muôn màu của cuộc sống. Qua đó, tình cảm u mến thiên nhiên, con
người,...của trẻ được nảy nở, tâm hồn, tình cảm của trẻ thêm phong phú. Dạy
học sinh làm văn miêu tả tốt, người giáo viên sẽ tiếp thêm một phương tiện để
các em khám phá cái hay, cái đẹp của văn chương, của cuộc sống... và tự khám
phá những năng lực sáng tạo cịn tiềm ẩn ngay trong những tâm hồn thơng minh
và đáng yêu. Đó là những nhân tố quan trọng góp phần hình thành nhân cách tốt
đẹp của trẻ.
Chương trình Tập làm văn lớp 5 tiếp tục dạy về văn miêu tả với hai kiểu
bài: “Tả cảnh”, “Tả người”. Trong mỗi kiểu bài nói trên, ngồi việc tiếp tục rèn
luyện cho học sinh các kĩ năng cơ bản đã dạy ở lớp 4 như:
- Quan sát đối tượng miêu tả.
- Lựa chọn và sắp xếp ý để miêu tả.
- Dựng đoạn và viết bài miêu tả.
3/31


Chương trình cịn chú trọng rèn luyện một số kĩ năng miêu tả gắn với đặc
điểm của kiểu bài cụ thể. Ví dụ về kiểu bài tả người: tả ngoại hình của người, tả
hoạt động của người.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Về giáo viên :
* Thuận lợi:
- Được sự quan tâm chỉ đạo kịp thời của Ban giám hiệu nhà trường.
- Đa số giáo viên nhiệt tình trong giảng dạy, đều tích cực tự học tự bồi
dưỡng và có thể cập nhật thông tin trên mạng Internet.
- Được sự hỗ trợ của hội cha mẹ học sinh, của các đoàn thể trong và ngồi
nhà trường.
* Khó khăn:
- Nhiều giáo viên cịn lúng túng trong phương pháp dạy văn mới, vốn từ,
sự am hiểu thực sự về mơn học cịn hạn chế.

- Các tiết trả bài, giáo viên thường nhận xét chung chung, chưa chỉ rõ hết
những sai sót mà học sinh thường mắc phải, dẫn đến việc rút kinh nghiệm cho
học sinh qua tiết trả bài chưa đọng lại được bao nhiêu.
2.2. Về học sinh :
* Thuận lợi:
- Qua quá trình giảng dạy, tơi thấy các em có lực học tương đối đồng đều.
Đa phần các em biết viết văn có đủ bố cục 3 phần, nắm được yêu cầu từng phần.
- Các em có động cơ học tập đúng đắn và ln muốn tìm tịi khám phá
thế giới mn màu, mn vẻ ở xung quanh.
* Khó khăn :
- Học sinh chưa xác định được trọng tâm đề bài cần miêu tả.
- Bài viết của các em diễn đạt còn lủng củng, bài văn thường nghèo nàn,
thiếu ý, tạo cảm giác đơn điệu cho người đọc.

4/31


- Vốn từ ngữ của các em còn nghèo nàn, khn sáo, quan sát sự vật cịn
hời hợt, thiếu tính chân thực.
- Các em chưa biết cách dùng các biện pháp nghệ thuật khi miêu tả.
- Nhiều học sinh chưa ham học, đọc sách báo, tài liệu để tham khảo.
- Học sinh lớp tôi phụ trách đa số các em là người dân tộc thiểu số, bố mẹ
làm nghề nông là chủ yếu nên một số phụ huynh chưa có điều kiện quan tâm đến
con em mình.
Thực trạng học sinh còn nhiều hạn chế như vậy đã làm cho tiết Tập làm
văn trở nên nặng nề đối với học sinh và giáo viên tiểu học. Ý nghĩ cho rằng Tập
làm văn là một phân mơn khó dạy, khó học và khó đạt hiệu quả cao đã là nhận
thức chung của nhiều thầy cô giáo dạy lớp 4, lớp 5.
Sau một thời gian giảng dạy, tôi tiến hành khảo sát học sinh lớp 5A với đề
bài gợi ý sau: Chọn một trong các đề sau:

1. Tả một em bé đang tuổi tập đi, tập nói.
2. Tả một người thân (ơng, bà, cha, mẹ, anh, em…) của em.
3. Tả một bạn học của em.
4. Tả một người lao động (công nhân, nông dân, thợ thủ công, bác sĩ, y
tá, cô giáo, thầy giáo,…) đang làm việc.
Sau khi kiểm tra kết quả đạt được như sau :
Khảo sát chất lượng

Lớp

số

5A

24

Hoàn thành tốt

Hoàn thành

Chưa hoàn thành

Số lượng

Tỉ lệ

Số lượng

Tỉ lệ


Số lượng

Tỉ lệ

3

12,5%

15

62,5%

6

25%

Qua bảng khảo sát cho thấy :
- Có 12,5 % HS có kĩ năng viết văn thành thạo: Sử dụng dấu câu tốt, có ý
thức tìm tịi để viết hay song chưa biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật trong
miêu tả.
5/31


- Có 62,5% học sinh hồn thành bài văn. Trong đó:
+ 20,8 % HS viết thành câu nhưng chưa có kĩ năng dùng từ miêu tả sinh
động, nội dung tả còn nghèo, diễn đạt vụng.
+ 41,7 % HS viết chưa rõ ý.
- 25 % HS diễn đạt yếu.
2.3. Kế hoạch rèn viết văn:
- Với thực trạng học sinh như vậy, để phát huy hết khả năng sáng tạo vốn

có của học sinh, tôi đề ra kế hoạch hướng dẫn các em luyện viết văn tả người
như sau:
- Tiếp tục rèn viết văn cho mọi đối tượng học sinh ở tất cả các tiết học
chính khố. Quan tâm đặc biệt tới học sinh diễn đạt yếu, viết chậm. Rèn tư duy
logic, bồi dưỡng khả năng cảm thụ văn học cho các em ở mọi lúc, mọi nơi trong
tất cả các môn học.
- Củng cố, nâng cao cách hành văn cho học sinh khá, giỏi trong các giờ
Hoạt động ngoại khoá và trong các tiết Hướng dẫn học buổi chiều.
3. Các biện pháp tiến hành để giải quyết vấn đề:
Chất lượng bài văn viết của học sinh sau mỗi tiết học chính là kết quả
cuối cùng của việc dạy Tập làm văn. Bài văn miêu tả tốt phải tả được sự vật, sự
việc một cách đầy đủ, chân thật, từ ngữ trong sáng, giàu màu sắc hình ảnh,... thể
hiện được tình cảm, cảm xúc phù hợp với lứa tuổi.
Để đạt được những mục tiêu đó, tơi tiến hành thực hiện một số biện pháp
sau:
3.1. Biện pháp1: Giúp học sinh nắm vững yêu cầu của đề bài:
Kết quả của giờ Tập làm văn phụ thuộc ở nhiều yếu tố, trong đó sự tìm
hiểu, nắm vững yêu cầu của bài tập là hết sức cần thiết. Kĩ năng này có vai trị
định hướng khái quát, quyết định bài văn đáp ứng đúng hay sai yêu cầu của đề
bài. Trong quá trình tìm hiểu đề văn miêu tả, người viết cần xác định rõ những
yêu cầu về đối tượng miêu tả, trọng tâm miêu tả và trình tự tả bài văn miêu tả.
6/31


Vì thế, giúp học sinh nắm vững yêu cầu của bài tập cũng như đề bài văn miêu tả,
giáo viên đã giúp các em định hướng rõ nội dung cần thực hiện một cách chính
xác, có hệ thống. Khơng những vậy, học sinh cịn có thể "tự do", thả sức bay
bổng vào thế giới sáng tạo của riêng mình mà không sợ "nhầm đường, lạc lối".
Do vậy, với mỗi bài tập hay đề bài văn bất kì, tơi đều hướng dẫn các em
tìm hiểu để nắm vững yêu cầu của đề, từ đó xây dựng nội dung, trình tự tả... một

cách hợp lí qua các gợi ý sau:
- Đọc thầm yêu cầu của đề.
- Xác định thể loại của bài (Đề bài yêu cầu viết thể loại văn nào ? Miêu
tả, kể chuyện hay viết thư? ....).
- Xác định đối tượng miêu tả (Nghĩa là HS phải trả lời được câu hỏi "Bài
văn miêu tả người nào ?").
- Trọng tâm miêu tả (Hình dáng, tính tình hay hoạt động của người,
vật...?).
- Trình tự tả.
* Ví dụ: Với u cầu: "Viết một đoạn văn tả hoạt động một người mà em
yêu q" . Tơi hướng dẫn học sinh xác định như sau:
+ Thể loại: Miêu tả.
+ Đối tượng tả: Tả người (có thể là mẹ, cơ giáo, bạn cùng lớp, hoặc người
hàng xóm...).
+ Trọng tâm miêu tả: Hoạt động của một người mà em u q.
+ Trình tự tả: Từ xa đến gần, từ khái quát đến cụ thể hoặc ngược lại.
Bằng phương pháp gợi mở với những câu hỏi ngắn gọn của giáo viên, học
sinh có thể nắm vững yêu cầu của bài tập và biết cách thực hiện các u cầu đó
một cách tốt nhất.
Ngồi ra, để giúp học sinh hiểu đề sâu hơn, tôi dành thời gian giải thích
thêm về yêu cầu của bài, chốt lại những kiến thức, kĩ năng mà các em cần nắm
vững.
7/31


Ví dụ: với bài tập: "Tả hoạt động của người em u q". Tơi nêu: Bài tập
u cầu chúng ta chú trọng tả về hoạt động của người mà mình yêu quí. Đây là
người gần gũi, quen thuộc với em. Em cần nêu đủ, đúng, sinh động những nét
tiêu biểu về hoạt động của người đó qua một cơng việc cụ thể...
Hướng dẫn học sinh xác định đúng yêu cầu của bài tập, xác định rõ việc

cần làm, tránh thái độ vội vàng nơn nóng đó cũng là cách dạy học sinh rèn luyện
để tự mình có thể làm ra những "sản phẩm tinh thần" đích thực và có chất lượng.
3.2. Biện pháp 2: Hướng dẫn học sinh tìm ý, lập dàn bài:
Tập viết văn là một loại lao động đặc biệt. Lao động viết văn muốn trở
thành kĩ năng và đạt được những thành quả phải trải qua một quá trình học tập
và rèn luyện. Để tạo lập được một văn bản tốt, học sinh cần kiên trì tiến hành
từng bước luyện tập theo một trình tự nhất định.
Tiếp theo việc nắm nội dung, cùng với việc hướng tới người đọc và mục
đích đạt tới của bài văn, học sinh phải tìm ý để triển khai nội dung đề bài văn.
Câu hỏi đặt ra là: Muốn tìm ý phải làm gì? Tìm ý ở đâu? Ý nhất định phải
hiện ra trong óc, trong sự suy nghĩ của trí tuệ, sự hồi tưởng của kí ức, là phải do
sự xúc cảm thôi thúc từ con tim.... Đây cũng là những điều quan trọng mà giáo
viên cần chuyển tải tới các em học sinh.
Ý bắt nguồn từ cuộc sống, vì vậy giáo viên cần hướng dẫn học sinh có
thói quen quan sát để tích luỹ các nhận xét sau này làm ý cho bài văn. Tôi luôn
đặt ra yêu cầu với học sinh là: Nhận xét thấy gì, ghi thế ấy, nhận xét đến đâu,
ghi ln đến đó.
Bằng cách làm như vậy, học sinh đều có thể tìm được các ý miêu tả cho
bài viết của mình.
Tuy nhiên, giáo viên cần lưu ý học sinh là các "ý" trong một bài văn cần
có quan hệ với nhau bởi các ý đó trước hết phải nhằm biểu hiện thống nhất nội
dung bài văn.

8/31


Do vậy, để tránh hiện tượng sa đà vào ghi chép dẫn tới lan man, xa đề, tôi
luôn hướng dẫn các em bám sát yêu cầu của đề, xác định rõ trọng tâm của bài, tự
đặt ra những câu hỏi: Đề bài yêu cầu chúng ta miêu tả gì? Để làm tốt bài văn ta
phải thu thập những ý nào? (miêu tả, bộc lộ cảm xúc...), ý nào có trong sách, ý

nào lấy ở thực tế quan sát đời sống, ý nào lấy trong " Sổ tay văn học"?
Với mỗi đề bài cụ thể, tôi yêu cầu học sinh lập một dàn ý chi tiết theo các
bước sau:
- Xác định cấu tạo của bài văn (tả người) nói chung.
- Quan sát đối tượng, tìm ý (qua thực tế và qua sách vở); (Công việc này
yêu cầu học sinh chuẩn bị trước ở nhà).
- Chuyển Dàn bài chung thành Dàn ý chi tiết.
Ví dụ: Với bài văn tả một người trong gia đình em, học sinh cần tìm được
các ý thống nhất cho nội dung miêu tả người định tả đó là:
- Phần mở bài giới thiệu về người định tả.
- Phần thân bài:
+ Tả hình dáng (tuổi tác, tầm vóc, nước da, mắt, má, chân, tay, dáng đi,
cách nói, ăn mặc, ... ).
+ Tả tính tình (những thói quen của người đó trong cuộc sống, người đó
khi làm, thái độ với mọi người xung quanh,…).
+ Tả hoạt động (những việc người đó thường làm, hay việc làm cụ
thể,…).
- Phần kết bài nêu tình cảm, cảm nghĩ của mình với người đó. Em đã làm
gì để thể hiện tình cảm đó.
Với vai trò là người hướng dẫn, khêu gợi, học sinh suy nghĩ tự lực làm
việc, tôi đã giúp huy động vốn sống, khả năng tưởng tượng và thực hiện ghi
chép đạt kết quả tốt. Tuy nhiên, những gì trẻ em đã có cịn chưa rõ nét, chưa đầy
đủ, tồn diện nên sau khi khơi gợi được vốn sống của các em thì điều quan trọng

9/31


tiếp theo là phải "Làm rõ hơn những gì trẻ em đã có, làm phong phú, giàu có
hơn những hiểu biết của các em về kiểu bài miêu tả".
Giáo viên lưu ý học sinh, dàn bài của mỗi em không nhất thiết phải y như

mẫu (Dàn bài chung). Ví dụ như: Tả một người, không nhất thiết phải tả cả đầu,
tóc, mắt, mũi, miệng, chân, tay,... cũng như khơng nhất thiết phải tả hình dáng
rồi mới đến tính tình. Giáo viên gợi ý học sinh có thể tả lồng tính tình với hình
dáng. Và như một hoạ sĩ vẽ ngựa có tài chỉ phác vài nét đã làm hiện lên cực kì
sinh động một con ngựa đang phi nước đại. Có thể tả con sơng, cánh đồng chỉ
bằng những chi tiết, hình ảnh gợi cho em nhiều ấn tượng nhất mà vẫn hiện lên
đúng con sông, cánh đồng của riêng em, không lẫn với con sông, cánh đồng của
người khác, không lẫn với con sông, cánh đồng của môn Tự nhiên xã hội.
Hướng dẫn học sinh tìm ý, hồn chỉnh dàn ý trên cơ sở tôn trọng cái
riêng, tôn trọng cách nghĩ, cách cảm của mỗi học sinh, tôi đã giúp các em có cơ
sở vững chắc để tạo lập được những văn bản hoàn chỉnh.
3.3. Biện pháp 3: Hướng dẫn học sinh có những kĩ năng cần thiết để
viết văn hay:
Viết văn hay đòi hỏi một số kĩ năng nhất định ở người viết. Phần lớn các
kĩ năng cơ bản như: tìm ý, sắp xếp ý, lập dàn bài,… các em đều nắm được qua
các giờ học chính khố. Nhưng với những hiểu biết đó, khơng phải ai cũng viết
được văn hay.
Để học sinh có được những bài viết thực sự có chất lượng và đạt kết quả
cao, tơi đã hướng dẫn các em một số kĩ năng cần thiết sau:
3.3.1. Tạo cảm hứng để viết văn hay:
Cảm hứng là động cơ thúc đẩy ham muốn viết văn. Cảm hứng thơi thúc
tình cảm (u, ghét,...), gợi mở trí tuệ (chọn lựa từ ngữ, sắp xếp ý tứ trong câu
trong đoạn vv…) để viết bài văn hay.
Đứng trước sự vật mà lịng ta dửng dưng, khơng mảy may xúc động thì
khó có thể có được những nhận xét, phát hiện tinh tế, mới mẻ và độc đáo.
10/31


Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến đã viết: "Khi người ta cảm hứng, dường như
giọng và ngữ điệu nảy sinh trước và từ ngữ dường như được gọi đến để thể hiện

ngữ điệu thành lời, thành câu,…"
Vì vậy, tạo cảm hứng là việc làm hết sức cần thiết để có thể viết được bài
văn hay. Tạo cảm hứng không chỉ diễn ra trong một tiết học, một thời điểm…mà
cần diễn ra trong cả một quá trình học tập lâu dài.
Giáo viên giúp học sinh tạo cảm hứng viết văn thông qua các biện pháp:
a- Bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học:
Cảm hứng bắt nguồn từ cảm thụ văn học (qua sách báo, kể chuyện, thơ và
văn được học và được đọc).
Khi đọc một cuốn truyện, một bài văn, bài thơ hay, các em cảm nhận
được bao điều mới mẻ, lí thú và hấp dẫn về thiên nhiên, về cuộc sống, con
người... Vốn hiểu biết về thực tế cuộc sống được tích luỹ, những kiến thức cơ
bản về văn học được trang bị. Đó sẽ là nguồn cảm hứng dồi dào giúp các em
làm tốt bài văn miêu tả sau này.
Do vậy, tơi tập cho học sinh thói quen đọc sách, biết đọc có suy nghĩ, có
chọn lọc. Ngồi các truyện đọc ở lớp, tơi gợi ý các em tìm đọc những tác phẩm
viết cho thiếu nhi (truyện cổ tích, truyền thuyết, truyện lịch sử, văn học hay khoa
học viễn tưởng vv…) như: Góc sân và khoảng trời (Trần Đăng Khoa), Đất rừng
phương Nam (Đồn Giỏi), Dế mèn phiêu lưu kí (Tơ Hồi),…
Có sách tốt rồi, tơi hướng dẫn các em cách đọc, đó là: Tập trung tư tưởng
cao và ln nghĩ về những điều đang đọc. Tìm hiểu để thấy được cái hay, cái
đẹp (về cả nội dung và nghệ thuật) của tác phẩm. Đồng cảm để biết vui cùng
vui, buồn cùng buồn…với từng số phận trong câu chuyện. Cảm nhận những câu
văn hay, những chi tiết xúc động…Và chia sẻ điều mình cảm nhận được với
thầy, với bạn.
Các giờ học ngoại khoá, các tiết Hoạt động tập thể (Đọc truyện, đọc báo
Đội) là những thời gian thích hợp giúp giáo viên tiến hành các công việc trên.
11/31


Ngoài ra, để cảm thụ văn học tốt, sau mỗi bài Tập đọc trên lớp, tôi đều

hướng dẫn học sinh rút ra nội dung, ý nghĩa giáo dục, thu nhận, tích luỹ những
điều bổ ích mà bài văn đem lại.
b- Bày tỏ cảm xúc văn học:
Giúp học sinh biết phát biểu, nhận xét đúng đắn, biết bày tỏ cảm xúc chân
thực trước một hình ảnh, một chi tiết,…trong cuốn truyện, bài thơ cũng là biết
khêu gợi cảm hứng văn học trong các em.
Do vậy, tôi đã ra những bài tập yêu cầu thể hiện năng lực cảm thụ văn học
như: "Kể lại cho bạn nghe một bài thơ đã để lại nhiều ý nghĩ tình cảm nhất”.
Hay: "Cảm nhận của em về thơ Trần Đăng Khoa?" vv… Qua những bài tập như
vậy, học sinh đều bộc lộ rõ suy nghĩ, tình cảm của mình với từng tác phẩm.
c- Bồi dưỡng cảm xúc qua thực tế cuộc sống:
Giáo dục học sinh biết yêu thiên nhiên, quí trọng con người từ thực tế
cuộc sống thường ngày là việc làm hết sức cần thiết. Biết u cảnh vật xung
quanh mình (ngơi trường, hàng cây, con đường…), yêu những người thân (bạn
bè, cha mẹ, thầy cơ…), học sinh đã có một nguồn " tư liệu sống" hết sức phong
phú và sinh động để làm bài.
Để làm được điều này, tôi tiến hành tổ chức nhiều hoạt động ngoại khoá
(tổ chức vào tiết sinh hoạt cuối tuần) như: Hướng dẫn học sinh trồng và chăm
sóc cây cảnh ở vườn trường, cho các em đi thăm quan, dã ngoại các cảnh đẹp
của địa phương…để các em có điều kiện gần gũi với thiên nhiên, cảm nhận vẻ
đẹp của thiên nhiên. Tổ chức cho các em đi thăm bạn ốm, quyên góp giúp đỡ
bạn nghèo …qua đó giáo dục cho các em ý thức đồn kết, tình cảm bạn bè. Tổ
chức kỉ niệm các ngày lễ: Mùng 8 - 3, 20 - 11, 22 - 12…qua đó bồi dưỡng tình
cảm với bà, với mẹ, với cơ giáo, với chú bộ đội,….
d- Sử dụng các đề văn theo hướng mở:

12/31


THƠNG TIN HỎI ĐÁP:

-------------------------Bạn cịn nhiều thắc mắc hoặc muốn tìm kiếm thêm nhiều tài liệu sáng kiến kinh
nghiệm mới mẻ khác của Trung tâm Best4Team
Liên hệ dịch vụ viết thuê sáng kiến kinh nghiệm
Hoặc qua SĐT Zalo: 091.552.1220 hoặc email: để hỗ trợ
ngay nhé!

13/31



×